SƠ LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN

0
1977

(Vũ Trụ Luận, Cosmology)[1]

Joseph T. Nguyễn, OFM

Triết học tự nhiên hay vũ trụ luận có sự tương quan với siêu hình học và khoa học, vì lẽ triết học tự nhiên dùng phương pháp suy tư của siêu hình học, nhưng lại nghiên cứu đối tượng thể lý như khoa học. Tuy siêu hình học và khoa học đều là những hệ thống tri thức với những tiêu chuẩn khắc khe của chúng, nhưng sự thống trị của não trạng duy nghiệm từ giai đoạn Cận Đại đã đẩy siêu hình học ra khỏi thế đứng của một khoa học chân chính. Cũng thế, triết học tự nhiên phần lớn đã bị gạt ra ngoài lề của việc nghiên cứu khoa học vì nó tìm hiểu hữu thể biến dịch nhưng lại đặt chúng trong hậu cảnh của hữu thể tối hậu, vốn vượt khỏi cơ cấu và các giáo điều của khoa học thực nghiệm. Trong khi khoa học tự nhiên giới hạn thực tại trong phạm vi những gì quan sát được, thì triết học tự nhiên khai thác những giới hạn của hữu thể biến dịch. Triết học tự nhiên đón nhận kết quả của nghiên cứu khoa học về chiều sâu và chiều rộng của vũ trụ với những dãy số dài đến vô hạn, nhưng triết học tự nhiên không thần tượng hóa chúng mà xem đó như công cụ mở rộng chân trời tri thức con người để hướng về bản tính tất yếu, vô thủy, vô chung và vô thường của hữu thể tối hậu. Triết học tự nhiên cho chúng ta cái nhìn chân chính về bản chất của vũ trụ tự nhiên bên ngoài những yêu sách mà lý luận thực chứng đã đặt ra. Trong bài khởi đầu này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự khác biệt về mục đích và phương pháp nghiên cứu giữa triết học tự nhiên và khoa học tự nhiên trước khi đi sâu hơn vào các yếu tính của hữu thể biến dịch.

TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN versus KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Aristotle khởi đầu cuốn sách “Siêu hình học” bằng câu nói bất hủ: “Tất cả mọi người, tự bản tính, muốn biết.” Từ đó ông đưa ra các ví dụ về sự tò mò của tri giác và dẫn đến sự khao khát cho tri thức nơi con người.[2] Thật vậy, niềm khao khát cho tri thức là mối tương quan căn bản giữa con người và vũ trụ: con người muốn biết về thế giới chung quanh mình, và hơn nữa về ý nghĩa của sự tồn tại và thân phận của mình trong vũ trụ bao la hầu như vô hạn. Con người tự hỏi: “Chắc hẳn phải có một nguyên nhân tối cao hay sức mạnh vô song từ đó mọi sự đã xuất phát?”, “Ai đã tạo nên vũ trụ?”, “Tại sao có vũ trụ?”. Những nổ lực tìm hiểu nguồn gốc của vũ trụ từ thời Cổ Đại đã được lồng vào các huyền thoại về nguồn gốc của thần thánh, và được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ kia. Qua lịch sử, nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới đã cung cấp những “vũ trụ luận” hay trình thuật về nguồn gốc của vũ trụ.  Truyền thống tôn giáo luôn nhắm vào nguyên nhân tối hậu hay thực tại tối cao vượt trên mọi giới hạn của con người để giài thích cho nguồn gốc của vũ trụ.

Nhưng có một loại câu hỏi khác khi con người đối diện với vũ trụ, đó là về bản chất và cấu trúc của thực tại đang tồn tại trước mắt chúng ta. Giống như một đứa trẻ khi mới nhận được một món đồ chơi, sau giai đoạn mê hoặc và ngạc nhiên lúc đầu thì nó bắt đầu tò mò, muốn biết cái gì bên trong món đồ chơi mà làm cho nó chuyển động, và các phần đó được kết nối với nhau như thế nào? Cũng vậy, khoa học muốn tìm hiểu bản chất của những gì xuất hiện trong thiên nhiên và mọi sự được cấu kết với nhau như như thế nào? Khoa học tự nhiên cố tìm ra nguyên nhân và những quy luật phổ quát đang điều hành vũ trụ để giải thích cho các hiện tượng biến dịch trong thế giới. Những loại câu hỏi đến từ khoa học giúp con người nắm bắt sự điều hành của vũ trụ và thao túng nó theo ý muốn của mình.

Như thế, cả hai cách tiếp cận của tôn giáo và khoa học đều muốn cung cấp tri thức cho con người về vũ trụ một cách hợp lý.  Quan điểm tôn giáo cho rằng con người là trung tâm của một vũ trụ được tạo dựng bởi Đấng Tạo Hóa tốt lành. Quan điểm này giúp lý giải về sự có mặt của các yếu tố tiêu cực như thiên tai, bệnh tật, đau khổ và sự dữ trong khi cố gắng bảo vệ tính toàn năng và toàn thiện của Thiên Chúa.  Còn quan điểm khoa học thì xem vũ trụ như là một phòng thí nghiệm vĩ đại để con ngưởi tìm hiểu và khám phá các quy luật tự nhiên. Vũ trụ là một cổ máy phức tạp, điều hành theo các nguyên tắc có sẳn, vô tư và vô cảm trước hạnh phúc của con người. Triết học tự nhiên đứng giữa hai nhãn quan của tôn giáo và khoa học. Triết học tự nhiên dùng phương pháp suy tư của siêu hình học nhưng lại có cùng đối tượng nghiên cứu (hữu thể vật lý và biến dịch) với khoa học tự nhiên.  Vì thế, cho dù cả hai phạm vi triết học tự nhiên và khoa học tự nhiên đều cung cấp tri thức về vũ trụ, nhưng vẫn có sự khác biệt về mục đích và phương pháp nghiên cứu.

Trong hơn hai thế kỷ qua với sự thành công vượt bậc của chủ nghĩa duy thực, chúng ta đã rơi vào thói quen hiểu khoa học theo nhãn quan hạn hẹp của khoa học thực nghiệm. Nhưng nhãn quan này không đủ phổ quát để cung cấp một định nghĩa chung cho khoa học. Theo từ nguyên, khoa học có nghĩa là tri thức (scio, science). Nếu nhìn từ quan điểm lịch sử thì khoa học thực nghiệm chỉ là một đứa trẻ “sinh sau đẻ muộn,” như các khoa nhân chủng học, tâm lý học chiều sâu, v.v., trong gia đình các bộ môn khoa học. Do đó, nếu nuốn xác định rõ hơn về đóng góp của vũ trụ luận thì chúng ta cần tìm hiểu khoa học từ một góc độ phổ quát hơn, và phân biệt sự khác biệt về phương pháp của khoa học tự nhiên và triết học tự nhiên.

ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA KHOA HỌC

Nhìn qua lịch sử, chúng ta có thể nhận ra ba đặc điểm chung của mọi tiến trình phát triển của khoa học: (1) hệ thống tri thức được gắn bó với nhau bằng những nguyên lý căn bản, có mục tiêu và đối tượng rõ ràng; (2) tiêu chuẩn để phân biệt giữa những thực hành khoa học và thực hành phản-khoa học; (3) cung cấp những tri thức chính xác, giải thích “nguyên nhân” của các sự kiện một cách chuẩn mực và nhất quán. Cả ba yếu tố này tạo nên khả năng tự phê phán vốn là nền tảng của mọi bộ môn khoa học. Chúng ta hãy khải triển chi tiết hơn về chúng.

Thứ nhất, khoa học là một hệ thống tri thức được gắn bó bởi những “nguyên lý đệ nhất” vốn là chân lý nền tảng mà mọi lý luận của khoa học đều xuất phát.  Nguyên lý đệ nhất phải là hiển nhiên vì chân lý của chúng không cần phải chứng minh. Nếu muốn xây một toà nhà trước tiên phải bắt đầu từ nền nhà, thì khoa học nào cũng phải có những giả định căn bản mà dựa trên đó mọi lý luận khoa học đều được biện minh. Nguyên lý đệ nhất được dựa trên lôgic phi-mâu thuẫn và các nguyên lý toán học như: (1) Tổng thể thì lớn hơn mỗi phần tử; (2) Nếu cả hai vế của một phương trình được thêm hay bớt cùng một số lượng thì sự cân bằng của phương trình sẽ không có gì thay đổi. Nguyên lý đệ nhất tạo nên mẫu thức (paradigm) mà dựa theo đó khoa học gia khai triển các định đề và định lý của họ. Theo Thomas Kuhn[3] thì các mẫu thức khoa học là bền vững cho đến khi nào có quá nhiều mâu thuẫn giữa các lý luận không thể giải quyết được vốn đưa đến một cuộc cách mạng khoa học.

Đặc tính thứ nhì của khoa học là ranh giới rõ ràng giữa hoạt động khoa học và hoạt động phản-khoa học.  Mọi lý giải và kết luận của nghiên cứu khoa học đều phải được minh chứng là có nguồn gốc từ những nguyên lý đệ nhất. Trong khi nguyên lý đệ nhất của khoa học là hiển nhiên, tức là, không thể chứng minh nhưng đến từ trực giác phổ quát, thì những khám phá khoa học phải được suy diễn trong phạm vi các nguyên lý đệ nhất cho phép. Như thế, khoa “tướng số” hay “chiêm tinh” không thể là một khoa học chân chính, vì chúng khởi đầu từ những nguyên lý hiển nhiên như luật nhân quả (mọi sự xảy ra đều có nguyên nhân), nhưng cách giải thích và đưa đến kết luận của chúng thì rất là tùy tiện. Một lý thuyết khoa học đúng không chỉ đưa đến kết quả chính xác mà còn phải chứng minh lý luận ngược lại là sai.  Thuyết tiến hóa sinh học là đúng nếu nó có thể chứng minh hoàn toàn không có sự hỗ trợ hay can thiệp nào từ bên ngoài thế giới tự nhiên trong tiến trình đột biến ngẫu nhiên và chọn lựa tự nhiên. Phát minh khoa học phải nhất quán với nguyên lý đệ nhất và cách áp dụng phương pháp nghiên cứu của nó.

Đặc điểm thứ ba là khoa học cung cấp tri thức chính xác về mọi sự biến dịch trong thế giới vật chất.  Vật lý học đưa ra những định đề giải thích sự chuyển động của mọi vật thể, từ những nguyên tử vi mô cho đến các hành tinh. Hóa học nghiên cứu về nguyên nhân làm cho vật chất biến dạng hay thể hiện những đặc tính mới. Một khi nhà khoa học giải thích các chuyển động hay biến dịch, họ khẳng định tri thức của họ về nguyên nhân của những hiện tượng đó, Như thế, tri thức khoa học trở nên hữu ích vì nó cung cấp tri thức về nguyên nhân của những hiện tượng mà nó nghiên cứu, như cùng một nguyên lý có thể giải thích tại sao khi thả một bong bóng thì nó bay lên trong lúc đó, nếu thả một trái táo thì nó rớt xuống. Tri thức khoa học không chỉ giải thích hiện tượng vật lý, mà còn có thể tiên đoán trong phạm vi cố định về khả năng các hiện tượng sẽ xảy ra trong tương lai.

Dựa theo cách mô tả phổ quát trên đây thì siêu hình học, triết học tự nhiên và khoa học tự nhiên đều là những bộ môn khoa học. Siêu hình học và triết học tự nhiên dùng chung một phương pháp phân tích dựa trên lôgic, nhưng siêu hình học nghiên cứu hữu thể như là hữu thể, còn triết học tự nhiên chỉ nghiên cứu các hữu thể biến dịch, tức là thế giới tự nhiên của chúng ta. Mặt khác, triết học tự nhiên và khoa học tự nhiên cùng nghiên cứu thế giới vật lý, nhưng triết học tự nhiên dùng phương pháp phân tích siêu hình, còn khoa học tự nhiên thì căn bản dựa trên phương pháp suy diễn và qui nạp.

SO SÁNH GIỮA TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN VÀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Chúng ta có thể so sánh các bộ môn khoa học bằng hai cách: đối tượng nghiên cứu và lý thuyết hay phương pháp dùng để nghiên cứu. Ví dụ, đối tượng nghiên cứu của môn côn trùng học là các loài sâu bọ, còn phương pháp nghiên cứu là tùy theo nhãn quan, góc độ, cách tiếp cận hay khía cạnh của đối tượng được nghiên cứu. Chỉ có phương pháp nghiên cứu mới khẳng định tính cách đặc thù của một khoa học. Ví dụ, thần học tín lý và thần học tự nhiên có cùng một đối tượng là Thiên Chúa, nhưng khác nhau về phương pháp nghiên cứu (tìm hiểu Thiên Chúa qua những gì được mạc khải thì khác với tìm hiểu Thiên Chúa qua khả năng của lý trí). Sinh vật học tiến hoá và địa chấn học tiến hóa có cùng phương pháp nghiên cứu (thuyết tiến hóa) nhưng khác nhau về đối tượng (sinh vật và trái đất). Cũng thế, siêu hình học nghiên cứu hữu thể xét như hữu thể (ens qua ens), và triết học tự nhiên chỉ nghiên cứu hữu thể biến dịch (ens mobile). Trong lúc đó, khoa học tự nhiên và triết học tự nhiên nghiên cứu cùng đối tượng (hữu thể vật lý) nhưng khác nhau về phương pháp nghiên cứu.

Hơn nữa, trong khi khoa học tự nhiên tìm hiểu những phẩm tính đặt thù của vật chất thì triết học tự nhiên nghiên cứu hữu thể vật chất trong sự toàn diện của nó. Triết học tự nhiên luôn quan sát các giới hạn của thế giới vật lý (hữu thể biến dịch) trong tương quan với hữu thể xét như hữu thể (ens qua ens) vốn không lệ thuộc giới hạn nào hết. Hữu thể biến dịch chỉ là những trường hợp tiêu biểu của hữu thể, vốn bị lệ thuộc và thay đổi trong mọi cách thức thể hiện của nó. Triết học tự nhiên là một loại khoa học suy lý hay tư biện theo đuổi tri thức cho mục tiêu của chính nó, còn khoa học tự nhiên nhắm vào mục tiêu tối hậu là thiết lập các chỉ tiêu áp dụng trong thực hành. Aristotle gọi triết học tự nhiên hay vũ trụ luận là “physics” và siêu hình học là “meta-physics.”  Ngày nay, vũ trụ luận và thiên văn học đều dùng chung từ “cosmology” nhưng hoàn toàn khác nhau về phương pháp.

Siêu hình học nghiên cứu hữu thể theo nghĩa phổ quát nhất (ens qua ens) qua mọi hiện tính hiện hữu của nó. Từ thời Trung Cổ, siêu hình học đã được chia thành ba phần: hữu thể luận, vũ trụ luận và thần lý học. Siêu hình học tìm hiểu những nguyên nhân tối hậu của hữu thể và nguyên lý đệ nhất, và chú tâm đến những khái niệm sơ khởi như bản thể, khác biệt giữa tiềm thể và hiện thể, yếu tính và tồn tại, và nhiều cách hữu thể thể hiện chính nó. Đóng góp quan trọng nhất của khoa siêu hình là chúng cho ta tri thức khách quan về ý nghĩa của sự tồn tại của chính chúng ta. Hai động lực tối hậu của siêu hình học là tri thức về “nguồn gốc” và “cứu cánh” của hiện hữu.

Tuy cả siêu hình học và triết học tự nhiên đều trăn trở với những câu hỏi hóc búa về yếu tính của hữu thể, nhưng siêu hình học có phạm vi rộng lớn hơn, vì nó xét hữu thể như là hữu thể nói chung (ens qua ens) và không loại trừ một khả tính gì của hữu thể. Đối tượng nghiên cứu là hữu thể vật chất, hữu thể mang khả tính biến dịch (ens mobile). Con người đã có sẳn một số tri thức trực giác về biến dịch vì chính chúng ta cũng đang thay đổi. Nhưng triết học tự nhiên muốn đi từ tri thức trực giác đến tri thức triết lý về biến dịch. Nhưng nếu muốn đạt được tri thức triết học khách quan hơn về “bản chất” hay “yếu tính” của biến dịch thì chúng ta cần phải đi sâu hơn vào hiện tượng biến dịch và loại hữu thể có khả tính biến dịch, tức là hữu thể vật chất (ens mobile). Do đó, trước khi hiểu bản chất của hữu thể biến dịch (ens mobile) thì chúng ta phải nắm bắt khái niệm “hữu thể” (ens) trong hạn từ “ens mobile”. Trước khi có sự thay đổi thì phải có cái gì đó thực sự trải nghiệm sự thay đổi. Hữu thể đó phải là một thực thể mang những yếu tính của vật chất như lượng tính, quãng tính (tồn tại trong thời gian và không gian), cùng với những khía cạnh biến dịch như chuyển động, tùy thuộc hay bất tất. Như thế lý trí sẽ nhanh chóng nhận ra có sự khác biệt giữa yếu tính và hiện hữu, giữa bản thể và tùy thể, giữa tồn tại bất tất và tồn tại tất yếu.

Một khi triết học tự nhiên muốn tìm hiểu nguyên nhân tối hậu của biến dịch (tác thành và cứu cánh) thì triết học phải khai triển mối tương quan giữa niềm tin tôn giáo và nguồn gốc của vũ trụ. Lúc đó, siêu hình học sẽ là cầu nối chung cho lý luận triết học và suy tư thần học. Mặt khác, triết gia tự nhiên khi nghiên cứu đối tượng thế giới vật lý, triết học tự nhiên vẫn dùng nhãn quan của siêu hình học. Triết học tự nhiên cần phải giữ mối tương quan lành mạnh với các ngành khoa học tự nhiên, đón nhận những tri thức nền tảng về hữu thể vật chất, những gì nghe, thấy, nếm, ngửi, và sờ được. Triết gia tự nhiên phải là người liên lĩ muốn học hỏi từ các môn khoa học thực nghiệm, cùng lúc phải có cái nhìn phổ quát và điều phối hơn là những gì nhà khoa học đang làm trực tiếp trong các phòng thí nghiệm. Công việc của hai ngành này không loại trừ nhau, như bổ túc cho nhau, tìm cách gia tăng sự hiểu biết con người về thế giới vật chất cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Khi một nhà khoa học tự nhiên đưa ra những giải thích (nguyên nhân) từ những gì quan sát được, họ vẫn giả định yếu tính của hữu thể đang được tỏ hiện qua khả năng hoạt động mà họ đang nghiên cứu trong những điều kiện cụ thể. Nhưng triết gia tự nhiên phải chú tâm về yếu tính của hữu thể một cách tổng thể.  Triết gia tự nhiên cần phải nhìn thế giới vật lý một cách phổ quát qua một nhãn quan bao hàm và toàn diện hơn là khoa học thực nghiệm để nhận diện yếu tính chung của mọi hữu thể biến dịch.

Triết học tự nhiên cần nhìn vũ trụ như là tổng thể của hữu thể vật chất vì nó thể hiện những định luật vốn xác định tính vật chất của nó. Cả khoa học tự nhiên và triết học tự nhiên đều bắt đầu từ tri thức tiền-khoa học, nhưng khoa học tự nhiên đi tìm nguyên nhân cụ thể để giải thích cho hoạt động bên ngoài, còn triết tự nhiên nhắm vào các nguyên nhân của biến dịch, nhưng để nói lên tính bất tất và tùy thuộc của hữu thể vật chất, và từ đó suy ra những yếu tính của hữu thể tất yếu. Nói chung, triết học tự nhiên cần tránh hai hố sâu: một bên muốn biến triết học tự nhiên thành siêu hình học, một bên muốn đồng dạng triết học tự nhiên với triết khoa học. Vì thế, triết học tự nhiên vừa bảo tồn cách suy tư của triết học (siêu hình học), mặc khác phải nhớ rằng đối tượng của mình bị giới hạn trong phạm vi thế giới vật chất (khoa học tự nhiên).

TẦM QUAN TRỌNG CỦA TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN

Kể từ cách mạng khoa học ở thế kỷ 17, nhiều khoa học gia không còn nhận ra giá trị của triết tự nhiên nữa. Đến thế kỷ 19, với ảnh hưởng của thành tích đáng kể của nó, khoa học thực nghiệm được xem như là đỉnh cao của trí tuệ và có khả năng duy nhất để giải quyết mọi vấn nạn của nhân loại. Với “vương miện tri thức” này, khoa học gia sẳn sàng gạt bỏ mọi hình thức tri thức “thấp kém và thô sơ” như tôn giáo, triết học, thần học.  Tuy nhiên, khuynh hướng tuyệt đối hóa khoa học này đã phủ lên nó một sự hào nhoáng giả tạo và làm băng hoại các nguyên tắc chân chính của khoa học. Hậu quả là chủ nghĩa duy khoa học (scientism) đã mặc lấy thái độ bất khả tri, bài tôn giáo, loại trừ mọi suy tư thần học và hoài nghi các nền tảng siêu hình của triết học cổ điển. Cách mạng khoa học đã đánh mất cái nhìn khiêm tốn về tri thức khoa học của thời Trung Cổ.

Phản ứng lại cách mạng khoa học, triết học tự nhiên có khuynh hướng bị lôi cuốn theo hai thái cực. Quan điểm thứ nhất thì rất tiêu cực về khoa học thực nghiệm, và một cách đơn sơ loại bỏ mọi khám phá chân thực mà khoa học đã đạt được. Quan điểm này cho rằng chỉ có triết học mới cung cấp tri thức chân chính và phổ quát về thế giới, không cần phải viện vào khoa học thực nghiệm vốn chỉ dựa trên sự quan sát về các hiện tượng bên ngoài. Quan điểm thứ nhì từ bỏ con đường của triết học tự nhiên, cho rằng phương pháp cổ hủ này không còn thích ứng để nghiên cứu thế giới vật chất, và khẳng định rằng triết học tự nhiên nên theo đuổi hướng đi của triết khoa học nếu muốn tiếp tục tồn tại.

Tuy nhiên, triết học tự nhiên không phải là triết khoa học vì hai môn học thuật này có sự khác biệt về lý luận phương pháp. Triết khoa học (philosophy of science) có trách nhiệm phân tích phương pháp tư duy của khoa học thực nghiệm, giá trị thực nghiệm của lôgic suy diễn và qui nạp đang áp dụng trong khoa học. Trong lúc đó, triết học tự nhiên (philosophy of nature), dựa trên các nguyên lý siêu hình và viễn tượng phổ quát của khoa học để đạt đến tri thức triết học về thế giới vật chất. Khác với khoa học thực nghiệm, triết học tự nhiên có trách nhiệm cung cấp cho chúng ta tri thức phổ quát về hữu thể vật lý, trong toàn thể phẩm tính căn bản và giới hạn của nó.

Nếu như không có sự mâu thuẫn giữa đức tin và lý trí, thì cũng không có sự mâu thuẫn giữa triết tự nhiên và khoa học thực nghiệm. Cả hai đều diễn tả chân lý về hữu thể vật lý, một thực tại mà không một loại ngôn ngữ nào có độc quyền thể hiện cách hoàn toàn và đầy đủ. Cả hai đều cần lẫn nhau. Nhà vật lý mô tả hoạt động hay thay đổi của thực thể vật chất bằng những lượng tính chính xác. Triết gia tự nhiên nhìn sự biến dịch của thực thể vật chất như là trường hợp đặt thù nói lên yếu tính của hữu thể vật chất. Nhà vật lý lưu tâm về tính thay đổi của vật thể tại đây và lúc này, nhà triết học chú tâm về biến dịch như là một khả tính của hữu thể vật chất. Triết học tự nhiên luôn theo dõi những khám phá mới của khoa học hầu để học hỏi thêm về những căn tính sâu sắc nhất của vũ trụ vật lý.

Sự hiểu biết về thế giới vật lý mà khoa học thực nghiệm ngày nay đã đạt đến cao độ phức tạp và đa dạng ngoài tầm nắm bắt của bất cứ một môn khoa học chuyên biệt nào. Tuy nhiên, tri thức khoa học về thế giới vật lý không chỉ là tri thức độc nhất về thế giới. Trí tuệ con người không chỉ thỏa mãn với tri thức khoa học mà còn muốn vươn lên hơn nữa. Trí tuệ con người được tạo thành để vượt qua giới hạn của thế giới khả giác và nắm bắt thế giới khả tri.  Cho dù vũ trụ là bao la hay vĩ đại bao nhiêu đi nữa, thì nó vẫn bị giới hạn trong phạm vi khao khát của trí tuệ con người. Trong trí tuệ có sự băn khoăn và thao thức về Đấng Vô Hạn, do đó trong khi thỏa mãn các nhu cầu của trí tuệ, triết học tự nhiên phải luôn hướng về mục đích tối hậu này. Triết học tự nhiên không thể dừng chân với những gì khoa học thực nghiệm cung cấp. Tri thức làm cho triết học tự nhiên hãnh diện phải là tri thức đem đến sự ngạc nhiên về hữu thể vật chất, trong muôn vàn cách thể hiện của nó nhưng lại tuân thủ theo một trật tự của vũ trụ vật lý, vốn làm cho chúng ta phải tự hỏi về nguốn gốc và cứu cánh của mọi sự tồn tại.  Đó chính là mục tiêu cuối cùng của triết học tự nhiên.

[1] Triết Học Thiên Nhiên, Joseph Tân Nguyễn. NXB Đồng Nai, 2022.

[2] https://thegreatthinkers.org/aristotle/commentary/aristotle-the-desire-to-understand/

[3] Thomas Kuhn, Structure of Scientific Revolution, University of Chicago Press, 1962.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here