NHỮNG YẾU TỐ CỐT YẾU CỦA ĐỜI TU – MỤC II. KHIẾT TỊNH

0
6395

Phan Tấn Thành

Trải qua lịch sử tu trì trong Giáo hội, ta thấy có rất nhiều hình thức thực hiện việc cầu nguyện, sự khó nghèo, sự tuân phục, đời sống cộng đồng. Tuy nhiên, tính cách đa dạng xem ra không áp dụng cho vấn đề khiết tịnh: thực vậy, phàm ai đã đi tu thì phải khước từ hôn nhân. Nghĩa vụ tối thiểu này bó buộc tất cả các tu sĩ thuộc bất cứ Dòng nào. Tuy nhiên, nếu nhìn dưới nghĩa vụ pháp lý thì lời khuyên khiết tịnh quả là bất biến trải qua giòng lịch sử; nhưng nếu xét tới các động lực và lý thuyết thì nói được là khá đa dạng.

I. Ý nghĩa

A. Từ ngữ

Một nhận xét đầu tiên là sự đa dạng về từ ngữ. Trong các tác phẩm thần học và giáo luật viết bằng tiếng Latinh, chúng ta thấy có tới ít là bốn từ: Castitas. Continentia. Coelibatus. Virginitas, và có thể dịch sang tiếng Việt bằng hơn một chục từ tương đương: nhân đức đồng trinh, thanh sạch; tinh tuyền, thanh khiết, trinh khiết, thanh tịnh, trong trắng, trinh bạch, trinh tiết; tiết độ, tiết dục, chế dục; độc thân, vv.. Chúng tôi không muốn phân tích ý nghĩa của các từ ngữ của tiếng Việt, và tạm sử dụng tiếng “khiết tịnh” để dịch từ “castitas” ở nguyên bản latinh, (chasteté tiếng Pháp; chastity tiếng Anh).

 Riêng về bốn từ ngữ latinh vừa kể, chúng ta nên lưu ý tới hai điểm sau đây: 1/ chúng không hoàn toàn đồng nghĩa; 2/ chúng không phải chỉ dành cho các tu sĩ.

1/ Chúng không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau.

Castitas (do tính từ castus có nghĩa thoát khỏi, không bị đụng tới; tầm nguyên không rõ, có lẽ bởi động từ carere: thiếu thốn), là một nhân đức điều hành việc xử dụng những khoái lạc nhục dục dựa theo những tiêu chuẩn của lý trí và đức tin (xc. GLCG số 2341). Tất cả mọi người phải giữ khiết tịnh tùy theo bậc sống của mỗi người: thiếu niên, thanh niên, người chưa lập gia đình, người đã lập gia đình, người góa bụa, đều cần phải giữ khiết tịnh. Nhân đức này chi phối không những hành vi bên ngoài mà cả những ước muốn nội tại. Luân lý bàn tới sự khiết tịnh hoặc là trong phần nhân đức tiết độ, hay khi nói tới điều răn thứ sáu (xc. GLCG số 2331-2350).

Continentia (bởi động từ continere, có nghĩa là cầm hãm, giam giữ), nói về việc kiêng cữ trong phạm vi ái ân vợ chồng.

Coelibatus (ghép bởi hai từ trong tiếng hy lạp koite phòng ngủ vợ chồng, và leipo từ bỏ; có ý kiến giải thích là ghép bởi kevala trong tiếng Phạn có nghĩa là ở một mình) là độc thân, không lập gia đình; nó ám chỉ một điều kiện xã hội hơn là một hành vi luân lý.

Virginitas: trinh khiết, thường chỉ dành cho nữ giới, tuy Tân ước và các giáo phụ có lần áp dụng cho cả nam giới, hiểu theo nghĩa bóng, nói về những người duy trì đức tin chung thuỷ (xc. Kh 14,3-5). Nên biết là tuy các tu sĩ buộc giữ khiết tịnh nhưng không nhất thiết phải “trinh khiết”, bởi vì đời tu cũng mở rộng cho cả những người goá bụa.

2/ Chúng không phải chỉ dành riêng cho các tu sĩ.

Như vừa nói, castitas (khiết tịnh) là một nhân đức chung cho hết mọi người, bất kỳ trong bậc sống nào. Cũng vậy, continentia (tiết dục) buộc cả những người đã có vợ chồng, không những là không được ngoại tình với người khác, mà kể cả trong cách cư xử đối với người bạn của mình (xc. GLCG số 2370). Còn về sự độc thân và trinh tiết thì, như chúng ta sẽ thấy, có nhiều lý do đưa tới việc sống độc thân. Vì vậy nhằm diễn tả một cách chính xác hơn về nếp sống đặc biệt của các tu sĩ, các tác giả đã phải thêm một tính từ, chẳng hạn như là: castitas consecrata (khiết tịnh tận hiến), virginitas consecrata (trinh khiết tận hiến), continentia perfecta (tiết chế hoàn toàn), castitas propter regnum Dei (khiết tịnh vì Nước trời).

 Xét vì chúng ta còn ở trong lãnh vực từ ngữ, thiết tưởng cũng nên nói qua hai danh từ khác liên hệ tới khiết tịnh, với ý nghĩa rất hàm hồ trong ngôn ngữ Tây phương cũng như trong Việt ngữ, đó là sexualitasamor.

Sexualitas: (a) có thể hiểu là “phái tính” hay “giới tính”. Dĩ nhiên là mỗi con người chúng ta khi chào đời thì đều thuộc vào một phái nam hay nữ rồi (những người á nam á nữ là luật trừ); vì thế phái tính chảng có gì là xấu xa tội lỗi cả. Chúng ta phải chấp nhận và phát triển những khuynh hướng tự nhiên của mỗi phái nam hay nữ, chứ không thể nào khước từ nó được. Sau này khi lên trời, thì chúng ta vẫn sẽ là thánh nam hay thánh nữ, chứ không có thánh nào vô phái tính. (b) Tuy nhiên, nhiều lần sexualitas cũng được dịch ra tiếng Việt là: “dục tính, tính dục”, hàm ngụ một khuynh hướng xấu; vì thế không lạ gì người ta tìm cách trừ khử nó (diệt dục), chứ không hy vọng có thể chế ngự và điều khiển vào những mục tiêu cao thượng!

Amor (amour, love) có thể dịch ra rất nhiều từ ngữ trong tiếng Việt: tình yêu, tình thương, tình ái, ái tình, âu yếm, ái ân, yêu mến. Mỗi từ có một sắc thái của nó và không thể áp dụng vào bất cứ hoàn cảnh nào, chẳng hạnh như không ai dám tuyên bố rằng tôi có “ái tình” với Chúa Giêsu, đang khi mà chính Chúa muốn cho chúng ta dành cũng một “amor” cho Ngài và cho tha nhân. Dù sao, như chúng ta sẽ thấy, chính triết học, thần học, tâm lý học cũng phân biệt nhiều loại và nhiều cấp độ của Amor: có thứ “amor concupiscibilis”, tình yêu chiếm đoạt, nhắm tới cái hữu dụng cho mình; có thứ “amor benevolentiae”, tình yêu vị tha, hiến dâng. Chính vì tính cách hàm hồ của tình yêu, cho nên đễ diễn tả tình yêu độc nhất vô nhị của Thiên Chúa, các tác giả Tân ước đã tạo ra một danh từ mới trong nguyên ngữ hylạp Agape, (khác với Eros, Philia).

Dù sao, đàng sau những từ ngữ hàm hồ vừa kể, chúng ta cần ghi nhận rằng trải qua lịch sử, đã không thiếu những sự hiểu lầm hoặc những cách trình bày méo mó về sự khiết tịnh. Chúng ta thử điểm qua một vài quan niệm đó.

B. Lý thuyết và động lực của sự khiết tịnh

– Một quan niệm thường gặp nơi nhiều tác phẩm văn chương là “thất tình đi tu”: người ta cạo trọc đầu đi tu hoặc là tại vì bị vợ (hay chồng) bỏ, hay là vì không kiếm được người bạn trăm năm. Hậu nhiên, khi thấy một người còn trẻ đẹp mà đi tu thì chắc chắn là nhiều người ngỡ ngàng thương tiếc cho chàng hay nàng vì đã lãng phí nhan sắc tuổi xanh.

– Một quan niệm khác về sự độc thân là khỏi bị vương vít. Người ta có thể hình dung ra một nhà cách mạng, một chính khách không muốn lập gia đình để có thể chuyên lo việc dân việc nước. Điều đó cũng có thể áp dụng cho một số nhà khoa học muốn dành hết thời giờ vào công cuộc nghiên cứu. Tuy nhiên, ta cũng cần ghi nhận có những người độc thân vì không muốn lãnh trách nhiệm gia đình; họ muốn sống lang bang thay đổi tình nhân như thay áo, nhưng không dám chung thủy với người nào hết. Đó là chưa nói tới những người bị cưỡng bách độc thân: hoặc do bệnh tật thể lý và tâm lý, hoặc vì đã lỡ thì, vì kén quá nên rút cuộc chẳng lấy được ai. Nói khác đi, tự nó sự độc thân chưa phải là một nhân đức!

– Ta cũng có thể hiểu một cách tương tự về sự trinh khiết. Hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới đều dành tiếng Atrinh” cho nữ giới, coi đó như là giá trị cao quý nhất của họ (Chữ trinh đáng giá ngàn vàng). Tuy nhiên không thiếu lần người ta giới hạn sự trinh tiết vào khía cạnh thể lý (nếu cần có thể nhờ bác sĩ khám nghiệm) chứ không để ý tới những động lực thâm sâu nhất của con tim mà duy chỉ có đương sự mới biết, chứ không thể dùng dụng cụ khoa học để kiểm chứng.

Ngoài những méo mó của sự khiết tịnh về phía môi miệng người đời, chúng ta cũng không nên bỏ qua những lệch lạc ngay cả trong giới tu sĩ[1].

– Trong quá khứ, khi bàn đến đức khiết tịnh, nhiều tác phẩm nhấn mạnh tới những khía cạnh tiêu cực hơn là khía cạnh tích cực, nghĩa là nói đến sự khước từ, những cám dỗ, hơn là vạch ra những giá trị của sự khiết tịnh. Khi nhấn mạnh tới sự từ bỏ, không thiếu lần các tác giả đã hạ giá đời sống hôn nhân, vì chỉ nhìn thấy hoặc là những gánh nặng của nó hay chỉ giới hạn nó vào thú vui nhục dục. Nhấn mạnh tới những cám dỗ, người ta tìm hết cách đề phòng, với hậu quả là nhiều người luôn bị ám ảnh bởi tội trái nghịch nhân đức khiết tịnh (lỗi điều răn thứ sáu), mà quên đi rằng còn có những tội nặng hơn nhiều, nhất là tội nghịch nhân đức thương yêu!

– Thiết tưởng cũng nên thêm một khía cạnh tiêu cực khác trong việc trình bày nhân đức khiết tịnh đó là quan niệm lệch lạch về thân xác và phái tính do ảnh hưởng của thuyết nhị nguyên dựa vào triết học Platon. Thực ra không phải chỉ riêng gì ông Platon mà còn có nhiều triết thuyết hay tôn giáo quan niệm rằng hồn thiêng tượng trưng cho vẻ cao quý trong sáng, còn thân xác hay vật chất là biểu tượng của tối tăm tội lỗi. Linh hồn vì phạm tội nên bị đày xuống trần gian, nhốt trong thân xác như cái tù để đền tội. Áp dụng quan niệm nhị nguyên ấy vào Kitô giáo, không thiếu tác giả coi xác thịt như tù rạc cần phải thoát ly; hậu nhiên, lý tưởng của sự khiết tịnh là sống như thiên thần, không có thể xác. Thực ra việc quan niệm đời tu trì như đời sống thiên thần (vita angelica) bắt nguồn từ đoạn văn Mt 22,23-33. Ta biết rằng vào thời của Chúa Giêsu, những người Sađuxê không tin vào sự phục sinh. Và để biện minh lập trường của mình, họ đặt ra một vấn nạn về người đàn bà có bảy đời chồng: nếu sống lại thì bà sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu trả lời rằng khi sống lại con người không còn cưới hỏi vợ chồng nữa nhưng sẽ sống như thiên thần. Từ đó mà đã nảy ra truyền thống ví đời sống tu trì như các thiên thần bởi vì họ không kết bạn. Tuy nhiên, những nhà chú giải Kinh thánh hiện đại đã chỉ trích sự giải thích ấy. Thứ nhất, vì vấn đề chính mà Chúa Giêsu muốn đề cập đến ở đây không phải là chuyện lập gia đình ở thế giới mai sau, mà là khẳng định sự sống lại, đối lại với những người Sađuxê. Thứ hai, Chúa Giêsu không có ý nói rằng trong tương lai con người sẽ biến thành thiên thần theo nghĩa là họ không có thân xác nữa; nhưng Ngài chỉ muốn nói rằng trong thế giới mai hậu, hôn nhân sẽ không tồn tại nữa xét vì tương quan nam nữ sẽ biến đổi. Dù sao thì theo quan niệm của người đương thời, sống như thiên thần có nghĩa là bất tử, chứ không phải là không có thân xác hay không có phái tính!

Chúng ta còn có thể vạch ra nhiều cách trình bày lệch lạc khác về sự khiết tịnh trải qua lịch sử, nhưng những thí dụ vừa trưng đã đủ để cho thấy sự cần thiết phải đặt vấn đề cho đúng chỗ. Trước hết, nếu muốn coi sự khiết tịnh như là một lời khuyên Phúc âm thì cần phải tìm về căn bản Kinh thánh của lời khuyên khiết tịnh, tìm ra những động lực khiến cho sự khiết tịnh mang tính cách tận hiến. Kế đó, sự khiết tịnh cần được nhìn trong những giá trị trị tích cực của nó, đặt trong bối cảnh của tình yêu, là một nhân tố ảnh hưởng tới sự triển nở tâm lý của con người. Hậu nhiên, sự khiết tịnh tận hiến cần được dung hợp với việc đánh giá tích cực về hôn nhân, phái tính, thân xác, tức là những thực tại đã được Thiên Chúa tạo dựng và đức Kitô cứu chuộc.

II. Kinh thánh

Ở đây, chúng tôi không thể trình bày toàn bộ đạo lý Kinh thánh về hôn nhân, phái tính, trinh khiết (xc. GLCG số 1601-1620), nhưng chỉ giới hạn vào đức “khiết tịnh tận hiến vì Nước Trời”.

Trong Cựu ước, sự độc thân cũng như sự son sẻ không phải là những giá trị mà là tai họa (Hs 9,11.14; Giop 15,3-4); xét vì việc sinh đẻ con đàng cháu đống mới là một phúc lành mà Chúa hứa ban cho người công chính (Tv 128,3; 144,12). Hiểu như vậy, ta thấy giá trị “dấu chỉ” của ông Giêremia, trường hợp duy nhất của một người sống độc thân do lệnh Chúa truyền (Gr 16,1). Sự độc thân của ông là một triệu báo cho dân Israel rằng họ sắp gặp hoạn nạn, vợ con sẽ không mang lại an ủi mà chỉ mang đau khổ. Tuy nhiên, vào cuối thời Cựu ước, người ta ghi nhận vài sự chuyển hướng. Sách Khôn ngoan (3,13; 14,1) cho rằng thà là son sẻ còn hơn là sinh ra toàn lũ con ác đức. Cộng đoàn Esseni xem ra đã có những phần tử độc thân. Thánh Gioan Tẩy giả có lẽ xuất thân từ đó, và như ta đã biết, ông không hề lập gia đình.

Sang Tân ước thì quan niệm đổi hẳn. Trước hết chúng ta thấy mẫu gương của chính đức Giêsu: Người không có vợ con gì hết, và các đối phương đã hơn một lần châm biếm ngài thuộc hạng lang bang (xem Mt 11,19; 9,9-11; Lc 7,23). Phúc âm cũng cho ta biết là thân mẫu của Người là một trinh nữ, và thế rồi dự luận đàm tiếu Người con hoang (xc. Ga 8,41), con không có cha (Mc 6,3: con bà Maria). Tuy nhiên, thay vì coi đó là điều mạ lị, đức Giêsu lại đề cao giá trị của lối sống mới, đã kêu gọi những đồ đệ cũng chấp nhận lối sống độc thân. Vì lý do gì? Chúng ta hãy tìm hiểu nguyên nhân qua việc phân tích ba đoạn văn cổ điển hơn cả của Tân ước: Matthêu 19,1-12 (về những hoạn nhân vì Nước Trời), Luca 14,26 và 18,29 (về việc từ bỏ vợ con để đi theo Chúa), 1 Corintô 7 (giáo huấn của thánh Phaolo về sự trinh khiết). Ngoài ra còn có một số bản văn khác được trưng dẫn trong quá khứ, (tựa như: Mc 12,25; Cv 21,19; Kh 14,4; Gl 3,28; 2 Cr 11,2), nhưng các nhà chú giải Kinh thánh hiện đại cho rằng chúng không quan trọng hoặc là không đề cập trực tiếp đến sự khiết tịnh.

1/ Matthêu 19,1-12 (hoạn nhân vì Nước Trời)

Bối cảnh của đoạn văn này là một cuộc chất vấn của nhóm Biệt phái chung quanh luật rẫy vợ mà ông Maisen đã cho phép. Chúa Giêsu đã bài trừ tục lệ đó, và khẳng định luật bất khả ly dị như đã có từ buổi tạo dựng. Trước lời tuyên bố cứng rắn của Người, các môn đồ buộc miệng thở dài: “Nếu vậy thì thà đừng cưới vợ còn hơn”. Nhưng Chúa đáp:” Không phải mọi người đều hiểu được lời này, nhưng chỉ những ai đã được ban cho điều ấy. Vì có những người là hoạn nhân bởi tự lòng mẹ đã sinh ra như vậy; và có những người là hoạn nhân bởi vì người ta hoạn; và có những người là hoạn nhân do họ tự ý sống như thế vì Nước Trời. Ai hiểu nổi thì hãy lo hiểu lấy!”. Trong đoạn văn ngắn ngủi này, động từ hiểu vẳng lên tới hai lần. Có tác giả thì cho rằng lần thứ nhất áp dụng cho luật bất khả ly của hôn nhân, còn lần thứ hai thì áp dụng cho những hoạn nhân vì nước Trời: cả hai điều đều khó hiểu như nhau. Nhưng cũng có tác giả thì coi cả hai lần đều gán cho việc hoạn vì Nước Trời mà thôi. Tuy nhiên, đối với vấn đề chúng ta đang bàn thì chuyện đó không quan trọng lắm, bởi vì chắc chắn rằng cần phải có ơn Chúa mới “hiểu được” giá trị của sự hoạn vì Nước Trời. Như đã nói ở trên đây, trong xã hội Do thái, sự son sẻ đã bị coi một điều bất hạnh rồi; sự hoạn càng là tội nặng hơn nữa: luật pháp đã nghiêm cấm điều đó, và người hoạn phải bị trục xuất khỏi cộng đồng (Đnl 23,2-4). Đây là một điều khác biệt giữa dân Do thái và một số dân tộc khác chấp nhận sự hoạn vì lý do lễ bái hay chính trị. Thế nhưng ở đây, Chúa Giêsu lại biện minh cho sự hoạn. Dĩ nhiên, Người nói theo nghĩa bóng, chứ không khuyến khích sự hoạn thể lý. Thực vậy, trong bài giảng trên núi, khi nói về tội ngoại tình, thì Ngài đã lên án tội ngoại tình ngay từ trong tâm tưởng ước ao chứ không phải chỉ khi đã thực hiện ra hành động (Mt 5,27-30); vì vậy ta cũng có thể hiểu rằng Người không đòi hỏi phải hoạn về thân thể cho bằng về tinh thần, nghĩa là tự làm cho mình son sẻ vì Nước Trời.

Có hai điểm đáng lưu ý như sau: a/ Sự cần thiết của ơn Chúa để có thể hiểu được. Duy chỉ Thiên Chúa mới ban cấp khả năng để hiểu Nước Trời, và rồi từ đó chấp nhận khiết tịnh. Đối với Matthêu, việc “hiểu” mầu nhiệm Nước Trời là một hồng ân mà Chúa mạc khải cho ai tùy ý (Mt 11,26-27: Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha vì đã giấu các điều ấy với hạng khôn ngoan thông thái, mà đã mạc khải ra cho những kẻ bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là Thánh ý của Cha). b/ Lý do của sự khiết tịnh làvì Nước Trời. “Vì Nước Trời” có nghĩa là gì? Đối với người Do thái thì tiếng đó đã quá rõ nên Chúa Giêsu không cần cắt nghĩa nữa. Nước Trời (hay Nước Thiên Chúa) có nghĩa là triều đại của Thiên Chúa, Ngài thiết lập vương quyền trên cõi thế, khi công lý được thực thi nhằm bênh đỡ những người nghèo, những người mồ côi góa bụa. Như ta đã biết Nước Chúa đã đến, đã chu toàn nơi chính đức Giêsu, khi mà Thiên Chúa của tình thương tỏ hiện qua lời nói và việc làm của đức Giêsu: Người mang tình yêu ấy đến cho những ai bị xã hội gạt ra bên lề, từ những người phong hủi, bị quỉ ám, cho tới những cô gái điếm, những người thâu thuế cho ngoại bang. Đức Giêsu đã sống độc thân để mang tình thương của Thiên Chúa đến với những người khốn khổ. Người cũng mong muốn có những kẻ để cho tình thương của Chúa thu hút, để tiếp tục sứ mạng làm thể hiện Nước Chúa, diễn tả khuôn mặt dịu dàng âu yếm của Chúa dành cho những kẻ bạc phước. Trong Phúc âm theo Matthêu, thuật ngữ “vì Nước Trời” không những chỉ có nghĩa là phục vụ Nước Trời (phục vụ Tình yêu của Chúa dành cho nhân loại), nhưng còn có nghĩa là bị thu hút bởi Tình yêu ấy, tựa như dụ ngôn về người khám phá ra viên ngọc quý chôn trong thửa ruộng (Mt 13,44-46): anh ta sung sướng quá, bán hết gia tài để tậu thửa ruộng đó. “Vì Nước Trời”, vì khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa, điều thiện duy nhất, con người sẵn sàng từ khước tất cả gia đình, tài sản.

2/ Luca 14,26-27.

Đoạn văn này không nhắm thẳng đến sự độc thân, nhưng có thể gián tiếp cung cấp một động lực trong việc đi theo Đức Kitô: “Ai muốn theo Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em, và thậm chí cả mạng sống của mình thì không thể làm môn đồ của Ta. Ai không vác thập giá của mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ Ta”. Các nhà chú giải Kinh thánh ghi nhận hai điểm đặc biệt trong cách hành văn của Luca: a/ Luca dùng chữ “ghét”, đang khi mà Matthêu (10,37-38) dùng tiếng “yêu hơn” (Ai yêu mến cha mẹ mình hơn Ta, thì không đáng với Ta; ai yêu con cái mình hơn Ta thì không đáng với Ta). Dù sao, thì luật bác ái phổ quát của Phúc âm không cho ta ghét ai, thậm chí đối với kẻ thù, nên chắc là Chúa không xúi ai phải ghét cha mẹ họ hàng hết. Chữ “ghét” là một kiểu nói của người Do thái với ý nghĩa là “yêu thua, yêu kém, không chuộng bằng”. b/ Luca đòi hỏi việc từ bỏ “vợ” để theo Chúa, trong khi Matthêu chỉ nói tới việc từ bỏ cha mẹ con cái. Dĩ nhiên, dưới khía cạnh phê bình văn bản, người ta sẽ đặt câu hỏi: ai trong hai thánh sử đó đã ghi lại trung thực lời của Chúa Giêsu hơn? Theo một số học giả, có lẽ Matthêu sát với lời của Chúa Giêsu hơn, còn Luca chỉ muốn thêm chi tiết cho rõ nghĩa. Do đó khi viết cho người Do thái, Matthêu chỉ cần nói tới việc từ bỏ cha mẹ con cái thì độc giả đã hiểu là bỏ hết mọi liên lạc gia đình rồi; còn Luca thì thấy cần thêm cả các mối ràng buộc với vợ và anh chị em cho rõ thêm. Dù sao đi nữa, vấn đề phê bình văn bản không phải là mối bận tâm chính của chúng ta. Điều quan trọng là cần xét vì lý do gì mà ông Luca quan niệm việc bỏ vợ như là một điều kiện để đi theo Chúa.

 Xét trong mạch văn của chương 14, thì câu 26 (nói về việc từ bỏ gia đình) có thể gắn liền với dụ ngôn về tiệc cưới Nước Trời nói ở đầu chương, hoặc gắn với câu 27 liền kế đó. Tùy theo cách lồng vào mạch văn mà việc từ bỏ vợ mang ý nghĩa khác biệt. a/ Trong dụ ngôn về một ông chủ thết tiệc, Luca cho biết có người kiếu không tới dự tiệc vì mới tậu ruộng mua bò, người thì lấy lý do là vừa mới cưới vợ. Vì thế không lạ chi mà trong phần kế tiếp của chương 14, Luca đòi hỏi sự từ bỏ vợ con (câu 26) cũng như tài sản (câu 33) để khỏi bị vướng mắc trong việc đi theo Chúa. Duy có điều khác biệt là sự từ bỏ tài sản có thể hiểu về tư sản đã có; còn từ bỏ vợ con thì không có nghĩa là rẫy vợ, nhưng là từ bỏ không lập gia đình. Như vậy, việc từ bỏ hôn nhân nhằm cất đi những trở ngại cho sự phục vụ Nước Trời. Ta cũng nên ghi nhận là Luca lặp lại sự bỏ vợ trong một hoàn cảnh khác nữa ở chương 18, 29-30. Khi Phêrô muốn biết sự từ bỏ sẽ được bù lại như thế nào, thì Chúa Giêsu đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không ai bỏ nhà cửa, hay vợ, hay anh em, hay cha mẹ, hay con cái vì Nước Thiên Chúa mà không lĩnh lấy gấp bội nơi đời này, và sự sống đời đời trong thời sẽ đến”. Việc từ bỏ như vậy không có tính cách bắt buộc hết mọi người, xét vì tình cảm gia đình là điều tốt. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã mở ra một nhãn giới mới. Trong khi mà thường tình con người từ bỏ cha mẹ để đi theo vợ và hết hợp thành một thân mình với vợ (St 2,24), thì Phúc âm cho thấy có người từ bỏ cha mẹ không phải để đi lấy vợ, nhưng thậm chí còn bỏ cả việc lấy vợ nữa để phục vụ Nước Chúa. Như vậy động lực chính của việc từ bỏ vợ (theo nghĩa là khước từ lập gia đình) là vì Nước Thiên Chúa, đi theo đức Kitô. – b/ Mặt khác, động lực của sự từ bỏ nói ở câu 26 cũng có thể tìm thấy khi gắn liền với câu 27, tức là vác khổ giá của mình đi theo đức Giêsu và trở thành môn đồ của Người. Sự vác khổ giá đi sau Chúa không hiểu theo nghĩa đen như kiểu ông Simon Kyrênê (Lc 23,26), nhưng theo nghĩa bóng, diễn tả một hình thức làm môn đệ qua việc hy sinh chịu chết cũng như Người. Dĩ nhiên, chỉ có ai đã khám phá ra sự khôn ngoan của Thập tự (như thánh Phaolo viết trong chương 2 của thư thứ nhất gửi Corinto) thì mới dám khước từ kết hôn.

3/ Thư thứ nhất gửi Corintô, chương 7, câu 25-35

Trong chương này, thánh Phaolô trả lời một số vấn nạn của các tín hữu chung quanh việc kết hôn của người còn độc thân lẫn của người góa bụa. Riêng về việc độc thân, những lý lẽ mà thánh nhân đưa ra đều dựa trên một bối cảnh về thời cánh chung. Với cuộc nhập thể và tử nạn của đức Kitô, việc can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử nhân loại đã tới giai đoạn chung cục. Vì vậy mà các giá trị của lịch sử đã bị đảo lộn: hôn nhân gia đình chỉ còn mang tính cách tương đối. Từ bối cảnh đó thánh tông đồ vạch ra bốn lý do của việc độc thân:

a/ Kẻ không kết bạn thì lo lắng cho công chuyện của Chúa (câu 32). Động từ “lo lắng, bận tâm” hiểu là dấn thân phục vụ Giáo hội của Chúa như chính Phaolo đã nêu gương (2 Cor 11,18).

b/ Kẻ không kết bạn tìm cách làm hài lòng Chúa (câu 32). Ở đây, “làm hài lòng Chúa” không chỉ có nghĩa là chiều chuộng nũng nịu cho bằng khước từ cái sung sướng thỏa mãn của mình để đi phục vụ Chúa và tha nhân.

c/ Nên thánh xác hồn (câu 33): “nên thánh” có nghĩa là được tận hiến cho Chúa, thuộc trọn về Chúa là Đấng Thánh.

d/ “Được khăng khít với Chúa không hề ngơi” (câu 35). Thực ra, trong câu này, thánh Phaolo ngỏ lời cả với người kết bạn lẫn với người độc thân: ông muốn cho họ biết rằng mình không muốn dụ dỗ ai, muốn đặt gánh nặng cho ai; nhưng mục đích là giúp cho họ nên đoan chính và được khăng khít với Chúa. Dù ở bậc nào đi nữa, mỗi người hãy cố gắng chăm chú tìm cách làm theo ý Chúa.

 Tóm lại, những bản văn Tân ước bàn về sự độc thân cho ta thấy những nét sau đây: a/ Đó là một hồng ân của Chúa. b/ Nó nhằm họa lại đời sống trinh khiết của đức Kitô nhằm phục vụ Nước Trời. c/ Nó giả thiết tình yêu muốn bắt chước đức Kitô và trao phó tất cả nghị lực con tim của mình để đi theo Người. d/ Nó biểu lộ những giá trị vĩnh cửu của Nước Chúa thời cánh chung.

III. Thần học

Ngoài việc phân tích ý nghĩa của các bản văn Tân ước nói về giá trị của sự độc thân vì nước Trời, thần học còn muốn thu thập tư tưởng của truyền thống Kitô giáo cũng như những tư tưởng thời đại, và có thể tóm lại trong những điểm sau đây.

Thiết tưởng không phải là thừa khi nhắc lại rằng sự khiết tịnh mà chúng ta đang bàn ở đây nằm trong lãnh vực tôn giáo, chứ chúng ta không nói tới sự độc thân vì những lý do chính trị, nghề nghiệp, xã hội. Thêm vào đó, chúng ta cần phải nhấn mạnh rằng nó là một hồng ân của Chúa. Vì thế những ai đã lãnh nhận ơn đó cần có thái độ biết ơn, khiêm tốn, cũng như cần cảnh giác rằng nếu không biết giữ gìn thì món quà đó có thể bị mất. Việc Chúa trao ban hồng ân cũng như việc con người tự do đáp lại diễn ra trong khung cảnh của giao ước tình yêu nhưng nó không dừng lại ở chiều kích riêng tư cá nhân ấy; hồng ân khiết tịnh cũng như hồng ân của các lời khuyên Phúc âm khác là một thiện ích dành cho toàn Giáo hội và nhân loại; nó có giá trị dấu chỉ và chứng tá. Chúng ta hãy điểm qua một vài khía cạnh của sự khiết tịnh, xét trong tương quan với đức Kitô, với Nước Chúa, với Hội thánh, với các giá trị nhân bản (tựa như tình yêu, hôn nhân, phái tính, thân thể).

A. Tương quan với Đức Kitô

Cũng như với các lời khuyên Phúc âm khác, sự khiết tịnh lấy đức Giêsu làm khuôn mẫu: lời khuyên khiết tịnh không chỉ dựa trên những lời mời gọi mà còn dựa trên chính đời sống của Người. Đức Giêsu đã không lập gia đình bởi vì Người muốn dành hết tâm lực cho việc phục vụ Nước Thiên Chúa. Ngày nay, khi tuyên giữ khiết tịnh vì Nước Trời, tu sĩ cũng muốn bắt chước đức Kitô, dâng trót đời mình để mang tình yêu Chúa đến cho tha nhân. Việc bắt chước đức Kitô không phải chỉ nhằm họa lại một bức tranh tuy đẹp nhưng bất động. Không phải như vậy, việc đi theo đức Kitô ngày hôm nay không chỉ giới hạn vào việc diễn lại cuộc sống lịch sử của Ngài ở Palestina, cho bằng thông hiệp với những tâm tình sống động của Ngài, với đức Kitô tử nạn và phục sinh. Lời khuyên khiết tịnh diễn tả lại tình yêu của Ngài đến nỗi hiến mạng cho người yêu. Lời khuyên khiết tịnh diễn tả điều kiện Phục sinh khi thân xác được Thánh Thần biến đổi. Hiểu như vậy, ta thấy tầm quan trọng của việc cử hành bí tích Thánh Thể trong đời sống của tu sĩ: chính nơi đây, mà họ tìm thấy ý nghĩa của cuộc dâng hiến, hy sinh, giao ước của sự tuyên giữ lời khuyên khiết tịnh. Người tu sĩ bắt chước Đức Kitô bởi vì yêu mến và hoà hợp với Người.

B. Tương quan với Nước Thiên Chúa

Trước đây chúng ta đã nói qua ý nghĩa của việc độc thân vì Nước Trời khi phân tích đoạn văn Matthêu 19,12. Ở đây chỉ cần thêm rằng Nứơc Trời không phải là một lý thuyết hay ý thức hệ. Nước Trời cần được hiểu như là sự thực hiện Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, được biểu lộ cách đặc biệt cho người nghèo, người bé nhỏ, người bị gạt ra bên lề xã hội. Theo gương đức Kitô, tu sĩ sống độc thân vì Nước Trời vì muốn phục vụ kế hoạch tình yêu đại đồng ấy. Đời sống của họ là một biểu tượng của tình yêu đại đồng khi họ khước từ xây dựng một tổ ấm gia đình ngõ hầu có thể ôm ấp phục vụ đại gia đình nhân loại. Điều này giả thiết là họ đã ý thức và cảm nghiệm tình yêu đại đồng mà Cha trên trời đã dành cho họ. Thiết tưởng đây là một điểm khác biệt không nhỏ giữa quan niệm tu trì của Kitô giáo với quan niệm tu trì của một vài tôn giáo Á châu. Có tôn giáo coi nguồn gốc của mọi khổ ải tục lụy ở tại “yêu” (vì yêu nên mới khổ), hậu nhiên việc tu trì cũng đồng nghĩa với sự từ bỏ yêu; còn Kitô giáo thì đặt tình yêu làm trung tâm, và coi đó như tột đỉnh của hạnh phúc. Có tôn giáo khác thì tuy cũng dành cho tình yêu một chỗ đứng quan trọng, nhưng là yêu Chúa, yêu những giá trị vĩnh cửu chứ không thể yêu đời; còn Kitô giáo thì quan niệm rằng việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức cũng bao gồm việc yêu mến những gì mà Chúa yêu. Hậu nhiên, cho dù một người nữ tu đã ẩn mình trong bức tường kín cũng không thể nào không ôm ấp tất cả những người cần hưởng tình thương của Chúa, và chị ta tìm cách để phục vụ cho tình yêu đó với những phương tiện trong tầm tay của chị, tựa như lời cầu nguyện.

C. Tương quan với Hội thánh

Ta đã biết là sứ mạng chính yếu của Hội thánh là phục vụ Nước Chúa. Vì thế việc tuân giữ trinh khiết vì Nước Trời đặt các tu sĩ trong mối liên hệ chặt chẽ với Hội thánh. Không ai chối cãi được sự kiện là bao nhiêu tu sĩ nam nữ đã trở thành những chiến sĩ hăng say trong các hoạt động tông đồ truyền giáo. Nhưng ta cần nhìn vấn đề xa hơn nữa. Qua lời khấn trinh khiết, các tu sĩ trở nên biểu hiệu của mối tình duy nhất mà Hội thánh dành cho đức Kitô, mối tình không chia sẻ dành riêng cho đức Lang quân (2 Cor 11,2). Qua lời khấn trinh khiết, các tu sĩ trình bày hình ảnh của Hội thánh như một đại gia đình lý tưởng, trong đó các phần tử chỉ có một tấm lòng một linh hồn, vì ý thức rằng tất cả đều là con cái của một Cha.

D. Tương quan với các giá trị nhân bản: tình yêu, hôn nhân, phái tính

 1/ Trước đây, chúng tôi đã có lần lưu ý rằng trong quá khứ không thiếu lần sự đề cao sự trinh khiết đi kèm theo sự hạ giá hôn nhân. Các sử gia đã cố gắng tìm hiểu những nhân tố nào đã chi phối các học thuyết đó. Ta có thể kể tới thuyết nhị nguyên của Platon, hay thuyết khắc khổ của phái Stoa chẳng hạn; nhưng ta cũng không nên bỏ qua tình trạng xã hội đồi trụy đương thời khiến cho các giáo phụ cảm thấy cần tìm ra một khuôn mẫu để chấn hưng đạo đức. Dù sao, công đồng Vaticano II không còn coi hôn nhân và sự trinh khiết như là hai thực tại đối chọi như là tối tăm và ánh sáng nữa, mà như là hai thực tại bổ túc cho nhau. Hôn nhân là một thực tại tốt đẹp, do Thiên Chúa tạo dựng và được đức Kitô thánh hóa như bí tích biểu hiệu của mối tình chung thủy của Người với Hội thánh. Còn sự trinh khiết vì Nước Trời là một thể thức khác để họa lại tình yêu của đức Kitô, đã chọn đời sống độc thân không cửa không nhà, để làm nêu bật chiều kích khác của tình yêu: tình yêu trao hiến mạng sống, tình yêu đại đồng. Ngoài ra qua đời sống cộng đồng, các tu sĩ trình bày một kiểu mẫu gia đình mới, không xây dựng trên huyết nhục nhưng là trên đức tin: một cộng đồng coi nhau như huynh đệ vì cùng là con của một Cha trên trời. Trên thực tế người có đôi bạn lẫn người độc thân Kitô giáo cần nâng đỡ nhau bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, xét rằng cả hai đều cần làm chứng cho mối tình chung thủy của đức Kitô và Hội thánh, sự chung thủy bất chấp những thử thách.

 2/ Dưới ánh sáng của Phục sinh và cánh chung, sự khiết tịnh cũng làm thay đổi mối tương giao giữa nam nữ. Dĩ nhiên, các tu sĩ không phải là những người á nam á nữ; lời khấn khiết tịnh không tiêu diệt đi nam tính hay nữ tính của họ. Họ vẫn còn mang những khuynh hướng phái tính trong người, kể cả khuynh hướng làm cha hay làm mẹ. Duy có điều là những khuynh hướng đó sẽ được hướng tới những chiều kích mới. Khuynh hướng làm cha hay làm mẹ sẽ không được thể hiện qua việc sinh sản trong khung cảnh của hôn nhân, song là trong viễn tượng của một đại gia đình, phục vụ những mầm sống mới, phục vụ những người sống ngoài lề xã hội không được ai để ý, phục vụ những ai khao khát tình thương. Cách riêng lời khuyên khiết tịnh làm thay đổi mối tương giao với người khác phái, khi biết vượt lên tình yêu chiếm hữu như xảy ra trong trường hợp vợ chồng, nhường chỗ cho tình yêu tông đồ, đón tiếp nhận người đồng giới hay khác giới như những người đồng hành hay đồng lao trong Nước Chúa.

 3/ Thần học về sự khiết tịnh cũng cần được lồng trong khung cảnh tích cực về giá trị thân xác. Trong quá khứ, không thiếu tác giả đã coi thân xác như tù rạc, như nguồn gốc tội lỗi; do đó không thiếu tác phẩm nhấn mạnh đến việc hành hạ chế ngự thân xác. Có lẽ họ quên rằng một trong những tín điều căn bản của Kitô giáo là thân xác này sẽ sống lại. Thực ra, thân xác không phải chỉ là một mớ các tế bào, bắp thịt hay chức phận sinh lý. Thân xác còn là biểu hiện của cái tôi ra ngoại giới: nhờ có thân xác mà tôi có thể tiếp xúc với tha nhân, nhờ thân xác (nhờ những cử điệu) mà tôi có thể bộc lộ tư tưởng tâm tình của tôi cho tha nhân. Hiểu như vậy, lời khuyên khiết tịnh có ảnh hưởng không nhỏ đối với việc kiện toàn thân xác: khi tâm hồn và con tim trong trắng thì cả khoé mắt và cử điệu cũng trong trắng nữa. Nói cách khác, sự khiết tịnh không tiêu diệt thân xác nhưng thăng tiến thân xác bằng cách giúp cho nó trở thành dụng cụ phát biểu giá trị tinh thần. Đó là lý tưởng mà các sách tu đức muốn nói khi dùng tiếng “chế ngự thân xác”, đặt nó dưới sự quy phục của lý trí.

IV. Thực hành

Việc thực hành khiết tịnh có thể nhìn dưới nhiều khía cạnh: tu đức; tâm lý giáo dục; luân lý và giáo luật. Trước đây, người ta thường lưu ý đến khía cạnh luân lý, đề phòng các sự vi phạm lời khấn. Các văn kiện Toà thánh gần đây[2] hướng đến khía cạnh đào tạo tâm lý nhiều hơn, nhắm huấn luyện con người quân bình và trưởng thành.

A. Tu đức

Những gì đã nói trong phần thần học có thể coi như là một lý tưởng mà các tu sĩ nhằm tới. Tiếc rằng không phải ai ai sinh ra đều đạt ngay tới mức độ lý tưởng, nhưng cần phải qua một tiến trình lâu dài.

 Chúng ta biết rằng sự khiết tịnh vì Nước Trời là một hồng ân Chúa ban. Hệ luận tất nhiên là người đã lãnh nhận cần có thái độ biết ơn và khiêm nhường. Khiêm nhường có nghĩa là không được phép vênh váo, nghĩ rằng ta đây thánh thiện, anh hùng hơn người phàm: thực vậy, sự khiết tịnh là một hồng ân chứ đâu phải là do công lao của ta thủ đắc! Khiêm nhường cũng có nghĩa là ý thức về sự dòn mỏng của mình: ta mang một kho tàng trong bình sành (2 Cor 4,5), và kinh nghiệm cho thấy không thiếu lần chiếc bình đã vỡ và rồi kho tàng cũng tan luôn!

 Truyền thống tu đức đã đề ra rất nhiều biện pháp đề phòng cho cái bình khỏi vỡ. Kèm theo đó là những phương tiện khác giúp cho kho tàng được súc tích thêm mãi.

1/ Những biện pháp đề phòng bao gồm cả một loạt những khổ chế về quan năng nội ngoại, từ cái nhìn, sự đụng chạm tiếp xúc, cho tới những hình ảnh tưởng tượng. Điều cần là phải vạch ra mục tiêu của những biện pháp đó, chứ không thể nào chỉ nhấn mạnh đến việc hãm dẹp phòng ngừa: chúng chỉ là những phương tiện huấn luyện với mục đích rèn luyện sự tự chủ, sự điều khiển các ước muốn dựa theo chỉ thị của lý trí.

 2/ Những phương tiện để bảo vệ sự khiết tịnh. Đừng kể việc thực tập các nhân đức cần thiết (tựa như: tin tưởng và cậy trông ơn Chúa, yêu mến, tiết độ, nết na hiền lành, khôn ngoan, vân vân), các tác giả không ngừng khuyến khích sự cầu nguyện, lãnh bí tích (cách riêng Thánh Thể và Hòa giải), lòng tôn sùng đức Trinh nữ Maria.

B. Tâm lý giáo dục

Trong quá khứ, khi bàn về khiết tịnh, người ta chỉ lưu ý tới khía cạnh luân lý và tu đức. Nhưng ngày nay, người ta nhận thấy rằng sự khiết tịnh không chỉ giới hạn vào phạm vi dục tính nhưng còn liên can tới toàn thể tâm lý con người. Thực vậy, sự khiết tịnh liên hệ tới tình yêu, một nhân tố ảnh hưởng tới tất cả sự quân bình và trưởng thành tâm lý của con người. Con người từ khi mới thụ thai trong lòng mẹ đã có nhu cầu yêu và được yêu. Nhu cầu đó cần được phát triển và đào luyện để đạt tới mức độ trưởng thành: từ tính cách ích kỷ chiếm đoạt, cảm giác của tuổi ấu trĩ cho tới tính cách trao ban, hy sinh của tuổi tráng niên. Tiếc rằng vì những lý do khác nhau, không thiếu lần nhu cầu yêu đương không được triển nở đúng mức hoặc là bị méo mó. Ta có thể lấy tỉ dụ từ em bé mồ côi không hề cảm nghiệm tình thương của cha mẹ; hoặc em bé có người cha hay người mẹ quá nghiêm khắc khiến cho nó đâm ra khép nép không thể bộc lộ tình cảm được. Hậu quả là con tim sẽ tìm cách bù trừ hay phản ứng lại: tựa như có người đi lấy vợ để muốn tìm lại khuôn mặt dịu hiền của bà mẹ; và người khác thì không muốn lấy vợ vì mang trong tâm khảm hình ảnh của bà mẹ lộng hành đay nghiến. Ngoài nhu cầu yêu và được yêu mà bất cứ ai cũng cần để sống, ta còn phải thêm nhu cầu luyến ái tìm một người bạn trăn năm và nhu cầu truyền sinh để nối dài sự nghiệp của mình.

Hiểu như vậy, ta thấy việc trình bày và thực hành sự khiết tịnh không thể nào chỉ dừng lại ở chỗ đề phòng các cơn cám dỗ, lại càng không thể lấy tiêu chuẩn là tiêu diệt bóp nghẹt tình cảm. Lý tưởng của đời khiết tịnh tận hiến là phát triển tình yêu, và hướng tình yêu đó vào những đối tượng cao hơn việc xây dựng một tổ ấm. Dù sao đi nữa, các người tận hiến phải là chứng nhân của một tình yêu trao hiến, chứ không phải là những người ủ rũ thất tình, hoặc dồn nén gắt gỏng, hoặc tìm những bù trừ bồi đắp. Vì ý thức như vậy cho nên gần đây các văn kiện của Tòa thánh đã đặt nặng tới việc huấn luyện tâm lý dành cho các chủng sinh và tu sĩ. Đối với các chủng sinh, tức là những ứng sinh chuẩn bị đi vào nếp sống độc thân của đời linh mục, ta có thể kể văn kiện của Bộ Giáo dục Công giáo ngày 11/4/1974 (“Hướng dẫn về việc giáo dục vào sự độc thân linh mục”: Orientamenti educativi per la formazione al celibato sacerdotale). Văn kiện này khá dài, nhằm lưu ý đến sự đào tạo cho các chủng sinh được trưởng thành về tình cảm, dưới bình diện nhân bản cũng như dưới bình diện đức tin. Còn về các tu sĩ thì ta có thể kể Huấn thị của Bộ Tu sĩ ngày 2/2/1990, về việc huấn luyện các tu sĩ (Potissimum Institutioni), trong đó số 13 đã đề ra vài tiêu chuẩn sau đây trong việc đào tạo về sự khiết tịnh.

– Duy trì lòng hân hoan và biết ơn vì tình yêu riêng biệt mà đức Kitô đã để ý tới từng người và đã chọn họ.

– Khuyến khích việc lãnh nhận thường xuyên bí tích hòa giải, sự linh hướng định kỳ, việc trao đổi tình huynh đệ trong cộng đồng được biểu lộ cụ thể qua những mối tương giao thành thực và thân thiện.

– Giải thích giá trị của thân xác và ý nghĩa của nó; huấn luyện việc thi hành vệ sinh cơ thể sơ đẳng (giấc ngủ, thể thao, giải trí, ăn uống, vân vân).

– Cung cấp những khái niệm cơ bản về phái tính nam nữ, với những đặc trưng thể lý, tâm lý, thiêng liêng.

 – Giúp đỡ việc tự chủ, trên bình diện phái tính và tình cảm, cũng như trên bình diện nhu cầu tự nhiên hay thủ đắc (háu ăn, hút thuốc, rượu chè).

– Giúp cho mỗi người thu nhận lấy những kinh nghiệm quá khứ: thu nhận kinh nghiệm tích cực để tạ ơn Chúa; thu nhận kinh nghiệm tiêu cực để vạch ra những điểm yếu, tự hạ trước mặt Chúa và cảnh giác trong tương lai.

– Nêu bật vẻ phong nhiêu của sự khiết tịnh, tình cha thiêng liêng (Gal 4,19) sinh sản những nếp sống mới cho Thiên Chúa.

– Tạo ra bầu không khí tín nhiệm giữa các tu sĩ với những huấn luyện viên; những người huấn luyện cần mau lẹ để hiểu biết tất cả và âu yếm lắng nghe để soi sáng và nâng đỡ.

– Khôn ngoan trong việc xử dụng các phương tiện truyền thông xã hội và trong các mối tương giao có thể trở thành ngăn trở cho việc thực hành lời khuyên khiết tịnh (đ. 277 ‘2 và 666 của bộ giáo luật). Sự khôn ngoan ấy không những là bổn phận của những tu sĩ mà còn là của các bề trên nữa.

Chúng tôi xin ghi thêm vài nhận xét:

(a) Chúng ta không thể bỏ qua khía cạnh hy sinh trong việc sống và trưởng thành tình yêu và sự khiết tịnh. Sự hy sinh nằm trong tiến trình trưởng thành tình yêu: yêu không phải là chiếm đoạt người yêu cho mình (amor concupiscentiae) nhưng là từ bỏ mình để tìm điều tốt cho người yêu (amor benevolentiae). Người tu sĩ tìm thấy lý do và gương mẫu của sự hy sinh nơi Thập giá cứu chuộc của đức Kitô.

(b) Những khuynh hướng và nhu cầu về yêu thương khác nhau tùy người (do những kinh nghiệm bản thân của cuộc đời) và tùy tuổi (lúc thanh xuân, khi đứng tuổi hay khi về già).

(c) Ngoài việc dành con tim cho Chúa và việc phục vụ Giáo hội, đời sống cộng đoàn cũng là nơi đào tạo và phát triển tình cảm. Gần đây, người ta đã đặt lại vấn đề tình bạn trong đời tu, một đề tài trước đây không được phép nói tới.

Kết luận

Sự khiết tịnh có thể nhìn từ góc cạnh tiêu cực (không tà dâm, không lập gia đình), đến chỗ tích cực (dâng hiến trọn tình yêu cho Thiên Chúa). Hơn thế nữa, như đã biết, trong truyền thống đan tu bên Đông phương, từ ngữ “con tim trong trắng” còn được hiểu cao hơn nữa, ám chỉ tình trạng của tâm hồn được siêu thoát khỏi mọi quyến luyến với thọ tạo, một điều kiện để chiêm ngưỡng Thiên Chúa (Mt 5, 8)[3]. Sự siêu thoát dứt bỏ cũng là mục tiêu mà lời khuyên khó nghèo nhắm đến.

———————————–

[1] Xc. Đời sống tâm linh, tập V, trang 242 tt.

[2] Nên biết là các văn kiện của Tòa thánh đề cập đến sự khiết tịnh không những khi nói về đời tận hiến, nhưng cả khi bàn về sự độc thân của các linh mục nữa, chẳng hạn như: Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis của công đồng Vaticano II số 16; Thông điệp Sacerdotalis Caelibatus của đức Phaolo VI (24/6/1967); tông huấn Pastores dabo vobis của đức Gioan Phaolo II số 29.44.

[3] Xc. Đời sống tâm linh, tập V, trang 100; 206; 350

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here