CHƯƠNG III
SERVITIUM CARITATIS
ĐỜI THÁNH HIẾN TỎ BÀY TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
TRONG THẾ GIỚI
Được thánh hiến cho sứ mạng
72. Theo hình ảnh Đức Giê-su, Con yêu dấu “mà Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian” (Ga 10,36), những người Thiên Chúa gọi theo Người, cũng được thánh hiến và sai đến thế gian để bắt chước gương Người và tiếp tục sứ mạng của Người. Điều này được áp dụng cho mọi môn đệ nói chung. Tuy nhiên, nó được áp dụng cách riêng cho những ai được mời gọi theo Chúa Ki-tô “sát hơn” trong hình thức đặc thù là đời thánh hiến và lấy Người làm “tất cả” của đời mình. Như vậy, lời mời gọi, đối với họ, bao hàm cam kết dâng hiến toàn thân cho sứ mạng ; hơn nữa, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, nguồn gốc mọi ơn gọi và mọi đoàn sủng, chính đời thánh hiến trở thành một sứ mạng, như cả cuộc đời Đức Giê-su đã là một sứ mạng. Nhìn từ góc độ đó, chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng của việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, giúp cho con người hoàn toàn tự do để phục vụ Tin Mừng. Vì vậy, phải khẳng định rằng sứ mạng là thiết yếu cho mọi tu hội, không những cho những tu hội hoạt động tông đồ mà còn cho cả những tu hội chiêm niệm nữa. Thật vậy, trước khi được thể hiện bằng những công việc bề ngoài, sứ mạng cốt ở việc làm cho chính Đức Ki-tô hiện diện bằng chứng tá bản thân. Đó là thách đố, đó là mục đích đầu tiên của đời thánh hiến ! Càng để cho mình đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, người tận hiến càng làm cho Người hiện diện và hành động trong thế giới, để cứu độ nhân loại.
Do đó, có thể nói rằng người tận hiến “được sai đi” do chính sự thánh hiến của mình, người ấy làm chứng cho sứ mạng theo lý tưởng của tu hội mình. Khi đoàn sủng sáng lập tiên liệu có những hoạt động mục vụ, hiển nhiên là chứng tá đời sống và chứng tá hoạt động tông đồ hay thăng tiến con người đều cần thiết : cả hai đều nhằm làm cho Đức Ki-tô hiện diện, Người là Đấng vừa được thánh hiến cho vinh quang của Chúa Cha, vừa được sai đến với thế gian nhằm cứu độ anh chị em mình (174).
Hơn nữa, đời tu lại còn tham gia vào sứ mạng của Đức Ki-tô bằng một yếu tố khác, riêng của mình, đó là đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, hướng về sứ mạng. Như vậy, việc hiến dâng cho Chúa Giê-su càng đi vào nội tâm, cách sống cộng đoàn càng đậm tình huynh đệ, sự dấn thân vào sứ mạng đặc thù của tu hội càng hăng say, thì đời tu càng có giá trị tông đồ.
Phục vụ Thiên Chúa và con người
73. Đời thánh hiến nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ là nhắc nhở và phục vụ ý định của Thiên Chúa đối với loài người, như được Kinh Thánh loan báo và như việc chăm chú đọc dấu chỉ của hoạt động Chúa Quan Phòng trong lịch sử cho thấy. Đó là kế hoạch của một nhân loại được cứu thoát và giải hoà (x. Cl 2,20-22). Để chu toàn nhiệm vụ đó, những người tận hiến phải có một kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa và ý thức được các thách đố của thời đại mình, khám phá ra ý nghĩa thần học sâu xa của chúng, nhờ biết biện phân với sự trợ lực của Thần Khí. Thật vậy, trong những biến cố lịch sử, thường ẩn giấu tiếng Thiên Chúa mời gọi làm việc theo ý định của Người, bằng việc quan tâm một cách năng động và hữu hiệu tới những vấn đề của thời đại chúng ta (175).
Như Công Đồng đã nói, việc biện phân các dấu chỉ thời đại phải được thực hiện dưới ánh sáng của Tin Mừng để có thể “giải đáp những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai hậu, cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy” (176). Cho nên cần mở tâm hồn đón nhận những lời khuyên bảo bên trong của Chúa Thánh Thần, Người mời gọi đi sâu vào những ý định của Chúa Quan Phòng. Chúa Thánh Thần kêu gọi các người tận hiến đưa ra những câu giải đáp mới cho những vấn đề mới của thế giới hôm nay. Đó là những lời mời gọi của Thiên Chúa mà chỉ những tâm hồn quen tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa mới biết đón nhận cách trung tín và rồi can đảm đem ra thực thi, bằng những lựa chọn phù hợp với đoàn sủng nguyên thuỷ và với những đòi hỏi của hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Trước bao nhiêu vấn đề và những tình trạng khẩn cấp đôi khi ra như gây thiệt hại và đe doạ đời thánh hiến, những người có ơn gọi này không thể không cảm thấy cần phải dấn thân, mang theo trong lòng và trong lời cầu nguyện những nhu cầu đa dạng của toàn thể thế giới, tuy vẫn hoạt động hăng say trong những lãnh vực hạn chế bởi đoàn sủng sáng lập. Dĩ nhiên là lòng nhiệt thành tông đồ của họ phải được hướng dẫn bởi việc biện phân siêu nhiên, biết phân biệt cái gì đến từ Thần Khí và cái gì nghịch với Thần Khí (x. Gl 5,16 – 17,22 ; 1 Ga 4,6). Trung thành với tu luật và hiến chương, sự biện phân phải được thực hiện trong mối hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội (177).
Như vậy, đời thánh hiến sẽ không chỉ tìm đọc các dấu chỉ thời đại mà còn góp phần soạn và đem ra thi hành những dự phóng mới cho việc truyền giảng Phúc Âm ở những hoàn cảnh hiện tại. Tất cả những điều đó được làm với xác tín của niềm tin rằng Chúa Thánh Thần biết đem lại những giải đáp thích hợp cho những vấn đề tế nhị nhất. Về việc này, nên nhớ điều mà các bậc thầy về hoạt động tông đồ vẫn dạy, đó là phải tin cậy vào Thiên Chúa như thể mọi sự đều tuỳ thuộc vào Người, và đồng thời phải hết mình hoạt động như thể tất cả tuỳ thuộc vào ta.
Sự cộng tác trong Giáo hội và linh đạo tông đồ
74. Tất cả mọi việc phải được làm trong hiệp thông và trong đối thoại với những thành phần khác trong Giáo Hội. Các thách đố của sứ mạng quan trọng đến nỗi không thể đương đầu hữu hiệu được nếu không có sự hợp tác của tất cả các thành phần của Giáo Hội, khi biện phân cũng như lúc hành động. Cá nhân khó mà có được những câu trả lời thích đáng ; trái lại những giải đáp có thể nảy sinh từ chỗ so sánh quan điểm, trao đổi. Cách riêng, sự hiệp thông tích cực giữa các đoàn sủng khác nhau không những làm cho đôi bên thêm phong phú mà còn bảo đảm cho sứ mạng thêm hữu hiệu. Kinh nghiệm những năm vừa qua xác nhận rộng rãi rằng “đối thoại là danh hiệu mới của đức ái” (178) nhất là đức ái sống trong Giáo Hội ; đối thoại giúp cho thấy những vấn đề trong những chiều kích đích thật và khi phải đương đầu thì có nhiều cơ may thành công nhất. Nhờ vun trồng đời sống huynh đệ, đời thánh hiến là một kinh nghiệm đặc biệt về đối thoại. Như vậy nó có thể góp phần tạo nên một bầu khí chấp nhận lẫn nhau, trong đó các thành phần của Giáo Hội, khi cảm thấy con người mình được kính nể, sẽ tới gặp nhau cách xác tín hơn trong sự hiệp thông của Giáo Hội, sẵn sàng nhắm tới sứ mạng phổ quát lớn lao.
Do đó, các tu hội dấn thân vào những hình thức phục vụ tông đồ khác biệt cần phải vun trồng một linh đạo vững chắc về hành động, bằng cách thấy Thiên Chúa trong mọi sự và mọi sự trong Thiên Chúa. Thật vậy, “cần phải biết rằng nếu muốn sống cho có trật tự thì cần biết chuyển từ đời sống hoạt động sang đời sống chiêm niệm ; nhiều khi cũng nên từ đời chiêm niệm trở lại đời sống hoạt động, để cho ngọn lửa thắp lên trong tâm trí nhờ chiêm niệm sẽ toả lan trọn vẹn trong hành động. Như thế đời sống hoạt động phải đưa tới đời sống chiêm niệm và từ đó đời sống chiêm niệm, dựa trên những gì tâm trí chúng ta đã nhận biết, đưa chúng ta trở lại hành động một cách chắc chắn hơn” (179). Chính Đức Giê-su đã cho chúng ta thấy rõ làm thế nào để có thể sống kết hợp với Chúa Cha, đồng thời lại có một đời sống với nhiều hoạt động tông đồ. Nếu không liên tục tìm kiếm sự thống nhất nói trên thì luôn có nguy cơ bị suy sụp bên trong, hoang mang và chán nản. Sự kết hợp mật thiết giữa chiêm niệm và hành động, ngày nay cũng như ngày xưa, giúp người ta đương đầu với những sứ mạng khó khăn nhất.
I. YÊU THƯƠNG TỚI CÙNG
Yêu thương với trái tim của Đức Ki-tô
75. “Người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Trong bữa ăn tối, Người đứng dậy […] và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13,1-2.4-5).
Trong khi rửa chân, Đức Giê-su hé cho thấy Thiên Chúa thương yêu con người đến mức độ nào : nơi Người, chính Thiên Chúa đã muốn phục vụ loài người. Đồng thời, Người mạc khải ý nghĩa của đời sống Ki-tô hữu và tất nhiên của đời thánh hiến, đó phải là một đời sống yêu thương trao hiến, một cuộc đời phục vụ cụ thể và quảng đại. Khi muốn theo chân Con Người, Đấng “đã đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ” (Mt 20,28), đời thánh hiến có một lịch sử thật dài, và trong những thời kỳ tốt đẹp nhất của lịch sử này, người ta quen nhận biết đời thánh hiến qua việc “rửa chân” nghĩa là qua việc phục vụ, ưu tiên cho những người nghèo khổ và thiếu thốn nhất. Nếu một bên, đời thánh hiến chiêm ngưỡng mầu nhiệm cao cả của Ngôi Lời trong lòng Chúa Cha (x. Ga 1,1) thì bên kia, đời thánh hiến cũng theo gót Ngôi Lời trong mầu nhiệm làm người (x. Ga 1,14), hạ mình để phục vụ loài người. Ngày hôm nay, những người theo Đức Ki-tô trên con đường các lời khuyên Phúc Âm cũng muốn đi tới nơi Người đã đi và làm điều Người đã làm.
Người không ngừng mời gọi những người nam nữ và đổ Thần Khí xuống trên họ (x. Rm 5,5) và nhờ đó, thông ban cho họ lòng mến – agapê – của Thiên Chúa, tức là cách Thiên Chúa yêu mến, và thúc đẩy họ phục vụ người khác trong sự hiến mình khiêm hạ không tính toán ích kỷ. Thánh Phê-rô, xuất thần trước ánh sáng của cuộc Biến Hình, đã kêu lớn tiếng “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật đẹp” (Mt 17,4) nhưng ông đã được mời trở lại con đường trần thế, để tiếp tục phục vụ Nước Thiên Chúa. “Hãy xuống đi, Phê-rô ! Anh cứ muốn nghỉ lại trên núi, nhưng xin hãy xuống. Hãy công bố Lời Chúa, hãy can thiệp lúc nghịch như lúc thuận, hãy răn bảo, dạy dỗ, khuyến khích với đầy lòng nhân hậu và bằng mọi kiểu giáo huấn ! Hãy làm việc, hãy chịu khó, hãy nhẫn nhục trong đau khổ, ngõ hầu nhờ vẻ trắng đẹp của hành động chân chính do lòng mến thúc đẩy, anh có thể đạt được điều được tượng trưng qua tấm áo trắng tinh của Chúa” (180). Vị tông đồ không ngớt ngắm dung nhan Chúa, nhưng không vì thế mà ông giảm bớt việc dấn thân mưu ích cho con người ; trái lại, việc chiêm ngắm tăng cường sự dấn thân, tăng thêm khả năng tác động trên lịch sử, giải thoát nó khỏi những gì làm nó ra méo mó.
Việc tìm kiếm vẻ đẹp của Thiên Chúa thúc đẩy người được thánh hiến chăm sóc hình ảnh Thiên Chúa đã bị bóp méo trên bộ mặt anh chị em mình, những bộ mặt hốc hác vì đói khổ, những bộ mặt thất vọng vì những lời hứa hẹn chính trị, những bộ mặt tủi hổ vì thấy văn hoá của mình bị chà đạp, những bộ mặt kinh đảm vì bạo lực mù quáng xảy ra thường ngày, những bộ mặt lo âu của người trẻ, những bộ mặt của những phụ nữ bị xúc phạm và hạ giá, những bộ mặt mệt mỏi của những người di dân không được ai tiếp nhận, những bộ mặt u buồn của những người có tuổi không có những điều kiện tối thiểu để sống cho ra sống (181). Đời thánh hiến dùng ngôn ngữ của việc làm để nói rằng lòng mến Thiên Chúa là nền tảng và là thuốc kích thích một tình yêu nhưng không và ân cần. Thánh Vinh Sơn Phao-lô đã xác tín điều đó khi mở cho các nữ tử bác ái chương trình sống sau đây : “Tinh thần của dòng cốt ở việc hiến mình cho Thiên Chúa để yêu mến Chúa Ki-tô và phục vụ Người trong bản thân những người nghèo, thể xác và tinh thần, tại nhà họ hay ở nơi khác, để dạy dỗ những thiếu nữ nghèo túng, những trẻ nhỏ và, nói chung, tất cả những ai mà Chúa Quan Phòng gửi tới cho chị em” (182).
Thời nay, trong số nhiều lãnh vực để thực thi lòng mến, lãnh vực tỏ bày cho thế giới một cách đặc biệt lòng yêu thương “đến cùng” hẳn phải là việc say mê loan báo Chúa Giê-su Ki-tô cho những ai chưa biết Người, cho những ai đã quên Người, và một cách ưu tiên cho người nghèo.
Đóng góp đặc thù của đời thánh hiến vào việc truyền giảng Phúc Âm
76. Những người tận hiến có nhiệm vụ đặc biệt đóng góp vào việc Phúc Âm hoá, trước hết bằng chứng tá một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và cho anh chị em mình, bằng cách bắt chước Chúa là Đấng vì yêu thương con người đã muốn hạ mình làm kẻ nô lệ. Thật vậy, trong công trình cứu độ, tất cả đều bắt nguồn từ sự thông phần vào lòng mến của Thiên Chúa – agapê. Các người tận hiến, nhờ việc thánh hiến và việc hoàn toàn hiến mình, làm cho người khác thấy được sự hiện diện yêu thương và cứu độ của Đức Ki-tô, Đấng được Chúa Cha thánh hiến và sai đi (183). Khi để Đức Ki-tô chiếm đoạt (x. Pl 3,12) họ chuẩn bị trở thành, cách nào đó, nhân tính kéo dài của Chúa Ki-tô (184). Đời thánh hiến cho thấy cách hùng hồn rằng, càng sống trong Đức Ki-tô, người ta càng phục vụ người khác tốt hơn, sẵn sàng đi tới những tiền trạm truyền giáo và dám đương đầu với những nguy cơ lớn nhất (185).
Việc loan truyền Tin Mừng : loan báo Đức Ki-tô cho muôn dân
77. Khi người ta yêu mến Thiên Chúa, Đấng là Cha của mọi người, thì người ta không thể không yêu mến đồng loại, nhận ra họ là anh em chị em mình. Vì vậy, khi thấy nhiều người chưa được biết tình yêu Thiên Chúa tỏ bày trọn vẹn trong Đức Ki-tô thì người ta không thể ngồi yên. Chính từ chỗ đó mà, vâng lệnh Đức Ki-tô, xuất phát phong trào truyền giáo cho dân ngoại – ad gentes – mọi Ki-tô hữu có ý thức đều chia sẻ với Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Nỗi thao thức này được nuôi dưỡng đặc biệt nơi các người tận hiến, dù là thành viên tu hội chiêm niệm hay hoạt động (186). Thật vậy, các người tận hiến phục vụ sứ mạng làm cho Đức Ki-tô khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục, cầu nguyện và truyền giáo (187) được hiện diện ngay cả giữa những người không phải là Ki-tô hữu (188). Tuy vẫn trung thành gắn bó với đoàn sủng riêng, nhưng bởi vì được tận hiến cho Thiên Chúa (189) nên họ có thể cảm thấy được đặc biệt thúc đẩy cộng tác vào hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. Có thể thấy nơi nhiều vị thánh nhiệt tình truyền giáo cao độ vốn là đặc tính và niềm vinh dự của đời thánh hiến : người ta còn nhớ thánh nữ Tê-rê-xa Lisieux năng nói tới ước nguyện được “yêu mến Ngài và làm cho Ngài được yêu mến”, thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e nôn nóng vì thấy “nhiều người nghĩ tới việc tính sổ với Chúa và cách mình đã dùng những nén bạc Người ban, nên bằng nhiều phương tiện và nhờ linh thao, lo tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và nghe những gì Người nói trong tâm hồn. Ước gì họ làm như Chúa muốn thay vì làm theo ý riêng ; chớ gì họ nói : “Này con đây, lạy Chúa, Chúa muốn dùng con làm gì ? Xin Chúa sai con đi nơi Ngài muốn” (190).
Hiện diện khắp nơi trên mặt đất
78. “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc đẩy chúng ta” (2 Cr 5,14) : các thành viên của mỗi tu hội phải có thể lập lại lời trên của vị Tông Đồ, bởi vì đời thánh hiến có sứ mạng làm việc ở mọi nơi trên trái đất, để củng cố và mở rộng Nước của Chúa Ki-tô, rao giảng Tin Mừng khắp nơi, cả ở những vùng xa xôi nhất (191). Thực vậy, lịch sử truyền giáo làm chứng rằng những người tận hiến đã đóng góp nhiều vào việc loan truyền Phúc Âm cho các dân tộc : từ những gia đình đan viện xưa tới những tổ chức được thành lập gần đây, chuyên đi truyền giáo cho dân ngoại – ad gentes – từ những tu hội sống đời hoạt động tới các tu hội chiêm niệm (192), bao nhiêu người đã hy sinh cho “hoạt động cơ bản của Giáo Hội, hoạt động chính yếu và không bao giờ kết thúc” (193), bởi vì nhắm vào đám đông ngày một gia tăng những người không biết Đức Ki-tô.
Ngày hôm nay, các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ vẫn có bổn phận thực thi một cách khẩn trương điều đó ; người ta trông chờ họ dấn thân hết mình vào việc rao giảng Tin Mừng của Đức Ki-tô. Các tu hội đang nảy sinh hay đang hoạt động trong các Giáo Hội trẻ cũng được mời gọi hướng về sứ mạng giữa những người ngoài Ki-tô giáo, tại quê hương họ hay ở ngoại quốc. Mặc dù những khó khăn có thể gặp phải, vẫn nên nhắc cho mọi người biết rằng, cũng như “đức tin được củng cố khi được chia sẻ” (194) thì việc truyền giáo củng cố đời thánh hiến, đem lại cho nó một nguồn hăng say mới và những động cơ mới, thúc giục sống trung thành. Đối lại, hoạt động truyền giáo cung cấp một cánh đồng bao la trong đó các hình thức khác nhau của đời thánh hiến đều có chỗ đứng và phát triển.
Sứ mạng truyền giáo cho dân ngoại ad gentes cống hiến những cơ hội đặc biệt hăng say dấn thân làm việc tông đồ cho những phụ nữ tận hiến, những tu huynh và những thành viên các tu hội đời. Những thành viên các tu hội đời, do sự có mặt của họ trong nhiều lãnh vực khác nhau dành cho ơn gọi giáo dân, có thể thực hiện một công cuộc cao quý nhằm Phúc Âm hoá các môi trường, các cơ cấu và ngay cả các luật lệ chi phối đời sống xã hội. Ngoài ra, họ có thể làm chứng về các giá trị Tin Mừng cho những người chưa biết Đức Giê-su ; bằng cách đó họ đóng góp đặc biệt cho sứ mạng truyền giáo.
Phải nhấn mạnh rằng tại những quốc gia có các tôn giáo ngoài Ki-tô giáo đã ăn sâu, sự hiện diện của đời thánh hiến có một tầm quan trọng rất lớn, vừa do các hoạt động giáo dục, từ thiện và văn hoá, vừa do chứng tá của đời chiêm niệm. Cho nên trong những giáo hội mới thành lập, phải đặc biệt khuyến khích việc lập các cộng đoàn chuyên lo chiêm niệm vì “đời sống chiêm niệm thuộc về sự hiện diện đầy đủ của Giáo Hội” (195). Kế đó, cần cổ võ, bằng những phương tiện thích hợp, một sự phân phối quân bình đời sống thánh hiến trong những hình thức khác nhau, để khơi lên một phong trào mới đi truyền giáo, hoặc cắt cử các thừa sai nam nữ, hoặc nhờ các hội dòng tận hiến đến giúp cho các giáo phận thiếu thốn (196).
Loan báo Đức Ki-tô và hội nhập văn hoá
79. Việc loan báo Đức Ki-tô “được thường xuyên dành chỗ ưu tiên trong sứ mạng của Giáo Hội” (197), với mục đích nhắm tới việc hoán cải, nghĩa là gắn bó hoàn toàn và thật lòng với Đức Ki-tô và Tin Mừng của Người (198). Tiến trình hội nhập văn hoá và cuộc đối thoại liên tôn cũng nằm trong khuôn khổ của hoạt động truyền giáo. Các người tận hiến phải coi việc hội nhập văn hoá như một lời mời gọi cộng tác hữu hiệu với ơn Chúa trong việc tiếp xúc với các nền văn hoá dị biệt. Điều này giả thiết đương sự được chuẩn bị nghiêm túc, có ơn biện phân đã được chứng thực, gắn bó trung thành với những tiêu chuẩn phải có : giáo lý chính thống, luân lý nguyên tuyền, hiệp thông với Giáo Hội (199). Được nâng đỡ bởi đoàn sủng của các đấng sáng lập, nhiều người tận hiến đã đến gặp gỡ những nền văn hoá khác nhau với thái độ của Đức Giê-su là Đấng “huỷ mình đi, mang lấy thân phận tôi đòi” (Pl 2,7). Nhờ cố gắng đối thoại kiên trì và táo bạo, họ đã tạo được những quan hệ hữu ích với các dân tộc khác nhau, loan báo cho mọi người con đường cứu độ. Ngày nay cũng vậy, có bao nhiêu người tận hiến biết tìm ra, trong lịch sử của các cá nhân và của các dân tộc, những vết tích sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng muốn đưa toàn thể nhân loại tới chỗ nhận ra các dấu chỉ của ý định cứu độ của Người. Việc tìm kiếm này có lợi cho chính người tận hiến : thật vậy, các giá trị khám phá được trong các nền văn hoá khác nhau có thể thúc đẩy họ đào sâu truyền thống Ki-tô giáo về chiêm niệm và cầu nguyện, trung thành hơn với việc chia sẻ cộng đoàn và đón tiếp khách lạ, mau mắn quan tâm tới con người và tôn trọng thiên nhiên.
Để đạt được một sự hội nhập văn hoá đích thực, cần phải có thái độ giống như Chúa, Đấng đã làm người và sống giữa chúng ta, đầy tình thương và khiêm hạ. Theo nghĩa đó, đời thánh hiến làm cho người ta đặc biệt có khả năng đối phó với công việc hội nhập phức tạp, vì nó tập cho người ta thanh thoát với các thực tại vật chất và thanh thoát cả với nhiều khía cạnh của chính nền văn hoá của mình. Khi cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu các nền văn hoá như thế, những người tận hiến có thể nhận biết rõ hơn đâu là những giá trị trung thực của chúng và thấy phải đón nhận và kiện toàn chúng nhờ đoàn sủng riêng như thế nào (200). Dẫu sao không nên quên rằng trong nhiều nền văn hoá cổ, cách biểu thị tôn giáo đã được hội nhập sâu xa đến mức độ tôn giáo thường biểu lộ chiều kích siêu việt của chính văn hoá. Trong trường hợp đó, sự hội nhập đích thực nhất thiết phải đi kèm với một cuộc đối thoại liên tôn, cuộc đối thoại này “không nghịch với sứ mạng truyền giáo ad gentes” và “không chuẩn miễn việc loan truyền Phúc Âm” (201).
Hội nhập đời thánh hiến
80. Đời thánh hiến mang sẵn những giá trị Tin Mừng, cho nên khi sống đời thánh hiến một cách trung thực, thì quả là góp phần độc đáo vào việc chấp nhận những thách đố của việc hội nhập. Thật vậy, vì đời thánh hiến là dấu chỉ của địa vị tối thượng của Thiên Chúa và của Nước Thiên Chúa, nó hiện ra như một sự thách thức có thể làm lung lay lương tâm con người đang khi đối thoại. Nếu đời thánh hiến duy trì được sức mạnh ngôn sứ của mình, nó sẽ trở nên một thứ men Phúc Âm bên trong một nền văn hoá, có khả năng thanh luyện và biến đổi nền văn hoá. Lịch sử nhiều vị thánh nam nữ thuộc các thời đại khác nhau đã cho thấy điều đó ; các ngài đã biết trầm mình vào thời đại của mình mà không bị nhận chìm, nhưng lại vạch ra những con đường mới cho thế hệ đương thời. Một kiểu sống theo Tin Mừng là một nguồn cảm hứng quan trọng cho một khuôn mẫu văn hoá mới. Bao nhiêu đấng sáng lập nam nữ đã đón nhận một số đòi hỏi của thời đại các ngài, nhưng cũng nhận biết giới hạn của chúng, nên đã đưa ra được một câu trả lời, và câu trả lời đã trở thành một đề xuất văn hoá có sức đổi mới.
Thật vậy, những cộng đoàn của các dòng tu và các tu đoàn tông đồ có thể đưa ra cách cụ thể những đề xuất văn hoá có ý nghĩa, khi họ làm chứng cho lối sống theo tinh thần Phúc Âm, đón nhận lẫn nhau trong sự khác biệt và cách thi hành quyền bính, việc chia sẻ của cải vật chất lẫn tinh thần, chiều kích quốc tế, sự hợp tác giữa các dòng, việc lắng nghe những con người nam nữ của thời đại chúng ta. Thật vậy, cách suy tư và hành động của những người theo Đức Ki-tô sát hơn tạo nên một chuẩn mực văn hoá, làm sáng tỏ cái gì không phù hợp với con người, làm chứng rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm cho các giá trị được củng cố và kiện toàn. Đối lại, một sự hội nhập văn hoá đích thực sẽ giúp những người tận hiến sống tính triệt để của Tin Mừng, theo đoàn sủng riêng của tu hội và bản sắc của dân tộc mình tiếp xúc. Quan hệ phong phú sẽ làm nảy sinh các kiểu sống và những phương pháp mục vụ, chúng sẽ là một kho tàng cho toàn thể tu hội, nếu chúng phù hợp với đoàn sủng sáng lập và với hành động thống nhất của Chúa Thánh Thần. Trong tiến trình đó, – bao hàm biện phân, táo bạo, đối thoại và chấp nhận những thách thức của Tin Mừng -, Toà Thánh giữ vai trò hướng đạo, khuyến khích việc Phúc Âm hoá các nền văn hoá cùng kiểm nhận việc tiến triển, phê chuẩn các kết quả đã đạt được nhờ việc hội nhập (202) : Công việc “thật khó khăn và tế nhị, vì liên quan tới sự trung tín của Giáo Hội đối với Tin Mừng và truyền thống các tông đồ, trong sự tiến hoá không ngừng của các nền văn hoá” (203).
Việc tái truyền giảng Phúc Âm
81. Để đáp lại cách hữu hiệu những thách đố lớn lao mà lịch sử cận đại đặt ra cho việc tái truyền giảng Phúc Âm, trước nhất, đời thánh hiến phải không ngừng để cho lời mặc khải và những dấu chỉ thời đại chất vấn (204). Chúng ta hãy nhớ lại những nhà rao giảng Phúc Âm nam nữ nổi tiếng. Trước khi đi loan truyền Phúc Âm, họ đã được Phúc Âm hoá. Điều này cho thấy rằng để nói với thế gian hôm nay, phải có những con người tha thiết gắn bó với Chúa và Tin Mừng của Người. “Do ơn gọi riêng, những người tận hiến được mời gọi thống nhất việc Phúc Âm hoá chính mình với chứng tá, thống nhất việc đổi mới nội tâm và việc canh tân tông đồ, thống nhất đời sống và hoạt động, bằng cách cho thấy rằng trong những cặp yếu tố trên, sức mạnh năng động luôn luôn tới từ yếu tố thứ nhất” (205).
Việc tái truyền giảng Phúc Âm, cũng như việc truyền giảng Phúc Âm ở các thời khác, sẽ chỉ hữu hiệu nếu biết công bố cho mọi người điều mà trước đó mình đã sống trong tình thân với Chúa. Nó cần những con người có bản lĩnh vững chắc, có lòng nhiệt thành của các thánh. Công cuộc tái truyền giảng Phúc Âm đòi những con người tận hiến ý thức đầy đủ về ý nghĩa thần học của những thách đố thuộc thời đại chúng ta. Các thách đố đó phải được phân tích kỹ trong một biện phân chung, nhằm canh tân sứ mạng. Phải can đảm loan báo Chúa Giê-su đồng thời tin tưởng vào hành động của Chúa Quan Phòng, Đấng hành động trong thế giới và “sắp đặt mọi sự vì ích lợi của Giáo Hội, ngay cả những biến cố trái nghịch” (206).
Trong số các yếu tố quan trọng giúp các tu hội hội nhập một cách hữu hiệu vào tiến trình tái truyền giảng Phúc Âm, cần kể tới sự trung tín với đoàn sủng sáng lập, sự hiệp thông với những ai trong Giáo Hội đang dấn thân phục vụ cùng một chính nghĩa, cách riêng các chủ chăn, và sự hợp tác với tất cả mọi người thiện chí. Điều này đòi hỏi phải biện phân nghiêm túc các tiếng gọi Thần Khí gởi cho từng tu hội, dù tại những vùng không thể thấy ngay được những tiến bộ quan trọng hoặc tại những vùng đang chứng kiến sự hồi sinh đáng khích lệ. Ở mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, ước gì các người tận hiến hãy nhiệt thành loan báo Chúa Giê-su, sẵn sàng trả lời với sự khôn ngoan của Tin Mừng cho những câu hỏi do lòng trí lo âu của con người và các vấn đề cấp bách đặt ra cho họ ngày hôm nay.
Dành ưu tiên cho người nghèo và cổ võ công lý
82. Khởi đầu sứ vụ, trong hội đường Na-da-rét, Đức Giê-su công bố là Thánh Thần đã thánh hiến mình để đem Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo ơn giải thoát cho kẻ tù đày, mở mắt cho người mù, trả tự do cho kẻ bị áp bức và rao giảng một năm hồng ân của Thiên Chúa (x. Lc 4,16-19). Bởi đã nhận sứ mạng của Chúa làm của mình nên Giáo Hội loan báo Tin Mừng cho hết mọi người nam nữ, dấn thân phục vụ việc cứu độ toàn diện con người. Tuy nhiên, với một sự quan tâm đặc biệt, một “lựa chọn ưu tiên”, Giáo Hội hướng về những ai ở trong một hoàn cảnh nghèo khó yếu kém hơn, do đó có nhu cầu hơn. Những “người nghèo” dưới những chiều kích đa dạng, là những người bị áp bức, những người bị gạt ra ngoài lề, những người già cả, những người bệnh hoạn, những trẻ em, tất cả những ai bị coi và bị đối xử như những “kẻ rốt hết” trong xã hội.
Sự lựa người nghèo nằm trong chính bản chất của tình yêu sống theo Chúa Ki-tô. Tất cả các môn đệ Đức Ki-tô phải theo sự lựa chọn này ; nhưng những ai muốn theo Chúa Ki-tô sát hơn bằng cách bắt chước cách sống của Người, lại càng không thể không cảm thấy bị lôi cuốn vào sự lựa chọn đó. Việc thành thật đáp lại tình yêu của Đức Ki-tô sẽ dần dần đưa họ tới chỗ sống như người nghèo và bênh vực chính nghĩa của người nghèo. Điều này đòi hỏi mỗi tu hội, tuỳ theo đoàn sủng riêng, phải chọn một kiểu sống, cá nhân cũng như cộng đoàn, khiêm tốn và khắc khổ. Với chứng tá đời sống phù hợp với sự lựa chọn do ơn gọi và không để mình bị chi phối bởi các ý thức hệ chính trị, các người tận hiến có thể tố cáo những bất công mà bao con cái Thiên Chúa phải chịu đựng, và dấn thân cổ võ cho công lý trong lãnh vực xã hội nơi họ đang làm việc (207). Nhờ thế, ngay cả trong hoàn cảnh hiện nay, người ta sẽ thấy diễn lại, qua chứng tá của bao người tận hiến, sự xả thân của các đấng sáng lập đã dâng trót cuộc đời để phục vụ Chúa hiện diện nơi người nghèo. Thật vậy, “ở dưới thế này, Chúa Ki-tô nghèo trong con người kẻ nghèo… là Thiên Chúa tuy giàu có, nhưng khi làm người, Người trở nên nghèo. Thực ra, cũng con người đó đã nên giàu có, nay lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Nhưng đồng thời, Người vẫn ở lại dưới thế như người nghèo, đói, khát, không áo che thân” (208).
Tin Mừng trở thành thiết thực nhờ tình bác ái, là vinh quang của Giáo Hội, là dấu chỉ cho thấy Giáo Hội trung tín với Chúa. Tất cả lịch sử đời thánh hiến cho thấy điều đó, một lịch sử có thể được coi như một cách chú giải sống động lời của Đức Giê-su : “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Nhiều tu hội nhất là trong thời hiện đại, đã được lập nhằm để đáp ứng một nhu cầu nào đó của người nghèo. Và ngay cả khi mục đích đó không được nêu như là chủ yếu, thì mối quan tâm tới những người thiếu thốn, diễn tả qua lời cầu nguyện, việc đón tiếp, cho trú ngụ, vẫn thường có trong mọi hình thức của đời thánh hiến, kể cả hình thức chiêm niệm. Làm sao có thể khác được khi Đức Ki-tô được chiêm ngắm trong cầu nguyện cũng là chính Đấng đang sống và khổ đau nơi người nghèo ? Theo nghĩa đó thì lịch sử đời thánh hiến đầy những gương lạ lùng và đôi khi thần kỳ. Thánh Pau-li-nô Nô-la sau khi phân phát hết của cải cho người nghèo để có thể hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa, lại cho xây những phòng của đan viện mình ở trên một viện tế bần. Người lấy làm vui mừng khi nghĩ tới cuộc “trao đổi quà tặng” lạ lùng đó : những người nghèo được người cấp dưỡng lại củng cố, bằng những lời cầu nguyện, “nền móng” đan viện của người, một cộng đoàn chuyên lo ngợi khen Thiên Chúa (209). Thánh Vinh Sơn Phao-lô thì thích nói rằng khi buộc phải gián đoạn cầu nguyện để giúp một người nghèo trong cơn quẫn bách, thì thực ra ta không gián đoạn cầu nguyện bởi vì đó chỉ là “rời Thiên Chúa để gặp Thiên Chúa” (210).
Đối với đời thánh hiến, phục vụ người nghèo là một hành động truyền giảng Phúc Âm, và đồng thời đóng ấn trung tín với Tin Mừng và mời gọi hoán cải thường xuyên, bởi vì như thánh Ghê-gô-ri-ô Cả nói : “Lòng mến bay vút tới đỉnh cao khi sẵn sàng mở lòng nhân hậu để cho nỗi khốn cùng của người đồng loại kéo xuống, và càng trìu mến xuống sâu tới những người yếu hèn thì lại càng thêm sức để bay bổng lên cao” (211).
Chăm sóc các bệnh nhân
83. Dựa theo một truyền thống xán lạn, một số đông người tận hiến, nhất là nữ giới, đã làm việc tông đồ trong các cơ sở y tế, theo đoàn sủng riêng của tu hội. Theo dòng thời gian, nhiều người thánh hiến đã hy sinh mạng sống khi chăm sóc những người mắc bệnh truyền nhiễm, cho thấy việc hiến mình tới độ anh hùng nằm trong tính ngôn sứ của đời thánh hiến.
Giáo Hội nhìn, với lòng cảm phục và biết ơn, đông đảo những người tận hiến đang chăm sóc các bệnh nhân và những người đau khổ. Họ đóng góp vào sứ mạng của Giáo Hội một cách có ý nghĩa : họ kéo dài sứ vụ nhân lành của Đức Ki-tô, Đấng “đi tới đâu thì thi ân giáng phúc và chữa lành tới đó” (Cv 10,38). Theo bước chân của người Sa-ma-ri từ trời xuống, vị lương y của tâm hồn và thể xác (212), và theo gương các đấng sáng lập nam nữ, chớ gì những người tận hiến mà đoàn sủng tu hội hướng về tác vụ này, hãy bền đỗ trong chứng tá yêu thương đối với những người đau ốm, phục vụ họ với một lòng cảm thông sâu xa và chia sẻ nỗi đau khổ của họ. Chớ gì trong các chọn lựa của họ, chỗ ưu tiên được dành cho những bệnh nhân nghèo khổ và bị bỏ rơi nhất, như những người già cả, những kẻ tật nguyền, những người phải sống bên lề, những người bệnh chờ chết, những nạn nhân của ma tuý và những bệnh truyền nhiễm mới. Hãy giúp những người bệnh dâng nỗi đau khổ của mình, hiệp cùng Đức Ki-tô bị đóng đinh và được tôn vinh cho mọi người được cứu độ (213), hãy ý thức rằng họ là những chủ thể tích cực của mục vụ, nhờ đoàn sủng riêng của thập giá, khi họ cầu nguyện và làm chứng bằng lời nói và lối sống (214).
Ngoài ra, Giáo Hội nhắc nhở những người tận hiến rằng nhiệm vụ Phúc Âm hoá các môi trường y tế nơi họ làm việc cũng là sứ mạng của họ, bằng cách phổ biến các giá trị Phúc Âm, nhờ đó soi sáng cách sống, đau khổ và chết của con người thời đại chúng ta. Họ có bổn phận phải nhân đạo hoá y học và đào sâu ngành luân lý sinh học, nhằm phục vụ Tin Mừng sự sống. Tiên vàn họ hãy cổ võ cho mọi người tôn trọng con người và sự sống, từ lúc thụ thai cho tới lúc cuộc sống chấm dứt một cách tự nhiên, phù hợp với giáo huấn luân lý của Giáo Hội (215), bằng cách lập ra các trung tâm đào tạo (216) và bằng cách hợp tác huynh đệ với những tổ chức của Giáo Hội chuyên lo mục vụ y tế.
II. MỘT CHỨNG TÁ MANG TÍNH NGÔN SỨ TRƯỚC NHỮNG THÁCH ĐỐ LỚN
Tính ngôn sứ của đời thánh hiến
84. Các nghị phụ tại Thượng hội đồng đã nhấn mạnh nhiều đến tính ngôn sứ của đời thánh hiến, được trình bày như một cách tham gia đặc biệt vào chức vụ ngôn sứ của Đức Ki-tô mà Thánh Thần đã ban cho toàn thể Dân Thiên Chúa. Tính ngôn sứ đó gắn liền với đời thánh hiến, bởi lẽ nó thúc bách bước theo Chúa Ki-tô đến cùng, và được kêu mời dấn thân thi hành sứ mạng đặc thù của người tận hiến. Công Đồng Va-ti-ca-nô II công nhận đời tận hiến có phận sự làm dấu chỉ (217), chứng tá có tính ngôn sứ về vị thế tối thượng của Thiên Chúa và của những giá trị Tin Mừng trong đời sống Ki-tô hữu. Chính do vị thế trổi vượt đó, không có gì đáng kể hơn là mối tình dành riêng cho Đức Ki-tô và cho những người nghèo mà Đức Ki-tô đang sống trong họ (218).
Truyền thống giáo phụ đã nhìn nhận nơi ông Ê-li-a, vị ngôn sứ can trường và bạn hữu của Thiên Chúa, khuôn mặt của đời đan tu (219). Ông Ê-li-a sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Ông chiêm ngưỡng Thiên Chúa đi ngang qua trong thinh lặng. Ông chuyển cầu cho toàn dân và can đảm công bố thánh ý của Người. Ông đấu tranh cho quyền lợi của Thiên Chúa và đứng ra bảo vệ những người nghèo chống lại người quyền thế (x. R 18-19). Trong lịch sử Giáo Hội, bên cạnh những Ki-tô hữu khác, vẫn luôn có những người nam nữ tận hiến cho Thiên Chúa, nhờ đặc ân riêng của Thần Khí, thi hành tác vụ ngôn sứ chân chính, khi họ nhân danh Thiên Chúa để nói cho mọi người và cho cả những mục tử trong Giáo Hội nữa. Lời ngôn sứ chân chính đến từ nơi Thiên Chúa, nhờ sống trong tình thân với Thiên Chúa, chăm chú lắng nghe Lời Người trong những giai đoạn khác nhau của lịch sử. Ngôn sứ cảm thấy trong lòng mình sôi sục niềm đam mê đối với vẻ thánh thiện của Thiên Chúa, và sau khi đã đón nhận Lời Chúa trong đối thoại và cầu nguyện, ngôn sứ công bố lời đó bằng cuộc sống của mình, trên môi miệng và bằng hành động của mình ; họ trở thành phát ngôn viên của Thiên Chúa chống lại sự dữ và tội lỗi. Chứng tá ngôn sứ đòi hỏi phải liên lỉ và say sưa tìm ý Thiên Chúa, nhất thiết và quảng đại hiệp thông với Giáo Hội, thực hành biện phân thiêng liêng và yêu mến sự thật. Chứng tá ngôn sứ cũng được thể hiện khi biết tố giác những điều trái ngược với ý Thiên Chúa, và biết khai mở những con đường mới đem Tin Mừng vào lịch sử, cho Nước Thiên Chúa mau đến (220).
Tầm quan trọng của tính ngôn sứ trong thế giới hiện thời
85. Trong thế giới của chúng ta, những dấu vết của Thiên Chúa dường như bị xoá nhoà, nên người ta cảm thấy nhu cầu khẩn trương của một chứng tá ngôn sứ thật mãnh liệt từ phía những người thánh hiến. Tiên vàn chứng tá đó công bố vị thế tối thượng của Thiên Chúa và của những điều thiện hảo sắp tới, biểu lộ qua việc bước theo Đức Ki-tô – sequela Christi – và trở nên giống Đức Ki-tô trinh khiết, khó nghèo và vâng phục, hoàn toàn tận hiến cho vinh quang Chúa Cha và yêu thương anh chị em mình. Chính đời sống huynh đệ là một lời ngôn sứ sống động trong một xã hội khao khát sâu xa tình huynh đệ không biên giới, cho dù đôi khi người ta không nhận ra điều đó. Trung thành với đoàn sủng của mình, những người tận hiến dám làm chứng tá cách hiên ngang, không sợ phải hy sinh mạng sống.
Lời ngôn sứ có sức thuyết phục phi thường khi lời loan báo khớp với cách sống. Những người tận hiến sẽ trung thành với sứ mạng của họ trong Giáo Hội và trong thế giới nếu họ dám thường xuyên tự vấn canh tân dưới ánh sáng Lời Thiên Chúa (221). Nhờ đó, họ có thể chuyển đạt cho các tín hữu khác sự phong phú của các đoàn sủng mình đã lãnh nhận, đồng thời vẫn để cho những thành phần khác trong Giáo Hội có thể chất vấn họ với những lý chứng cũng mang tính ngôn sứ. Như vậy, cuộc trao đổi các ân sủng, được chứng thực nhờ hoà hợp hoàn toàn với huấn quyền và kỷ luật của Giáo Hội, sẽ biểu dương tỏ tường tác động của Thánh Thần “Đấng làm cho Giáo Hội hợp nhất trong hiệp thông và phục vụ, Đấng cung cấp cho Giáo Hội những ân huệ khác nhau, cả nơi hàng giáo phẩm lẫn nơi các đặc sủng, dẫn dắt Giáo Hội bằng những ân huệ đó” (222).
Trung thành cho đến chết
86. Trong thế kỷ này, cũng như nhiều thời đại khác trong lịch sử, nhiều người nam nữ tận hiến đã làm chứng cho Đức Ki-tô đến hy sinh mạng sống. Hàng ngàn người đã phải trốn tránh trong các hang toại đạo khi bị các chính quyền độc tài hoặc những nhóm khủng bố bách hại, họ đã bị sách nhiễu vì hoạt động truyền giáo, phục vụ người nghèo, săn sóc bệnh nhân và những người ngoài lề xã hội ; họ đã và đang phải trả giá cao để được sống đời thánh hiến, phải anh dũng chịu khổ cực lâu dài, nhiều khi phải đổ máu đào, như vậy họ được nên hoàn toàn đồng dạng với Chúa chịu đóng đinh. Hội Thánh đã chính thức tuyên dương sự thánh thiện của một số người tận hiến, tôn phong các ngài lên hàng chứng nhân tử đạo của Đức Ki-tô. Các ngài soi sáng chúng ta nhờ gương sáng, các ngài chuyển cầu cho chúng ta được trung kiên, các ngài chờ đợi chúng ta trong cõi vinh quang.
Nhiều người mong ước rằng việc tưởng nhớ bao chứng nhân đức tin sẽ luôn sống mãi trong ý thức của Hội Thánh như một lời mời gọi mừng kính và noi gương các ngài. Các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ có thể đáp lại ước mong đó bằng cách thu thập tên tuổi và chứng từ của tất cả những người tận hiến đáng được ghi vào danh sách các chứng nhân tử đạo của thế kỷ XX này (223).
Những thách đố lớn của đời thánh hiến
87. Sứ mạng ngôn sứ của đời thánh hiến phải đương đầu với ba thách đố quan trọng đặt ra cho chính Giáo Hội : những thách đố đó vốn đã cũ, nhưng xã hội đương thời lại tung ra dưới một dạng mới và có thể buộc người tận hiến xét lại triệt để, ít là tại một vài nơi trên thế giới. Những thách đố đó liên quan trực tiếp đến những lời khuyên Phúc Âm khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, và thúc đẩy Giáo Hội và, đặc biệt, những người tận hiến hãy làm nổi bật ý nghĩa nhân bản của những lời khuyên Phúc Âm và minh chứng điều đó. Thực vậy, việc chọn sống các lời khuyên đó, thay vì giảm thiểu những giá trị nhân bản chân chính, lại thăng tiến chúng nữa. Không nên coi các lời khuyên Phúc Âm như là sự phủ nhận những giá trị gắn liền với tính dục, với ước muốn chính đáng được sở hữu và được tự do định đoạt cho đời mình. Những xu hướng đó, trong mức độ chúng hợp với bản chất, đều tốt cả. Tuy nhiên, con người đã bị suy yếu bởi tội nguyên tổ nên có nguy cơ là chiều theo quá trớn các xu hướng đó đến nỗi vi phạm những quy tắc luân lý. Tuyên giữ khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là một cách cảnh cáo đừng coi nhẹ những chấn thương do nguyên tội gây ra ; đồng thời tuy vẫn khẳng định giá trị những điều tốt lành mà Chúa tạo dựng, nó lại tương đối hoá giá trị của những thụ tạo khi chứng tỏ rằng chỉ có Thiên Chúa mới là sự thiện tuyệt đối. Như thế, đang khi những người tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm đi tìm sự thánh thiện cho bản thân, thì họ như thể đề nghị một thứ “trị liệu thiêng liêng” cho nhân loại, bởi vì họ khước từ tôn thờ các loài thụ tạo và, một cách nào đó, họ làm cho Thiên Chúa hằng sống trở nên hữu hình. Đặc biệt trong những thời buổi khó khăn, cuộc sống thánh hiến là một phúc lành cho đời sống của nhân loại và của chính Hội Thánh.
Thách đố của khiết tịnh tận hiến
88. Thách đố đầu tiên đến từ một nền văn hoá hưởng thụ đang tháo gỡ mọi quy tắc đạo đức khách quan của tính dục, thường giản lược tính dục thành một thứ trò chơi và một món hàng tiêu thụ, cũng như tôn thờ bản năng tính dục với sự đồng loã của các phương tiện truyền thông xã hội. Ai cũng thấy được những hậu quả của tình trạng này : đủ mọi thứ vi phạm luân lý, kèm theo vô vàn đau khổ về mặt tâm lý và đạo đức cho nhiều cá nhân và nhiều gia đình. Lời đáp ứng của đời thánh hiến hệ tại trước tiên ở việc vui vẻ thực hành đức khiết tịnh hoàn hảo, như một chứng tá về quyền năng của tình yêu Thiên Chúa trong sự mỏng dòn của thân phận con người. Người tận hiến chứng nhận rằng điều mà đa số xem như không thể được lại trở nên có thể và thật sự mang lại tự do, nhờ ơn thánh của Chúa Giê-su. Đúng vậy, trong Đức Ki-tô, có thể yêu mến Thiên Chúa với hết cả con tim, đặt Người lên trên mọi mối tình, và yêu thương mọi thụ tạo với sự tự do của Thiên Chúa ! Đây là một trong những chứng tá cần thiết cho hôm nay hơn bao giờ hết, chính vì thế giới ít hiểu được điều này. Chứng tá này dành cho mọi người – cho giới trẻ, cho những người đính hôn, cho những đôi vợ chồng, cho các gia đình Ki-tô giáo – để minh chứng rằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa có thể thực hiện những điều phi thường ngay giữa những thăng trầm của tình thương loài người. Đây là một chứng từ cũng đáp ứng nhu cầu càng ngày càng tăng là thèm khát sự trong sáng trong mối tương quan giữa người với người.
Đời thánh hiến cần phải nêu lên cho thế giới ngày nay những gương sáng của những người nam và người nữ sống đức khiết tịnh mà vẫn quân bình, làm chủ được chính mình, có sáng kiến, trưởng thành tâm linh và tình cảm (224). Qua chứng tá đó, tình yêu nhân loại tìm được một điểm tựa vững chắc, mà con người thánh hiến phát hiện ra khi chiêm niệm tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa được Đức Ki-tô mạc khải cho chúng ta. Chính vì được nhận chìm trong mầu nhiệm đó, con người tận hiến có khả năng yêu mến triệt để và phổ quát, có sức mạnh để tự chủ và kỷ luật cần thiết để khỏi bị nô lệ giác quan và bản năng. Đức khiết tịnh tận hiến trở thành một kinh nghiệm về niềm vui và tự do. Được soi sáng bởi niềm tin vào Chúa phục sinh và niềm chờ mong trời mới đất mới (x. Kh 21,1), đức khiết tịnh tận hiến là một kích thích tố quý báu cho việc giáo dục khiết tịnh, cần cho các bậc sống khác nữa.
Thách đố của khó nghèo
89. Một thách đố khác đến từ một chủ nghĩa vật chất thèm khát chiếm hữu, dửng dưng với những nhu cầu và đau khổ của những người yếu đuối, cũng chẳng quan tâm gì đến việc làm quân bình những tài nguyên thiên nhiên. Lời đáp ứng của đời thánh hiến được tìm thấy trong sự khó nghèo theo Tin Mừng, sống dưới nhiều hình thức khác nhau, và thường đi đôi với một hoạt động dấn thân để phát huy tình liên đới và bác ái.
Biết bao tu hội đã chuyên lo việc giáo dục, huấn luyện và hướng nghiệp, đã giúp những người trẻ và những người có tuổi trở thành chủ động kiến tạo tương lai của họ ! Biết bao người tận hiến đã hy sinh mà không tính toán công sức của họ để phục vụ những người chịu thiệt thòi nhất trên đời này ! Biết bao người tận hiến đã ra sức đào tạo những nhà giáo dục tương lai và những người lãnh đạo tương lai trong đời sống xã hội, để những người ấy cố gắng loại trừ những cơ cấu đàn áp và phát huy những chương trình tương trợ hướng tới người nghèo ! Những người tận hiến đã đấu tranh chống lại nạn đói và những nguyên nhân gây ra nạn đói, họ linh hoạt những công tác thiện nguyện và những cơ quan nhân đạo, họ gây ý thức cho những tổ chức công và tư giúp phân phối cách thoả đáng những viện trợ quốc tế. Các dân tộc mang ơn họ nhiều, họ là những nhân viên bác ái đầy sáng tạo, có một lòng quảng đại không mệt mỏi, đã tham gia và còn đang làm cho thế giới này trở nên nhân đạo hơn.
Khó nghèo Phúc Âm để phục vụ người nghèo
90. Trong thực tế, trước khi nhắm phục vụ người nghèo, khó nghèo Phúc Âm tự nó đã là một giá trị rồi, bởi vì nhắc đến mối phúc đầu tiên theo gương Đức Ki-tô khó nghèo (225). Thật vậy, ý nghĩa tiên khởi của khó nghèo là làm chứng cho Thiên Chúa, kho tàng đích thực của trái tim con người. Đức khó nghèo phản đối quyết liệt việc tôn thờ Tiền Tài ; nó như thể một lời ngôn sứ vang lên cho xã hội tại nhiều nơi thuộc thế giới giàu sang đang có nguy cơ mất ý thức về mực thước và thậm chí về giá trị của sự vật nữa. Vì vậy mà ngày nay, hơn cả mọi thời đại khác, đức khó nghèo Phúc Âm thu hút chú ý của những người ý thức tài nguyên của hành tinh có giới hạn, đang đòi phải tôn trọng và bảo vệ công trình tạo dựng bằng cách giảm bớt tiêu thụ, biết sống thanh đạm và tự đặt cho mình bổn phận kìm hãm những ước muốn của mình.
Những người tận hiến được mời làm chứng cho Tin Mừng một cách mới mẻ và mạnh mẽ về sự từ bỏ và tiết độ, bằng một nếp sống huynh đệ với nét nổi bật là đơn sơ và hiếu khách, cũng như làm gương cho những người dửng dưng với nhu cầu của tha nhân. Chứng tá đó đương nhiên đi kèm theo một mối tình dành ưu tiên cho người nghèo, và tỏ ra một cách đặc biệt trong cách chia sẻ điều kiện sống của những người cùng khốn nhất. Biết bao cộng đoàn hiện đang sống và làm việc ở giữa người nghèo và người ngoài lề xã hội, chấp nhận những điều kiện sống của họ và chia sẻ nỗi đau khổ, các khó khăn và hiểm nguy của họ.
Những người tận hiến đã viết lên bao trang sử diệu kỳ về sự liên đới Phúc Âm và anh dũng xả thân, vào những năm đầy những biến đổi sâu đậm và những bất công lớn, những hy vọng lẫn những thất vọng, những chinh phục đáng kể và những thất bại ê chề. Còn những trang sử khác cũng không kém ý nghĩa đã và còn đang được ghi lại bởi vô số những người tận hiến khác, đang sống phong phú một cuộc đời “tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3) để thế giới được cứu độ, mà không cầu lợi lộc nào, vẫn suốt đời dấn thân vì chính nghĩa mà ít ai biết đến và rất ít ai nhận ra giá trị. Dưới những hình thức khác biệt và bổ túc cho nhau, đời thánh hiến san sẻ sự nghèo khó cùng cực mà Chúa đã chấp nhận. Đời thánh hiến chu toàn một vai trò đặc thù trong mầu nhiệm cứu độ của cuộc nhập thể và thương khó cứu chuộc của Đức Ki-tô (226).
Thách đố của tự do trong vâng phục
91. Thách đố thứ ba phát sinh từ những quan niệm về tự do, muốn tách rời đặc trưng cơ bản nhất của con người ra khỏi tương quan với chân lý và quy tắc luân lý (227). Thật ra, đề cao tự do quả là một giá trị chân chính, gắn liền với sự tôn trọng con người. Nhưng ai lại không thấy những bất công trầm trọng và cả những bạo hành khủng khiếp do việc sử dụng lệch lạc quyền tự do trong đời sống cá nhân và các dân tộc ?
Đức vâng phục đặc thù của đời thánh hiến là một lời đáp ứng hữu hiệu cho tình trạng trên. Đức vâng phục tu trì giới thiệu một cách thật hùng hồn việc Đức Ki-tô vâng phục Chúa Cha như một gương mẫu điển hình, và khởi đi từ mầu nhiệm Đức Ki-tô, đức vâng phục tu trì minh chứng rằng vâng phục và tự do không mâu thuẫn với nhau. Thật vậy, thái độ của Chúa Con biểu lộ cho thấy mầu nhiệm tự do của con người là một con đường vâng phục ý Chúa Cha, và mầu nhiệm vâng phục là một con đường để dần dần chinh phục sự tự do chân chính. Người tận hiến muốn diễn tả mầu nhiệm đó qua lời khấn tuân phục. Như thế người tận hiến muốn cho thấy họ ý thức mối tương quan nghĩa tử, từ đó họ đón nhận ý Chúa Cha làm lương thực hằng ngày (x. Ga 4,34), làm đá tảng vững chắc, làm niềm vui, làm thuẫn đỡ, và nơi trú ẩn cho họ (x. Tv 18 (17),3). Người tận hiến cho thấy họ lớn lên trong chân lý toàn diện về con người của họ, họ được gắn liền với nguồn mạch hiện hữu của họ và công bố sứ điệp đầy an ủi này : “Kẻ yêu luật Chúa hưởng an bình thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào” (Tv 119 (118),165).
Cùng nhau thực hiện thánh ý Chúa Cha
92. Chứng tá của những người tận hiến mang một ý nghĩa đặc biệt, vì chiều kích cộng đoàn là nét đặc thù của đời tu. Đời sống huynh đệ là chỗ tốt nhất để nhận định và đón nhận ý Thiên Chúa, để cùng nhau tiến bước một lòng một trí với nhau. Nhờ đức ái truyền thêm sinh khí, đức vâng phục liên kết những thành viên của một tu hội vào cùng một chứng tá và cùng một sứ mạng, tuy vẫn tôn trọng những hồng ân khác biệt và cá tính mỗi người. Trong đời sống huynh đệ được Thánh Thần linh hoạt, mỗi người trân trọng đối thoại với các người khác để tìm ra ý Chúa Cha. Đồng thời tất cả mọi người đều nhận ra nơi người phụ trách hiện thân tình phụ tử của Thiên Chúa, và quyền bính Thiên Chúa trao ban là để dùng vào việc biện phân và hiệp thông (228).
Trong Giáo Hội và trong xã hội, đời sống cộng đoàn còn là một dấu chỉ đặc biệt của mối dây liên kết bắt nguồn từ cùng một tiếng gọi và ý định muốn tuân theo tiếng gọi ấy, cho dù có khác chủng tộc, gốc gác, ngôn ngữ hay văn hoá. Trái ngược lại với tinh thần bất thuận và chia rẽ, quyền bính và vâng phục trở thành một dấu chỉ sáng ngời của tình phụ tử duy nhất đến từ Thiên Chúa, của tình huynh đệ phát xuất từ Thánh Thần, của tự do nội tâm nơi những con người đã phó thác cho Thiên Chúa, bất chấp những giới hạn của những con người đại diện Thiên Chúa. Một số người chấp nhận vâng phục làm luật sống, nhờ đó họ kinh nghiệm được mối phúc Đức Giê-su hứa cho những “kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28), và họ công bố điều đó vì lợi ích của mọi người. Hơn nữa, ai vâng phục thì được bảo đảm là mình đang thi hành sứ mạng, bước theo Chúa chứ không phải là theo ước muốn hay theo cảm hứng riêng của mình. Như thế, họ có thể biết rằng mình được Thánh Thần Thiên Chúa dẫn đưa và được bàn tay dũng mãnh của Người nâng đỡ, ngay giữa lúc gặp những khó khăn gian khổ (x. Cv 20,22-24).
Cương quyết dấn mình vào đời sống tâm linh
93. Một trong những ưu tư đã được Thượng hội đồng nhắc tới nhiều lần, đó là đời thánh hiến cần được nuôi dưỡng tại nguồn cội đời sống tâm linh vững chắc và sâu xa. Thật ra, đây là yêu sách hàng đầu nằm trong bản chất của đời thánh hiến ; bởi vì cũng như mọi Ki-tô hữu khác, và thậm chí còn hơn thế nữa, ai đã tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm có nghĩa vụ phải dồn hết sức lực hướng về sự trọn lành của đức ái (229). Nghĩa vụ này được đề cao xán lạn qua gương sáng của vô vàn các thánh lập dòng và của đông đảo những người tận hiến đã trung thành làm chứng cho Đức Ki-tô cho đến chết.
Hướng về sự thánh thiện, đó là bản tóm kết chương trình mọi cuộc đời thánh hiến, cách riêng trong viễn tượng canh tân trước thềm thiên niên kỷ thứ ba. Khởi điểm của chương trình này là sự kiện phải bỏ tất cả để theo Đức Ki-tô (x. Mt 4,18-22 ; 19,21-27 ; Lc 5,11), không lấy gì làm hơn Đức Ki-tô, để có thể thông phần trọn vẹn vào mầu nhiệm Vượt Qua.
Thánh Phao-lô đã hiểu đúng điều đó khi công bố : “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi […] được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh” (Pl 3,8.10). Đây là con đường mà các Tông Đồ đã mở ra ngay từ đầu, theo như truyền thống Ki-tô hữu ở Đông Phương và Tây Phương để lại : “Ngày nay những người theo Đức Giê-su từ bỏ tất cả vì Người làm cho người ta nhớ đến các tông đồ xưa kia cũng đáp lại lời Chúa gọi, đã bỏ mọi sự mà đi theo Người. Cũng theo truyền thống đó, đời tu được gọi là một hình thức sống đời tông đồ, apostolica vivendi forma” (230). Truyền thống đó đã nêu bật trong đời tận hiến khía cạnh giao ước duy nhất với Thiên Chúa, và cả khía cạnh hôn ước với Đức Ki-tô nữa, điều mà thánh Phao-lô rao giảng bằng gương sáng (x. 1 Cr 7,7) bằng lời giảng, nhờ được Thần Khí soi sáng (x. 1 Cr 7,40).
Chúng ta có thể nói rằng đời sống tâm linh, được hiểu như là sống với Đức Ki-tô và do Thánh Linh hướng dẫn, là một cuộc hành trình mỗi ngày một trung tín hơn, trong đó người tận hiến được Thánh Thần soi dẫn và biến đổi trở thành Đức Ki-tô, trọn niềm hiệp thông trong tình yêu và phục vụ trong Giáo Hội.
Tất cả những yếu tố vừa nói, được hội nhập vào trong những hình thức khác nhau của đời thánh hiến, kết thành một linh đạo đặc thù, nghĩa là một dự phóng cụ thể sống tương quan với Thiên Chúa và với môi trường chung quanh, với những nét nhấn về mặt tinh thần hay về hình thức hoạt động tông đồ, do đó mà một khía cạnh này hay khía cạnh khác trong mầu nhiệm duy nhất của Đức Ki-tô được biểu dương hay hoạ lại. Khi công nhận một hình thức đời thánh hiến hay một tu hội, Giáo Hội công bố rằng trong đoàn sủng thiêng liêng và tông đồ đã hội đủ những điều kiện khách quan để đạt tới sự toàn hảo theo Tin Mừng cho mỗi người và cho cộng đoàn.
Đời sống tâm linh phải được đặt lên hàng đầu trong chương trình của mọi gia đình tận hiến, ngõ hầu mọi tu hội và mọi cộng đoàn trở thành những trường học về linh đạo Phúc Âm chân chính. Từ việc lựa chọn ưu tiên đó mà mỗi người và mỗi cộng đoàn cương quyết sống, phát sinh một đời sống tông đồ phong phú, một mối tình quảng đại dành cho người nghèo, và khả năng khai sinh những ơn gọi mới trong thế hệ trẻ. Chính phẩm chất thiêng liêng của đời thánh hiến mới lay chuyển được những con người thời đại này đang khao khát những giá trị tuyệt đối và trở thành một lời chứng hấp dẫn.
Lắng nghe Lời Thiên Chúa
94. Lời Thiên Chúa là nguồn mạch đầu tiên của mọi linh đạo Ki-tô giáo. Lời Chúa nuôi dưỡng tương quan thân tình với Thiên Chúa hằng sống, với ý định cứu chuộc và thánh hoá của Người. Vì thế mà ngay từ buổi khai nguyên của các hội đoàn tận hiến, và đặc biệt trong các đan viện, việc suy gẫm Sách Thánh – lectio divina – đã được quý trọng. Nhờ đọc Sách Thánh mà Lời Thiên Chúa thấm vào cuộc sống, chiếu dọi ánh sáng của sự khôn ngoan, hồng ân của Thánh Thần. Đành rằng trọn Kinh Thánh đều “có ích cho việc giảng dạy” (2 Tm 3,16). là nguồn mạch thanh khiết và không bao giờ cạn cho đời sống tâm linh” (231), nhưng các bản văn Tân Ước đáng được tôn trọng đặc biệt, nhất là các sách Tin Mừng, “trái tim của toàn bộ Sách Thánh” (232). Những người tận hiến nên chăm chú suy niệm chính bản văn Tin Mừng và các bản văn Tân Ước khác, vì chúng diễn đạt lời nói và gương sáng của Chúa Ki-tô và Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, đồng thời cũng cho thấy hình thức sống đời tông đồ. Các đấng lập dòng luôn luôn quy chiếu vào đó để đáp trả tiếng gọi và để biện phân đoàn sủng cũng như sứ mạng của tu hội.
Việc chung nhau suy niệm Lời Chúa trong Kinh Thánh có một giá trị lớn. Tuỳ theo khả năng và hoàn cảnh của mỗi cộng đoàn, khi suy niệm Lời Thiên Chúa chung với nhau, các anh chị em vui sướng chia sẻ cho nhau những kho tàng kín múc từ Lời Thiên Chúa, nhờ đó họ cùng tiến lên và giúp nhau bước đi trong đời sống tâm linh. Cũng nên chia sẻ việc chung nhau suy niệm Lời Chúa cho những thành phần khác trong Dân Thiên Chúa, linh mục cũng như giáo dân. Điều này đưa tới việc thiết lập, tuỳ theo cách thức hợp với đoàn sủng, những trường dạy cầu nguyện, dạy linh đạo, và cách đọc và suy niệm Lời Chúa, trong đó “Thiên Chúa ngỏ lời với loài người như với bạn hữu” (x. Xh 33,11 ; Ga 15,14-15), đối thoại với họ (Br 3,88) để mời gọi và đón nhận họ hiệp thông với Người (233).
Suy niệm Lời Thiên Chúa và đặc biệt suy niệm các mầu nhiệm Đức Ki-tô, như truyền thống chỉ dạy chúng ta, dẫn tới chiêm niệm sâu thẳm và nhiệt tâm hoạt động tông đồ. Trong đời đan tu cũng như trong đời hoạt tu, luôn luôn những người nào biết cầu nguyện mới làm được những công việc lớn, bởi vì họ biết nhận ra đúng ý Thiên Chúa và đem ra thực hành. Nhờ năng tiếp xúc với Lời Thiên Chúa, họ được soi sáng để biện phân cho chính bản thân và cho cộng đoàn, để tìm ra đường lối của Chúa trong các dấu chỉ của thời đại. Nhờ có một thứ bản năng siêu nhiên, họ không rập theo não trạng thế tục, mà đổi mới tâm thần để “nhận ra đâu là ý Thiên Chúa : cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Thiên Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).
Hiệp thông với Đức Ki-tô
95. Để thực sự hiệp thông với Chúa, phụng vụ thánh hẳn là một phương tiện chính yếu, đặc biệt là việc cử hành Thánh lễ và Các giờ kinh phụng vụ. “Thật vậy, việc cử hành Thánh Thể chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội, đó chính là Đức Ki-tô, lễ Vượt Qua của chúng ta, Người là Bánh hằng sống, ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, Thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta được sống” (234). Bí tích Thánh Thể là tâm điểm của đời sống Giáo Hội và cũng là tâm điểm của đời sống thánh hiến. Khi tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm, làm sao một người đã được kêu mời chọn Đức Ki-tô là Đấng duy nhất có thể đem lại ý nghĩa cho cuộc đời mình, lại không ao ước hiệp thông sâu xa với Người, nhờ tham gia mỗi ngày vào bí tích làm cho Người hiện diện, vào hy lễ làm cho tình yêu dâng hiến của Người trên đồi Gôn-gô-tha tái diễn, vào bữa tiệc nuôi dưỡng và nâng đỡ Dân Thiên Chúa suốt cuộc lữ hành ? Do tự bản chất, bí tích Thánh Thể là trung tâm đời sống thánh hiến của mỗi người và mỗi cộng đoàn. Đó là của ăn đường mỗi ngày và nguồn mạch linh đạo cho những cá nhân và các tu hội. Trong bí tích Thánh Thể, mỗi người tận hiến được mời gọi sống mầu nhiệm vượt qua của Đức Ki-tô, hợp nhất với Người trong cuộc hiến dâng mạng sống lên cho Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chuyên cần chiêm ngắm lâu dài Đức Ki-tô hiện diện trong Thánh Thể cho chúng ta được sống phần nào kinh nghiệm của thánh Phê-rô trong cuộc Biến Hình : “Chúng con ở đây thật là đẹp”. Và việc cử hành mầu nhiệm Mình và Máu Chúa củng cố và phát triển sự hiệp nhất và tình yêu thương của những người đã dâng hiến cho Thiên Chúa trót cả cuộc đời.
Cùng với bí tích Thánh Thể, và nối kết chặt chẽ với bí tích này, Các giờ kinh phụng vụ được cử hành hoặc chung hoặc riêng tuỳ bản chất của mỗi tu hội, trong sự hiệp thông vào lời cầu nguyện của Giáo Hội, diễn tả ơn gọi ca ngợi và chuyển cầu là đặc trưng của những người tận hiến.
Bí tích Thánh Thể cũng liên hệ chặt chẽ với quyết tâm hoán cải liên lỉ và nhu cầu được thanh luyện : đó là điều mà những người tận hiến thi hành trong bí tích Hoà Giải. Nhờ thường xuyên gặp gỡ Thiên Chúa khoan dung, những người tận hiến thanh tẩy và canh tân tâm trí và, nhờ khiêm tốn ý thức tội lỗi của mình, những tương quan của họ với Thiên Chúa trở nên trong sáng hơn : trên con đường cùng đi với anh chị em mình, kinh nghiệm hạnh phúc được tha thứ trong bí tích, khiến lòng họ trở nên ngoan ngoãn hơn và thúc giục họ tiến hơn trong lòng trung tín.
Để tiến trên con đường Tin Mừng, đặc biệt trong thời gian huấn luyện hay trong vài giai đoạn của cuộc sống, người ta được nâng đỡ nhiều, khi tin tưởng và khiêm tốn tìm đến việc linh hướng, nhờ đó con người được nâng đỡ để quảng đại đáp trả những thôi thúc của Thánh Thần và quyết tâm đạt tới sự thánh thiện.
Cuối cùng, tôi khích lệ mọi người tận hiến tuỳ theo truyền thống riêng của mình, hằng ngày hãy đổi mới việc kết hợp thiêng liêng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, khi cùng với Mẹ ôn lại những mầu nhiệm của Con Mẹ, đặc biệt nhờ việc lần chuỗi Mân Côi.
III. VÀI LÃNH VỰC TRUYỀN GIÁO
Hiện diện trong môi trường giáo dục
96. Giáo Hội vẫn luôn luôn xác tín rằng giáo dục là một yếu tố chính yếu trong sứ mạng của Giáo Hội. Thầy nội tâm là Chúa Thánh Thần, Đấng dò thấu những nơi thẳm sâu không thể đạt tới nhất trong lòng người, cũng là Đấng thấu suốt chuyển động thầm kín của lịch sử. Toàn thể Giáo Hội được Thánh Thần linh hoạt và cùng với Người chu toàn sứ vụ giáo dục.
Tuy vậy, trong lòng Giáo Hội, những người tận hiến giữ một vai trò đặc biệt, vì được mời đem vào môi trường giáo dục chứng tá triệt để về những của cải Nước Trời, được đề nghị cho hết mọi người trong khi chờ đợi gặp gỡ vĩnh viễn vị Chủ Tể của lịch sử. Nhờ ơn thánh hiến đặc biệt, nhờ kinh nghiệm đặc biệt về những ân huệ của Thánh Thần, nhờ việc chuyên cần lắng nghe Lời Chúa và thực hiện biện phân thiêng liêng, nhờ hưởng gia tài phong phú của những truyền thống giáo dục mà tu hội đã tích luỹ được với thời gian, nhờ hiểu biết uyên thâm về những chân lý thiêng liêng (x. Ep 1,17), những người tận hiến có khả năng tiến hành một công trình giáo dục đặc biệt hữu hiệu, đóng góp một cách chuyên biệt vào công trình mà những nhà giáo dục khác đã thực hiện.
Được trang bị vững chắc nhờ đoàn sủng như vậy, những người tận hiến có thể tạo ra những cơ cấu giáo dục thấm nhuần tinh thần tự do và bác ái Phúc Âm, nơi đây các thanh thiếu niên trẻ được giúp trưởng thành về mặt nhân bản dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần (235). Cộng đoàn giáo dục được trở thành một kinh nghiệm hiệp thông và một lãnh vực cho ân sủng, nơi đây dự phóng sư phạm liên kết hài hoà tôn giáo với nhân bản, Tin Mừng với văn hoá, đức tin với cuộc sống.
Lịch sử Giáo Hội xưa nay đầy dẫy những gương sáng tuyệt vời của những người tận hiến đã sống và đã nên thánh qua việc dấn thân vào công việc dạy dỗ, nêu lên sự thánh thiện như một mục tiêu của việc giáo dục. Thật vậy, rất nhiều vị đã đạt tới đức mến hoàn hảo qua công tác giáo dục. Đó là một trong những tặng phẩm quý hoá nhất mà những con người tận hiến có thể trao cho giới trẻ ngày nay, qua tác vụ giáo dục đầy yêu thương, theo như lời nhắn nhủ khôn ngoan của thánh Gio-an Bốt-cô : “Làm sao cho những người trẻ không những được yêu thương mà còn cảm nghiệm là họ được yêu thương” (236).
Cần phải canh tân việc dấn thân trong lãnh vực giáo dục
97. Với thái độ vừa nhạy cảm tinh tế lại vừa táo bạo truyền giáo, những người tận hiến cần minh chứng rằng niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô soi sáng lãnh vực giáo dục, không những không coi nhẹ những giá trị nhân bản mà còn củng cố và thăng tiến chúng nữa. Những người tận hiến trở thành chứng nhân và khí cụ biểu dương quyền năng của Nhập Thể và sức mạnh của Thánh Thần. Hoạt động này là một trong những cách biểu hiện có ý nghĩa nhất tình mẫu tử mà Giáo Hội dành cho mọi con cái, theo gương Đức Ma-ri-a (237).
Vì vậy mà Thượng hội đồng khẩn khoản khuyến khích những người tận hiến hãy quyết tâm trở về với sứ mạng giáo dục, ở những nơi nào còn có thể làm được, trong những loại trường khác nhau, cho nhiều cấp lớp, các trường đại học và các viện cao học (238). Tôi hoàn toàn tán đồng chỉ thị của Thượng hội đồng, và tôi tha thiết khuyên những thành viên các tu hội có ơn gọi giáo dục, hãy trung thành với đoàn sủng tiên khởi và những truyền thống của họ, hãy ý thức rằng tình yêu dành ưu tiên cho người nghèo cũng được thể hiện cách riêng khi chọn lựa những phương tiện đặc biệt nhằm giải phóng con người khỏi hình thức tồi tệ của cảnh bần cùng, tức là thiếu đào tạo về văn hoá và tôn giáo.
Xét vì các đại học và phân khoa Công Giáo và Giáo Hội có một tầm quan trọng lớn trong lãnh vực giáo dục và loan báo Tin Mừng, nên các tu hội phụ trách các cơ sở đó phải ý thức trách nhiệm của mình, và phải làm sao cho các cơ chế đó, ngay trong cuộc đối thoại sôi nổi với nền văn hoá hiện đại, vẫn giữ được nét Công Giáo đặc thù, vẫn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh (239). Hơn nữa, tuỳ theo hoàn cảnh, những thành viên của các dòng tu và của các tu đoàn cũng phải sẵn sàng gia nhập vào những cơ cấu giáo dục của Nhà Nước. Những thành viên của các tu hội đời, vì ơn gọi chuyên biệt của họ, được đặc biệt mời tham gia vào những cơ cấu đó.
Phúc Âm hoá nền văn hoá
98. Các hội dòng tận hiến luôn có ảnh hưởng lớn trong việc hình thành và truyền đạt nền văn hoá. Vào thời Trung Cổ, các đan viện đã trở thành nơi tích trữ kho tàng văn hoá của quá khứ, và nơi phát triển nền văn hoá nhân bản và Ki-tô giáo. Điều này vẫn tái diễn mỗi khi ánh sáng Tin Mừng lan đến những dân tộc mới. Biết bao người tận hiến đã góp phần phát triển nền văn hoá, họ đã nghiên cứu và bảo vệ những nền văn hoá bản xứ. Ngày nay trong Giáo Hội, người ta đặc biệt cảm thấy nhu cầu tham gia vào việc thăng tiến các nền văn hoá, mở rộng cuộc đối thoại giữa văn hoá và đức tin.
Hẳn là những người tận hiến cảm thấy bị thôi thúc trước nhu cầu đó. Để loan báo Lời Thiên Chúa, những người tận hiến cũng được mời chọn những phương pháp thích hợp nhất với nhu cầu của các nhóm và của các môi trường nghiệp vụ khác nhau, ngõ hầu ánh sáng của Đức Ki-tô lọt được vào mọi lãnh vực đời sống con người và những mầm mống cứu độ biến đổi từ bên trong đời sống xã hội, phát huy sự hình thành một nền văn hoá thấm nhuần các giá trị Tin Mừng (240). Trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ Ki-tô giáo thứ ba, đời thánh hiến cũng có thể dấn thân canh tân cách thực hiện ý Thiên Chúa, Đấng đến gặp gỡ hết mọi người đang dò dẫm đi tìm chân lý và sự sống (x. Cv 17,27), dù cách có ý thức hay vô thức.
Dù sao, ngoài việc giúp đỡ tha nhân, chính ngay trong đời sống thánh hiến cũng có nhu cầu canh tân sự miệt mài với sinh hoạt trí thức, bởi vì sự chuyên cần học tập là một phương thức giáo dục toàn diện con người và là một con đường khổ chế rất hiện đại, nhất là phải đối diện với những nền văn hoá đa dạng khác. Sự lơ là học tập có thể có những hậu quả trầm trọng ngay cả trên hoạt động tông đồ, đưa tới mặc cảm bị gạt ra lề và tự ti, hoặc đưa tới những sáng kiến nông cạn và hời hợt.
Dù vẫn tôn trọng tính đa dạng của các đoàn sủng và những khả năng thực thụ của các tu hội, sự quan tâm dành cho việc học tập không chỉ thu hẹp vào việc huấn luyện khởi đầu hay lãnh được những bằng cấp chuyên khoa và chuyên nghiệp. Quan tâm học hỏi biểu lộ lòng ao ước không bao giờ thoả, muốn hiểu biết sâu xa hơn nữa về Thiên Chúa, Đấng là ánh sáng thẳm sâu và là nguồn mạch mọi chân lý về con người. Quan tâm học hỏi không chỉ giản lược vào việc thu thập một mớ kiến thức trừu tượng, không được khép kín người tận hiến trong một vòng đai tự mãn ngột ngạt ; trái lại, quan tâm học hỏi cổ võ đối thoại và chia sẻ, phát huy óc phán đoán, thúc đẩy chiêm niệm và cầu nguyện, luôn luôn tìm kiếm Thiên Chúa và nhận ra hoạt động của Người ngay giữa thực tại phức tạp của thế giới đương thời.
Nhờ để cho Chúa Thánh Thần biến đổi, người tận hiến có khả năng nới rộng chân trời những ước muốn phàm trần hẹp hòi, và đồng thời cũng nắm bắt được những chiều sâu thẳm nơi mỗi cá nhân và nơi lịch sử, biết lướt qua những hình thức bên ngoài thường chỉ có nghĩa thứ yếu. Rất nhiều thách đố mọc lên trong những nền văn hoá khác nhau : vì vậy, cần phải duy trì sự trao đổi phong phú với những môi trường mới nẩy sinh, hay với những truyền thống quá quen thuộc của đời tận hiến, nhờ một óc phán đoán sắc sảo, tuy vẫn biết tin tưởng những người phải đối đầu với những khó khăn của công cuộc nghiên cứu trí thức, nhất là những lúc phải cố gắng phân tích và tổng hợp những vấn đề mới xuất hiện vào thời đại này (241). Người ta không thể loan báo Tin Mừng một cách nghiêm túc và đáng giá cho những môi trường mới hình thành và lưu truyền một nền văn hoá mới, nếu không có sự hợp tác tích cực của những giáo dân đang dấn thân trong những môi trường đó.
Hiện diện trong lãnh vực truyền thông xã hội
99. Trong quá khứ, những người tận hiến đã biết đem mọi phương tiện có trong tay phục vụ việc loan báo Tin Mừng, đã biết khôn khéo ứng phó với những trở ngại, thì ngày nay, những người tận hiến cũng phải làm chứng cho Tin Mừng với những phương tiện truyền thông xã hội tân tiến. Nhờ những tiến bộ kỹ thuật đại tài, các phương tiện truyền thông có khả năng đạt tới tận những vùng xa xôi nhất trên mặt đất. Những người tận hiến, nhất là thuộc các tu hội có đặc sủng hoạt động trong lãnh vực này, lại càng phải đào luyện để hiểu biết vững vàng về ngôn ngữ đặc thù của các phương tiện truyền thông, để nói về Đức Ki-tô cách thuyết phục cho con người ngày nay, để diễn tả được “niềm vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay” (242) và để góp phần xây dựng một thế giới trong đó mọi người đều cảm nhận được họ là anh chị em với nhau, cùng đi trên con đường tiến đến Thiên Chúa.
Tuy vậy, cũng vẫn phải đề cao cảnh giác trước sự sử dụng lệch lạc những phương tiện truyền thông, nhất là vì khả năng thu hút phi thường. Không nên che dấu những vấn đề chúng đặt ra cho chính đời thánh hiến : thà nhìn thẳng vào vấn đề với óc phán đoán sáng suốt còn hơn (243). Lời giải đáp của Giáo Hội tiên vàn mang tính giáo dục : nó muốn giúp thấu đạt những lý luận ẩn tàng, và biết lượng giá tính chất luân lý của các chương trình, đồng thời cũng tạo cơ hội để luyện những tập quán tốt trong việc sử dụng chúng (244). Trong công tác giáo dục nhằm đào tạo những khán thính giả thành thạo và những chuyên viên về truyền thông, những người tận hiến được kêu mời làm chứng đặc biệt về tính cách tương đối của mọi thực tại thụ tạo. Nhờ vậy họ giúp anh chị em mình biết đánh giá các phương tiện truyền thông theo kế hoạch Thiên Chúa, và đồng thời không để cho mình bị ám ảnh bởi “bộ mặt thế gian này đang biến đi” (x. 1 Cr 7,31).
Phải khuyến khích mọi nỗ lực trong lãnh vực quan trọng và mới mẻ này để làm việc tông đồ, ngõ hầu Tin Mừng của Đức Ki-tô được loan báo bằng những phương tiện hiện đại. Các tu sĩ hãy sẵn sàng hợp tác bằng cách đầu tư sức lực, phương tiện và nhân sự, để thực hiện những dự án chung trong những lãnh vực khác nhau của truyền thông xã hội. Hơn nữa, những người tận hiến, và đặc biệt những thành viên của các tu hội đời, tuỳ theo nhu cầu mục vụ, nên nhiệt tình tham gia vào việc đào tạo về mặt tôn giáo cho những người phụ trách và nhân viên trong ngành truyền thông xã hội dù công hay tư. Nhờ vậy, sẽ vừa hạn chế được những tai hại do việc sử dụng lệch lạc những phương tiện truyền thông, vừa gia tăng phẩm chất các chương trình với nội dung biết tôn trọng luật lệ luân lý và giá trị nhân bản và Ki-tô giáo.
IV. DẤN THÂN ĐỐI THOẠI VỚI MỌI NGƯỜI
Phục vụ sự hiệp nhất các Ki-tô hữu
100. Lời cầu của Đức Ki-tô trước cuộc thương khó, xin Chúa Cha cho các môn đệ được hiệp nhất (x. Ga 17,21-23), được tiếp nối trong lời cầu nguyện và hoạt động của Giáo Hội. Làm sao những người được kêu mời sống đời thánh hiến lại không cảm thấy có liên can đến điều đó ? Vết thương từ sự chia rẽ giữa các Ki-tô hữu và nhu cầu khẩn trương phải cầu nguyện và hoạt động cho sự hiệp nhất hết mọi Ki-tô hữu là điều được cảm nhận sâu sắc tại Thượng hội đồng. Cảm quan đại kết của những người tận hiến được tăng thêm khi biết rằng trong những Giáo Hội khác và những cộng đoàn Giáo Hội, đời sống đan tu đã và còn phát triển mạnh mẽ, như tại các Giáo Hội Đông Phương, hay việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm được phục hồi, như trong Giáo Hội Anh Quốc hay tại những cộng đoàn Cải cách.
Thượng hội đồng đã nêu lên mối liên hệ sâu xa giữa đời thánh hiến với công trình đại kết và sự cần thiết có một chứng tá rõ rệt hơn trong lãnh vực này. Bởi vì linh hồn của đại kết là cầu nguyện và hoán cải (245), nên chắc hẳn các hội dòng tận hiến và những tu đoàn tông đồ có bổn phận đặc biệt phải vun trồng việc dấn thân này. Điều cấp thiết là những người tận hiến phải dành nhiều chỗ hơn trong cuộc sống cho lời cầu nguyện đại kết và cho chứng tá chân thật về Tin Mừng, nhờ vậy với sức mạnh Chúa Thánh Thần, những bức tường chia rẽ và những thành kiến giữa các Ki-tô hữu sẽ được hạ xuống.
Các hình thức đối thoại đại kết
101. Chia sẻ việc đọc và suy niệm lời Chúa – lectio divina – trên đường tìm chân lý, họp nhau cầu nguyện chung vì Chúa đã hứa hiện diện ở giữa những anh chị em họp lại với nhau (x. Mt 10,20), đối thoại trong tình thân hữu và bác ái giúp cảm nghiệm được anh em sống chung với nhau dịu ngọt dường nào (x. Tv 133 (132)), thân ái tiếp đón những anh chị em thuộc các hệ phái Ki-tô giáo, tìm hiểu và trao đổi ân huệ cho nhau, hợp tác trong những sáng kiến chung để phục vụ và để làm chứng : đó là một vài hình thức của việc đối thoại đại kết, đẹp lòng Cha chung, và là dấu chỉ của ý muốn cùng tiến tới sự hiệp nhất toàn hảo trên con đường dẫn đến chân lý và yêu thương (246). Đồng thời sự hiểu biết về lịch sử, về đạo lý, về phụng vụ, về công việc bác ái và tông đồ của các Ki-tô hữu khác chắc chắn sẽ giúp cho công cuộc đại kết ngày càng mang lại nhiều kết quả (247).
Tôi muốn khích lệ các tu hội, hoặc ngay từ nguyên thuỷ hoặc mới nhận được ơn gọi phát huy sự hiệp nhất Ki-tô hữu, tổ chức những chương trình học tập và hành động cụ thể trong chiều hướng đó. Thật ra thì không tu hội nào được cảm thấy mình được miễn hoạt động cho công trình đại kết. Hơn nữa tôi nghĩ đến Giáo Hội Công Giáo Đông Phương và mong rằng chính vì nơi đây đời đan tu nam nữ đang phát triển (đó là một hồng ân cứ phải khấn xin luôn mãi), mà các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương có thể đóng góp vào sự hiệp nhất với các Giáo Hội chính thống, nhờ đối thoại với lòng yêu thương, chia sẻ một linh đạo chung, di sản của Hội Thánh bất phân ly của thiên niên kỷ đầu tiên.
Tôi đặc biệt ký thác cho các đan viện chiêm niệm công trình đại kết thiêng liêng của cầu nguyện, của hoán cải trái tim, của tình bác ái. Nhằm mục đích này, tôi khích lệ họ hiện diện ở những nơi có nhiều cộng đoàn Ki-tô hữu có những danh xưng khác nhau, ngõ hầu việc họ hiến dâng trọn vẹn cho “một điều cần thiết duy nhất” (x. Lc 10,42) qua việc thờ phượng Thiên Chúa và chuyển cầu cho nhân loại được cứu độ, qua chứng tá đời sống Tin Mừng theo đoàn sủng riêng, họ thúc giục mọi người sống hiệp nhất theo hình ảnh Ba Ngôi Thiên Chúa, sự hiệp nhất mà Đức Giê-su đã muốn và đã cầu xin Chúa Cha cho tất cả môn đệ của Người.
Đối thoại giữa các tôn giáo
102. Chính vì “đối thoại liên tôn là một phần sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội” (248) mà các hội dòng tận hiến không thể không dấn thân trong lãnh vực này, mỗi tu hội theo đoàn sủng của mình và theo hướng dẫn của giáo quyền. Hình thức đầu tiên loan báo Tin Mừng cho các anh chị em thuộc tôn giáo khác là chứng tá đơn sơ của một đời sống khó nghèo, khiêm nhu và khiết tịnh, thấm nhuần tình yêu huynh đệ dành cho mọi người. Đồng thời, tinh thần tự do, đặc điểm của đời thánh hiến, sẽ hỗ trợ cho “cuộc đối thoại từ cuộc sống” (249), khuôn mẫu điển hình của việc truyền giáo và việc loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô. Để giúp hiểu nhau, tôn trọng lẫn nhau và yêu thương nhau hơn, các dòng tu có thể theo đuổi những hình thức đối thoại thích hợp, đượm tình thân ái và chân thành, với các đan sĩ của các tôn giáo khác.
Một lãnh vực khác nữa để cộng tác với những người thuộc những truyền thống tôn giáo khác nhau là sự cùng quan tâm đến đời sống con người, đi từ lòng thương cảm trước nỗi đau khổ của thân xác và linh hồn đến việc dấn thân vì công lý, hoà bình và bảo vệ môi sinh. Trong những lãnh vực này, các tu hội hoạt động sẽ tìm cách trao đổi với những thành viên các tôn giáo khác, qua “cuộc đối thoại của hoạt động” (250) mở đường cho một sự chia sẻ sâu xa hơn.
Việc phục hồi và thăng tiến phẩm giá người phụ nữ cũng là một lãnh vực đặc biệt để những người thuộc những truyền thống tôn giáo khác nhau có cơ hội chung nhau hoạt động. Để đạt tới cái nhìn bình đẳng và hỗ tương chính đáng giữa người nam và người nữ, những phụ nữ tận hiến có thể mang lại những đóng góp đáng giá (251).
Dù trong lãnh vực nào, những ai dấn thân vào cuộc đối thoại liên tôn phải được chuẩn bị thích hợp trong thời gian huấn luyện khởi đầu và thường huấn, cũng như trong việc học tập và nghiên cứu (252), vì đây là một lãnh vực khá phức tạp, đòi hỏi một sự hiểu biết sâu xa về Ki-tô giáo và các tôn giáo khác, đồng thời cũng cần có một niềm tin vững chắc và một sự trưởng thành về mặt thiêng liêng và nhân bản.
Một giải đáp tâm linh cho những ai tìm kiếm điều linh thiêng và những ai hoài niệm Thiên Chúa
103. Tất cả những ai đã ôm ấp đời sống thánh hiến thì, tự bản chất của lựa chọn đó, đều trở thành những tác nhân ưu tiên trong việc tìm kiếm Thiên Chúa, một điều mà lòng người từ bao đời vẫn khát khao và dẫn con người tới biết bao con đường khổ hạnh và tu đức. Ngày nay, tại nhiều nơi, việc tìm kiếm Thiên Chúa nổi lên như một lời giải đáp hùng hồn cho những nền văn hoá nào nếu chưa phủ định thì ít nhất cũng đã gạt chiều kích tôn giáo ra ngoài cuộc sống.
Khi sống kiên trung và trọn vẹn những điều đã tự do cam kết, những người tận hiến có thể đưa ra những lời giải đáp cho những chờ mong của con người đương thời, và tránh cho họ đi tìm những giải pháp hầu như hoang tưởng và thường phủ nhận sự Nhập Thể cứu chuộc của Đức Ki-tô (x. 1 Ga 4,2-3) như các giáo phái bày vẽ ra cho họ. Khi thực hành khổ chế cá nhân và cộng đoàn, giúp thanh luyện và biến đổi toàn thể cuộc sống, những người tận hiến làm chứng về những điều kiện để tìm Thiên Chúa một cách chân thực, ngược hẳn với cám dỗ chỉ tìm bản ngã và cảm khoái. Những người tận hiến cũng nhắc nhở đừng đồng hoá việc tìm Thiên Chúa với việc đi tìm chính mình hoặc trốn vào ý tưởng cao siêu. Mỗi người tận hiến phải hình thành con người nội tâm, không tìm thoát ra ngoài lịch sử và cũng không thu lại chính mình. Khi chăm chú lắng nghe và tuân theo Lời Chúa được Hội Thánh bảo vệ và giải thích, người tận hiến cho thấy nơi Đức Ki-tô mà họ yêu mến trên hết mọi sự, và nơi mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, điều mà lòng người mong ước sâu xa nhất đã được đáp ứng, và mọi cuộc hành trình tôn giáo chân thành hướng về cõi siêu việt đã tìm được đích điểm.
Vì vậy, những người tận hiến có bổn phận quảng đại đón tiếp và đồng hành thiêng liêng với những ai đến tìm họ, vì được thúc đẩy do lòng khao khát Thiên Chúa và ước ao sống những đòi hỏi của lòng tin (253).
KẾT LUẬN
Quảng đại cho đi không tính toán
104. Ngày nay có nhiều người thắc mắc tự hỏi : đời tận hiến có ý nghĩa gì ? Tại sao lại chọn đời sống đó đang khi có biết bao nhu cầu cấp bách trong lãnh vực bác ái và cả trong việc loan báo Tin Mừng nữa, có thể đáp ứng được mà không cần phải chấp nhận những cam kết đặc biệt của đời thánh hiến ? Đời thánh hiến lại chẳng phải là một cách “phung phí” những năng lực có thể sử dụng có hiệu năng cao hơn, có lợi hơn cho nhân loại và cho Giáo Hội đó sao ?
Những câu hỏi đó được đặt ra thường xuyên hơn ở thời đại chúng ta, do ảnh hưởng một nền văn hoá thực dụng và trọng kỹ thuật, chỉ muốn đánh giá tầm quan trọng của sự vật và cả con người nữa trong mức độ “hữu ích” tức thời. Nhưng những câu hỏi đó vẫn có từ lâu rồi, như trong đoạn văn nói về việc xức dầu tại Bê-ta-ni-a trong Tin Mừng : “Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm” (Ga 12,3). Khi Giu-đa cằn nhằn vì sự phung phí đó, lấy cớ là phải lo cho người nghèo, thì Đức Giê-su nói : “Hãy để cô ấy yên” (Ga 12,7).
Đó là câu trả lời luôn luôn có giá trị cho những ai đặt câu hỏi, cho dù là ngay tình, về ích lợi của đời tận hiến. Tại sao lại không thể dấn thân cách hữu hiệu và hợp lý hơn cho công cuộc cải tiến xã hội ? Và đây là câu trả lời của Chúa Giê-su : “Hãy để họ yên”.
Ai đã được ban hồng ân vô giá là theo Chúa Giê-su sát hơn tất nhiên hiểu rằng Người phải được yêu mến với một trái tim không chia sẻ, và mình phải dâng hiến cho Người tất cả cuộc sống chứ không phải chỉ vài cử chỉ, vài mảnh thời gian hay vài công việc. Xức dầu thơm quý giá là một hành động yêu thương nguyên tuyền, hoàn toàn ngoài mục đích cầu lợi, là dấu chỉ của sự quảng đại cho đi không tính toán ; điều này được diễn tả qua một cuộc sống dành riêng để yêu mến và phụng sự Chúa, dâng hiến cho chính Chúa và cho Nhiệm Thể của Người. Một cuộc sống “được cho đi” mà không tính toán khiến cho cả nhà sực mùi thơm. Ngày hôm nay, không thua kém gì ngày hôm qua, nhà Thiên Chúa là Giáo Hội vẫn được trang điểm và thêm phong phú nhờ sự hiện diện của đời thánh hiến.
Đối với người được thu hút trong thâm tâm cõi lòng bởi vẻ đẹp và lòng nhân hậu của Chúa, thì điều mà mắt người đời coi là phung phí lại là một cách đáp trả tất nhiên cho một mối tình, một niềm tri ân phấn khởi vì được chọn một cách đặc biệt để được biết Chúa Con và được chia sẻ sứ mạng của Người trong thế giới.
“Giả như một người con cái Thiên Chúa được biết và nếm tình yêu Thiên Chúa, Thiên Chúa tự hữu, Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa chịu thương khó, Thiên Chúa là sự thiện tối hậu, ắt là người đó sẽ hoàn toàn dâng trót mình cho Người, không những người đó rút ra khỏi mọi tạo vật khác, mà còn rút ra khỏi chính mình nữa, để yêu mến Thiên Chúa Tình Yêu với tất cả hữu thể của mình, để được biến đổi hoàn toàn trong Thiên-Chúa-làm-người, Đấng đáng được yêu mến trên hết mọi sự” (254).
Đời thánh hiến phục vụ Nước Thiên Chúa
105. “Thế giới sẽ ra sao nếu không có các tu sĩ ?” (255) Ngoài những cách đánh giá nông cạn về chức năng hữu ích cho đời, đời sống thánh hiến còn quan trọng chính bởi vì nó quảng đại cho đi không tính toán và với tình yêu, và điều này lại càng cần thiết ở giữa một thế giới có nguy cơ chết ngộp trong cơn lốc của cải phù du. “Không có dấu chỉ cụ thể đó, thì đức ái của toàn thể Giáo Hội có nguy cơ nguôi lạnh đi, nét nghịch lý của ơn cứu độ theo Tin Mừng không còn sắc bén, chất muối mặn của đức tin sẽ phai lạt trong một thế giới đang bị tục hoá” (256). Đời sống của Giáo Hội, và của cả xã hội nữa, đang cần những người dám dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và cho tha nhân vì lòng mến Thiên Chúa.
Giáo Hội không thể nào từ bỏ đời thánh hiến được, bởi vì nó biểu hiện cách hùng hồn bản chất “hiền thê” thâm sâu của Giáo Hội. Nhờ đời sống thánh hiến, mà việc loan báo Tin Mừng cho thế giới có thêm nhiệt tình và nghị lực. Đúng vậy, người ta cần đến những con người giới thiệu gương mặt người cha là Thiên Chúa và gương mặt người mẹ là Giáo Hội, những con người dám liều cuộc sống mình để cho người khác nhận được sự sống và niềm hy vọng. Trong Giáo Hội, cần có những con người được ơn Thiên Chúa biến đổi và được Phúc Âm hoá trọn vẹn, trước khi họ dấn thân phục vụ một lý tưởng cao đẹp này nọ.
Toàn thể Giáo Hội đã lãnh nhận hồng ân cao quý đó, và với lòng tri ân, Giáo Hội làm mọi cách để kính cẩn phát huy hồng ân đó, bằng lời cầu nguyện và bằng cách lớn tiếng mời gọi đón nhận ơn đó. Các giám mục, linh mục và phó tế, xác tín về sự cao cả Phúc Âm của đời thánh hiến, cần phải khám phá và nâng đỡ những mầm ơn gọi qua lời giáo huấn, bằng cách nhận định và bằng sự đồng hành thiêng liêng khôn ngoan. Tất cả các tín hữu được kêu mời không ngừng cầu nguyện cho những người tận hiến, để họ gia tăng lòng sốt sắng và khả năng yêu thương, và góp phần làm toả lan hương thơm Đức Ki-tô trong xã hội này (x. 2 Cr 2,15). Toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu – các mục tử, giáo dân và người tận hiến – đều có trách nhiệm về đời thánh hiến, về sự tiếp nhận và nâng đỡ những ơn gọi mới (257).
Với giới trẻ
106. Tôi nói với các bạn trẻ là : nếu các con nghe được tiếng Chúa gọi, thì đừng đẩy lui ! Hãy can đảm tham gia những trào lưu nên thánh mà các bậc đại thánh, nam và nữ, đã khơi dậy theo chân Đức Ki-tô. Hãy nuôi dưỡng nơi các con những khát vọng đặc biệt của tuổi trẻ, nhưng đừng trì hoãn thực hiện ý định của Thiên Chúa nếu Người mời gọi các con nên thánh trong đời thánh hiến. Hãy thán phục mọi kỳ công Thiên Chúa làm trong thế giới, nhưng hãy biết ngắm nhìn những thực tại không bao giờ qua đi.
Thiên niên kỷ thứ ba đang mong chờ sự đóng góp của lòng tin và óc sáng tạo của nhiều người trẻ tận hiến, để cho thế giới sống an bình hơn và có khả năng tiếp đón Thiên Chúa, và trong Thiên Chúa, biết tiếp đón mọi con cái của Người.
Với các gia đình
107. Tôi ngỏ lời với các gia đình Công Giáo. Hỡi các bậc cha mẹ, hãy tạ ơn Chúa nếu Người đã kêu gọi một người con của quý vị vào sống đời thánh hiến. Cũng như xưa, hãy cảm thấy vinh dự vì Thiên Chúa đã đoái nhìn một gia đình và chọn một thành viên để mời đi con đường các lời khuyên Phúc Âm. Hãy nuôi dưỡng ước mong dâng cho Chúa một người con của quý vị để tình yêu Thiên Chúa lớn lên trong thế giới. Còn hoa trái nào của tình yêu vợ chồng tốt đẹp hơn nữa không ?
Cũng nên nhắc lại rằng, nếu cha mẹ không sống những giá trị Tin Mừng, thì người thanh niên thiếu nữ rất khó nhận ra tiếng Thiên Chúa gọi, khó hiểu được là cần phải chấp nhận những hy sinh hoặc khó có thể thưởng thức vẻ đẹp của mục đích phải đạt tới. Vì chính trong gia đình mà những người trẻ lần đầu tiên kinh nghiệm được những giá trị Tin Mừng, tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Những người trẻ cần được huấn luyện để sử dụng tự do có trách nhiệm, để có thể sẵn sàng sống những giá trị thiêng liêng cao thượng, thể theo ơn gọi của họ.
Tôi cầu nguyện cho các gia đình Ki-tô giáo, nhờ kết hiệp với Chúa bằng cầu nguyện và năng đón nhận các bí tích, trở thành những trung tâm đón nhận các ơn gọi.
Với những người nam nữ thiện chí
108. Tôi muốn ngỏ lời với mọi người nam nữ thiện chí : xin hãy đi tìm những con đường dẫn đến Thiên Chúa hằng sống và chân thật, cách riêng là con đường do đời thánh hiến vạch ra. Những người tận hiến làm chứng rằng : “Ai theo Chúa Ki-tô, Con Người hoàn hảo, kẻ ấy sẽ được trở nên người hơn” (258). Biết bao người tận hiến đã và đang cúi mình săn sóc vô vàn vết thương của anh chị em gặp thấy trên đường đi của họ, tựa như những người Sa-ma-ri nhân hậu !
Hãy nhìn vào những con người đã được Đức Ki-tô chiếm đoạt. Bằng việc chế ngự bản thân nhờ ơn Chúa giúp và do lòng mến yêu Thiên Chúa, họ giới thiệu liều thuốc chữa lành lòng tham muốn chiếm đoạt, hưởng thụ, thống trị. Đừng quên những đặc sủng đã hình thành những con người tuyệt diệu “đi tìm Thiên Chúa” và những ân nhân của nhân loại, các vị đó mở những lối đi an toàn cho những ai đi tìm Thiên Chúa với lòng thành. Hãy xem con số đông đảo các vị thánh triển nở trong nếp sống đó, hãy nhận ra bao điều tốt lành những người tận hiến cho Thiên Chúa thực hiện được, trong quá khứ và trong hiện tại. Thế giới ngày nay chẳng cần những chứng nhân vui tươi, những ngôn sứ minh chứng quyền năng nhân lành của tình yêu Thiên Chúa hay sao ? Thế giới chẳng cần những người nam nữ biết gieo mầm mống hoà bình và huynh đệ bằng cuộc sống và hoạt động của họ hay sao ? (259)
Với những người tận hiến
109. Ở cuối tông huấn này, tôi tin tưởng ngỏ lời cách riêng với những người nam nữ tận hiến: Các con hãy sống trọn cuộc hiến dâng cho Thiên Chúa, để cho thế giới này đừng mất đi một tia sáng chiếu ngời vẻ đẹp của Thiên Chúa trên đường đời của nhân loại. Những Ki-tô hữu, chìm ngập trong những bận rộn và lo âu của thế gian này nhưng vẫn được mời gọi nên thánh, đang cần thấy được nơi các con những trái tim thanh khiết đang “nhìn thấy” Thiên Chúa trong đức tin, những con người ngoan ngoãn để Thánh Thần hướng dẫn, vui vẻ tiến bước, trung thành với đặc sủng của ơn gọi và sứ mạng của mình.
Các con đã bước vào con đường hoán cải trường kỳ, con đường trao hiến dành riêng cho tình yêu Thiên Chúa và anh chị em, để luôn làm chứng cách tuyệt đẹp về ân sủng đang biến đổi cuộc đời Ki-tô hữu. Thế giới và Giáo Hội đang đi tìm những chứng nhân chân chính về Đức Ki-tô, và đời thánh hiến là một hồng ân Thiên Chúa ban ngõ hầu “điều cần thiết duy nhất” (x. Lc 10,42) được tỏ hiện trước mắt mọi người. Trong Giáo Hội và trong thế giới, đời thánh hiến có sứ mạng đặc biệt là làm chứng cho Đức Ki-tô bằng cuộc sống, bằng việc làm và lời nói.
Các con đã biết các con đặt trót niềm tin vào ai (x. 2 Tm 1,12) : hãy cho Người tất cả ! Những người trẻ không bị lừa đâu. Khi đến với các con, họ muốn thấy điều họ không thấy được nơi khác. Các con có một trách nhiệm lớn đối với tương lai : đặc biệt những người tận hiến trẻ tuổi, nhờ chứng tá bằng sự dâng hiến của mình, có thể giúp người đương thời canh tân cuộc sống của họ (260). Tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giê-su Ki-tô có sức lôi cuốn mạnh mẽ những người trẻ khác, mà Người vẫn có nhã ý kêu mời bước theo Người thật sát và mãi mãi. Những người thời đại này muốn thấy được nơi những người tận hiến niềm vui họ cảm nhận được khi ở với Chúa.
Hỡi những người tận hiến, dù già hay trẻ, hãy sống trung thành với điều đã cam kết với Thiên Chúa, bằng cách làm gương sáng cho nhau, nâng đỡ nhau. Dù đôi khi các con gặp nhiều khó khăn hay dù tại vài nơi đời thánh hiến không còn được kính trọng đi nữa, các con có phận sự mời gọi những người thời đại này hãy ngước nhìn lên cao, đừng để mình bị ngụp lặn trong công chuyện hàng ngày, nhưng hãy để cho Thiên Chúa và Tin Mừng của Con Thiên Chúa thu hút. Đừng bao giờ quên rằng, các con là những người một cách đặc biệt có thể và phải nói rằng không những các con thuộc về Đức Ki-tô, mà các con “đã trở nên Đức Ki-tô” nữa (261).
Nhìn về tương lai
110. Các con không những phải nhớ và kể lại một lịch sử huy hoàng, mà còn phải kiến tạo một lịch sử vĩ đại nữa ! Hãy hướng về tương lai, tới chỗ mà Thánh Thần đang sai các con đi để cùng với các con làm những việc trọng đại.
Hỡi những người tận hiến yêu quý, các con hãy biến cuộc đời thành cuộc sốt sắng trông đợi Đức Ki-tô ; hãy đi đón Người như những trinh nữ khôn ngoan đi đón Lang Quân. Hãy sẵn sàng luôn luôn, hãy trung thành với Đức Ki-tô, với Giáo Hội, với tu hội của mình và với con người thời đại này (262). Nhờ thế, ngày qua ngày, các con sẽ được Đức Ki-tô đổi mới, và nhờ Thánh Thần trợ giúp, các con sẽ kiến tạo những cộng đoàn huynh đệ, để cùng với Đức Ki-tô, rửa chân cho người nghèo, và đóng góp phần độc đáo của các con vào sự biến hình của thế giới.
Vào lúc bước sang một thiên niên kỷ mới, mong sao cho thế giới đã được trao vào tay con người sẽ luôn được nhân đạo hơn, công bằng hơn, trở nên dấu chỉ và hình ảnh báo trước thế giới sắp đến, trong đó Thiên Chúa khiêm hạ và vinh hiển, khó nghèo và được siêu tôn, sẽ trở thành niềm hoan lạc sung mãn và trường tồn cho chúng ta, cho anh chị em chúng ta, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Lời khấn cầu Ba Ngôi
111. Lạy Ba Ngôi chí thánh diễm phúc và là nguồn hạnh phúc của mọi người, xin đổ tràn hạnh phúc xuống con cái của Chúa, mà Chúa đã chọn lựa để tuyên xưng tình yêu cao cả, lòng nhân hậu xót thương và vẻ đẹp của Chúa.
Lạy Chúa Cha chí thánh, xin hãy thánh hiến các con cái đã tận hiến cho Cha, để làm vinh danh Cha. Bởi quyền năng của Cha, xin nâng đỡ họ để họ có thể làm chứng cho Cha là nguồn của mọi sự, suối nguồn độc nhất của tình yêu và tự do. Chúng con cảm tạ Cha vì hồng ân của đời thánh hiến, đời của những kẻ trong đức tin, tìm kiếm Cha, và trong sứ mạng phổ quát của mình, mời gọi toàn thể nhân loại tiến đến với Cha.
Lạy Chúa Giê-su Cứu Thế, Ngôi Lời nhập thể, Chúa đã ký thác lối sống của Chúa cho những ai được Chúa mời gọi, xin tiếp tục lôi kéo tới Chúa những người sẽ đóng vai trò làm người phân phát lòng thương xót cho con người thời đại chúng con, tiên báo ngày Chúa trở lại, làm dấu chỉ sống động những phúc lợi của sự phục sinh mai sau. Xin đừng để thử thách nào khiến họ xa lìa Chúa và tình yêu của Chúa !
Lạy Chúa Thánh Thần là Tình Yêu đổ xuống tâm hồn chúng con. Chúa là Đấng ban ơn sủng và thần hứng cho các linh hồn, là suối nước hằng sống giúp hoàn thành sứ mạng của Chúa Ki-tô bằng nhiều đặc sủng, chúng con cầu khẩn Chúa cho mọi người tận hiến. Xin đổ đầy tâm hồn họ niềm thâm tín mình đã được chọn để yêu mến, ca ngợi và phục vụ. Xin cho họ nếm hưởng tình bạn với Chúa, được tràn ngập niềm vui của Chúa và được Chúa an ủi. Xin giúp họ vượt qua được những lúc khó khăn và tin tưởng chỗi dậy sau khi sa ngã. Xin cho họ trở nên tấm gương phản chiếu vẻ đẹp thần linh của Chúa. Xin cho họ can đảm đương đầu với những thách đố của thời đại này và biết tỏ cho mọi người thấy lòng nhân hậu và lân ái của Chúa Giê-su Cứu Thế (x. Tt 3,4).
Khẩn cầu Đức Trinh Nữ Ma-ri-a
112. Lạy Đức Ma-ri-a, là hình ảnh của Giáo Hội, là Hiền Thê không vết nhăn và không tì ố, khi noi gương Mẹ “bảo tồn cho tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy vững bền và một đức mến chân thành” (263), xin nâng đỡ những người tận hiến trên con đường hướng tới chân phúc độc nhất và vĩnh cửu.
Lạy Nữ Trinh Thăm Viếng, chúng con trao phó họ cho Mẹ để họ biết mau mắn tìm gặp những người lâm cảnh khốn cùng để mang lại sự trợ giúp và nhất là để mang Chúa Giê-su đến. Xin Mẹ dạy họ biết công bố những kỳ công Thiên Chúa đang thực hiện trong thế giới ngõ hầu muôn dân đều ca ngợi danh Người. Xin nâng đỡ họ trong những công tác phục vụ người nghèo khó, kẻ đói ăn, người thất vọng, kẻ hèn mọn và hết mọi người đang thành tâm tìm kiếm Con của Mẹ.
Lạy Mẹ, Mẹ muốn con cái của Mẹ đổi mới đời sống tâm linh và hoạt động tông đồ, bằng lời đáp yêu thương và tận hiến cho Chúa Ki-tô, chúng con tin tưởng dâng lên Mẹ lời nguyện cầu. Xưa Mẹ đã thi hành ý Chúa Cha, đã mau mắn khi vâng phục, can đảm khi khó nghèo, tiếp nhận trong sự trinh khiết phong phú của Mẹ, hãy xin Con chí thánh của Mẹ ban cho những kẻ nhận được hồng ân đi theo Người trong đời thánh hiến, biết làm chứng cho Người bằng một cuộc sống được biến hình, bằng cách vui vẻ tiến lên, cùng với mọi anh chị em, tới quê hương thiên quốc và tới ánh sáng không bao giờ tàn lụi.
Chúng con xin Mẹ điều đó để Thiên Chúa cao cả, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, được tôn vinh chúc tụng và yêu mến trong mọi người và trong mọi sự.
Rô-ma, cạnh đền thánh Phê-rô,
ngày 25 tháng 3 năm 1996, lễ Truyền Tin,
năm thứ mười tám tôi làm Giáo hoàng.
Gio-an Phao-lô II
—————————————-
(174) X. GH s. 46.
(175) X. Kiến Nghị 35, A.
(176) MV s. 4.
(177) X. GH s. 12.
(178) Đức Phao-lô VI, thông điệp Ecclesiam Suam (6-8-1964).
(179) Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, Diễn giảng sách Ê-dê-ki-en, II, II, 11 : SC 360, tr. 113.
(180) Thánh Âu-tinh, Bài giảng 78, 6 : PL 38, 492.
(181) X. Đại hội IV của Hội đồng giám mục Mỹ châu La-tinh, văn kiện việc Phúc Âm hoá mới, việc thăng tiến con người và văn hoá Ki-tô giáo, kết luận, s. 178, CELAM (1992).
(182) Correspondance, Entretiens, Documents (thư tín, đàm đạo, tư liệu). Bài nói chuyện “Về tinh thần của tu đoàn” (9-2-1653) : Ed. Coste IX, Paris (1923), tr. 592.
(183) X. YT ss. 23-24.
(184) X. B. Élizabeth de la Trinité, O mon Dieu, Trinité que j (Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi con tôn thờ) : Oeuvres complètes, Paris 1991, tr. 199-200.
(185) X. LB s. 69.
(186) X. Kiến Nghị 37, A.
(187) X. GH s. 46 ; LB s. 69.
(188) X. GH ss. 44 ; 46.
(189) X. TG ss. 18 ; 40.
(190) Lettre à ses compagnons résidant à Rome (Thư gửi các bạn bè ở Rô-ma) (Cochin, 15-1-1544) : Monumenta Historica Societatis Iesu 67 (1944), tr. 166-167.
(191) X. GH s. 44.
(192) X. SV s. 69 ; Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, s. 927.
(193) SV s. 31.
(194) SV s. 2.
(195) TG s. 18 ; SV s. 69.
(196) X. Kiến Nghị 38.
(197) SV s. 44.
(198) X. SV s. 46.
(199) X. SV ss. 52-54.
(200) X. Kiến Nghị 40, A.
(201) SV s. 55 ; X. Hội đồng Toà Thánh về đối thoại liên tôn và bộ truyền giảng Phúc Âm, Huấn thị đối thoại và loan truyền (19-5-1991) số 45-46.
(202) X. Kiến Nghị 40, B.
(203) Đức Gio-an Phao-lô II, tông huấn hậu THĐGM Ecclesia in Africa, s. 62.
(204) X. LB s. 15.
(205) Thượng hội đồng giám mục, đại hội thường lệ lần thứ IX, Relatio ante disceptationem (Báo cáo trước khi thảo luận) s. 22.
(206) Đức Gio-an XXIII, diễn từ khai mạc Công Đồng Va-ti-ca-nô II (11-10-1962).
(207) X. Kiến Nghị 18.
(208) Thánh Âu-tinh, Bài giảng 123,3-4 : PL 38,685-686.
(209) X. Bài ca XXI, cc. 386-394 : PL 61,587.
(210) Correspondance, Entretiens, Documents (Thư tín, đàm đạo, tư liệu). Bài nói chuyện “về luật lệ” (30-5-1647) : Ed. Coste IX, Paris (1923), tr. 319.
(211) Règle pastorale (quy luật mục vụ) 2,5.
(212) X. Đức Gio-an Phao-lô II, tông thư Salvifici doloris (11-2-1984), ss. 28-30.
(213) X. Ibid., s. 18 ; Đức Gio-an Phao-lô II, tông huấn hậu THĐGM Christifideles laici (30-12-1988), ss. 52-53.
(214) X. Đức Gio-an Phao-lô II, tông huấn hậu THĐGM Pastores dabo vobis (25-3-1992), s. 77.
(215) X. Đức Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium Vitae (25-3-1995), ss. 78-101.
(216) X. Kiến Nghị 43.
(217) X. GH s. 44.
(218) X. Đức Gio-an Phao-lô II, bài giảng trong thánh lễ đồng tế trọng thể kết thúc đại hội thường lệ lần thứ IX của thượng hội đồng giám mục (29-10-1994), s. 3.
(219) X. Thánh A-tha-na-xi-ô, Hạnh thánh An-tôn, 7. PG.
(220) X. Kiến Nghị 39, A.
(221) X. Kiến Nghị 15, A và 39, C.
(222) GH s. 4 ; X. LM s. 2.
(223) X. Kiến Nghị 53 ; Đức Gio-an Phao-lô II, tông thư Tertio Millennio Adveniente (10-11-1994), s. 37.
(224) X. DT s. 12.
(225) X. Kiến Nghị 18, A.
(226) X. DT s. 13.
(227) X. Đức Gio-an Phao-lô II, thông điệp Veritatis Splendor (6-8-1993), ss. 31-35.
(228) X. Kiến Nghị 19, A ; DT s. 14.
(229) X. Kiến Nghị 15.
(230) Đức Gio-an Phao-lô II, diễn từ cho buổi tiếp kiến chung (8-12-1995).
(231) MK s. 21 ; x. DT s. 6.
(232) Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, s. 125 ; x. MK s. 18.
(233) MK s. 2.
(234) LM s. 5.
(235) X. GD s. 8.
(236) Scritti pedagogici e spirituale, Rome (1987), tr. 294.
(237) X. Đức Gio-an Phao-lô II, Tông hiến Sapientia Christiana (15-4-1979), II : AAS 71 (1979), tr. 471.
(238) X. Kiến Nghị 41.
(239) X. Đức Gio-an Phao-lô II, Tông hiến Sapientia Christiana (15-4-1979), II : AAS 71 (1979), tr. 470.
(240) X. Kiến Nghị 36.
(241) X. MV s. 5.
(242) MV s. 1.
(243) X. HĐ s. 34.
(244) X. Đức Gio-an Phao-lô II, sứ điệp cho ngày thế giới truyền thông xã hội thứ XXVIII (24-1-1994).
(245) X. Đức Gio-an Phao-lô II, thông điệp Ut Unum Sint (15-5-1995), s. 21.
(246) X. Ibid., s. 28.
(247) X. Kiến Nghị 45.
(248) SV s. 55 : AAS 83 (1991), tr. 302.
(249) Hội đồng Toà Thánh về đối thoại liên tôn và truyền giảng Phúc Âm, huấn thị Đối thoại và loan truyền (19-5-1991), s. 42, a.
(250) Ibid., s. 42,b.
(251) X. Kiến Nghị 46.
(252) X. Hội đồng Toà Thánh về đối thoại liên tôn và truyền giảng Phúc Âm, huấn thị Đối thoại và loan truyền (19-5-1991), s. 42, a.
(253) X. Kiến Nghị 47.
(254) B. Angela de Foligno, Il libro della Beata Angela da Foligno, Grottaferrata (1985), tr. 683.
(255) Thánh Tê-rê-xa Giê-su, Libro de la Vida, ch. 32,11.
(256) CT s. 3.
(257) X. Kiến Nghị 48.
(258) MV s. 41.
(259) CT s. 53.
(260) X. Kiến Nghị 16.
(261) Thánh Âu-tinh, Bình luận Tin Mừng thánh Gio-an, XXI, 8 ; PL 35 ; 1568.
(262) X. TT ss. 13-21.
(263) GH s. 64.