Những Văn Kiện Đời Tu (Tập 1) – Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến, P.1

0
1410

TÔNG HUẤN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
(Vita consecrata, 25-03-1996)

 

Dẫn nhập

Tông huấn Vita consecrata do Đức thánh cha Gio-an Phao-lô II ban hành ngày 25-3-1996, đúc kết những thành quả của Thượng hội đồng giám mục họp vào tháng 10 năm 1994. Cũng như những khoá họp trước đây, sau những phiên nhóm để phát biểu và thảo luận, các nghị phụ thảo ra các kiến nghị (53) để góp ý cho Đức thánh cha soạn văn kiện hậu Thượng hội đồng. Trong tông huấn, Đức Gio-an Phao-lô II đã trích dẫn các kiến nghị đó và sứ điệp Thượng hội đồng gửi Dân Thiên Chúa.

Sau nhập đề, tông huấn được chia thành ba chương, tương ứng với ba chiều kích của đời tu (x. số 13) : Thánh hiến – hiệp thông – sứ mạng”, (hay có thể nói : Hướng thượng – hướng nội – hướng ngoại”).

Trong phần nhập đề, sau khi giải thích lý do và mục đích của tông thư (số 1-4), Đức thánh cha đã rảo qua những hình thức tu trì trải qua lịch sử : đời đan tu (số 6), các trinh nữ, ẩn sĩ, quả phụ (số 7), các dòng chiêm niệm (số 8), các dòng hoạt động tông đồ (số 9), tu hội đời (số 10), tu đoàn tông đồ (số 11). Mỗi hình thức được mô tả với vài nét đại cương về linh đạo.

Chương một, dưới tựa đề “Confessio Trinitatis” (tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi), bao gồm nội dung thần học rất phong phú về đời thánh hiến, được phân tích dưới nhiều khía cạnh.

  1. Khía cạnh Ki-tô

Đời thánh hiến được trình bày như là cuộc biến hình” (số 14), trở nên đồng hình đồng dạng” với Đức Ki-tô (assimilatio conformativa : số 16), đi theo Đức Ki-tô (sequela Christi) bằng việc hoạ lại nếp sống tại thế của Người (khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục : số 14 ; 18 ; 22), tận hiến cho sứ mạng phục vụ Nước Thiên Chúa (số 22), thông dự vào mầu nhiệm Vượt Qua (số 23-24).

  1. Khía cạnh Ba Ngôi

Sự đồng hình với nếp sống Đức Ki-tô đương nhiên bao hàm tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa : Đức Ki-tô đã sống trọn tình con thảo với Chúa Cha. Tông thư đã đề cập tới Ba Ngôi khi xét tới nguồn gốc sự thánh hiến (số 17-19), ba lời khuyên Tin Mừng (số 20-21), đoàn sủng (số 36), sự thông hiệp cộng đoàn (số 41), huấn luyện (số 66), sứ mạng (số 72). Trước khi kết thúc, tông huấn đã dành số 111 để dâng lời khẩn cầu lên Chúa Ba Ngôi.

  1. Giáo Hội

Đời sống thánh hiến nằm trong bản chất thánh thiện của Giáo Hội (số 3 ; 29). Giáo Hội có sứ mạng chuyển thông Đức Ki-tô cho nhân loại ; nhưng Đức Ki-tô không thể nào chỉ được chuyển thông bằng lời lẽ ý niệm mà còn bằng nếp sống nữa. Thêm vào đó, đời thánh hiến còn tượng trưng cho mối tình duy nhất mà Giáo Hội phải dành cho Đức Lang Quân (số 3 ; 34). Như vậy, đời thánh hiến gắn liền với chiều kích truyền giáo (số 25) và cánh chung của toàn thể Giáo Hội (số 26).

  1. Thánh Mẫu

Đức Ma-ri-a được trình bày như mẫu gương của đời thánh hiến (số 28) :

  1. Mẫu gương trong việc đáp lại tiếng Chúa gọi ;
  2. Mẫu gương trong việc đi theo Chúa ;
  3. Mẫu gương trong việc thông dự vào mầu nhiệm Vượt Qua (số 23) ; mẫu gương cho tình yêu phong phú (số 34). Ngoài ra Đức Ma-ri-a còn là Mẹ của các người tận hiến, cầu bầu cho họ trung thành với ơn gọi. Tông thư kết thúc với lời nguyện dâng lên Đức Ma-ri-a (số 112).

Ngoài ra, còn nhiều khía cạnh thần học được đề cập tới, chẳng hạn :

– Sự thánh hiến tu trì, tuy dựa trên sự thánh hiến do bí tích thánh tẩy, nhưng là một sự thánh hiến mới, do hậu quả của một ơn gọi mới (số 30). Do đó, đây là một bậc sống riêng biệt trong Giáo Hội (số 31-32).

– Sự liên hệ chặt chẽ giữa thánh hiến và sứ vụ (số 18 ; 22 ; 25 ; 27 ; 72).

– Đoàn sủng của đời tận hiến nói chung và của mỗi tu hội nhận được qua vị sáng lập (số 19 ; 32 ; 36). Cần phải biết duy trì sự trung thành sáng tạo với đoàn sủng (số 36 ; 37 ; 74), khi canh tân việc huấn luyện (số 68) và hoạt động tông đồ (số 48 ; 63 ; 72).

– Ba lời khuyên Tin Mừng nhằm hoạ lại nếp sống của Đức Ki-tô (số 18), mang giá trị tuyên xưng Đức Ki-tô trong tương quan với Chúa Cha (số 16) và biểu lộ tình yêu san sẻ của Ba Ngôi (số 21). Chúng cũng thăng tiến các xu hướng tự nhiên của con người (số 87-92).

Sau cùng thiết tưởng không thể bỏ qua một điểm mới của tông thư, đó là trình bày đời tu như là nỗ lực đi tìm cái đẹp (philocalia : số 19). Các tu sĩ bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa ; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Người (số 27), và đồng thời cố gắng tu bổ hình ảnh Thiên Chúa đã méo mó trên khuôn mặt của anh chị em đồng loại (số 75).

Chương hai trình bày đời tận hiến như là dấu chỉ huynh đệ, dựa theo khuôn mẫu thông hiệp của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự thông hiệp được xét tới dưới nhiều cấp độ :

– Thông hiệp huynh đệ trong cộng đoàn (số 42-45).

– Thông hiệp với Giáo Hội phổ quát và địa phương (số 46-51).

– Thông hiệp giữa các dòng tu với nhau (số 52-53).

– Thông hiệp với giáo dân (số 54-56).

Tiếp đó, tông huấn bàn tới ba vấn đề mà Thượng hội đồng đã nêu lên, đó là : nội vi dòng kín (số 59), các dòng hỗn hợp (số 61), các hình thức tu trì mới (số 62). Trên thực tế, Đức thánh cha chỉ cho thấy những góc cạnh của các vấn đề vừa nói, còn những giải pháp cụ thể thì được trao cho các uỷ ban chuyên môn cứu xét.

Ngoài ra trong chương này, chúng ta thấy vài đề tài khác không kém phần quan trọng, đó là : vai trò của phụ nữ (số 57-58) ; mục vụ tuyển mộ ơn gọi (số 64) ; việc đào tạo khởi đầu và liên tục (số 65-71).

Chương ba được dành cho sứ mạng của đời thánh hiến. Cũng như Đức Ki-tô được thánh hiến và sai vào thế gian, các người tận hiến cũng được sai đi vào đời để phục vụ tình yêu (số 72-75). Sau khi đã nhấn mạnh rằng sứ mạng quan trọng hơn cả mà Giáo Hội và nhân loại chờ mong ở các người tận hiến là đời sống thánh thiện (số 25) và đời sống huynh đệ của họ (số 72), tông huấn lược qua vài môi trường hoạt động tông đồ cố cựu hay cận đại của các tu hội, chẳng hạn : truyền giáo cho dân ngoại (số 75-80), phục vụ người nghèo (số 82) và người bệnh (số 83), môi trường giáo dục (số 96-97), truyền thông xã hội (số 99), công cuộc đối thoại đại kết hoặc liên tôn (số 100-103).

Các số 84-95 đã được dành để nói về đặc tính ngôn sứ của đời tận hiến, với những yêu sách của nó, đứng đầu là sự kết hiệp thân tình với Chúa (số 74 ; 84). Từ đó nảy sinh nhu cầu phải củng cố đời sống tâm linh, đặc biệt là khổ chế và cầu nguyện (số 38), và các phương thế tu đức cổ điển : suy niệm Lời Chúa (lectio divina), lãnh các bí tích đứng đầu là Thánh Thể, cử hành các giờ kinh phụng vụ, sám hối (số 94-95 ; 103).

Thiết tưởng cũng nên ghi nhận định nghĩa về đời sống tâm linh” (vie spirituelle, spiritual life), linh đạo” (spiritualité, spirituality) ở số 93 (xc. số 71), cũng như những đoạn mô tả linh đạo của các hình thức tu trì (6-11), hoặc những nét linh đạo của đời tận hiến nói chung : dâng hiến hoàn toàn (số 3 ; 17) ; thông hiệp (số 46 ; 51) ; đối thoại (số 74) ; tông đồ (số 67 ; 74) ; phục vụ (số 75). Sự biện phân” (phân định : discernement) cũng được nói tới nhiều lần, cách riêng khi cần nhận ra những dấu chỉ thời đại (số 62 ; 73) và khi hội nhập văn hoá (số 80 ; 85).

——————————

MỞ ĐẦU

1. Đời sống thánh hiến, bén rễ sâu trong gương sống và giáo huấn của Chúa Ki-tô, là một ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Giáo Hội Người qua trung gian của Thánh Thần. Nhờ việc tuyên giữ các lời khuyên Tin Mừng, các nét đặc trưng của Đức Giê-su – khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục – trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu thường hằng, và các tín hữu được mời gọi hướng nhìn về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã tác động trong lịch sử, nhưng còn đang chờ đạt tới viên mãn ở trên trời.

Qua các thời đại, luôn có những người nam nữ, sẵn sàng nghe theo tiếng gọi của Chúa Cha và sự thúc đẩy của Thánh Thần, đã chọn con đường đặc biệt để bước theo Đức Ki-tô, sequela Christi, để tự hiến cho Chúa với một trái tim không chia sẻ” (x. 1 Cr 7,34). Như các thánh Tông Đồ, họ cũng đã từ bỏ mọi sự để ở với Người và giống như Người, ra tay phục vụ Thiên Chúa và anh chị em mình. Như thế họ đã góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo Hội bằng muôn vàn đoàn sủng thuộc đời sống thiêng liêng và tông đồ mà Chúa Thánh Thần đã ban cho họ, và nhờ đó, họ cũng đã góp phần vào việc canh tân xã hội.

Tạ ơn về đời sống thánh hiến

2. Vai trò của đời sống thánh hiến trong Giáo Hội quan trọng đến nỗi tôi đã quyết định triệu tập một Thượng hội đồng giám mục để đào sâu ý nghĩa và các viễn tượng tương lai của đời sống này, hướng về thiên niên kỷ mới đã gần kề. Cùng với các nghị phụ, tôi muốn có nhiều người tận hiến hiện diện tại Thượng hội đồng giám mục, ngõ hầu họ có thể đóng góp vào việc suy tư chung.

Tất cả chúng ta đều ý thức về sự phong phú mà ân huệ đời thánh hiến mang lại cho cộng đồng Giáo Hội, do các đoàn sủng và các định chế đa dạng của đời sống này. Cùng nhau, chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì các hội dòng và các tu hội hiện đang tận tuỵ sống đời chiêm niệm hoặc dấn thân trong việc tông đồ, vì các tu đoàn tông đồ, các tu hội đời và các nhóm khác đang sống đời thánh hiến, cũng như vì tất cả những người, tận đáy lòng, đang dâng đời mình cho Thiên Chúa qua một sự thánh hiến đặc biệt.

Thượng hội đồng giám mục đã cho thấy rõ tính cách phổ quát của đời sống thánh hiến đang hiện diện trong các Giáo Hội tại khắp nơi trên thế giới. Đời sống này kích thích và đi theo công cuộc truyền bá Tin Mừng tại các miền khác nhau trên thế giới ; và tại những nơi đó, người ta không chỉ bằng lòng với việc đón nhận với lòng biết ơn những tu hội từ bên ngoài đến, nhưng người ta còn thiết lập những tu hội mới, đa dạng trong các hình thái cũng như cách thức diễn tả.

Vì vậy, cho dù tại một số miền trên trái đất, các tu hội sống đời thánh hiến dường như đang trải qua một giai đoạn khó khăn, nhưng tại các miền khác, các tu hội lại đang phát triển với một sinh lực dồi dào lạ lùng : Điều này cho thấy việc lựa chọn hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa trong Đức Ki-tô không hề tương phản với nền văn hoá và lịch sử của mỗi dân tộc. Tình trạng nở rộ này không chỉ liên quan đến Giáo Hội Công Giáo, nhưng cũng đặc biệt sống động trong nếp sống đan tu của các Giáo Hội Chính Thống, nơi mà đời đan tu là một nét cốt yếu của Giáo Hội. Đời sống thánh hiến đang được bén rễ hay phục hồi trong các Giáo Hội và các giáo đoàn Tin Lành như là dấu chỉ của một ân huệ chung được ban cho tất cả các môn đệ của Đức Ki-tô. Nhận xét này thúc đẩy thêm công cuộc đại kết đang ao ước đạt tới sự hiệp thông ngày càng sâu rộng hơn giữa các Ki-tô hữu, ngõ hầu thế gian tin” (Ga 17,21).

Đời sống thánh hiến, ân huệ Thiên Chúa ban cho Giáo Hội

3. Sự hiện diện phổ quát và chứng tá Tin Mừng của đời sống thánh hiến cho thấy rõ rằng đời sống này không phải là một cái gì lẻ loi và bên lề, nhưng là một thực tại liên hệ đến toàn thể Giáo Hội. Tại Thượng hội đồng giám mục, các giám mục đã nhiều lần nhắc lại : De re nostra agitur, đây là một vấn đề liên hệ đến chúng ta” (1). Trong thực tế, đời sống thánh hiến nằm ngay giữa lòng Giáo Hội như một yếu tố quyết định đối với sứ mạng của Giáo Hội, bởi vì đời sống này biểu thị rõ ràng bản tính sâu xa của ơn gọi Ki-tô giáo” (2) và tình trạng toàn thể Giáo Hội-Hiền Thê đang ra sức vươn tới chỗ được kết hiệp với Đấng Phu Quân duy nhất (3). Thượng hội đồng giám mục nhiều lần khẳng định rằng đời sống thánh hiến không chỉ đóng vai trò trợ giúp và nâng đỡ Giáo Hội trong quá khứ, nhưng còn là một ân huệ quý báu và cần thiết cho hiện tại và tương lai của Dân Thiên Chúa, bởi vì đời sống này là một phần sâu xa của nếp sống, sự thánh thiện và sứ mạng của Dân Thiên Chúa (4).

Các khó khăn mà hiện nay một số tu hội đang gặp phải tại nhiều nơi trên thế giới không cho phép nghi ngờ chút nào về việc tuyên khấn các lời khuyên Tin Mừng là một thành phần cơ bản của đời sống Giáo Hội, và thôi thúc Giáo Hội ngày càng phải trung thành hơn với Tin Mừng (5). Trong lịch sử, người ta có thể sẽ còn thấy những hình thức khác nữa của đời thánh hiến, nhưng sẽ không bao giờ thay đổi bản chất của một chọn lựa được diễn tả ra bằng sự hiến mình triệt để vì yêu mến Chúa Giê-su và vì yêu thương mỗi thành viên của gia đình nhân loại trong Người. Dân Ki-tô hữu tiếp tục có sự đảm bảo này, một đảm bảo từng làm phấn khởi vô số người qua các thời đại, vì biết rõ rằng họ có thể được các tâm hồn quảng đại nâng đỡ mạnh mẽ trong cuộc hành trình tiến về quê hương trên trời.

Thâu hoạch các hoa trái của Thượng hội đồng giám mục

4. Đáp lại nguyện vọng của khoá họp thường kỳ của Thượng hội đồng giám mục, được triệu tập để suy nghĩ về đề tài đời sống thánh hiến và sứ mạng của đời sống này trong Giáo Hội và trong thế giới”, tôi dự định giới thiệu trong tông huấn này những hoa trái của Thượng hội đồng (6), và trình bày cho tất cả các tín hữu, – các giám mục, linh mục, phó tế, những người được thánh hiến và giáo dân, cũng như cho tất cả những người quan thiết –, những điều kỳ diệu mà Chúa còn muốn thực hiện hôm nay qua đời sống thánh hiến.

Các phiên họp trước đây của Thượng hội đồng đã bàn về giáo dân và linh mục ; lần này Thượng hội đồng bổ túc việc cứu xét có hệ thống những dữ kiện đặc thù tiêu biểu cho các bậc sống Chúa Giê-su đã muốn cho Giáo Hội của Người. Quả vậy, đang khi Công Đồng Va-ti-ca-nô II đề cao thực tại quan trọng là sự hiệp thông trong Giáo Hội, và tất cả các đoàn sủng đều quy về việc xây dựng Thân Thể Đức Ki-tô và chu toàn sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới ; vào những năm gần đây, người ta cảm thấy nhu cầu cần phải giải thích rõ ràng hơn căn tính của những bậc sống khác nhau, ơn gọi và sứ mạng của các bậc sống ấy trong Giáo Hội. Quả thế, trong Giáo Hội, hiệp thông không có nghĩa là đơn dạng, nhưng là một ân huệ của Thánh Thần, Đấng tác động với các đoàn sủng và các bậc sống đa dạng. Các bậc sống càng được tôn trọng căn tính bao nhiêu thì sẽ càng hữu ích cho Giáo Hội và cho sứ mạng của Giáo Hội bấy nhiêu. Thực vậy, bất cứ ân huệ nào Thánh Thần ban đều nhằm để ta làm sinh hoa kết quả cho Chúa (7), giúp tăng triển tình huynh đệ và hoạt động truyền giáo.

Công trình của Thánh Thần trong các hình thái sống thánh hiến khác nhau

5. Làm sao không nhớ lại với lòng biết ơn Thánh Thần những hình thái phong phú đời sống thánh hiến đã được Người khơi lên qua dòng lịch sử và hôm nay còn đang hiện diện trong lòng Giáo Hội ? Các hình thái ấy có thể ví như một cây nhiều cành (8), cắm rễ sâu vào trong Tin Mừng và sản sinh hoa quả dồi dào cho tất cả các thời đại Giáo Hội. Quả là phong phú biết mấy ! Khi kết thúc Thượng hội đồng, chính tôi cảm thấy cần phải nêu bật sự hiện diện thường hằng của yếu tố này trong lịch sử Giáo Hội : đó là đoàn các đấng sáng lập nam nữ, các vị thánh nam nữ đã chọn Đức Ki-tô bằng cách chọn sống Tin Mừng triệt để và phục vụ anh chị em mình, đặc biệt những người nghèo khổ và bị bỏ rơi (9). Công việc phục vụ ấy cho thấy rõ ràng đời sống thánh hiến thật đang biểu lộ được tính duy nhất của điều răn yêu thương, nhờ dây liên kết bất khả phân ly giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu với tha nhân.

Thượng hội đồng giám mục đã nhắc đến Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động không ngừng qua các thời đại, bung mở những hoa trái phong phú do việc thực thi các lời khuyên Tin Mừng nhờ các đoàn sủng khác nhau. Nhờ đó, Thánh Thần làm cho mầu nhiệm của Đức Ki-tô mãi mãi hiện diện trong Giáo Hội và trong thế giới, trong thời gian và không gian.

Đời sống đan tu bên Đông Phương và Tây Phương

6. Các nghị phụ thuộc các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương và các đại biểu của các Giáo Hội khác bên Đông Phương đã nêu bật những giá trị Tin Mừng của đời sống đan tu (10) xuất hiện từ những buổi đầu của Ki-tô giáo và hôm nay còn đang nở rộ trên lãnh thổ của họ, nhất là trong các Giáo Hội Chính Thống.

Kể từ những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, có những người nam nữ cảm thấy được kêu gọi noi theo thân phận tôi tớ của Ngôi Lời Nhập Thể. Qua việc tuyên khấn tu trì, họ bước theo Người bằng cách sống chuyên biệt và triệt để các đòi hỏi phát xuất từ bí tích thánh tẩy, đó là sự tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua, của cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Nhờ mang Thập Giá trên mình (staurophóroi), họ đã cố gắng trở thành những người mang Thánh Thần (pneumatophóroi), những con người thần khí có khả năng làm cho lịch sử được phồn thịnh cách bí nhiệm, nhờ việc ca ngợi và chuyển cầu thường xuyên, nhờ những lời khuyên bảo tu đức và những công tác bác ái.

Nhằm biến đổi bộ mặt của thế giới và cuộc đời, trong khi chờ đợi được hưởng kiến vĩnh viễn dung nhan Thiên Chúa, truyền thống đan tu Đông Phương dành ưu tiên cho việc hoán cải, từ bỏ bản thân và thống hối, tìm kiếm hésychia (nghĩa là sự bình an nội tâm), và cầu nguyện thường xuyên, chay tịnh và canh thức, chiến đấu thiêng liêng và thinh lặng, niềm vui phục sinh trong sự hiện diện với Đức Chúa và trong niềm chờ mong Người đến vĩnh viễn, trao hiến bản thân và tài sản của mình, hoặc trong sự hiệp thông thánh thiện của đan viện, hoặc trong đời ẩn tu cô tịch (11).

Tây Phương cũng đã thực hành đời sống đan tu ngay vào những thế kỷ đầu của Giáo Hội và có kinh nghiệm về những lối diễn tả rất đa dạng trong các hình thức cộng đoàn hay ẩn tu. Trong hình thái hiện nay, nếp sống đan tu Tây Phương đặc biệt cảm hứng từ thánh Biển Đức, thừa hưởng gia sản của đông đảo những người nam nữ đã từ bỏ lối sống theo thế gian, tìm kiếm Thiên Chúa và hiến mình cho Người, không ưa chuộng gì khác ngoài tình yêu Đức Ki-tô” (12). Ngày nay, các đan sĩ vẫn còn cố gắng nối kết hài hoà đời sống nội tâm với việc làm khi cam kết theo Tin Mừng là sẽ hoán cải đời sống, vâng phục và vĩnh cư, cũng như khi chuyên cần thực thi việc suy gẫm Lời Chúa (lectio divina), cử hành phụng vụ, cầu nguyện. Ở giữa lòng Giáo Hội và thế giới, các đan viện đã và còn đang là một dấu chỉ hùng hồn về sự hiệp thông, nơi ân cần tiếp đón những người đi tìm Thiên Chúa và những thực tại thiêng liêng, những trường học về đức tin và những trung tâm đích thực về học vấn, đối thoại và văn hoá nhằm xây dựng đời sống Giáo Hội và chính thành đô trần thế, trong thời gian mong đợi thành đô thiên quốc.

Hàng các trinh nữ, các ẩn sĩ, các quả phụ

7. Thật là có lý do để vui mừng và hy vọng khi thấy ở thời đại chúng ta lại xuất hiện hàng ngũ cố cựu của các trinh nữ, với những vết tích được ghi lại trong các cộng đoàn Ki-tô hữu kể từ thời các tông đồ (13). Các trinh nữ được giám mục giáo phận thánh hiến, họ kết nối một quan hệ mật thiết với Giáo Hội. Họ cam kết phục vụ Giáo Hội, tuy vẫn sống ngoài đời. Dù ở một mình hoặc kết đoàn với nhau, họ trở thành một hình ảnh cánh chung của Hiền Thê thiên giới và của đời sống mai hậu, thời sau cùng khi Giáo Hội sẽ sống trọn tình yêu dành cho Đức Ki-tô là Phu Quân mình.

Các ẩn sĩ, nam nữ, dù thuộc về các dòng cổ truyền hoặc thuộc về các tu hội mới lập, hoặc trực tiếp lệ thuộc giám mục, tất cả đều làm chứng về tính chóng qua của thời hiện tại bằng việc tách biệt khỏi thế giới về tâm hồn và về nếp sống bên ngoài : Bằng chay tịnh và kinh nguyện, họ làm chứng rằng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời Thiên Chúa nữa (x. Mt 4,4). Đời sống nơi sa mạc” này là một lời mời gọi những người đồng loại và chính cộng đồng Giáo Hội đừng bao giờ để mất hút ơn gọi tột đỉnh, đó là mãi mãi ở kề bên Chúa.

Ngày nay người ta thấy tái hiện việc thánh hiến các quả phụ(14), đã có từ thời các tông đồ (x. 1 Tm 5,5.9-10 ; 1 Cr 7,8), cũng như việc thánh hiến các người goá vợ. Bằng lời khấn khiết tịnh vĩnh viễn vì Nước Thiên Chúa, những người ấy tự hiến mình theo thân phận hiện tại để sống đời cầu nguyện và phục vụ Giáo Hội.

Các dòng hoàn toàn sống đời chiêm niệm

8. Các dòng hoàn toàn sống đời chiêm niệm, gồm những người nữ hoặc nam, là một lý do hãnh diện cho Giáo Hội và một nguồn mạch đưa lại những ân sủng thiên quốc. Nhờ nếp sống và sứ mạng của họ, những phần tử thuộc các dòng ấy bắt chước Đức Ki-tô cầu nguyện trên núi, họ làm chứng về quyền chủ tể của Thiên Chúa trên lịch sử, họ tiên báo vinh quang mai ngày sẽ đến.

Trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, cử hành phụng vụ, khổ chế cá nhân, kinh nguyện, hãm mình và hiệp thông vào tình yêu huynh đệ, họ hướng toàn thể đời sống và toàn thể sinh hoạt vào việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa. như thế họ cống hiến cho cộng đồng Giáo Hội một chứng tá độc đáo về tình yêu của Giáo Hội dành cho Chúa, và góp phần với sức phong nhiêu tông đồ huyền diệu vào sự tăng trưởng của Dân Thiên Chúa (15).

Vì vậy, thật hợp lý khi ước mong rằng các hình thái khác nhau của nếp sống chiêm niệm sẽ càng ngày càng được phổ biến trong các Giáo Hội trẻ, như là dấu hiệu cho thấy Tin Mừng đã bén rễ sâu, đặc biệt là tại các miền mà các tôn giáo khác đã bành trướng hơn. Đó cũng là cơ hội để cho thấy sinh lực của các truyền thống khổ chế và thần bí của Ki-tô giáo cũng như hỗ trợ cho cuộc đối thoại liên tôn giáo nữa (16).

Đời sống tu trì tông đồ

9. Bên Tây Phương, trải qua các thế kỷ người ta thấy nở rộ nhiều hình thức đời sống tu trì, trong đó vô số người đã từ bỏ thế gian, hiến mình cho Thiên Chúa bằng việc công khai tuyên khấn các lời khuyên Tin Mừng theo một đoàn sủng chuyên biệt và một hình thức sống chung bền vững, nhằm thực hiện những hoạt động tông đồ khác nhau phục vụ Dân Thiên Chúa (17). Đó là lối sống của nhiều gia đình kinh sĩ dòng, các dòng hành khất, các giáo sĩ dòng, và nói chung các hội dòng nam nữ hiến mình hoạt động tông đồ và truyền giáo và nhiều công tác do đức bác ái Ki-tô giáo thúc đẩy.

Đây là một chứng tá đa dạng tuyệt diệu, phản ánh các ân sủng khác nhau được Thiên Chúa ban cho các đấng sáng lập nam nữ. Do biết mở lòng đón tác động của Chúa Thánh Thần, các vị đã biết minh giải các dấu chỉ của thời đại” và đáp trả sáng suốt những đòi hỏi dần dà xuất hiện. Theo vết chân các vị, rất nhiều người khác dùng lời nói và hành động làm cho Tin Mừng nhập thể vào cuộc sống của họ, để biểu lộ trong thời đại của họ sự hiện diện sống động của Đức Giê-su, Đấng được thánh hiến ưu việt và là Tông Đồ của Chúa Cha. Các tu sĩ nam nữ phải tiếp tục lấy Chúa Ki-tô làm gương mẫu ở bất cứ thời nào, bằng cách cầu nguyện để duy trì sự hiệp thông tâm tình sâu xa với Người (x. Pl 2,5-11), hầu toàn thể đời sống họ được thấm nhuần tinh thần tông đồ và toàn thể hoạt động tông đồ của họ thấm nhuần tinh thần chiêm niệm (18).

Các tu hội đời

10. Chúa Thánh Thần, Đấng kiến tạo lỗi lạc các đoàn sủng khác nhau, đã khơi lên trong thời đại chúng ta nhiều cách thức mới diễn tả đời sống thánh hiến. Theo kế hoạch của Chúa quan phòng, điều này dường như đáp ứng những nhu cầu mới mà Giáo Hội hôm nay đang phát hiện khi muốn chu toàn sứ mạng của mình trong thế giới.

Trước tiên, người ta nghĩ đến các tu hội đời, có các thành viên muốn sống sự thánh hiến cho Thiên Chúa ở trong thế gian, bằng việc tuyên khấn các lời khuyên Tin Mừng trong khung cảnh những cơ cấu trần thế. Như thế họ muốn trở nên men khôn ngoan và chứng tá về ân sủng giữa lòng nếp sống văn hoá, kinh tế và chính trị. Bằng một đường lối kết hợp đời sống trần thế với sự thánh hiến của riêng họ, họ muốn đưa vào trong xã hội những năng lực mới của Nước Chúa Ki-tô, khi tìm cách biến đổi gương mặt của thế giới từ nội tại nhờ sức mạnh của các mối phúc. Nhờ vậy, một đàng họ thuộc trọn về Thiên Chúa, hiến mình trọn vẹn để phục vụ Người, đàng khác hoạt động của họ trong hoàn cảnh sống giáo dân thông thường, dưới tác động của Thánh Thần, góp phần vào việc chiếu dọi ánh sáng Tin Mừng vào các thực tại trần thế. Như thế, các tu hội đời, theo đặc tính riêng của mỗi tu hội, đảm bảo cho Giáo Hội được hiện diện hữu hiệu trong xã hội (19).

Các tu hội đời của các giáo sĩ cũng thực thi một chức năng hữu ích : các linh mục thuộc hàng giáo sĩ giáo phận, cho dù có một số vị được phép nhập tịch vào tu hội của họ, hiến mình cho Đức Ki-tô qua việc thực thi các lời khuyên Tin Mừng thể theo một đoàn sủng chuyên biệt. Họ tìm thấy trong các hoa trái thiêng liêng phong phú của tu hội mà mình làm thành viên, một sự hỗ trợ quan trọng để sống sâu đậm linh đạo riêng của chức linh mục và như thế, làm men hiệp thông và quảng đại hoạt động tông đồ giữa các anh em đồng nghiệp.

Các tu đoàn tông đồ

11. Các tu đoàn tông đồ hay còn gọi là tu đoàn giữ đời sống chung, dành cho nam giới và nữ giới, cũng đáng được nhắc đến. Họ theo đuổi với phong cách riêng một mục tiêu chuyên biệt tông đồ hoặc truyền giáo. Trong nhiều tu đoàn, các thành viên cam kết tuân giữ các lời khuyên Tin Mừng bằng những dây ràng buộc thánh mà Giáo Hội chính thức nhìn nhận. Tuy nhiên, ngay trong trường hợp này, sự thánh hiến đặc biệt của họ mang tính cách khác với các dòng tu và các tu hội đời. Cần phải bảo vệ và thăng tiến căn tính của lối sống này ; trong các thế kỷ vừa qua, lối sống này đã sản sinh ra biết bao hoa trái về đời sống thánh thiện và tông đồ, nhất là trong lãnh vực bác ái và truyền bá Tin Mừng tại các miền truyền giáo (20).

Những hình thức mới mẻ của đời sống thánh hiến

12. Ngày này vẻ trẻ trung trường cửu của Giáo Hội vẫn còn được biểu lộ : trong các thập niên vừa qua, sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II, người ta đã thấy xuất hiện những hình thái mới mẻ hoặc được đổi mới của đời thánh hiến phần lớn là những tu hội cũng giống như các tu hội đã có trước đây song mang theo những hướng đi mới về linh đạo hay hoạt động tông đồ. Sinh lực của họ cần được quyền bính Giáo Hội chuẩn nhận ; Giáo Hội có nhiệm vụ tiến hành những lượng định cần thiết, vừa để đánh giá tính trung thực của mục tiêu đã gợi hứng cho họ, vừa để tránh nhân thêm quá mức những định chế tương tự, đưa đến nguy cơ phân mảnh tai hại thành những nhóm quá nhỏ. Trong những trường hợp khác, phải nói là những kinh nghiệm độc đáo đang đi tìm một căn tính riêng trong Giáo Hội và đang chờ đợi sự nhìn nhận chính thức về phía Toà Thánh, vì là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định trong lãnh vực này (21).

Các hình thái mới của đời thánh hiến, cộng thêm vào những hình thái cũ, đang làm chứng cho thấy việc dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa, lý tưởng của cộng đoàn các thánh tông đồ và những đoàn sủng của các vị sáng lập vẫn còn có khả năng thu hút thế hệ hiện tại. Các hình thái này cũng là dấu chỉ cho thấy các ân điển của Chúa Thánh Thần bổ túc lẫn cho nhau.

Tuy nhiên trong sự mới mẻ, Thánh Thần không thể nào mâu thuẫn với chính mình đâu ! Bằng chứng là các hình thái mới của đời thánh hiến đã không thay thế các hình thái có trước. Mặc dầu có sự đa dạng như thế, nhưng tính duy nhất vẫn được duy trì, bởi vì chỉ có một tiếng gọi duy nhất mời bước theo Đức Giê-su khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, để tìm kiếm đức ái toàn hảo. Tiếng gọi ấy, cũng như đã đánh dấu các hình thái tận hiến trước đây, cần phải biểu hiện nơi các hình thái được coi là mới nữa.

Mục tiêu của tông huấn

13. Thu lượm hoa trái của Thượng hội đồng trong tông huấn này, tôi muốn ngỏ lời với toàn thể Giáo Hội, để giới thiệu không những cho các người sống đời thánh hiến, mà còn cho cả các vị mục tử và các tín hữu, những thành quả của một cuộc trao đổi sôi nổi, được Chúa Thánh Thần dẫn dắt nhờ linh ân chân lý và tình yêu của Người.

Trong những năm canh tân này, đời sống thánh hiến trải qua một giai đoạn tế nhị và khó khăn, thật ra cũng y như các hàng ngũ khác của Giáo Hội. Đó là một giai đoạn phong phú đầy hy vọng, những thử nghiệm và những đề nghị canh tân nhằm đưa lại một sức mạnh tươi trẻ cho việc tuyên khấn các lời khuyên Tin Mừng. Nhưng cũng là một thời đầy căng thẳng và thử thách, thời mà những kinh nghiệm quảng đại không phải lúc nào cũng thu hoạch được kết quả tích cực.

Tuy nhiên các khó khăn không được làm cho thất vọng. Trái lại, cần phải dấn thân, bởi vì Giáo Hội cần có sự đóng góp về thiêng liêng và tông đồ của một đời thánh hiến được đổi mới và củng cố. Qua tông huấn hậu Thượng hội đồng giám mục đây, tôi muốn ngỏ lời với các cộng đoàn tu sĩ và với những người đang sống đời thánh hiến dựa theo tinh thần đã từng hướng dẫn bức thư mà Công Đồng Giê-ru-sa-lem gửi đến các Ki-tô hữu An-ti-ô-khi-a, và tôi hy vọng rằng ngày hôm nay, kinh nghiệm thời xưa đó lại được tái diễn : Đọc thư xong, họ vui mừng vì lời khích lệ đó” (Cv 15,31). Hơn nữa tôi cũng nuôi hy vọng gia tăng niềm vui của toàn Dân Thiên Chúa, vì được giúp hiểu biết rõ hơn về đời sống thánh hiến, họ sẽ có ý thức hơn khi tạ ơn Đấng Toàn Năng về ân huệ lớn lao ấy.

Với một thái độ cởi mở chân tình đối với các nghị phụ của Thượng hội đồng, tôi đã quyết tâm có mặt thường xuyên tại phiên họp, và theo dõi các cuộc đóng góp quý giá diễn ra qua các buổi làm việc của Thượng hội đồng. Trong thời gian ấy, tôi đã cố gắng cống hiến cho toàn Dân Thiên Chúa những huấn giáo có hệ thống về đời sống thánh hiến trong Giáo hội. Trong các bài ấy, tôi đã nhắc lại giáo huấn hàm chứa trong các bản văn của Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Công Đồng trở thành một điểm quy chiếu rạng ngời cho những triển khai giáo lý về sau, và cho công việc suy tư của Thượng hội đồng giám mục trong những tuần lễ làm việc bận rộn (22).

Tôi tin tưởng rằng các con cái Giáo Hội, đặc biệt những người sống đời thánh hiến, sẽ sẵn sàng đón tiếp tông huấn này với cả tâm hồn. Tôi ước mong công việc suy tư sẽ còn được tiếp tục, nhằm giúp đào sâu ân huệ lớn lao là đời sống thánh hiến, trong ba chiều kích thánh hiến, hiệp thông, và sứ mạng. Tôi ước mong rằng những người nam nữ sống đời thánh hiến, nhờ nhất trí hoàn toàn với Giáo Hội và huấn quyền, sẽ thấy phấn khởi thêm để đối đầu với các thách đố của thời đại, với tinh thần siêu nhiên và tông đồ.

———————————

(1) X. Kiến Nghị 2.

(2) TG s. 18.

(3) X. GH số 44 ; CT số 7 ; LB s. 69.

(4) X. GH số 44.

(5) X. Đức Gio-an Phao-lô II, diễn từ cho buổi tiếp kiến chung (28-9-1994), s. 5.

(6) X. Kiến Nghị 1.

(7) X. Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, Introduction à la vie dévote (Dẫn nhập vào đời sống sùng kính), phần I, chương 3.

(8) GH s. 43.

(9) X. Đức Gio-an Phao-lô II, bài giảng trong thánh lễ đồng tế trọng thể kết thúc đại hội thường lệ lần thứ IX của Thượng hội đồng giám mục (29-10-1994), s. 3.

(10) X. Thượng hội đồng giám mục, đại hội thường lệ lần thứ IX, sứ điệp kết thúc (27-10-1994).

(11) X. Kiến Nghị 5, B.

(12) X. Thánh Biển Đức, Règle (Quy luật) 4,21 và 72,11.

(13) X. Kiến Nghị 12.

(14) X. GLĐP điều 570.

(15) DT s. 7 ; TG s. 40.

(16) X. Kiến Nghị 6.

(17) X. Kiến Nghị 4.

(18) X. Kiến Nghị 7.

(19) X. Kiến Nghị 11.

(20) X. Kiến Nghị 14.

(21) X. GL điều 605 ; GLĐP điều 571 ; X. Kiến Nghị 13.

(22) X. Kiến Nghị 3 ; 4 ; 6 ; 7 ; 8 ; 10 ; 13 ; 28 ; 29 ; 30 ; 35 ; 48.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here