Những Văn Kiện Đời Tu (Tập 1) – BỘ GIÁO LUẬT 1983

0
3291

BỘ GIÁO LUẬT 1983

Sau hơn 20 năm soạn thảo, Bộ Giáo luật (dành cho Giáo Hội La-tinh) được ban hành ngày 25 tháng 1 năm 1983. Tuy là một bản văn nặng về pháp lý, nhưng Bộ Giáo Luật này chứa đựng khá nhiều điều khoản mang tính cách đạo lý và tu đức, chẳng hạn khi mô tả bản chất của hàng ngũ đời tận hiến trong Giáo Hội (đ. 573-576), bản chất của ba lời khuyên Phúc Âm (đ. 599-601), ý nghĩa của quyền bính (đ. 618-619). Dưới khía cạnh kỹ thuật tổ chức, Bộ Giáo Luật đã phân các tu hội thành ba loại : Dòng tu (Institutum religiosum, với bản chất được xác định ở đ. 607), Tu hội đời (Institutum saeculare, x. đ. 710), Tu đoàn tông đồ (Societas vitae apostolicae, x. đ 731). Ngoài ra hình thức cổ truyền ẩn sĩ (đ. 603) và trinh nữ tận hiến (đ. 604) đã được khôi phục lại.

Tuy rằng Bộ Giáo Luật bàn tới các tu sĩ rải rác trong bảy quyển, nhưng chúng tôi chỉ trích dịch đoạn văn chủ yếu nói về đời tu trì ở quyển thứ Hai (Dân Thiên Chúa), phần thứ ba dưới tựa đề : Các Hội Dòng tận hiến và các Tu đoàn tông đồ. (Để hiểu rõ hơn, xin đọc tập 3 trong bộ Giải thích Giáo Luật”: Các Hội dòng Tận hiến và Tu đoàn tông đồ” của Lm. Phan Tấn Thành, Học viện Đa Minh, 2012).

Bố cục gồm hai tiết :

– 1. Các Hội dòng tận hiến ;

– 2. Các Tu đoàn tông đồ.

Tiết I gồm có 3 thiên. Thiên thứ nhất gồm những quy tắc chung cho cả các Dòng tu lẫn các Tu hội đời ; thiên thứ hai riêng cho các Dòng tu, và thiên thứ ba riêng cho các Tu hội đời.

Thiên Một gồm các điểm sau đây :

– Những yếu tố cốt yếu về thần học và giáo luật của các Hội dòng tận hiến trong Giáo Hội (đ. 573-578).

– Việc thành lập, kết nạp, sát nhập, thống nhất, liên kết, liên minh, giải tán các Hội dòng (đ. 579-584).

– Việc tổ chức nội bộ của Hội dòng (đ. 585-587).

– Phân loại các Hội dòng chiếu theo tác vụ và tương quan với giáo quyền (đ. 588-595). Liên hệ với hàng giáo phẩm (đ. 590-595). Quyền bính của các bề trên (đ. 596).

– Điều kiện gia nhập (đ. 597). Nội dung của ba lời khuyên Phúc Âm (khiết tịnh, khó nghèo, vâng lời) và đời sống huynh đệ (đ. 598-602).

– Hình thức tận hiến qua đời ẩn tu (đ. 603) và trinh nữ (đ. 604) ; những hình thức mới.

Thiên Hai bàn về Dòng tu, dài hơn cả (gồm 103 điều). Sau khi đã trình bày những yếu tố thần học và pháp lý về các Dòng tu (đ. 607), thiên này được chia thành 8 chương.

– Chương I : Các nhà Dòng : việc thành lập và giải tán.

– Chương II : Việc quản trị trong Dòng : các Bề trên, Hội đồng cố vấn và Đại hội, kèm theo việc quản trị tài sản.

– Chương III : Việc thu nhận tuyển sinh và huấn luyện các phần tử (từ khi gia nhập, trải qua năm tập, các giai đoạn khấn tạm cho đến khi khấn vĩnh viễn).

– Chương IV : Các nghĩa vụ và quyền lợi của các Dòng và của các phần tử.

– Chương V : Hoạt động tông đồ của các Dòng.

– Chương VI : Các phần tử rời bỏ Dòng.

– Chương VII : Các tu sĩ được thăng chức Giám mục.

– Chương VIII : Các Hội nghị bề trên cao cấp.

Thiên Ba, về các Tu hội đời, gồm 21 điều (đ. 710-730), đề cập tới : bản chất (đ. 710-714) ; điều kiện sinh sống (đ. 715-716) ; việc cai trị nội bộ và quản trị tài sản (đ. 717-718) ; đời sống thiêng liêng của các phần tử (đ. 719) ; việc thu nhận và huấn luyện các phần tử (đ. 720-725) ; việc lìa bỏ tu hội (đ. 726-730).

Tiết II, về các Tu đoàn tông đồ, bàn đến : bản chất pháp lý (đ. 731) ; sự thành lập, phê chuẩn và giải tán các tu đoàn (đ. 732) và các nhà (đ. 733) ; việc quản trị (đ. 734) ; việc thu nhận và huấn luyện các phần tử, cũng như những nghĩa vụ và quyền lợi của họ (đ. 735-741) ; việc lìa bỏ tu đoàn (đ. 742-746).

——————————————

CÁC TU HỘI DÒNG TẬN HIẾN
VÀ CÁC TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ

TIẾT I : CÁC HỘI DÒNG TẬN HIẾN
THIÊN I
CÁC QUY TẮC CHUNG
CHO TẤT CẢ CÁC HỘI DÒNG TẬN HIẾN
Đ. 573 §1 Đời sống tận hiến qua việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm là một lối sống bền vững, nhờ đó các tín hữu theo sát Đức Ki-tô, dưới tác động của Thánh Thần, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa như Đấng đáng mến yêu tột bậc, ngõ hầu, một khi đã hiến thân, với một danh nghĩa mới và đặc biệt, cho việc tôn vinh Thiên Chúa, cho việc kiến thiết Giáo Hội và cho phần rỗi thế giới, họ nhắm tới đức ái hoàn thiện trong việc phục vụ nước Chúa, và trở thành dấu chỉ rực rỡ trong Giáo Hội tiên báo vinh quang trên trời.

§2 Các tín hữu được tự do chấp nhận lối sống ấy trong các hội dòng tận hiến đã được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội thiết lập theo giáo luật, bằng việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời, nhờ lời khấn hay các mối dây ràng buộc khác. Những người ấy kết hợp với Giáo Hội và mầu nhiệm Giáo Hội cách đặc biệt do đức ái mà các lời khuyên này đưa tới.

Đ. 574 §1 Hàng ngũ của những người tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm trong các hội dòng tận hiến thuộc về sức sống và sự thánh thiện của Giáo Hội ; do đó cần được hết mọi người trong Giáo Hội nâng đỡ và cổ võ.

§2 Thiên Chúa kêu gọi đặc biệt một số tín hữu vào hàng ngũ ấy, để họ hưởng nhờ hồng ân đặc biệt trong đời sống Giáo Hội và giúp ích cho sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội, theo mục tiêu và tinh thần của hội dòng.

Đ. 575 Các lời khuyên Phúc Âm, dựa trên giáo huấn và gương mẫu của Đức Ki-tô như vị Tôn Sư, là hồng ân của Chúa ban và Giáo Hội lĩnh nhận từ Đức Ki-tô và, nhờ ơn Người, Giáo Hội luôn luôn bảo toàn.
Đ. 576 Nhà chức trách có thẩm quyền trong Giáo Hội có nhiệm vụ giải thích các lời khuyên Phúc Âm, điều hành việc thi hành chúng qua các luật lệ, và thiết lập các lối sống bền vững bằng việc phê chuẩn theo giáo luật, cũng như lo liệu, trong phạm vi của mình, để các hội dòng tăng trưởng và phát triển theo tinh thần của sáng lập viên và theo các truyền thống lành mạnh.
Đ. 577 Trong Giáo Hội có rất nhiều hội dòng tận hiến với những linh ân khác nhau tuỳ theo ơn sủng được ban cho họ : thực vậy, họ theo sát Đức Ki-tô hoặc khi Người cầu nguyện, hoặc khi Người loan báo Nước Chúa, hoặc khi Người thi ân cho nhân loại, hoặc sống giữa người đời, nhưng luôn luôn làm theo ý của Chúa Cha.
Đ. 578 Tất cả mọi người phải trung thành duy trì chủ tâm và ý định của các vị sáng lập đã được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội châu phê, về bản chất, mục đích, tinh thần và đặc tính của mỗi hội dòng, cũng như về những truyền thống lành mạnh và tất cả những gì cấu tạo nên gia sản của hội dòng.
Đ. 579 Trong lãnh thổ của mình, các Giám mục giáo phận có thể thành lập các hội dòng tận hiến bằng nghị định hợp thức, miễn là sau khi đã bàn hỏi ý kiến của Toà Thánh.
Đ. 580 Việc kết nạp một hội dòng tận hiến với một hội dòng khác được dành cho nhà chức trách có thẩm quyền của hội dòng đứng kết nạp. Việc kết nạp luôn luôn phải duy trì sự tự trị của hội dòng được kết nạp.
Đ. 581 Việc phân chia tu hội thành từng phân chi dưới bất cứ danh xưng nào, việc thành lập các phân chi, sát nhập, hoặc thay đổi cương giới của các phân chi đã thành lập, đều thuộc về thẩm quyền của nhà chức trách của hội dòng, chiếu theo quy tắc của hiến pháp.
Đ. 582 Toà Thánh dành quyền sát nhập hay thống nhất các hội dòng tận hiến. Việc liên kết hay liên minh các hội dòng cũng được dành cho Toà Thánh.
Đ. 583 Trong các hội dòng tận hiến không được thay đổi các yếu tố đã được Toà Thánh châu phê khi không có phép Toà Thánh.
Đ. 584 Toà Thánh là thẩm quyền duy nhất có quyền giải tán một hội dòng. Toà Thánh cũng dành quyền định đoạt về tài sản của hội dòng ấy.
Đ. 585 Việc giải tán một phân chi của hội dòng thì thuộc về thẩm quyền của nhà chức trách của chính hội dòng.
Đ. 586 §1 Giáo luật nhìn nhận cho mỗi hội dòng được hưởng một sự tự trị chính đáng về nếp sống, nhất là trong việc cai trị, nhờ đó họ được hưởng một kỷ luật riêng trong Hội Thánh và có thể bảo tồn nguyên vẹn gia sản riêng đã nói ở điều 587.

§2 Bản quyền địa phương có bổn phận tôn trọng và bảo đảm sự tự trị ấy.

Đ. 587 §1 Để bảo vệ ơn kêu gọi và chân tướng của mỗi hội dòng cách trung thành hơn, bộ luật nền tảng hay hiến pháp của bất cứ hội dòng nào cũng cần phải chứa đựng những quy tắc nền tảng về việc cai trị hội dòng và kỷ luật của các phần tử, việc thu nhận và huấn luyện các phần tử, cũng như đối tượng riêng của các mối ràng buộc thánh, thêm vào những gì mà điều 578 đã ấn định phải duy trì.

§2 Bộ luật vừa nói phải được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội phê chuẩn, và chỉ có thể được thay đổi khi được thẩm quyền ấy thoả thuận.

§3 Trong bộ luật ấy cần phải dung hợp khéo léo các yếu tố thiêng liêng với các yếu tố pháp lý; nhưng không nên tăng gia các quy tắc khi không cần thiết.

§4 Các quy tắc khác, do nhà chức trách có thẩm quyền của hội dòng quy định, sẽ được thu thập cẩn thận trong các bộ luật khác. Các bộ luật này có thể được tuỳ nghi duyệt lại và thích ứng cho hợp với những đòi hỏi của nơi chốn và thời thế.

Đ. 588 §1 Hàng ngũ đời tận hiến, tự bản chất, không phải là giáo sĩ cũng chẳng phải là giáo dân.

§2 Một hội dòng được gọi là giáo sĩ khi nào, chiếu theo mục tiêu hay ý định mà vị sáng lập nhằm tới, hoặc chiếu theo truyền thống hợp lệ, hội dòng được đặt dưới sự điều khiển của các giáo sĩ, đảm nhận việc thi hành chức thánh, và được nhà chức trách Giáo Hội nhìn nhận như vậy.

§3 Một hội dòng được gọi là giáo dân khi được nhà chức trách Giáo Hội nhìn nhận như vậy. Dựa theo bản chất, đặc tính và mục tiêu của mình, hội dòng có một nhiệm vụ riêng – đã được xác định bởi vị sáng lập hay bởi truyền thống hợp lệ – theo đó không bao hàm việc thi hành chức thánh.

Đ. 589 Hội dòng tận hiến được coi là thuộc luật giáo hoàng nếu được Toà Thánh thành lập hay phê chuẩn do nghị định hợp thức. Hội dòng tận hiến được coi là thuộc luật giáo phận, nếu được Giám mục giáo phận thành lập và chưa nhận được nghị định phê chuẩn của Toà Thánh.
Đ. 590 §1 Các hội dòng tận hiến, xét vì đã đặc biệt dâng mình phục vụ Thiên Chúa và toàn thể Giáo Hội, nên phải phục tùng nhà chức trách tối cao của Giáo Hội một cách riêng biệt.

§2 Mỗi phần tử của các hội dòng có nghĩa vụ vâng lời Đức thánh cha như bề trên tối cao, kể cả chiếu theo mối ràng buộc thánh của đức vâng lời.

Đ. 591 Để lo liệu thiện ích của hội dòng và các nhu cầu của việc tông đồ cách hoàn hảo hơn, Đức thánh cha, chiếu theo quyền tối thượng trên toàn Giáo Hội và xét đến lợi ích chung, có thể miễn trừ các hội dòng tận hiến khỏi quyền cai trị của các Bản quyền sở tại, và đặt họ trực tiếp tuỳ thuộc một mình ngài hay một nhà chức trách khác trong Giáo Hội.
Đ. 592 §1 Để cổ võ sự thông hiệp giữa các hội dòng với Toà Thánh cách hoàn hảo hơn, tất cả các Bề trên tổng quyền phải gửi cho Toà Thánh một bản tường trình sơ lược về tình hình và đời sống hội dòng, theo cách thức và thời hạn do chính Toà Thánh định.

§2 Các Bề trên của mỗi hội dòng hãy cổ động để các văn kiện Toà Thánh liên can đến các phần tử được uỷ thác cho họ được am tường, và họ hãy theo dõi việc tuân hành các văn kiện ấy.

Đ. 593 Các hội dòng thuộc luật giáo hoàng tuỳ thuộc trực tiếp và duy nhất vào quyền Toà Thánh trong việc cai trị nội bộ và kỷ luật, tuy vẫn tôn trọng điều 586.
Đ. 594 Các hội dòng thuộc luật giáo phận được đặt dưới sự chăm sóc đặc biệt của Giám mục giáo phận, tuy vẫn tôn trọng điều 586.
Đ. 595 §1 Giám mục của trụ sở chính có thẩm quyền châu phê hiến pháp, chuẩn y các sự thay đổi đã được du nhập cách hợp lệ, ngoại trừ những điều mà Toà Thánh đã đặt tay vào ; Giám mục cũng có thẩm quyền giải quyết những vấn đề hệ trọng liên can tới toàn thể hội dòng song vượt quá quyền hạn của nhà chức trách nội bộ. Tuy nhiên, nếu hội dòng đã bành trướng qua nhiều giáo phận, thì Giám mục của trụ sở chính phải bàn hỏi các Giám mục giáo phận khác nữa.

§2 Trong trường hợp riêng biệt, Giám mục giáo phận có thể miễn chuẩn hiến pháp.

Đ. 596 §1 Các Bề trên và các đại hội của các hội dòng được hưởng quyền hành trên các phần tử; quyền hành ấy do luật phổ quát và hiến pháp xác định.

§2 Ngoài ra, trong các dòng tu giáo sĩ theo luật giáo hoàng, các Bề trên được hưởng quyền cai trị của Giáo Hội, ở toà ngoài cũng như toà trong.

§3 Đối với quyền hành nói ở triệt 1, sẽ áp dụng các quy định của các điều 131, 133 và 137-144.

Đ. 597 §1 Hết mọi người công giáo, có ý ngay, hội đủ các đức tính do luật phổ quát và luật riêng đòi hỏi, không vướng mắc các ngăn trở, có thể được thu nhận vào một hội dòng tận hiến.

§2 Không ai được thâu nhận mà không được chuẩn bị thích đáng.

Đ. 598 §1 Mỗi hội dòng phải quy định trong hiến pháp cách thức tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo, và vâng lời, trong lối sống của mình, chiếu theo đặc tính và cứu cánh riêng.

§2 Tất cả các phần tử không những phải tuân giữ trung thành và toàn vẹn các lời khuyên Phúc Âm, mà còn phải uốn nắn đời mình hợp với luật riêng của hội dòng, và như vậy cố gắng đạt tới sự trọn lành của hàng ngũ mình.

Đ. 599 Lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh chấp nhận vì Nước Trời, xét vì là dấu chỉ của thế giới tương lai và nguồn mạch phong nhiêu trù phú trong một con tim không chia sẻ, bao hàm nghĩa vụ tiết chế hoàn toàn trong sự độc thân.
Đ. 600 Lời khuyên Phúc Âm khó nghèo để bắt chước Đức Ki-tô, Đấng tuy giàu sang nhưng đã trở nên nghèo vì chúng ta, ngoài một nếp sống nghèo cả về thực chất lẫn tinh thần, cần cù và thanh đạm, không dính bén tài sản thế tục, còn mang kèm theo sự lệ thuộc và hạn chế trong việc sử dụng và định đoạt tài sản, chiếu theo quy tắc của luật riêng của từng hội dòng.
Đ. 601 Lời khuyên Phúc Âm vâng lời, được chấp nhận trong tinh thần tin yêu để theo Đức Ki-tô vâng lời cho đến chết, bó buộc ý chí phải tùng phục các Bề trên hợp pháp, khi họ thay mặt Thiên Chúa truyền khiến hợp theo hiến pháp riêng.
Đ. 602 Đời sống huynh đệ, với đặc điểm riêng thích hợp với mỗi hội dòng, nhờ đó các phần tử được kết hợp trong Đức Ki-tô dường như trong một gia đình đặc biệt, cần được xác định cách nào để trở nên một sự hỗ trợ cho tất cả các phần tử trong việc chu toàn ơn gọi của mỗi người. Do sự thông hiệp huynh đệ, được đâm rễ và xây dựng trên Đức ái, các phần tử phải trở nên gương mẫu của sự hoà giải đại đồng trong Đức Ki-tô.
Đ. 603 §1 Ngoài những hội dòng tận hiến ra, Giáo Hội còn nhìn nhận đời sống ẩn tu, trong đó các tín hữu dâng mình để ngợi khen Thiên Chúa và lo phần rỗi của thế giới qua việc tách biệt hơn khỏi trần thế, giữ thinh lặng cô tịch, cầu nguyện liên lỉ và hãm mình.

§2 Một ẩn sĩ được luật nhìn nhận như kẻ dâng mình cho Chúa trong đời tận hiến nếu họ công khai tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm, bằng lời khấn hay dây ràng buộc nào khác, trong tay Giám mục giáo phận và tuân theo một chương trình sinh sống dưới sự hướng dẫn của Giám mục.

Đ. 604 §1 Tương tự với những hình thức đời tận hiến là hàng các trinh nữ, tức những người tuyên bố ý định theo sát Đức Ki-tô, được Đức giám mục giáo phận cung hiến cho Thiên Chúa theo nghi thức phụng vụ được chuẩn y ; họ kết hôn cách thần bí với Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa và dâng mình phục vụ Giáo Hội.

§2 Các trinh nữ có thể lập hội để nhờ sự trợ giúp lẫn nhau, họ thực hiện ý định của họ cách trung thành hơn và chu toàn việc phục vụ Giáo Hội hợp với hàng ngũ của mình.

Đ. 605 Toà Thánh dành riêng cho mình việc châu phê các hình thức mới của đời tận hiến. Tuy vậy các Giám mục giáo phận hãy ra sức nhận định các hồng ân mới của đời tận hiến mà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội, và giúp đỡ những người khởi xướng để họ thực hiện các ý định cách mỹ mãn, và bảo vệ họ bằng những quy chế thích hợp, nhất là bằng cách áp dụng các quy tắc tổng quát chứa đựng trong phần này.
Đ. 606 Những gì đã định về các hội dòng và các phần tử của họ đều có giá trị ngang nhau cho cả hai phái nam nữ, trừ khi đã rõ cách nào khác do mạch văn hay do bản chất sự việc.
THIÊN II
CÁC DÒNG TU
Đ. 607 §1 Đời sống tu trì, xét vì là sự hiến dâng hoàn toàn bản thân, biểu lộ trong Giáo Hội cuộc kết hôn huyền diệu mà Thiên Chúa đã thiết lập như dấu chỉ của đời sau. Như vậy tu sĩ hoàn tất sự trao hiến toàn vẹn tựa như hy lễ dâng cho Thiên Chúa, nhờ đó tất cả cuộc đời của họ trở nên việc liên lỉ thờ phượng Thiên Chúa trong đức ái.

§2 Dòng tu là một xã hội trong đó các phần tử tuyên giữ các lời khấn công khai, trọn đời hay tạm thời, nhưng lặp lại khi mãn hạn tuỳ theo luật riêng, và sống chung đời huynh đệ.

§3 Việc các tu sĩ làm chứng công khai cho Đức Ki-tô và cho Giáo Hội bao hàm sự xa cách thế tục, theo một hình thức riêng thích hợp với đặc tính và mục tiêu của mỗi dòng.

CHƯƠNG I : CÁC NHÀ DÒNG
VIỆC THÀNH LẬP VÀ GIẢI TÁN CÁC NHÀ DÒNG

Đ. 608 Cộng đồng tu sĩ phải ở trong một nhà được thành lập hợp lệ, dưới quyền của Bề trên được chỉ định theo quy tắc của luật. Mỗi nhà phải có ít là một nguyện đường, tại đó cử hành và lưu trữ Thánh Thể như trung tâm đích thực của cộng đồng.
Đ. 609 §1 Các nhà của các dòng được thành lập do nhà chức trách có thẩm quyền chiếu theo hiến pháp, sau khi đã được Đức giám mục giáo phận thoả thuận bằng giấy tờ.

§2 Để thành lập một nữ đan viện, cần có thêm phép của Toà Thánh.

Đ. 610 §1 Khi thành lập các nhà dòng, cần để ý đến ích lợi của Giáo Hội và của dòng tu, và phải bảo đảm tất cả những gì cần thiết để các phần tử có thể sống đời tu thích đáng, đúng với mục đích riêng và tinh thần của dòng.

§2 Không nên lập một nhà dòng nếu không thể dự trù được các nhu cầu của các phần tử sẽ được chu cấp tương xứng.

Đ. 611 Sự thoả thuận của Giám mục giáo phận cho lập một nhà dòng bao hàm quyền lợi :
  1. được sống theo đặc tính và mục đích riêng của dòng ;
  2. được thi hành các công tác riêng của dòng hợp với quy tắc của luật, tuy phải tôn trọng các điều kiện đặt ra trong sự thoả thuận ;
  3. đối với dòng giáo sĩ, được có một nhà thờ, miễn là giữ quy định của điều 1215 triệt 3, và được thi hành các tác vụ chức thánh, hợp với các điều luật định.
Đ. 612 Cần phải có sự thoả thuận của Giám mục giáo phận khi nhà dòng được sử dụng vào một hoạt động tông đồ khác với hoạt động đã định khi lập nhà. Nhưng sự thoả thuận ấy không cần nếu sự thay đổi chỉ liên hệ tới tổ chức và kỷ luật nội bộ, miễn là tôn trọng các luật lệ của việc thành lập.
Đ. 613 §1 Nhà dòng của các kinh sĩ và đan sĩ ở dưới sự cai quản và săn sóc của Bề trên riêng được gọi là tự trị (sui juris), trừ khi hiến pháp ấn định cách khác.

§2 Theo luật, Bề trên của một nhà tự trị được coi là Bề trên cao cấp.

Đ. 614 Các nữ đan viện được kết nạp với một dòng nam thì vẫn duy trì cách sống và cai quản riêng chiếu theo hiến pháp. Các quyền lợi và nghĩa vụ hỗ tương cần được xác định thế nào để việc kết hợp có thể mang lại thiện ích thiêng liêng cho đôi bên.
Đ. 615 Giám mục giáo phận được uỷ thác trông coi đặc biệt, chiếu theo quy tắc của luật, đan viện tự trị nào mà ngoài Bề trên riêng, họ không còn Bề trên cấp cao nào khác, và cũng không được kết hợp với một dòng nam, vì đó mà bề trên của dòng nam được hưởng trên đan viện một quyền hành thực sự, được xác định trong hiến pháp.
Đ. 616 §1 Một nhà dòng đã được lập hợp lệ có thể bị giải tán do Bề trên tổng quyền theo quy tắc hiến pháp, sau khi đã bàn hỏi Giám mục giáo phận. Các tài sản của nhà bị giải tán sẽ do luật riêng dự liệu, với điều kiện là phải tôn trọng ý muốn của các người sáng lập và dâng cúng, cũng như các quyền lợi thủ đắc hợp lệ.

§2 Toà Thánh dành quyền giải tán nhà duy nhất của dòng. Trong trường hợp này, Toà Thánh cũng dành quyền định đoạt tài sản của nhà ấy.

§3 Sự giải tán một đan viện tự trị nói ở điều 613, là việc thuộc thẩm quyền của tổng hội, trừ khi hiến pháp định cách khác.

§4 Sự giải tán một nữ đan viện tự trị là việc thuộc quyền của Toà Thánh, tuy phải tuân theo các quy tắc hiến pháp trong vấn đề tài sản.

CHƯƠNG II : VIỆC CAI TRỊ TRONG DÒNG

Mục I : Các Bề trên và Hội đồng cố vấn

Đ. 617 Các Bề trên thi hành nhiệm vụ của mình và hành sử quyền hành chiếu theo quy tắc của luật phổ quát và luật riêng.
Đ. 618 Trong tinh thần phục vụ, các Bề trên hãy hành sử quyền hành đã lãnh nhận từ Thiên Chúa qua tác vụ của Giáo Hội. Vì vậy, các vị hãy tỏ ra ngoan ngoãn với ý Chúa trong khi chu toàn nhiệm vụ, cai trị các người thuộc quyền như những người con của Chúa, biết tôn trọng nhân vị của các người ấy qua việc xúc tiến sự vâng lời tự nguyện, vui lòng lắng nghe họ và cổ suý sáng kiến của họ nhằm thiện ích của dòng và của Giáo Hội, tuy vẫn duy trì quyền của Bề trên quyết định và truyền khiến điều gì phải làm.
Đ. 619 Các Bề trên hãy tận tâm thi hành nhiệm vụ của mình, và cùng với các phần tử được giao phó, hãy tìm cách xây dựng trong Đức Ki-tô một cộng đồng huynh đệ, trong đó mọi người tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Vì vậy các Bề trên hãy nuôi dưỡng các phần tử với lương thực thường xuyên của Lời Chúa và dẫn đưa họ tới cử hành phụng vụ. Các Bề trên hãy làm gương cho họ về việc trau dồi nhân đức và tuân hành lề luật và truyền thống của Dòng ; chu cấp tương xứng các nhu cầu của họ, săn sóc và viếng thăm các người bệnh, sửa trị các người ngỗ nghịch, an ủi những người nhút nhát, nhẫn nại với hết mọi người.
Đ. 620 Bề trên cao cấp là những Bề trên cai trị toàn dòng, một tỉnh của dòng, hay một phần tương đương với tỉnh hay một nhà tự trị, cũng như các đại diện của Bề trên ấy. Thêm vào đó là các Viện phụ tổng quyền và các Bề trên của hội dòng đan tu, tuy những vị này không có tất cả quyền hành mà luật chung dành cho các Bề trên cao cấp.
Đ. 621 Được gọi là tỉnh dòng, một tổng hợp gồm nhiều nhà với nhau, đặt dưới một Bề trên, họp thành một phần trực tiếp của dòng, được nhà chức trách hợp pháp thành lập theo giáo luật.
Đ. 622 Bề trên tổng quyền có quyền hành trên mọi tỉnh dòng, nhà dòng và tu sĩ, chiếu theo luật. Các Bề trên khác có quyền hành trong giới hạn của nhiệm vụ.
Đ. 623 Để các phần tử có thể được đặt hay bầu cách hữu hiệu vào một nhiệm vụ, họ cần trải qua một thời gian thích đáng kể từ lúc khấn trọn đời hay vĩnh viễn. Thời gian ấy được ấn định do luật riêng hoặc, nếu là Bề trên cao cấp, do hiến pháp.
Đ. 624 §1 Chức vụ Bề trên phải được thiết lập với một nhiệm kỳ rõ rệt và thích hợp, tuỳ theo bản chất và nhu cầu của dòng, trừ khi hiến pháp định cách khác về Bề trên tổng quyền và Bề trên nhà tự trị.

§2 Luật riêng phải xác định các quy tắc thích hợp để các người làm Bề trên, được giao với nhiệm kỳ xác định, không ở trong chức vụ cai trị quá lâu mà không cách quãng.

§3 Trong khi tại chức, họ có thể bị bãi chức và thuyên chuyển sang chức vụ khác vì những lý do mà luật riêng đã định.

Đ. 625 §1 Bề trên tổng quyền được chỉ định bằng việc bầu cử theo quy tắc của hiến pháp.

§2 Việc bầu cử các Bề trên đan viện tự trị nói ở điều 615 và các Bề trên tổng quyền của dòng thuộc luật giáo phận sẽ được chủ toạ bởi Giám mục tại nơi trụ sở chính.

§3 Các Bề trên khác được thiết lập theo quy tắc của hiến pháp, bằng cách là nếu họ được bầu, thì cần được phê chuẩn do Bề trên cao cấp có thẩm quyền ; nếu họ được Bề trên đặt, thì trước đó cần phải có sự thăm dò ý kiến cách xứng hợp.

Đ. 626 Các Bề trên khi trao chức vụ, và các phần tử khi bầu cử, phải giữ các quy tắc của luật phổ quát và luật riêng, và phải tránh hết mọi hình thức lạm dụng và thiên tư và, không nhắm gì khác ngoài Thiên Chúa và thiện ích của dòng, họ hãy đặt hay bầu những người mà họ xét thấy trong Chúa thực là xứng đáng và có khả năng. Ngoài ra trong các cuộc bầu cử, họ hãy tránh việc vận động phiếu trực tiếp hay gián tiếp, cho mình hay cho người khác.
Đ. 627 §1 Theo quy tắc hiến pháp, các Bề trên phải có hội đồng cố vấn riêng, và Bề trên hãy nhờ đến sự cộng tác của họ trong khi thi hành chức vụ.

§2 Ngoài những trường hợp luật chung đã định, luật riêng phải xác định những trường hợp nào đòi hỏi sự thoả thuận hay tham khảo để hành vi được hữu hiệu theo quy tắc của điều 127.

Đ. 628 §1 Các Bề trên nào được chỉ định vào nhiệm vụ kinh lý theo luật riêng thì phải viếng thăm các nhà và các phần tử được giao phó cho họ, vào thời kỳ đã định và chiếu theo các quy tắc của luật riêng.

§2 Giám mục giáo phận có quyền và nghĩa vụ kinh lý, kể cả về phần kỷ luật tu trì :

  1. các đan viện tự trị nói ở điều 615 ;
  2. mỗi nhà của dòng thuộc luật giáo phận ở trong lãnh thổ của ngài.

§3 Đối với người kinh lý, các phần tử hãy tỏ ra lòng tín nhiệm ; nếu được hỏi điều gì hợp pháp, thì phải trả lời theo sự thật và bác ái. Cấm không ai được làm cách nào để các phần tử thoát khỏi nghĩa vụ kinh lý, hoặc ngăn trở mục tiêu của việc kinh lý bằng cách nào khác.

Đ. 629 Các Bề trên phải cư ngụ trong nhà của mình và không được vắng nhà, trừ những trường hợp đã được định bởi quy tắc của luật riêng.
Đ. 630 §1 Các Bề trên hãy nhìn nhận cho các phần tử sự tự do thích đáng trong việc lãnh bí tích thống hối và linh hướng, miễn là bảo toàn kỷ luật của dòng.

§2 Các Bề trên, chiếu theo luật dòng, hãy lưu tâm sao cho có sẵn các vị giải tội cho các phần tử, để họ có thể năng xưng tội.

§3 Trong các nữ đan viện, các nhà huấn luyện, các cộng đoàn đông tu sĩ không giáo sĩ, thì nên có các vị giải tội thường xuyên do Bản quyền sở tại phê chuẩn, sau khi đã hỏi ý kiến của cộng đoàn. Tuy nhiên họ không buộc phải xưng tội với các vị ấy.

§4 Các Bề trên đừng nên nghe các thuộc cấp xưng tội, trừ khi chính các phần tử tự ý yêu cầu.

§5 Các phần tử hãy đến với các Bề trên với lòng tin tưởng, và có thể thong dong và tự ý cởi mở tâm hồn. Tuy nhiên cấm các Bề trên không được bằng bất cứ cách nào xui giục họ tỏ bày lương tâm cho mình.

Mục II : Các đại hội

Đ. 631 §1 Tổng hội giữ quyền bính tối cao trong dòng chiếu theo các quy tắc của hiến pháp. Tổng hội cần được cấu tạo cách nào để có thể thay mặt toàn dòng, và như vậy trở nên dấu chỉ thực sự của sự duy nhất trong bác ái. Tổng hội có nhiệm vụ chính là : bảo vệ gia sản của dòng đã nói ở điều 578, và xúc tiến việc thích nghi và canh tân hợp với gia sản ấy ; bầu cử Bề trên tổng quyền ; bàn các vấn đề hệ trọng ; cũng như ban hành các quy tắc có tính cách bó buộc tất cả mọi phần tử.

§2 Hiến pháp phải xác định thành phần và phạm vi quyền hành của tổng hội. Luật riêng cũng sẽ xác định rõ hơn thủ tục tiến hành của tổng hội, nhất là về các việc bầu cử và cách nghị sự.

§3 Dựa theo các quy tắc đã định trong luật riêng, không những các tỉnh dòng và các cộng đồng địa phương, mà cả mỗi phần tử đều có thể tự do gửi thỉnh nguyện và đề nghị lên tổng hội.

Đ. 632 Luật riêng phải xác định tỉ mỉ những gì thuộc thẩm quyền của các đại hội khác hay những hiệp nghị tương tự của dòng, nghĩa là : về bản chất, quyền hạn, thành phần, cách tiến hành và thời gian cử hành đúng.
Đ. 633 §1 Các cơ quan tham luận hay cố vấn phải trung thành thi hành nhiệm vụ đã được trao phó dựa trên quy tắc của luật phổ quát và luật riêng. Lại nữa, các cơ quan ấy, tuỳ cách thức riêng, hãy biểu lộ mối quan tâm và tham gia của tất cả các phần tử vào thiện ích chung của dòng hay của cộng đồng.
§2 Trong việc thành lập và sử dụng các phương tiện tham luận hay cố vấn ấy, cần phải thận trọng khôn khéo. Sự điều hành các phương tiện ấy cũng phải phù hợp với đặc tính và mục đích của dòng.

Mục III : Tài sản và sự quản trị tài sản

Đ. 634 §1 Các dòng, tỉnh và nhà, xét vì là các pháp nhân theo luật, có khả năng thủ đắc, chấp hữu, quản trị và chuyển nhượng tài sản, trừ khi khả năng ấy đã bị loại trừ hay hạn chế do chính hiến pháp.

§2 Tuy nhiên, phải tránh bất cứ hình thức xa hoa nào, cũng như tính cách vô độ trong việc trục lợi và tích luỹ tài sản.

Đ. 635 §1 Các tài sản của các dòng, xét vì là tài sản Giáo Hội, nên cũng được chi phối bởi các quy định của quyển V về tài sản Giáo Hội, trừ khi đã minh thị dự liệu cách khác.

§2 Tuy nhiên, mỗi dòng phải ấn định các quy tắc thích hợp về sử dụng và quản trị tài sản, nhờ đó sự khó nghèo, hợp với đặc tính của dòng, được cổ võ, bảo vệ và biểu lộ.

Đ. 636 §1 Trong mỗi dòng cũng như trong mỗi tỉnh có một Bề trên cao cấp đứng đầu, phải có một người quản lý khác biệt với Bề trên cao cấp. Quản lý được bổ nhiệm chiếu theo quy tắc hiến pháp, và điều hành việc quản trị tài sản dưới sự hướng dẫn của Bề trên liên hệ. Nếu có thể được, cả trong các cộng đồng địa phương cũng nên có một quản lý khác biệt với Bề trên địa phương.

§2 Vào thời kỳ và theo cách thức do luật riêng ấn định, các quản lý và các quản trị viên khác phải trình sổ sách quản trị cho nhà chức trách có thẩm quyền.

Đ. 637 Các đan viện tự trị nói ở điều 615 cần phải trình bày sổ sách lên Bản quyền sở tại mỗi năm một lần. Ngoài ra Bản quyền sở tại có quyền được thông tri về tình hình kinh tế của mỗi nhà dòng thuộc luật giáo phận.
Đ. 638 §1 Trong khuôn khổ của luật phổ quát, luật riêng có nhiệm vụ xác định những hành vi nào vượt quá mục đích và thể thức của hành vi quản trị thông thường ; luật riêng cũng phải xác định những gì cần thiết để cho hành vi quản trị ngoại thường có hiệu lực.

§2 Các chi tiêu và các hành vi quản trị thông thường có thể được thực hiện cách hữu hiệu không những do các Bề trên mà cả do các viên chức đã được luật riêng chỉ định vào vai trò ấy, trong giới hạn nhiệm vụ của mình.

§3 Để được hữu hiệu, việc chuyển nhượng và bất cứ nghiệp vụ nào khiến cho điều kiện tài sản của pháp nhân bị thiệt thòi, cần phải có phép bằng giấy tờ của Bề trên có thẩm quyền, với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn. Ngoài ra cần phải xin phép Toà Thánh nếu là một nghiệp vụ vượt quá số tiền đã được Toà Thánh ấn định cho từng vùng, hoặc nếu là các đồ vật đã biếu Giáo Hội nhằm thực thi một lời khấn, hoặc nếu là các đồ vật quý giá vì giá trị nghệ thuật hay lịch sử.

§4 Ngoài ra, các đan viện tự trị nói ở điều 615 và các dòng thuộc luật giáo phận còn cần sự thoả thuận bằng giấy tờ của Bản quyền sở tại nữa.

Đ. 639 §1 Nếu một pháp nhân mắc nợ và nghĩa vụ, cho dù đã có phép của Bề trên, thì pháp nhân ấy phải lãnh trách nhiệm.

§2 Nếu một phần tử mắc nợ và nghĩa vụ dựa trên tài sản riêng tư của mình với phép Bề trên, thì chính đương sự phải đích thân chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu đương sự thực hiện một nghiệp vụ cho dòng do uỷ nhiệm của Bề trên, thì dòng chịu trách nhiệm.

§3 Nếu một tu sĩ kết ước không có phép của Bề trên, thì chính đương sự phải đích thân lãnh trách nhiệm, chứ không phải pháp nhân.

§4 Tuy vậy, luôn luôn có thể sử dụng tố quyền để đòi lại người đã hưởng lợi lộc tài sản nhờ việc kết ước.

§5 Các Bề trên dòng hãy thận trọng đừng cho phép kết nợ : trừ khi biết chắc chắn rằng với lợi tức thường xuyên, họ có thể trả tiền lời và hoàn lại số vốn trong thời hạn không quá lâu, bằng cách trả dần.

Đ. 640 Các dòng tu, chiếu theo hoàn cảnh địa phương, hãy cố gắng nêu cao chứng tá phần nào cách tập thể về bác ái và khó nghèo ; tuỳ theo khả năng, họ hãy dùng tài sản để đóng góp vào nhu cầu của Giáo Hội và giúp đỡ người nghèo.

CHƯƠNG III : VIỆC THU NHẬN CÁC TUYỂN SINH
VÀ HUẤN LUYỆN CÁC PHẦN TỬ

Mục I : Việc thu nhận vào tập viện

Đ. 641 Việc thu nhận các tuyển sinh thuộc thẩm quyền của các Bề trên cao cấp, chiếu theo các quy tắc của luật riêng.
Đ. 642 Các Bề trên hãy cẩn thận ý tứ, chỉ nên thu nhận những ai đã đủ tuổi cần thiết, có sức khoẻ tính nết thích hợp, các đức tính đầy đủ của kẻ trưởng thành hầu có thể theo đuổi nếp sống tu trì riêng biệt của dòng. Nếu cần, việc chứng minh sức khoẻ, tính nết và sự trưởng thành có thể nhờ đến các chuyên viên, miễn là giữ các quy tắc của điều 220.
Đ. 643 §1 Việc thâu nhận những người sau đây sẽ vô hiệu :
  1. ai chưa tới mười bảy tuổi trọn ;
  2. người đã lập gia đình, bao lâu hôn thú còn hiệu lực ;
  3. kẻ hiện đang bị ràng buộc với một hội dòng tận hiến hay tu đoàn tông đồ, đừng kể trường hợp dự liệu ở điều 684 ;
  4. kẻ vào dòng vì vũ lực, sợ hãi trầm trọng hay lường gạt ; hoặc kẻ nào mà Bề trên phải nhận cũng với tình trạng tương tự ;
  5. kẻ giấu diếm việc mình đã gia nhập một hội dòng tận hiến hay một tu đoàn tông đồ ;

§2 Luật riêng có thể thiết lập các ngăn trở khác của việc thu nhận, kể cả chi phối sự hữu hiệu, hoặc đặt thêm các điều kiện khác.

Đ. 644 Các Bề trên không được thu nhận làm tập sinh : các giáo sĩ giáo phận trước khi hỏi ý Bản quyền riêng của đương sự ; hoặc những người mắc nợ nần không trả nổi.
Đ. 645 §1 Các tuyển sinh, trước khi được nhận vào năm tập, cần phải xuất trình giấy chứng nhận đã lãnh bí tích rửa tội và thêm sức, cũng như chứng nhận tình trạng thong dong.

§2 Nếu tuyển sinh là giáo sĩ, hoặc đã được thu nhận vào một hội dòng tận hiến khác, hay một tu đoàn tông đồ hoặc chủng viện, thì cần thêm giấy chứng nhận của bản quyền sở tại liên hệ hoặc của Bề trên cao cấp của hội dòng, tu đoàn hay của giám đốc chủng viện.

§3 Luật riêng có thể đòi hỏi các tài liệu khác chứng minh tuyển sinh có khả năng và không mắc ngăn trở.

§4 Nếu thấy là cần, các Bề trên cũng có thể thu thập tin tức cách khác, cho dù phải giữ kín.

Mục II : Năm tập và việc huấn luyện tuyển sinh

Đ. 646 Mục tiêu của năm tập, khởi đầu của đời sống trong dòng, là để các tập sinh hiểu rõ hơn ơn gọi thiên triệu, cách riêng ơn gọi đặc biệt của dòng, thử nghiệm lối sống của dòng, rèn luyện lòng trí của mình theo tinh thần của dòng, cũng như được trắc nghiệm về ý định và khả năng của mình.
Đ. 647 §1 Việc thành lập, di chuyển và giải tán tập viện phải được thực hiện do nghị định, bằng giấy tờ, của bề trên tổng quyền với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn.

§2 Để được hữu hiệu, năm tập phải được thực hiện trong một nhà được chỉ định cách hợp lệ để làm tập viện. Trong trường hợp đặc biệt và ngoại lệ, Bề trên tổng quyền, với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn, có thể cho phép một tuyển sinh qua năm tập tại một nhà khác của dòng, dưới sự điều khiển của một tu sĩ từng trải, giữ vai trò của giám tập.

§3 Bề trên cao cấp có thể cho phép đoàn tập sinh lưu trú một thời gian tại một nhà khác của dòng do chính vị ấy chỉ định.

Đ. 648 §1 Để được hữu hiệu, năm tập phải kéo dài mười hai tháng trong chính cộng đồng tập viện, trừ trường hợp quy định ở điều 647, triệt 3.

§2 Để kiện toàn việc huấn luyện các tập sinh, hiến pháp có thể quy định thêm vào thời gian nói ở triệt 1, một hay nhiều thời gian thực tập tông đồ ở ngoài cộng đồng tập viện.

§3 Năm tập không được kéo dài quá hai năm.

Đ. 649 §1 Đừng kể những quy tắc của các điều 647, triệt 3 và 648, triệt 2, sự vắng mặt khỏi tập viện quá ba tháng, dù liên tục hay cách quãng, sẽ làm năm tập vô hiệu. Sự vắng mặt quá mười lăm ngày phải được bù lại.

§2 Với phép của Bề trên cao cấp, việc khấn lần đầu có thể dời lên trước, nhưng không được quá mười lăm ngày.

Đ. 650 §1 Mục đích của năm tập đòi hỏi các tập sinh phải được huấn luyện dưới sự điều khiển của một giám sư, dựa theo chương trình huấn luyện mà luật riêng đã định.

§2 Việc điều hành các tập sinh dành riêng hoàn toàn cho giám sư, dưới quyền hành của các Bề trên cao cấp.

Đ. 651 §1 Giám tập phải là phần tử của dòng, đã khấn trọn đời và được chỉ định hợp lệ.

§2 Nếu cần, có thể đặt thêm các phụ tá giám sư. Những người phụ tá tuỳ thuộc giám sư trong việc điều khiển tập viện và chương trình huấn luyện.

§3 Những người đảm trách việc huấn luyện tập sinh phải là những phần tử đã được chuẩn bị chu đáo, và không phải bận bịu với các công tác khác, ngõ hầu có thể chu toàn phận sự cách bền vững và có hiệu quả.

Đ. 652 §1 Giám tập và các vị phụ tá có nhiệm vụ nhận định và trắc nghiệm ơn gọi của các tập sinh ; rèn luyện họ dần dần để sống đời trọn lành theo bản chất của dòng.

§2 Các tập sinh phải được hướng dẫn để phát huy các đức tính nhân bản và Ki-tô giáo. Họ cần được đưa vào đường trọn lành sung mãn nhờ việc cầu nguyện và từ bỏ mình. Họ cần được chỉ bảo cách chiêm ngắm mầu nhiệm cứu chuộc, đọc và suy gẫm Kinh Thánh. Họ cần được chuẩn bị vào sự thờ phượng Chúa trong phụng vụ. Họ cần được học hỏi về đời sống tận hiến cho Thiên Chúa và cho nhân loại trong Đức Ki-tô qua các lời khuyên Phúc Âm. Họ cần được dạy dỗ về đặc tính, tinh thần, mục đích, kỷ luật, lịch sử, đời sống của dòng, và cần được thấm nhuần lòng yêu mến Giáo Hội cùng các vị chủ chăn Giáo Hội.

§3 Các tập sinh, ý thức trách nhiệm của mình, hãy cộng tác tích cực với giám sư để đáp lại ơn Chúa gọi một cách trung thành.

§4 Về phía mỗi phần tử của dòng, họ hãy tìm cách hợp tác vào việc huấn luyện tập sinh bằng gương mẫu đời sống và bằng lời cầu nguyện.

§5 Năm tập, theo như điều 648, triệt 1 đã định, phải được dành riêng cho việc huấn luyện. Vì vậy các tập sinh không nên bận rộn với việc học hành và công tác nào khác không giúp trực tiếp vào việc huấn luyện ấy.

Đ. 653 §1 Tập sinh có thể tự do bỏ dòng. Nhà chức trách có thẩm quyền trong dòng cũng có thể loại bỏ tập sinh.

§2 Khi mãn thời gian tập, tập sinh sẽ được thâu nhận khấn tạm nếu được xét thấy là có khả năng, còn không, thì sẽ bị loại. Nếu còn hoài nghi về khả năng, Bề trên cao cấp có thể kéo dài thời gian thử luyện, dựa theo luật riêng, nhưng không được quá sáu tháng.

Mục III : Sự tuyên khấn

Đ. 654 Do việc tuyên khấn, các phần tử khấn hứa công khai giữ ba lời khuyên Phúc Âm. Họ được tận hiến cho Chúa qua tác vụ của Giáo Hội, được gia nhập vào dòng, với những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định.
Đ. 655 Việc khấn tạm phải được thực hiện trong kỳ hạn mà luật riêng ấn định, không dưới ba năm và không trên sáu năm.
Đ. 656 Để việc khấn tạm được hữu hiệu, thì cần :
  1. người khấn đã được ít là mười tám tuổi trọn ;
  2. năm tập hữu hiệu ;
  3. được thu nhận cách thong dong và hợp luật do Bề trên có thẩm quyền, với ý kiến của hội đồng cố vấn ;
  4. phát biểu ra ngoài, và không bị ảnh hưởng của vũ lực, sợ hãi trầm trọng hay lường gạt ;
  5. được Bề trên hợp pháp, hoặc đích thân hoặc nhờ người khác, tiếp nhận.
Đ. 657 §1 Khi đã mãn kỳ hạn khấn, tu sĩ nào tự ý xin và được xét thấy có khả năng thì sẽ được nhận lặp lại lời khấn hoặc khấn trọn đời. Nếu không thì phải bỏ dòng.

§2 Tuy nhiên, nếu thấy tiện, Bề trên có thẩm quyền, tuỳ theo luật riêng, có thể kéo dài thời gian khấn tạm, với điều kiện là tất cả thời gian mà một phần tử bị ràng buộc bởi lời khấn tạm không được quá chín năm.

§3 Việc tuyên khấn vĩnh viễn có thể dời lên trước kỳ hạn khi có lý do chính đáng, nhưng không được quá ba tháng.

Đ. 658 Đừng kể các điều kiện đã nói ở các điều 656, số 3,4 và 5, cùng các điều kiện khác mà luật riêng thêm vào, thì, để việc tuyên khấn vĩnh viễn được hữu hiệu, cần người khấn :
  1. đã được ít là hai mươi mốt tuổi trọn ;
  2. đã tuyên khấn tạm thời ít là ba năm, miễn là không phương hại đến điều 657, triệt 3.

Mục IV : Việc huấn luyện các tu sĩ

Đ. 659 §1 Sau khi đã tuyên khấn lần đầu, việc huấn luyện tất cả các phần tử trong mỗi dòng phải được tiếp tục, nhằm giúp họ sống đời tu riêng của dòng cách sung mãn hơn và chu toàn sứ mạng của dòng cách hoàn hảo hơn.

§2 Bởi vậy, luật riêng phải ấn định chương trình và thời hạn của việc huấn luyện ấy, xét theo các nhu cầu của Giáo Hội, và các điều kiện của nhân loại và thời cuộc, theo như mục đích và đặc tính của dòng đòi hỏi.

§3 Việc huấn luyện các phần tử chuẩn bị lãnh chức thánh được chi phối bởi chương trình học vấn riêng của dòng.

Đ. 660 §1 Sự huấn luyện phải có hệ thống, thích hợp với trình độ của các phần tử, bao gồm lãnh vực thiêng liêng và tông đồ, đạo lý và thực hành. Nếu thấy tiện, có thể lấy các bằng cấp đạo và đời.

§2 Trong suốt thời gian huấn luyện này, đừng nên trao cho các phần tử những chức vụ và công tác nào làm ngăn trở việc huấn luyện.

Đ. 661 Các tu sĩ hãy chăm chỉ tiếp tục việc huấn luyện thiêng liêng, đạo lý và thực hành trong suốt cuộc đời. Các Bề trên hãy cung cấp cho họ các phương tiện và thời giờ cần thiết cho việc ấy.

CHƯƠNG IV : CÁC NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI
CỦA CÁC DÒNG VÀ CỦA CÁC PHẦN TỬ

Đ. 662 Các tu sĩ hãy đặt mẫu mực tối cao của đời sống nơi việc theo Đức Ki-tô, như đã được đề ra trong Phúc Âm và diễn tả trong hiến pháp của dòng mình.
Đ. 663 §1 Sự chiêm ngắm các thực tại thần linh và sự kết hợp liên lỉ với Thiên Chúa phải là nhiệm vụ đầu tiên và chính yếu của hết mọi tu sĩ.

§2 Các phần tử hãy cố gắng hết sức để hằng ngày tham dự lễ Mi-sa, lãnh nhận Mình Thánh Chúa và thờ lạy chính Thiên Chúa hiện diện trong bí tích Thánh Thể.

§3 Họ hãy để dành thời giờ cho việc đọc Sách Thánh và tâm nguyện ; cử hành xứng đáng phụng vụ giờ kinh theo quy định của luật riêng – đừng kể nghĩa vụ của các giáo sĩ đã nói ở điều 276, triệt 2 số 3 – ; và thực hành các việc đạo đức khác.

§4 Đối với Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, gương mẫu và Người che chở đời sống tận hiến, họ hãy tỏ lòng sùng kính đặc biệt, kể cả bằng việc đọc kinh Mân Côi.

§5 Họ hãy trung thành giữ việc cấm phòng hàng năm.

Đ. 664 Các tu sĩ hãy ra sức hoán cải nội tâm về với Chúa, xét mình hằng ngày và năng lãnh bí tích thống hối.
Đ. 665 §1 Các tu sĩ hãy ở nhà dòng của mình và giữ đời sống chung. Họ không được vắng nhà nếu không có phép của Bề trên. Nếu phải vắng nhà lâu ngày, thì Bề trên cao cấp, với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn và với lý do chính đáng, có thể cho phép một phần tử sống ngoài nhà của dòng, nhưng không quá một năm, trừ khi vì lý do chữa bệnh, học hành hay hoạt động tông đồ nhân danh dòng.

§2 Các Bề trên hãy ân cần tìm kiếm phần tử nào vắng nhà cách bất hợp pháp với chủ ý thoát khỏi quyền hành Bề trên ; Bề trên hãy giúp đỡ họ trở về và bền đỗ với ơn gọi của mình.

Đ. 666 Trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, các tu sĩ phải giữ sự thận trọng cần thiết, tránh những gì có hại đến ơn gọi riêng và nguy hiểm cho đức khiết tịnh của người tận hiến.
Đ. 667 §1 Trong tất cả mọi nhà dòng phải giữ nội vi, do luật riêng ấn định phù hợp với đặc tính và sứ mạng của dòng. Luôn luôn phải dành riêng một vài phần của nhà dòng chỉ cho các phần tử.

§2 Luật nội vi phải được giữ ngặt hơn trong các đan viện sống đời chiêm niệm.

§3 Các nữ đan viện sống đời thuần tuý chiêm niệm phải giữ nội vi giáo hoàng, nghĩa là theo các quy tắc do Toà Thánh đã ra. Các nữ đan viện khác hãy giữ nội vi thích ứng với đặc tính riêng đã được xác định trong hiến pháp.

§4 Khi có lý do chính đáng, Giám mục giáo phận có năng quyền vào trong nội vi của các nữ đan viện toạ lạc trong lãnh thổ giáo phận. Khi có lý do trầm trọng, giám mục giáo phận, với sự đồng ý của Bề trên, có năng quyền cho phép những người khác vào trong nội vi, và cho các nữ đan tu ra khỏi nội vi trong thời gian thực là cần thiết.

Đ. 668 §1 Trước khi tuyên khấn lần đầu, các phần tử phải nhượng lại việc quản lý tài sản riêng cho ai mà mình muốn ; và nếu hiến pháp không nói gì khác, thì họ được tự do định đoạt về việc sử dụng và hưởng dụng các tài sản ấy. Ít là trước khi khấn vĩnh viễn, các phần tử phải làm chúc thư, với giá trị đối với cả dân luật.

§2 Họ cần có phép Bề trên có thẩm quyền, chiếu theo quy tắc của luật riêng, để thay đổi các định đoạt nói trên khi có lý do chính đáng, cũng như để thi hành bất kỳ hành vi nào trong phạm vi tài sản.

§3 Bất cứ vật gì tu sĩ thủ đắc do công lao riêng hoặc với danh nghĩa của dòng thì thủ đắc cho dòng. Những gì tu sĩ nhận được bằng bất cứ cách nào với danh nghĩa hưu bổng, trợ cấp và bảo hiểm thì được thủ đắc cho dòng, trừ khi luật riêng ấn định cách khác.

§4 Kẻ nào phải khước từ hoàn toàn các tài sản chiếu theo bản chất của dòng, thì phải làm sự khước từ ấy trước khi khấn vĩnh viễn, với hiệu lực kể từ ngày khấn. Nếu có thể được, việc từ khước nên làm theo thể thức có giá trị trước dân luật. Điều này cũng áp dụng với người nào ước ao khước từ toàn phần hay bán phần các tài sản khi khấn vĩnh viễn, chiếu theo luật riêng, với phép của Bề trên tổng quyền.

§5 Người nào do lời khấn đã khước từ hoàn toàn các tài sản chiếu theo bản chất của dòng thì mất khả năng thủ đắc và sở hữu ; do đó các hành vi làm ngược lại lời khấn khó nghèo sẽ vô hiệu. Những gì thủ đắc sau khi đã khước từ đều thuộc về dòng, dựa trên các quy tắc của luật riêng.

Đ. 669 §1 Như dấu chỉ của sự tận hiến và làm chứng cho sự khó nghèo, các tu sĩ phải mặc tu phục của dòng, theo hình thức quy định trong luật riêng.

§2 Nếu dòng không có tu phục riêng, thì các tu sĩ giáo sĩ sẽ mặc y phục giáo sĩ theo quy tắc của điều 284.

Đ. 670 Dòng phải cung cấp cho các phần tử hết mọi phương tiện cần thiết, chiếu theo hiến pháp, để đạt tới mục đích của ơn gọi.
Đ. 671 Các tu sĩ không nên nhận lãnh các phận sự và chức vụ ngoài dòng khi không có phép của Bề trên hợp pháp.
Đ. 672 Các tu sĩ bị ràng buộc bởi các quy định của các điều 227, 285, 286, 287, và 289. Ngoài ra, các tu sĩ giáo sĩ còn phải giữ các quy định của điều 279, triệt 2. Trong các dòng giáo dân thuộc luật giáo hoàng, các Bề trên cao cấp có thể ban phép nói ở điều 285, triệt 4.

CHƯƠNG V : HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ CỦA CÁC DÒNG

Đ. 673 Hoạt động tông đồ của các tu sĩ tiên vàn hệ tại việc chứng tá của đời tận hiến. Họ có bổn phận hun đúc đời sống chứng tá nhờ lời cầu nguyện và việc đền tội.
Đ. 674 Các dòng sống đời thuần tuý chiêm niệm luôn luôn giữ một phần cao trọng trong nhiệm thể của Đức Ki-tô ; bởi vì họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ ngợi khen tuyệt vời : họ trang điểm dân Chúa với những hoa trái trù phú của sự thánh thiện ; họ thúc đẩy dân Chúa bằng gương sáng và làm nó phát triển nhờ sự phong nhiêu tông đồ kín nhiệm của mình. Vì lẽ ấy, dù nhu cầu hoạt động tông đồ thật là khẩn cấp, nhưng các phần tử của các dòng ấy không thể được gọi hoạt động hợp tác các công việc mục vụ khác.
Đ. 675 §1 Hoạt động tông đồ làm nên phần cốt yếu của các dòng chuyên biệt tông đồ. Vì vậy toàn thể đời sống của các phần tử phải được thấm nhuần tinh thần tông đồ, và toàn thể hoạt động tông đồ phải được chất chứa tinh thần tu trì.

§2 Hoạt động tông đồ phải luôn luôn bắt nguồn từ việc kết hợp mật thiết với Chúa và củng cố, hun đúc việc kết hợp ấy.

§3 Hoạt động tông đồ cần được thực hiện nhân danh và với uỷ nhiệm của Giáo Hội, cũng như trong sự thông hiệp với Giáo Hội.

Đ. 676 Các dòng giáo dân, dù nam hay nữ, tham gia vào nhiệm vụ mục vụ của Giáo Hội và phục vụ nhân loại bằng nhiều cách khác nhau qua những công tác từ thiện về phần thiêng liêng hay thể xác. Vì vậy họ hãy trung thành duy trì ơn gọi riêng của họ.
Đ. 677 §1 Các Bề trên và các phần tử hãy trung thành duy trì sứ mạng và các công tác riêng của dòng. Tuy nhiên, họ hãy biết thích ứng chúng cách khôn ngoan chiếu theo nhu cầu của thời thế và địa phương, kể cả bằng việc sử dụng các phương tiện mới mẻ và thích ứng.

§2 Các dòng nào có các hiệp hội giáo dân được kết nạp, thì hãy giúp đỡ họ cách chuyên cần đặc biệt, để họ được thấm nhuần tinh thần tinh tuý của dòng.

Đ. 678 §1 Trong các lãnh vực coi sóc các linh hồn, cử hành phụng tự công khai, và các hoạt động tông đồ khác, thì các tu sĩ thuộc quyền của các Giám mục : họ phải tỏ ra lòng suy phục và kính cẩn với các ngài.

§2 Trong khi hoạt động tông đồ bên ngoài, các tu sĩ cũng còn tuỳ thuộc các Bề trên riêng của mình, và phải trung thành với kỷ luật của dòng. Các Giám mục không nên bỏ qua việc thúc bách nghĩa vụ ấy, khi gặp hoàn cảnh.

§3 Trong sự điều hành hoạt động tông đồ của các tu sĩ, các Giám mục giáo phận và các Bề trên dòng cần phải tiến hành với sự trao đổi ý kiến giữa đôi bên.

Đ. 679 Khi có lý do rất trầm trọng, Giám mục giáo phận có thể ngăn cấm một phần tử của dòng không được lưu trú trong giáo phận, nếu Bề trên cao cấp đã được thông báo mà không chịu áp dụng biện pháp. Tuy nhiên phải lập tức trình sự việc lên Toà Thánh.
Đ. 680 Giữa các dòng khác nhau và giữa các dòng với giáo sĩ triều, cần phải cổ võ sự hợp tác có tổ chức, cũng như sự phối hợp tất cả các công tác và hoạt động tông đồ dưới sự lãnh đạo của Giám mục giáo phận, tuy phải tôn trọng đặc tính, mục đích của mỗi dòng và luật thành lập cơ sở.
Đ. 681 §1 Các công tác được Giám mục giáo phận uỷ thác cho các tu sĩ thì ở dưới quyền hành và sự chỉ đạo của Giám mục ấy, tuy phải duy trì quyền của các Bề trên của các tu sĩ theo quy tắc của điều 678, các triệt 2 và 3.

§2 Trong những trường hợp ấy, phải ký hợp đồng giữa Giám mục giáo phận với Bề trên có thẩm quyền trong dòng. Trong hợp đồng ấy, đừng kể các khoản khác, cần phải xác định cách minh thị và tỉ mỉ những công tác, và chế độ tài sản.

Đ. 682 §1 Khi phải trao một giáo vụ trong giáo phận cho một tu sĩ, thì chính Giám mục là vị bổ nhiệm, sau khi có sự đề cử hay ít là đồng ý của Bề trên có thẩm quyền.

§2 Tu sĩ nói trên có thể bị bãi chức đã được trao phó hoặc tuỳ ý của nhà chức trách đã uỷ thác chức vụ sau khi đã báo cho Bề trên của tu sĩ, hoặc tuỳ ý của Bề trên sau khi đã báo cho kẻ uỷ thác, mà không cần có bên kia thoả thuận.

Đ. 683 §1 Trong thời gian kinh lý mục vụ hay trong trường hợp cần thiết. Giám mục giáo phận có thể, tự mình hay nhờ người khác, thanh tra các nhà thờ và nhà nguyện có giáo dân thường xuyên lui tới, các học đường và các cơ sở khác có tính cách tôn giáo và bác ái về tinh thần hay vật chất đã được uỷ thác cho các tu sĩ. Nhưng Giám mục không được thanh tra các học đường chỉ dành riêng cho các học sinh của dòng.

§2 Nếu nhận thấy có lạm dụng nào, và sau khi đã khuyến cáo Bề trên dòng mà không có kết quả, thì Giám mục có thể dùng quyền hành của mình để đối phó.

CHƯƠNG VI : CÁC PHẦN TỬ RỜI BỎ DÒNG

Mục I : Việc di chuyển sang dòng khác

Đ. 684 §1 Một phần tử đã khấn vĩnh viễn không thể chuyển từ dòng mình sang dòng khác nếu không có phép của Bề trên tổng quyền của hai dòng với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn của mỗi vị.

§2 Sau khi đã được thử luyện một thời gian ít là ba năm, đương sự có thể được nhận khấn vĩnh viễn trong dòng mới. Nếu đương sự không muốn khấn hay không được các Bề trên có thẩm quyền chấp nhận cho khấn, thì phải trở về dòng cũ, đừng kể khi đã nhận được đặc quyền hồi tục.

§3 Để một tu sĩ thuộc một đan viện tự trị có thể chuyển sang một đan viện tự trị thuộc cùng dòng hay cùng liên hiệp hay liên minh, thì điều kiện cần và đủ là sự thoả thuận của Bề trên cao cấp của cả hai đan viện và của công hội đan viện muốn nhận, đừng kể khi luật riêng quy định thêm các điều kiện khác. Nhưng không đòi hỏi phải khấn lại.

§4 Luật riêng phải xác định thời kỳ và cách thức thử luyện mà một người phải trải qua trước khi khấn trong dòng mới.

§5 Sự di chuyển sang một tu hội đời hay sang một tu đoàn tông đồ, hoặc từ hay nơi đó sang một dòng, cần phải có phép của Toà Thánh.

Đ. 685 §1 Cho đến khi được khấn trong dòng mới, các quyền lợi và nghĩa vụ mà đương sự có trong dòng cũ bị đình chỉ ; còn các lời khấn thì vẫn có hiệu lực. Tuy nhiên, kể từ lúc bắt đầu thử luyện, đương sự buộc phải tuân hành luật riêng của dòng mới.

§2 Do việc khấn trong dòng mới, đương sự được sát nhập vào dòng mới ; từ lúc ấy, chấm dứt các lời khấn, quyền lợi và nghĩa vụ trước đây.

Mục II : Việc ra khỏi dòng

Đ. 686 §1 Bề trên tổng quyền, với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn, khi có lý do trầm trọng, có thể cho phép một tu sĩ đã khấn vĩnh viễn được sống ngoại vi, nhưng không quá ba năm ; nếu là giáo sĩ, cần có sự thoả thuận của Bản quyền sở tại nơi đương sự phải lưu trú. Việc triển hạn đặc quyền sống ngoại vi  hay ban một đặc quyền quá ba năm được dành riêng cho Toà Thánh, hoặc cho Giám mục giáo phận nếu là dòng giáo phận.

§2 Đối với các nữ đan tu, việc ban đặc quyền sống ngoại vi viện được dành riêng cho một mình Toà Thánh.

§3 Theo lời yêu cầu của Bề trên tổng quyền với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn, sự sống ngoại vi có thể bị cưỡng bách do Toà Thánh, nếu là tu sĩ thuộc dòng giáo hoàng, hay do Giám mục giáo phận, nếu tu sĩ thuộc dòng giáo phận ; nhưng cần phải có lý do trầm trọng và phải bảo vệ lẽ phải và bác ái.

Đ. 687 Các phần tử sống ngoại vi được coi như không bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ bất khả kham với hoàn cảnh sinh sống mới. Đương sự phải tuỳ thuộc sự coi sóc của các Bề trên dòng của mình, và kể cả của Bản quyền sở tại, nhất là khi đương sự là giáo sĩ. Đương sự có thể mặc y phục của dòng, trừ khi trong đặc quyền đã định cách khác. Nhưng đương sự không có quyền bầu cử và ứng cử.
Đ. 688 §1 Kẻ muốn ra khỏi dòng khi mãn hạn khấn, có thể bỏ dòng.

§2 Trong thời gian khấn tạm thời, kẻ nào, vì lý do trầm trọng xin rời bỏ dòng, thì Bề trên tổng quyền, với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn, có thể ban đặc quyền bỏ dòng, nếu là dòng thuộc luật giáo hoàng. Trong các dòng thuộc luật giáo phận và trong các đan viện tự trị nói ở điều 615, đặc quyền bỏ dòng, để được hữu hiệu, cần được châu phê bởi Giám mục của nhà mà đương sự được bổ nhiệm.

Đ. 689 §1 Khi một phần tử đã mãn hạn khấn tạm thời, nếu có lý do chính đáng, thì Bề trên cao cấp có thẩm quyền, sau khi đã bàn với hội đồng cố vấn, có thể loại bỏ đương sự, không cho khấn tiếp.

§2 Tật bệnh thể chất hay tâm linh, cho dù mắc phải sau khi khấn, khiến cho đương sự không có khả năng sống trong dòng, theo sự thẩm định của các chuyên viên, làm thành nguyên nhân để đương sự không được lặp lại lời khấn hay tuyên khấn vĩnh viễn, miễn là bệnh ấy không mắc phải do sự chểnh mảng của dòng hay do một công tác làm trong dòng.

§3 Tuy nhiên, nếu trong thời kỳ khấn tạm, tu sĩ đâm ra mất trí, thì cho dù không có khả năng để tuyên lời khấn mới, song đương sự không thể bị trục xuất khỏi dòng.

Đ. 690 §1 Kẻ nào, sau khi mãn năm tập hay hết hạn khấn, đã ra khỏi dòng cách hợp lệ, thì có thể được thu nhận trở lại mà không buộc phải làm lại năm tập, do phép của Bề trên tổng quyền với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn. Nhưng Bề trên tổng quyền sẽ chỉ định một thời gian thử luyện thích hợp trước khi khấn tạm và khấn vĩnh viễn, dựa theo quy tắc của các điều 655 và 657.

§2 Trên đan viện tự trị cùng với hội đồng cố vấn cũng có năng quyền như vậy.

Đ. 691 §1 Ai đã khấn vĩnh viễn thì không được xin đặc quyền ra khỏi dòng khi không có lý do rất trầm trọng đã suy xét trước mặt Chúa. Đương sự sẽ đệ đơn lên Bề trên tổng quyền ; vị này sẽ chuyển đơn lên nhà chức trách có thẩm quyền, kèm theo ý kiến riêng của mình và của hội đồng cố vấn.

§2 Việc ban đặc quyền nói trên được dành riêng cho Toà Thánh đối với các dòng thuộc luật giáo hoàng ; đối với các dòng thuộc luật giáo phận, thì đặc quyền cũng có thể ban do Giám mục của giáo phận nơi toạ lạc của nhà tu sĩ được bổ nhiệm.

Đ. 692 Đặc quyền bỏ dòng, một khi đã được ban hợp lệ và thông tri cho đương sự, đương nhiên mang theo sự miễn chuẩn các lời khấn cũng như tất cả các nghĩa vụ phát xuất từ việc tuyên khấn, đừng kể khi đương sự bác bỏ đặc quyền ngay chính lúc được thông tri.
Đ. 693 Nếu đương sự là giáo sĩ, thì đặc quyền không được ban trước khi tìm được một Giám mục muốn nhận đương sự nhập tịch vào giáo phận hoặc ít là nhận thử nghiệm. Trong trường hợp được nhận thử nghiệm, thì mãn hạn năm năm, đương sự được đương nhiên nhập tịch vào giáo phận, trừ khi bị Giám mục từ chối.

Mục III : Sự trục xuất các phần tử

Đ. 694 §1 Các phần tử sau đây được kể như đương nhiên bị trục xuất :
  1. kẻ đã lìa bỏ tỏ tường về đức tin Công Giáo ;
  2. kẻ đã kết hôn hoặc mưu toan kết hôn, dù là hôn nhân dân sự.

§2 Trong các trường hợp ấy, sau khi đã thu thập các bằng chứng, Bề trên cao cấp cùng với hội đồng cố vấn không phải chần chừ gì để tuyên bố sự kiện, ngõ hầu sự trục xuất trở thành minh bạch theo pháp lý.

Đ. 695 §1 Một phần tử phải bị trục xuất do các trọng tội đã nói ở các điều 1397, 1398 và 1395 ; trừ khi nào đối với trọng tội nói ở điều 1395, triệt 2, Bề trên xét thấy sự trục xuất không cần thiết và đương sự có thể sửa mình, cũng như việc bồi thường và sửa chữa gương mù có thể được thoả mãn cách khác.

§2 Trong các trường hợp ấy, sau khi đã thu thập bằng chứng về sự kiện và sự quy trách, Bề trên cao cấp sẽ thông tri cho đương sự biết sự tố cáo và các bằng chứng ; cùng dành cho đương sự khả năng biện hộ. Tất cả hồ sơ cùng với chữ ký của Bề trên cao cấp và lục sự, và kèm theo các câu trả lời do đương sự viết và ký, sẽ được chuyển lên Bề trên tổng quyền.

Đ. 696 §1 Một phần tử cũng có thể bị loại vì các lý do khác, miễn là các lý do ấy trầm trọng, xuất hiện ra ngoài, có thể quy trách và có thể chứng minh theo pháp lý, tỉ như : thường xuyên chểnh mảng các nghĩa vụ của đời tận hiến ; nhiều lần vi phạm các lời khấn ; cố chấp bất tuân các chỉ thị hợp pháp của Bề trên trong vấn đề can hệ ; gây gương mù trầm trọng phát sinh từ tác phong có lỗi của đương sự ; cố chấp bênh đỡ hay truyền bá các học thuyết đã bị kết án bởi quyền giáo huấn của Hội Thánh ; công khai tán trợ các ý thức hệ nhiễm mùi duy vật hay vô thần ; vắng nhà bất hợp pháp – theo nghĩa đã nói ở điều 665, triệt 2 – kéo dài 6 tháng ; các lý do trầm trọng tương tự mà luật riêng của dòng có thể đã xác định.

§2 Để trục xuất một phần tử có lời khấn tạm, luật riêng có thể xác định các lý do khác kém trầm trọng hơn.

Đ. 697 Trong những trường hợp nói ở điều 696, nếu Bề trên cao cấp, sau khi đã bàn với hội đồng cố vấn, xét rằng phải xúc tiến thủ tục trục xuất, thì :
  1. hãy thu thập và bổ túc các bằng chứng ;
  2. khuyên bảo đương sự bằng giấy tờ hay trước mặt hai nhân chứng với lời cảnh cáo minh thị sẽ tiến hành sự trục xuất nếu đương sự không sửa mình ; đương sự cần được biết rõ nguyên nhân và được tự do biện hộ. Nếu lời khuyên bảo không có công hiệu, thì trong khoảng cách ít là mười lăm ngày sau, phải lặp lại lời khuyên bảo ;
  3. nếu lời khuyên bảo lần sau cũng không có công hiệu mà Bề trên cao cấp, cùng với hội đồng cố vấn, nhận thấy rõ sự ngoan cố của đương sự cũng như những lời biện hộ không đủ, thì, sau khi đã qua mười lăm ngày kể từ lời khuyên bảo thứ hai không có hiệu quả, tất cả hồ sơ được gửi lên Bề trên tổng quyền, với chữ ký của Bề trên cao cấp, của lục sự, cùng với những câu trả lời của đương sự và chữ ký của người ấy.
Đ. 698 Trong tất cả mọi trường hợp nói ở điều 695 và 696, phải luôn luôn tôn trọng quyền lợi của đương sự được liên lạc thẳng với Bề trên tổng quyền và trực tiếp trình bày với ngài các lời biện hộ.
Đ. 699 §1 Bề trên tổng quyền, cùng với hội đồng cố vấn, sẽ tiến hành, cách tập đoàn, việc cân nhắc cẩn thận các bằng cớ, lý chứng và biện hộ. Để thủ tục được hữu hiệu, cần phải có ít là bốn nhân viên của hội đồng cố vấn. Qua việc bỏ thăm kín, nếu họ quyết định trục xuất, thì sẽ thảo nghị định trục xuất. Nghị định này, để được hữu hiệu, cần phải bao gồm, ít là sơ lược, các lý do về luật pháp cũng như về sự kiện.

§2 Trong những đan viện tự trị, nói ở điều 615, quyền quyết định việc trục xuất thuộc Giám mục giáo phận. Bề trên phải đệ hồ sơ, được hội đồng cố vấn chấp thuận, lên Giám mục.

Đ. 700 Nghị định trục xuất và hồ sơ phải được chuyển lên Toà Thánh, và nghị định chỉ có hiệu lực khi được Toà Thánh phê chuẩn. Nếu là dòng thuộc luật giáo phận, việc phê chuẩn thuộc quyền Giám mục của giáo phận nơi toạ lạc nhà mà đương sự được bổ nhiệm. Để nghị định được hữu hiệu, cần phải nêu rõ quyền lợi của đương sự được thượng cầu lên nhà chức trách có thẩm quyền trong vòng mười ngày kể từ lúc nhận được thông tri. Việc thượng cầu có hậu quả đình chỉ.
Đ. 701 Do sự trục xuất hợp lệ, đương nhiên chấm dứt các lời khấn cũng như các quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh từ việc tuyên khấn. Tuy nhiên nếu đương sự là giáo sĩ, thì không được thi hành chức thánh cho đến khi nào tìm được một Giám mục nhận họ vào giáo phận, sau một thời gian thử luyện theo quy tắc của điều 693, hoặc ít là cho phép họ thi hành chức thánh.
Đ. 702 §1 Ai đã ra khỏi dòng cách hợp lệ hoặc bị trục xuất khỏi dòng cách hợp lệ, thì không được đòi hỏi gì nơi dòng về bất cứ công tác nào đã làm trong dòng.

§2 Tuy nhiên, dòng phải giữ lẽ phải và bác ái Phúc Âm đối với phần tử lìa bỏ dòng.

Đ. 703 Trong trường hợp xảy ra gương mù trầm trọng bên ngoài hoặc trước một hiểm hoạ rất nguy hại cho dòng, thì một phần tử có thể bị đuổi ra khỏi nhà tức khắc, do Bề trên cao cấp, hoặc do chính Bề trên địa phương với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn, nếu có nguy hiểm do việc trì hoãn. Nếu cần, Bề trên cao cấp sẽ lo liệu lập thủ tục trục xuất theo quy tắc pháp luật, hoặc trình nội vụ lên Toà Thánh.
Đ. 704 Về các phần tử lìa bỏ dòng vì bất cứ lý do nào, cần phải đề cập đến trong bản tường trình lên Toà Thánh đã nói ở điều 592, triệt 1.

CHƯƠNG VII : CÁC TU SĨ ĐƯỢC THĂNG CHỨC GIÁM MỤC

Đ. 705 Tu sĩ nào được thăng chức Giám mục thì vẫn còn là phần tử của dòng, nhưng do lời khấn vâng lời, họ chỉ phải tuỳ thuộc duy một mình Đức giáo hoàng. Tu sĩ ấy không bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ mà chính mình xét thấy cách khôn ngoan rằng chúng không thể am hợp với điều kiện mới.
Đ. 706 Tu sĩ nói trên :
  1. nếu do lời khấn, đương sự đã mất quyền làm chủ tài sản, thì bây giờ họ được hưởng quyền sử dụng, hưởng dụng và quản trị các tài sản đến sau đó. Tuy nhiên, đối với Giám mục giáo phận và các vị khác đã nói ở điều 381, triệt 2, thì các tài sản được thủ đắc cho Giáo Hội địa phương ; còn đối với các vị khác, thì các tài sản được thủ đắc cho dòng hay cho Toà Thánh, tuỳ theo dòng có khả năng chấp hữu hay không.
  2. nếu do lời khấn, đương sự không mất quyền làm chủ tài sản, thì quyền dụng ích, hành dụng và quản trị các tài sản có trước đó sẽ được hồi phục. Còn các tài sản đến sau, thì được thủ đắc toàn vẹn.
  3. trong cả hai trường hợp, đương sự phải sử dụng các tài sản theo ý muốn của người dâng cúng, khi chúng được thủ đắc không vì danh nghĩa cá nhân.
Đ. 707 §1 Tu sĩ làm Giám mục khi hồi hưu có thể chọn nơi cư ngụ cho mình kể cả ở ngoài nhà của dòng mình, trừ khi Toà Thánh đã dự liệu cách khác.

§2 Về việc cấp dưỡng thích hợp và xứng đáng cho đương sự, trong trường hợp họ đã phục vụ một giáo phận, thì phải giữ điều 402, triệt 2, trừ khi dòng muốn lo liệu việc cấp dưỡng ấy. Nếu không, Toà Thánh sẽ liệu cách khác.

CHƯƠNG VIII : CÁC HỘI NGHỊ CÁC BỀ TRÊN CAO CẤP

Đ. 708 Các Bề trên cao cấp có thể tụ họp nhau cách hữu ích qua các hội nghị hay hội đồng, ngõ hầu hợp lực với nhau để cộng tác vào việc theo đuổi mục tiêu của mỗi dòng cách mỹ mãn hơn, tuy vẫn giữ sự tự trị, đặc tính, và tinh thần của mỗi dòng ; hoặc để thảo luận các vấn đề chung ; hoặc để thiết lập sự phối trí và hợp tác thích hợp đối với các Hội đồng Giám mục cũng như đối với từng Giám mục.
Đ. 709 Các hội nghị của các Bề trên cao cấp cần có quy chế được Toà Thánh phê chuẩn. Toà Thánh là thẩm quyền duy nhất có thể thành lập hội nghị, ban cấp tư cách pháp nhân, và giữ quyền lãnh đạo tối cao của hội nghị.
THIÊN III
CÁC TU HỘI ĐỜI
Đ. 710 Tu hội đời là một hội dòng tận hiến, trong đó các tín hữu sống giữa đời nhắm tới sự trọn lành của đức ái và dấn thân mưu cầu sự thánh hoá đời ngay từ ở giữa đời.
Đ. 711 Do sự tận hiến, một phần tử của tu hội đời không làm thay đổi thể chế giáo luật của mình trong dân Chúa, dù là giáo dân dù là giáo sĩ, mặc dù vẫn phải tuân giữ các quy định của luật chi phối các hội dòng tận hiến.
Đ. 712 Ngoài những quy định đã nói ở điều 598-601, hiến pháp còn phải ấn định các mối ràng buộc thánh nhờ đó các phần tử tự bó buộc giữ các lời khuyên Phúc Âm trong tu hội. Hiến pháp cũng xác định các nghĩa vụ phát sinh từ các mối ràng buộc ấy, tuy luôn phải giữ lối sống thế tục của tu hội.
Đ. 713 §1 Các phần tử của các tu hội diễn tả và thực hành sự tận hiến qua hoạt động tông đồ, và tựa như men bột, họ hãy cố gắng thấm nhiễm hết mọi sự với tinh thần Phúc Âm, ngõ hầu củng cố và tăng triển nhiệm thể Đức Ki-tô.

§2 Các phần tử giáo dân tham gia vào nhiệm vụ giảng truyền Phúc Âm của Giáo Hội ở giữa đời và từ môi trường đời, hoặc bằng sự chứng tá của đời sống Ki-tô giáo và của lòng trung thành với sự tận hiến của mình, hoặc bằng sự cộng tác nhằm việc quy hướng các sự việc thế trần về với Thiên Chúa cùng lấy sức mạnh Phúc Âm để làm sống động thế giới. Họ cũng cộng tác vào việc phục vụ giáo đoàn, dựa theo lối sống ngoài đời của họ.

§3 Các phần tử giáo sĩ, nhờ việc chứng tá của đời tận hiến, nhất là giữa linh mục đoàn, hỗ trợ các anh em đồng nghiệp do đức ái tông đồ trổi vượt ; và khi thi hành chức vụ thánh trong dân Chúa, họ kiện toàn sự thánh hoá trần thế.

Đ. 714 Các phần tử sinh sống trong những điều kiện bình thường của trần thế, hoặc đơn thân, hoặc trong gia đình của mình, hoặc trong nhóm huynh đệ, dựa theo các quy tắc của hiến pháp.
Đ. 715 §1 Các phần tử giáo sĩ, được nhập tịch trong giáo phận, lệ thuộc Giám mục giáo phận, trừ những gì liên can đến đời sống tận hiến trong tu hội của mình.

§2 Những người được trạch cử vào các công tác riêng của tu hội hoặc vào việc quản trị tu hội, thì được nhập tịch vào tu hội, chiếu theo quy tắc của điều 266, triệt 3, và lệ thuộc Giám mục giống như các tu sĩ.

Đ. 716 §1 Tất cả các phần tử phải tham gia tích cực vào đời sống của tu hội, dựa theo luật riêng.

§2 Các phần tử thuộc cùng một tu hội phải sống thông hiệp với nhau, ân cần bảo vệ sự hợp nhất trong tinh thần và tình huynh đệ chân thật.

Đ. 717 §1 Hiến pháp phải quy định hình thức cai trị của tu hội, xác định nhiệm kỳ của các người lãnh đạo và cách thức chỉ định họ vào chức vụ.

§2 Không ai được chỉ định làm lãnh đạo tối cao nếu chưa được gia nhập vĩnh viễn vào tu hội.

§3 Những ai có trách nhiệm điều khiển tu hội phải lo duy trì tinh thần hợp nhất và cổ võ sự tham gia tích cực của hết mọi phần tử.

Đ. 718 Việc quản trị tài sản của tu hội cần phải bộc lộ và cổ võ sự khó nghèo Phúc Âm. Việc quản trị được chi phối do các quy tắc của quyển thứ V về Tài sản của Giáo Hội cũng như luật riêng của tu hội. Luật riêng cũng phải xác định các nghĩa vụ, nhất là về kinh tế, của tu hội đối với các phần tử làm việc cho tu hội.
Đ. 719 §1 Để đáp ứng trung thành với ơn gọi và để hoạt động tông đồ phát xuất từ sự kết hợp với Đức Ki-tô, các phần tử phải siêng năng cầu nguyện, và chăm chỉ đọc Sách Thánh, giữ việc tĩnh tâm thường niên và thực hành các việc đạo đức khác chiếu theo luật riêng.

§2 Việc cử hành Thánh Thể, nếu có thể được mỗi ngày, phải là nguồn mạch và sức mạnh của toàn thể đời tận hiến.

§3 Họ hãy lãnh nhận bí tích thống hối cách tự do và thường xuyên.

§4 Họ cần được tự do nhận việc linh hướng cần thiết : nếu họ muốn, họ có thể bàn hỏi việc thiêng liêng với các vị lãnh đạo của họ.

Đ. 720 Quyền thu nhận vào tu hội, hoặc vào giai đoạn thử luyện hoặc để cam kết tạm thời hay vĩnh viễn, là điều thuộc về thẩm quyền của các vị lãnh đạo cao cấp, dựa theo quy tắc của hiến pháp.
Đ. 721 §1 Việc thu nhận những người sau đây vào giai đoạn thử luyện khởi đầu trở thành vô hiệu:
  1. kẻ chưa đến tuổi trưởng thành ;
  2. kẻ hiện đang bị ràng buộc trong một hội dòng tận hiến hoặc tu đoàn tông đồ ;
  3. kẻ đã lập gia đình, bao lâu hôn thú còn hiệu lực.

§2 Hiến pháp có thể ấn định các ngăn trở khác của việc thu nhận, kể cả chi phối sự hữu hiệu, hoặc đặt thêm các điều kiện khác.

§3 Ngoài ra, để được tiếp nhận, đương sự phải có sự trưởng thành cần thiết để có thể theo đuổi nếp sống của tu hội cách thích đáng.

Đ. 722 §1 Mục tiêu của giai đoạn thử luyện khởi đầu là để các tuyển sinh hiểu rõ ơn thiên triệu và ơn gọi đặc biệt của tu hội, và tập luyện theo tinh thần và lối sống của tu hội.

§2 Các tuyển sinh cần được huấn luyện cách thích đáng để sống cuộc đời theo các lời khuyên Phúc Âm, và để diễn tả toàn thể cuộc sống ấy ra việc tông đồ, bằng cách sử dụng những hình thức rao truyền Phúc Âm thích hợp hơn hết với mục đích và tinh thần, đặc tính của tu hội.

§3 Hiến pháp phải xác định cách thức và thời gian của giai đoạn thử luyện trước khi cam kết lần đầu trong tu hội. Thời gian ấy không được dưới hai năm.

Đ. 723 §1 Khi đã mãn thời kỳ thử luyện khởi đầu, tuyển sinh nào được xét thấy có khả năng thì sẽ chấp nhận ba lời khuyên Phúc Âm với dây ràng buộc thánh. Nếu không, thì phải lìa bỏ tu hội.

§2 Sự gia nhập lần đầu có tính cách tạm thời, dựa theo quy tắc của hiến pháp. Thời hạn này không được dưới năm năm.

§3 Khi đã mãn thời hạn đó, phần tử nào được xét thấy có khả năng sẽ được thu nhận gia nhập trọn đời hay vĩnh viễn, nghĩa là với những giây ràng buộc thánh tạm thời nhưng luôn luôn được lặp lại.

§4 Việc gia nhập vĩnh viễn được đồng hoá với việc gia nhập trọn đời. Hiến pháp phải ấn định những hiệu quả pháp lý của hành vi đó.

Đ. 724 §1 Sau khi đã cam kết lần đầu, việc huấn luyện cần tiếp tục liên lỉ, chiếu theo hiến pháp.

§2 Các phần tử cần được huấn luyện vừa về phương diện thần học vừa về phương diện nhân bản. Các cấp lãnh đạo tu hội phải lưu tâm đến việc huấn luyện liên tục về phần thiêng liêng.

Đ. 725 Hiến pháp sẽ quy định hình thức của mối dây ràng buộc nhờ đó tu hội có thể kết nạp các tín hữu nào ước mong đạt đến sự trọn lành Phúc Âm dựa theo tinh thần của tu hội, và tham gia vào sứ mạng của tu hội.
Đ.726 §1 Sau khi đã mãn thời kỳ gia nhập tạm thời, một phần tử có thể tự do lìa bỏ tu hội, hay, khi có lý do chính đáng, có thể vị lãnh đạo cao cấp, sau khi đã bàn với hội đồng cố vấn, loại bỏ không cho lặp lại sự cam kết.

§2 Khi có lý do trầm trọng, vị lãnh đạo tối cao, với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn, có thể ban đặc quyền lìa bỏ tu hội cho một phần tử đã gia nhập tạm thời tự ý xin.

Đ. 727 §1 Một phần tử đã gia nhập trọn đời, nếu muốn bỏ tu hội, thì, sau khi đã suy nghĩ chín chắn trước mặt Chúa, hãy đệ đơn xin đặc quyền lên Toà Thánh qua vị lãnh đạo tối cao, trong trường hợp tu hội thuộc luật giáo hoàng. Nếu là tu hội thuộc luật giáo phận, thì xin Giám mục giáo phận, theo như hiến pháp đã định.

§2 Nếu đương sự là giáo sĩ đã nhập tịch vào tu hội, thì phải giữ quy tắc nói ở điều 693.

Đ. 728 Một khi đã được đặc quyền lìa bỏ tu hội cách hợp lệ, thì sẽ chấm dứt mọi ràng buộc cùng các quyền lợi và nghĩa vụ phát xuất do sự gia nhập.
Đ. 729 Sự trục xuất một phần tử sẽ được thi hành dựa theo các điều 694 và 695. Hiến pháp sẽ định các lý do trục xuất khác, miễn là các lý do ấy phải trầm trọng cân xứng, xuất hiện ra ngoài, có thể quy trách và có thể chứng minh theo pháp lý. Thủ tục trục xuất phải theo các quy tắc của các điều 697-700. Quy định của điều 701 cũng được áp dụng cho kẻ bị trục xuất.
Đ. 730 Khi một phần tử của một tu hội đời muốn chuyển sang tu hội khác, thì phải theo các quy định của các điều 684, triệt 1, 2 và 4 và 685. Còn nếu muốn chuyển sang hay chuyển từ một dòng tu và một tu đoàn tông đồ, thì phải có phép của Toà Thánh, và phải tuân theo các chỉ thị của Toà Thánh.
TIẾT II
CÁC TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ
Đ. 731 §1 Các tu đoàn tông đồ được coi như tương đương với hội dòng tận hiến. Các phần tử của các tu đoàn tông đồ, tuy không có lời khấn dòng, nhưng theo đuổi mục tiêu tông đồ riêng của tu đoàn, và nhắm tới sự trọn lành của đức ái do việc sống chung theo một nếp sống đặc thù, và do việc tuân giữ hiến pháp.

§2 Trong số các tu đoàn ấy, có những đoàn trong đó các phần tử chấp nhận các lời khuyên Phúc Âm với một dây ràng buộc do hiến pháp xác định.

Đ. 732 Những gì đã ấn định trong các điều 578-579 và 606 cũng được áp dụng cho các tu đoàn tông đồ, miễn là tôn trọng bản chất của mỗi tu đoàn. Riêng đối với các tu đoàn nói ở điều 731, triệt 2 thì cũng có thể áp dụng các điều 598-602.
Đ. 733 §1 Sự thành lập một nhà và cấu tạo một cộng đồng địa phương là việc thuộc thẩm quyền của nhà chức trách của tu đoàn, sau khi đã có sự thoả thuận bằng giấy tờ của Giám mục giáo phận. Khi bãi bỏ một nhà, cũng phải hội ý Giám mục.

§2 Sự thoả thuận cho thành lập nhà kèm theo quyền được có ít là một nhà nguyện, trong đó cử hành và lữu trữ Thánh Thể.

Đ. 734 Sự quản trị tu đoàn được xác định do hiến pháp và phải tuân hành các điều 617-633, tuỳ theo bản chất của mỗi tu đoàn.
Đ. 735 §1 Sự thu nhận, thử luyện, gia nhập và huấn luyện sẽ được xác định do luật riêng của mỗi tu đoàn.

§2 Về việc thu nhận vào tu đoàn, phải giữ các điều kiện đã ấn định ở các điều 642-645.

§3 Luật riêng phải xác định chương trình thử luyện và huấn luyện thích hợp với mục đích và đặc tính của tu đoàn, nhất là về phương diện đạo lý, thiêng liêng và tông đồ, ngõ hầu các phần tử hiểu rõ ơn thiên triệu và chuẩn bị thích đáng vào việc tông đồ và vào đời sống của tu đoàn.

Đ. 736 §1 Trong các tu đoàn giáo sĩ, các giáo sĩ được nhập tịch vào tu đoàn, đừng kể khi hiến pháp định cách khác.

§2 Về những gì liên can đến chương trình học vấn và chịu chức thánh, thì phải giữ các quy tắc của các giáo sĩ triều, tuy phải bảo toàn triệt 1.

Đ. 737 Về phía các phần tử, sự gia nhập kèm theo các nghĩa vụ và quyền lợi do hiến pháp xác định. Về phía tu đoàn, sự gia nhập bao hàm sự ân cần hướng dẫn các phần tử theo mục đích của ơn gọi riêng, dựa trên hiến pháp.
Đ. 738 §1 Tất cả các phần tử phải phục tùng các vị lãnh đạo riêng, chiếu theo các quy tắc của hiến pháp, trong phạm vi đời sống nội bộ và kỷ luật tu đoàn.

§2 Các phần tử cũng phục tùng Giám mục giáo phận trong phạm vi phụng tự công cộng, coi sóc các linh hồn và các hoạt động tông đồ khác, chiếu theo các điều 679-683.

§3 Các tương quan của một phần tử được nhập tịch vào giáo phận với Giám mục riêng sẽ được xác định bởi hiến pháp hay hợp đồng riêng.

Đ. 739 Ngoài các nghĩa vụ mà hiến pháp đã định, các phần tử còn phải giữ các nghĩa vụ chung của các giáo sĩ, trừ khi đã rõ cách nào khác do bản chất sự việc hay do lời lẽ của văn mạch.
Đ. 740 Các phần tử phải ở trong nhà hay trong cộng đoàn đã được thành lập hợp lệ, và sống đời sống chung dựa theo luật riêng. Sự vắng nhà hay vắng cộng đoàn cũng do luật riêng chi phối.
Đ. 741 §1 Các tu đoàn, các khu vực và các nhà có tư cách pháp nhân, trừ khi hiến pháp định cách khác. Vì vậy, các thực thể ấy có khả năng thủ đắc, chấp hữu, quản trị, chuyển nhượng tài sản, dựa theo các quy tắc của quyển V về Tài sản của Giáo Hội, và các điều 636, 638 và 639, cũng như luật riêng.

§2 Dựa theo các quy tắc của luật riêng, các phần tử cũng có khả năng thủ đắc, chấp hữu, quản trị và định đoạt tài sản. Tuy nhiên những gì họ thủ đắc với danh nghĩa tu đoàn thì thuộc về tu đoàn.

Đ. 742 Sự ly khai và trục xuất của một phần tử chưa gia nhập vĩnh viễn sẽ được chi phối do hiến pháp của mỗi tu đoàn.
Đ. 743 Tuy vẫn phải giữ điều 693, vị lãnh đạo tối cao, với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn, có thể ban đặc quyền lìa bỏ tu đoàn cho một phần tử đã gia nhập vĩnh viễn, trừ khi quyền ấy đã được dành riêng cho Toà Thánh chiếu theo hiến pháp.
Đ. 744 §1 Vị lãnh đạo tối cao, với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn, là thẩm quyền duy nhất có thể ban phép cho một phần tử đã gia nhập vĩnh viễn được chuyển sang một tu đoàn tông đồ khác, với hiệu quả đình chỉ tạm thời các quyền lợi và nghĩa vụ của tu đoàn. Tuy nhiên, đương sự có quyền trở về tu đoàn trước khi gia nhập vĩnh viễn vào tu đoàn mới.

§2 Khi muốn chuyển từ một hội dòng tận hiến sang một tu đoàn tông đồ hay ngược lại, thì phải xin phép Toà Thánh và tuân theo chỉ thị của Toà Thánh.

Đ. 745 Vị lãnh đạo tối cao, với sự thoả thuận của hội đồng cố vấn, có thể ban đặc quyền cho một phần tử đã gia nhập vĩnh viễn được sống ngoài tu đoàn, với hiệu quả đình chỉ những quyền lợi và nghĩa vụ không thể dung hợp với điều kiện mới. Thời hạn không được quá ba năm, và đương sự vẫn ở dưới sự chăm sóc của các vị lãnh đạo. Nếu là giáo sĩ, thì cần phải có sự thoả thuận của Bản quyền sở tại nơi đương sự phải lưu trú ; và đương sự cũng phải tuỳ thuộc sự chăm sóc của Bản quyền sở tại nữa.
Đ. 746 Về sự trục xuất một phần tử đã gia nhập vĩnh viễn, phải giữ các điều 694-704, tuy phải thích nghi tuỳ trường hợp.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here