NHỮNG VĂN KIỆN CỦA GIÁO HỘI VỀ TRUYỀN GIÁO TRONG 100 NĂM QUA – PHẦN II

0
1970

Truyền giáo theo Công đồng Vaticanô II

Stephen B. Bevans

Thời sự Thần học, số 86 (tháng 11/2019), trang 76-89

Mỗi khi muốn biết Công đồng Vaticanô II (1962-65) nói gì về hoạt động truyền giáo của Hội thánh, lập tức người ta mở ra Sắc lệnh Ad gentes (AG 1965). Đúng rồi, nhưng cũng nên biết rằng “truyền giáo” hoặc “loan báo Tin mừng” là trọng tâm mọi suy tư của Công đồng. Thực vậy, Vaticanô II là một Công đồng truyền giáo. Chủ đề căn bản của Công đồng là mầu nhiệm Hội thánh: một cộng đồng được đặt làm dấu chỉ bí tích của ân sủng giữa lòng nhân loại (xem LG 1).

Khác với các công đồng trước đây, Vaticanô II được triệu tập không phải để giải quyết một cuộc khủng hoảng về đức tin hay cơ cấu tổ chức. Ít là bề ngoài, trong suốt triều đại của ĐTC Piô XII (1939-1958), uy tín giáo hoàng chưa bao giờ lên mạnh như vậy và Giáo hội đang tăng trưởng khắp nơi. Tuy vậy, với cái nhìn ngôn sứ, lý do mà ĐTC Gioan XXIII triệu tập Công đồng là nhằm giúp cho Hội thánh duy trì và giảng dạy đạo lý một cách hữu hiệu hơn dưới ánh sáng của những biến chuyển chính trị và văn hóa trong thế kỷ XX. Khẩu hiệu “canh tân” (Aggiornamento, tiếng Ý) không phải là lời kêu gọi thay đổi để mà đổi thay, nhưng là lời kêu gọi truyền giáo. Việc truyền giáo là hướng đi căn bản của Công đồng.

Mỗi Hiến chế của Công đồng (về Giáo hội, về Giáo hội trong thế giới ngày nay, về phụng vụ, về mặc khải) đều hàm chứa những yếu tố soi sáng cho sứ mạng loan báo Tin mừng và cung cấp nền tảng vững chắc cho văn kiện về truyền giáo. Tư tưởng hạt mầm về Giáo hội là dấu chỉ và dụng cụ cho kế hoạch cứu độ nhân loại của Thiên Chúa (LG 1); ý tưởng về tất cả các Kitô hữu đều san sẻ vào sứ mạng của Giáo hội như nhau tuy với cách thế khác biệt (LG, chương II; số 32); việc nhìn nhận rằng những “vui mừng và hy vọng, buồn sầu và âu lo của nhân loại cũng là của các môn đệ Chúa Kitô (GS 1); sự thay đổi từ chỗ coi mặc khải như  một mớ những mệnh đề sang lời mời sống tình bằng hữu (DV 2); nhận thức về văn hóa nằm ở đàng sau cuộc canh tân phụng vụ (SC 37-40) – tất cả những điều này đều được thúc đẩy bởi tinh thần truyền giáo và loan báo Tin mừng.

Ngoài ra, chỉ cần nhắc đến hai văn kiện khác, về tự do tín ngưỡng và về các tôn giáo ngoài Kitô giáo, cũng cho thấy Công đồng đã đưa ra một cái nhìn đầy thách đố đối với cách thức hiểu biết xưa nay về đường lối truyền giáo, nhưng đồng thời cũng cung cấp một động lực mới, phù hợp với Tin mừng hơn, cho việc rao giảng và chứng tá đức tin. Công đồng tuyên bố rằng, hết mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng; điều này loại trừ mọi hình thức chiêu dụ dưới danh nghĩa Giáo hội hoặc Tin mừng (DH 1). Công đồng nhìn nhận mỗi tôn giáo đều chứa đựng những tia sáng của Chân lý soi sáng muôn người (NA 2); điều này lưu ý rằng việc loan báo Tin mừng cần diễn ra trong khung cảnh đối thoại và cố gắng tìm hiểu niềm tin chân chính của những người mà chúng ta mang Tin mừng đến.

Dưới cái nhìn của một sử gia, John W. O’Malley còn nhận xét rằng, Công đồng không những có những cách trình bày đạo lý mới mà còn với một văn phong mới[1]. Công đồng tránh những kiểu nói thị uy, dọa nạt, cảnh cáo, giống như của cấp trên đối với cấp dưới, nếu chưa muốn nói là với đối thủ; thay vào đó là ngôn ngữ thuyết phục. mang tính mục vụ hơn. Việc thay đổi cung giọng biểu lộ sự thay đổi thái độ đối với việc dấn thân truyền giáo: Giáo hội tự bản chất mang tính truyền giáo, không chỉ nguyên bởi lệnh truyền của Đức Kitô phải quy tụ môn đệ từ khắp muôn dân (Mt 28,19), nhưng vì đâm rễ từ cuộc sống sứ vụ của Thiên Chúa Tam vị (AG 2); Các Kitô hữu thi hành sứ vụ với lòng quý trọng các nền văn hóa cũng như tín ngưỡng của các dân tộc mà mình mang Tin mừng đến (AG 11; NA 2); Các Kitô hữu không chỉ có những điều quý giá muốn chia sẻ cho thế giới, nhưng cũng có thể học hỏi từ những cuộc chiến đấu, lòng chân thành, những tiến bộ của thế giới (GS 43-44). Nếu Vaticanô II là một Công đồng truyền giáo, thì Công đồng cũng cho thấy một cung cách mới cho công cuộc truyền giáo.

Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo

Tiến trình soạn thảo

Ngay từ thuở ban đầu, Giáo hội đã dấn thân cho công cuộc truyền giáo “cho muôn dân” (ad gentes), nhưng Sắc lệnh của Công đồng Vaticanô II về hoạt động truyền giáo được coi như văn kiện chính thức đầu tiên của Giáo hội bàn về hoạt động truyền giáo. Thế nhưng, điều thú vị là những cuộc thảo luận về văn kiện này chỉ bắt đầu kể từ khóa họp thứ ba (1964), nghĩa là khi Công đồng đã đi được nửa chặng đường, và sắp đến hồi kết thúc! Sau đây là tóm lược hành trình quanh co trong việc soạn thảo văn kiện này.

Vào tháng 6 năm 1959, nghĩa là trong thời gian chuẩn bị Công đồng, ủy ban soạn thảo lược đồ về hoạt động truyền giáo được đặt dưới sự chủ tọa của Hồng y Gregory Peter Agagianian, Bộ trưởng bộ Truyền bá đức tin, gồm 54 thành viên, hầu hết gốc châu Âu.

Bản dự thảo thứ nhất mang nặng tính cách pháp lý,  ít tính thần học, và chẳng mấy quan tâm đến những gợi ý do các giám mục châu Á và châu Phi đề ra. Bản văn gồm 7 chương, bắt đầu với đề tài quản trị miền truyền giáo, kế đến là những chương bàn về việc đào tạo giáo sĩ và giáo dân, những vấn đề liên quan đến phụng vụ và bí tích, và chương cuối cùng dành cho sự hợp tác truyền giáo. Xét vì có nhiều đề tài trùng hợp với các bản dự thảo khác, Ủy Ban Trung ương quyết định chỉ lấy hai chương (về việc quản trị và hợp tác truyền giáo) sẽ được đưa vào Công đồng.

Thế nhưng bản văn ấy chưa bao giờ được đưa ra thảo luận. Trong khóa họp thứ nhất (năm 1962), có bốn dự thảo được đưa ra bàn, nhưng ba dự thảo bị bác (về Giáo hội, Đức Maria, mặc khải) và trả lại cho ủy ban soạn thảo; chỉ có dự thảo về phụng vụ là được chấp thuận để tiếp tục bàn trong khóa họp năm sau (1963). Nói chung, bầu không khí của các giám mục là chống lại não trạng của giáo triều; cách riêng, liên quan đến vấn đề truyền giáo, các giám mục nói tiếng Pháp đã yêu cầu hạ cấp Bộ Truyền bá đức tin xuống một cơ quan gây quỹ; các giám mục tại các vùng truyền giáo yêu cầu có tiếng nói trong việc quản trị, chứ không thể nào khoán cho những nhân viên hành chánh ở Rôma.

Trong thời gian giữa khóa họp thứ nhất và khóa họp thứ hai (từ tháng 12 năm 1962 đến tháng 10 năm 1963), ủy ban soạn dự thảo họp lại nhưng không mang lại kết quả hữu ích. Họ đệ lên Ủy ban Trung ương một lược đồ De Missionibus, nhưng bị trả lại. Như vậy, khóa họp thứ hai (1963) không đả động gì đến vấn đề truyền giáo. Vào cuối khóa họp ấy, có lời yêu cầu phải soạn xong tất cả mọi dự thảo trước cuối năm 1964, với hy vọng sẽ kết thúc Công đồng vào khóa họp thứ ba.

Vào tháng 5 năm 1964, một lược đồ vắn tắt gồm 14 mệnh đề được đề ra, với nội dung thần học nghèo nàn. May thay, ủy ban của Công đồng về Truyền giáo đã thay đổi nhân sự, bao gồm nhiều thành viên mới từ châu Á, Phi, Bắc Mỹ, và đặc biệt là cha Johannes Schütte, Tổng quyền Dòng Ngôi Lời giữ vai trò phó chủ tịch ủy ban. Cha đã soạn một dự thảo mới, với sự cộng tác của các nhà thần học nổi tiếng như Yves Congar và Joseph Ratzinger. Tuy nhiên lược đồ này chỉ được đem ra bàn cãi sau khi lược đồ vắn tắt nói trên đã bị các nghị phụ bác bỏ ở nghị trường.

Cuối cùng, dự thảo của cha Schütte được trình bày cho các nghị phụ vào ngày 7-10-1965. Từ ngày 7 cho đến 13 tháng 10, đã có 49 vị lên tiếng phát biểu. Ngày 12 tháng 10, vị Tổng thư ký xin bỏ phiếu, với kết quả là 2070 thuận và 15 chống. Ủy ban tiếp tục đón nhận các ý kiến tiếp tục phát biểu hoặc qua bản viết. Sau những sửa chữa, bản văn tu chính được đưa ra bỏ phiếu chung quyết vào ngày 7-12-1965 (ngày chót trước khi bế mạc Công đồng), với kết quả là 2,394 phiếu thuận và chỉ 5 phiếu chống. Đây là bản văn  Công đồng đạt được sự đồng ý cao nhất. Một kỷ nguyên mới của hoạt động truyền giáo đã bắt đầu.

Nội dung

Chương Một

Sắc lệnh Ad Gentes gồm Nhập đề ngắn, 6 chương và Kết luận ngắn. Có lẽ chương quan trọng nhất là chương Một mang tựa đề “Những nguyên tắc đạo lý”, với dòng đầu tiên có lẽ là lời tuyên bố súc tích hơn cả của toàn văn kiện, nói như sau: “Giáo hội lữ hành mang tính sứ vụ tự bản tính, bởi vì bắt nguồn từ sứ vụ của Chúa Con và sứ vụ của Thánh Linh, phù hợp với ý định của Chúa Cha” [2] (AG 2). Qua câu này, một phần gợi ý từ nhà thần học Karl Barth (Tin lành) một phần trở về với truyền thống lâu đời của Giáo hội đã bị lãng quên, Công đồng muốn đặt nguồn gốc của sứ vụ không phải từ mệnh lệnh của Chúa Giêsu (Mt 28,19) nhưng là từ “suối nguồn tình yêu” (AG 2), tức là chính Thiên Chúa. Theo dòng suy tư mang nhiều trích dẫn Kinh thánh và các giáo phụ, Công đồng nói đến cuộc tạo dựng vũ trụ như là cuộc sai đi tiên khởi, và được trở nên rõ rệt nơi cuộc Nhập thể (vì vài lý do, Công đồng không nhắc đến lịch sử của Israel mà chỉ lướt qua) rồi được trao lại cho Giáo hội (AG 2-5).

Từ suy tư tổng quát về bản chất “sứ vụ (được sai đi) của Giáo hội, sang đến số 6, văn kiện chuyển sang ý nghĩa “truyền giáo” (thừa sai) theo nghĩa chặt, đó là “rao giảng Tin mừng và vun trồng Giáo hội nơi những dân tộc và nhóm người chưa tin nhận Chúa Kitô”. Đàng sau lời khẳng định này, Công đồng muốn dung hòa hai ý kiến liên quan đến mục tiêu của công cuộc truyền giáo vào thập niên 60 (một bên chủ trương dẫn đưa người ngoại đạo vào đức tin; một bên nhấn mạnh đến việc thiết lập giáo hội tại địa phương). Văn kiện cũng muốn thay đổi một não trạng khi bàn về vấn đề truyền giáo. Vào thời ấy, nhìn từ châu Âu, “truyền giáo” đồng nghĩa với “đi ra nước ngoài”. Thế giới được chia làm hai khu vực: khu vực Kitô giáo (Âu Mỹ) và khu vực “truyền giáo” (châu Á và châu Phi). Thuật ngữ “truyền giáo” được gắn với yếu tố lãnh thổ. Tuy khái niệm này vẫn còn được duy trì trong sắc lệnh Ad gentes, nhưng Công đồng muốn vượt lên não trạng ấy, khi gắn việc “truyền giáo” với yếu tố nhân sinh: công tác truyền giáo nhắm đến những con người, cá nhân hay cộng đoàn, chưa tin nhận Chúa Kitô, dù là ở Phi châu, Á châu, hay tại Mỹ châu và Âu châu: những người di dân, những người vô thần, những người lãnh đạm với tôn giáo, v.v…

Số 9 giải thích ý nghĩa của nỗ lực truyền giáo như thế này: “Hoạt động truyền giáo không là gì khác hơn sự biểu lộ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định ấy trên thế giới và trong lịch sử nhân loại”. Thiên Chúa “hoàn thành lịch sử cứu độ nhờ việc truyền giáo” và mục tiêu của nó là “làm cho Đấng tác thành công trình cứu độ là chính Chúa Kitô được hiện diện”. Tuy nhiên, cũng nên ghi nhận một đề tài thường được nhắc đi nhắc lại trong suốt văn kiện là sự hiện diện của Chúa Kitô không tiêu hủy văn hóa, nhưng kiện toàn nó. Lý do bởi vì trong mỗi nền văn hóa, đã có một sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa mà Phúc âm sẽ làm tỏ lộ ra, khi nó được chữa lành và nâng cao.

Việc truyền giáo, như ta đọc thấy ở số 9 và kết luận của Chương I, có một mục tiêu cánh chung. Nó nhắm tới sự hợp nhất của nhân loại và thế giới, điều mà sẽ xảy ra vào lúc tận cùng của thời gian.

Chương Hai

Chương II mang tựa đề là “Công cuộc truyền giáo”, đưa ra vài nguyên tắc quan trọng trong tiến trình thi hành công tác truyền giáo giữa các dân tộc. Số 11-12 bàn về chứng tá Kitô hữu; số 13-14 nói đến việc rao giảng Tin mừng; số 15-18 đề cập đến việc thiết lập các cộng đoàn cho những ai đã đón nhận Tin mừng và đi theo Chúa Kitô. Ba hoạt động vừa rồi diễn ra trong ba bối cảnh được mô tả ở số 10, đó là: giữa những tín đồ của các tôn giáo; giữa những người không theo tín ngưỡng nào; giữa những người chống đối tôn giáo và tín ngưỡng.

Số 11 đáng được xem là một trong những đoạn hùng hồn nhất của văn kiện. Nó nói đến sự cần thiết đối với Kitô hữu phải làm chứng cho Tin mừng bằng đời sống, sống hòa đồng với văn hóa và các giá trị của dân. Khi đã quen thân với các truyền thống dân tộc và tín ngưỡng của dân, họ hãy hoan hỉ và kính cẩn khám phá ra những “hạt giống của Lời” ẩn tàng trong đó. Thuật ngữ “hạt giống của Lời” (semina Verbi) lấy từ thánh Giustinô tử đạo, và thường được Công đồng trích dẫn. Nó muốn nói rằng công cuộc truyền giáo không diễn ra trên vùng đất hoang vu, nhưng trong bối cảnh mà Thánh Linh và Chúa Kitô đã hiện diện cách huyền nhiệm. Vì thế, các vị thừa sai cần biết “chân thành và kiên nhẫn đối thoại” ngõ hầu khám phá “những kho tàng và Thiên Chúa tốt lành đã phân phát cho các dân tộc trên thế giới”.

Chính vì tính thánh thiện cơ bản của các dân tộc, sự tôn trọng lịch sử và văn hóa của họ mà Công đồng triệt để ngăn cấm mọi hình thức chiêu dụ (proselytism) thúc bách người ta theo đạo hoặc dùng những mánh khóe để lừa đảo họ (AG 13). Công đồng bênh vực quyền tự do tín ngưỡng, cũng như khẳng định rằng hết mọi người đều có quyền không bị người khác tước đoạt niềm tin bằng những quấy nhiễu bất công (AG 13).

Một tiêu điểm quan trọng của hoạt động truyền giáo là thiết lập một cộng đoàn Kitô hữu sinh động – nghĩa là theo kiểu nói của ĐTC Phaolô VI mười năm sau đó trong tông huấn Evangelii nuntiandi – một cộng đoàn đến lượt mình sẽ lên đường loan báo Tin mừng (EN 15). Các số 15-18 của AG đề cập đến việc xây dựng một cộng đoàn như vậy. Nó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của ơn gọi giáo dân, ơn gọi các nam nữ tu sĩ và các giáo sĩ, và việc đào tạo các giáo sĩ. Số 16 vọng lại Hiến chế Lumen gentium về việc khôi phục các phó tế vĩnh viễn nếu Hội đồng giám mục xét là cần. Sau hết, số 17 nêu bật vai trò các giáo lý viên và việc đào tạo dành cho họ.

Chương Ba

Chương III bàn về “các Giáo hội địa phương” vẫn còn trong tình trạng truyền giáo, nghĩa là chưa sẵn sàng tự lập xét vì con số các tín hữu, hàng giáo sĩ bản xứ, hoặc nguồn tài chính. Mặc dù vậy, Công đồng nhấn mạnh đó là những “Giáo hội” đúng nghĩa và cần phải được đối xử như vậy. Như vậy là Công đồng muốn sửa đổi quan niệm coi “Giáo hội ở miền truyền giáo” là bất toàn. Chương này được viết dựa trên một nền tảng vững chắc của thần học về Giáo hội địa phương.

Số 20 nói đến giám mục và hàng giáo sĩ. Giám mục phải là người “loan truyền đức tin”, và các giáo sĩ không chỉ dấn thân vào công tác mục vụ mà còn hãy lưu ý đến việc rao giảng đức tin cho những người trong giáo phận chưa chấp nhận Chúa Kitô. Số 21 là một suy tư về các giáo dân, nhấn mạnh rằng “Giáo hội chưa được thực sự thiết lập, chưa thực sự trở nên sống động và trở nên dấu chỉ của Chúa Kitô giữa nhân loại bao lâu các giáo dân chưa hợp tác với hàng giáo phẩm”. Vai trò chính của các giáo dân là làm chứng tá trong đời sống hàng ngày, và văn kiện nhấn mạnh rằng điều này cần được thực hiện trong bối cảnh của nền văn hóa của mình. Ad gentes nói đi nói lại là cộng đoàn Kitô hữu không được phép thoát khỏi thế giới nhưng cần sống trong thế giới và góp phần xây dựng thế giới.

Số cuối cùng của chương này khuyến khích sự phát triển thần học địa phương (ngày nay gọi là “hội nhập văn hóa” nhưng lúc ấy còn dùng từ ngữ “thích nghi vào văn hóa”), với một hình ảnh rất đẹp được dùng trong phụng vụ mùa Giáng sinh, đó là “tiếp nhận những sự phong phú của các dân tộc đã được ban cho Chúa Kitô làm sản nghiệp” (x. Tv 2,8). Như vậy sẽ nhận thấy rõ ràng thế nào là đức tin tìm kiếm sự hiểu biết (AG 22) trong bối cảnh của triết lý, minh tuệ, phong tục và thế giới quan của các dân tộc địa phương.

Chương Bốn

Tựa đề của chương này là “các thừa sai”, nhắm đến việc huấn luyện các nhân viên truyền giáo tương lai, bất kỳ là linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân, người nước ngoài hay người bản địa.

Tuy rằng mỗi người Kitô hữu được mời gọi tham gia vào việc quảng bá đức tin bằng lời nói và nhất là bằng việc làm (AG 23), nhưng trong Giáo hội, có một ơn gọi đặc biệt nhờ đó người tín hữu lìa bỏ quê hương hay nơi mà mình được sinh ra và dưỡng dục để rao giảng Tin mừng cho những dân tộc khác. Đây là một ân huệ của Thánh Linh, nhưng con số đặc sủng này vẫn còn thiếu. Những thừa sai tương lai cũng cần được đào tạo đặc biệt về tâm linh và luân lý (AG 25) ngõ hầu phát triển lòng quảng đại, tính cởi mở và tinh thần hy sinh. Các thừa sai cũng cần được huấn luyện về thần học, vừa mang tính phổ quát của Giáo hội vừa quan tâm đến nét riêng biệt của các dân tộc (AG 26). Nhất là, vị thừa sai tương lai cần được huấn luyện về “truyền giáo học”, bao gồm cả giáo huấn Giáo hội về hoạt động truyền giáo cũng như về lịch sử truyền giáo, và tuy không nói minh nhiên nhưng cũng hiểu ngậm về các khoa học xã hội, cách riêng là nhân-học: “Phàm ai sắp lên đường gặp gỡ các dân tộc khác thì cần phải biết tôn trọng gia sản, ngôn ngữ và truyền thống của dân tộc ấy” (AG 26).

Chương Năm

Mang tựa đề là “Thảo hoạch hoạt động truyền giáo”, chương này đã gây ra nhiều tranh cãi trong thời gian biên soạn, bởi vì liên quan đến việc tái cấu trúc Bộ Truyền bá đức tin[3], và muốn trao cho các giám mục thuộc thầm quyền của Bộ được góp ý nhiều hơn trong việc phát triển Giáo hội của mình.

Việc tái cấu trúc Bộ Truyền bá đức tin nằm trong bối cảnh của quan niệm thần học mới về việc điều hành công cuộc truyền giáo. Mở đầu chương này, số 28 tuyến bố rằng tất cả mọi Kitô hữu, tùy theo ân huệ được ban, đều được mời tham gia vào sứ vụ của Giáo hội. Tuy nhiên, hoạt động của tất cả các tín hữu cần được điều hành ngõ hầu “mọi sự diễn ra trong trật tự” (x. 1Cr 14,40). Việc điều hành này trước hết thuộc về toàn thể giám mục đoàn, như LG 23 đã dạy. Vì thế, để thực thi trách nhiệm tập đoàn này, Công đồng quyết định rằng Hội đồng thường trực của các giám mục toàn thế giới (tức là Thượng hội đồng giám mục), cần phải đưa ra những đường hướng cho hoạt động truyền giáo của Giáo hội. Do đó, Bộ Truyền bá đức tin điều khiển công cuộc truyền giáo trong tư cách là thừa hành toàn thể Giáo hội nói chung và tập đoàn giám mục nói riêng.

Đoạn văn ở cuối số 29 gây ra nhiều tranh luận sôi nổi hơn cả trong thời gian soạn thảo cũng như tại nghị trường. Đoạn văn này tuyên bố rằng ở trong ban điều hành của Bộ cần có đại diện của các giám mục thế giới, giám đốc các hội giáo hoàng hỗ trợ công tác truyền giáo, các hội dòng truyền giáo và các tổ chức giáo dân. Bản dự thảo trước đó yêu cầu những người này phải là “thành viên” của Bộ, nhưng không được Công đồng chấp thuận. Tuy vậy, đã rõ là những nhân vật ấy giữ phần tích cực, với phiếu biểu quyết, trong tiến trình quyết định lập kế hoạch hoạt động.

Thật là một cuộc tái cấu trúc triệt để, nhưng phải đau buồn nhìn nhận rằng định hướng của Ad Gentes chưa hề được thực thi. Vào những năm sau Công đồng, nhiều văn thư đã dần dần giảm bớt vai trò của các cơ quan ấy. Nói cách khác, cơ cấu của Bộ Truyền bá đức tin không có gì thay đổi so với thời kỳ trước Công đồng.

Chương Sáu

Chương cuối cùng bàn về “Sự hợp tác truyền giáo”, nghĩa là bằng cách nào các Kitô hữu góp phần vào hoạt động truyền giáo của Giáo hội. Trước hết, Công đồng lặp lại vai trò của toàn thể Giáo hội, tiếp theo là của các giám mục và linh mục, các tu sĩ thuộc dòng hoạt động cũng như chiêm niệm, và cuối cùng là của các giáo dân. Tuy nhiên, có một khoảng cách giữa chương này với lời tuyên bố về bản chất truyền giáo của Giáo hội địa phương ở chương II. Ở đây, “truyền giáo” vẫn mang nghĩa là “truyền giáo hải ngoại”, tức là vẫn còn phân biệt giữa “truyền giáo nội địa” và các “nước truyền giáo”.

Thiết tưởng có hai điều đáng nêu bật trong chương này. Thứ nhất, số 30 suy tư về chiều kích truyền giáo nằm trong chức linh mục. Xét vì các linh mục hợp tác với các giám mục trong việc điều hành Giáo hội, cho nên một cách nào đó, các linh mục cũng có trách nhiệm đối với sứ vụ của toàn thể Giáo hội. Vì thế, tác vụ của họ cũng bao gồm việc gây ý thức truyền giáo nơi các tín hữu, cổ võ các ơn gọi truyền giáo và tài trợ cho công cuộc truyền giáo. Thứ hai, văn kiện đề cao bản chất truyền giáo của các dòng chiêm niệm. Người ta thường nghĩ rằng hoạt động truyền giáo là đặc trưng của những dòng hoạt động; nhưng Công đồng nhấn mạnh rằng, các dòng chiêm niệm cũng là thành phần cốt yếu của hoạt động truyền giáo. Xét vì chính Thiên Chúa mới là Đấng mở lòng con người để đón nhận sứ điệp Tin mừng, cho nên những lời cầu nguyện, những đau khổ, những việc hãm mình mà các cộng đồng tu sĩ nam nữ dâng tiến đều góp phần to lớn cho việc trở lại của những người ngoại đạo. Bản văn khuyến khích các dòng chiêm niệm hãy thiết lập cộng đoàn tại các châu Á, Phi, Mỹ Latinh, và Đại dương, ngõ hầu khi sống đời tu theo đường lối phù hợp với những truyền thống của các dân tộc, họ có thể mang lại chứng từ cao quý cho những người ngoài Kitô giáo về sự cao cả và tình thương của Thiên Chúa cũng như sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô (AG 40).

Ad Gentes khép lại với lời chào thăm tất cả các vị thừa sai, đặc biệt những người đang bị bách hại. Một lần nữa, Công đồng nhắc lại tầm quan trọng của việc Giáo hội tham gia vào công cuộc truyền giáo, nhưng đồng thời một lần nữa cũng lặp lại rằng việc truyền giáo tiên vàn là công cuộc của Thiên Chúa. Các giám mục cầu xin cho thế giới trở lại với Tin mừng, nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Nữ vương các Tông đồ. Sau cùng Công đồng tuyên bố mọi sự thay đổi về pháp luật chỉ có hiệu lực từ ngày 29-6-1966, và Đức thánh cha sẽ ban hành những quy tắc cần thiết cho việc thực thi.

Kết luận

Như cha Roger Schroeder nhận xét trong chương kế tiếp, Công đồng Vaticanô II đã khai mào một “chặng dậy men” trong tư tưởng và thực hành của việc truyền giáo, nhưng điều trớ trêu là nó được tiếp nối với “chặng khủng hoảng” đòi xét lại vấn đề truyền giáo, phần nào do những tuyên bố của Công đồng về tự do tín ngưỡng, tôn trọng văn hóa địa phương, và con người có thể được cứu độ ngoài Giáo hội. Trong khi chặng khủng hoảng phần nào đang tiếp diễn thì một “chặng tái sinh” cũng ló dạng, trong đó việc truyền giáo diễn ra một cách ôn hòa hơn, kèm theo các yếu tố đối thoại, công bình, vãn hồi hòa bình, nhạy bén với môi sinh, phục vụ di dân, và hòa giải. Nhiều điều đã thay đổi trong vòng 50 năm kể từ khi bế mạc Công đồng, có lẽ cách triệt để hơn cả là việc truyền giáo được thực hiện nhiều hơn qua những cam kết ngắn hạn, với sự tham gia đông đảo hơn của các giáo dân, bởi những người từ “vùng truyền giáo” sang vùng “đạo gốc”. Bộ mặt truyền giáo ngày nay khác nhiều so với năm 1965 khi sắc lệnh Ad gentes được ban hành. Dù vậy, vẫn có nét liên tục: tất cả đều bắt nguồn từ biến cố tuyệt vời là Công đồng Vaticanô II.

[1] John W. O’Malley, What Happened at Vatican II. Oxford University Press, New York, 2008.

[2] Chú thích của người dịch. Từ missio quen được hiểu là “truyền giáo”, nhưng Công đồng muốn trở về  nguồn gốc của nó là “sự sai đi, phái cử” (hoặc “sứ vụ”), bắt nguồn từ việc Chúa Cha phái Chúa Con và Thánh Linh đến với nhân loại.

[3] Chú thích của người dịch. Danh xưng chính thức của Bộ “Truyền giáo” là ‘Truyền bá đức tin” (S.C. de Propaganda Fide). Sau Công đồng (1968), Bộ được đổi tên là “Loan báo Tin mừng cho các dân tộc” (pro gentium Evangelizatione).

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here