Những kinh nguyện và việc tôn kính thánh Giuse

0
2311

Phan Tấn Thành

(Trích: Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh, Roma 2007, trang 119-141)

Giáo hội nhìn nhận tầm quan trọng của thánh Giuse không chỉ qua những tuyên ngôn, những văn kiện, nhưng nhất là qua những việc tôn kính đạo đức. Chúng ta hãy tìm hiểu lịch sử và ý nghĩa của vài hình thức cụ thể, được xếp vào hai loại chính [1]:

1/ Những hình thức phụng vụ, theo lịch phổ quát và địa phương: lễ kính thánh Giuse ngày 19/3 (bài lễ; kinh tiền tụng và phụng vụ giờ kinh); lễ ngoại lịch kính thánh Giuse; lễ Thánh gia; lễ thánh Giuse lao động; lễ kính cuộc kết hôn; lễ kính thánh Giuse bảo trợ Hội thánh; tưởng nhớ việc trốn sang Ai-cập.

2/ Những việc đạo đức dân gian:

a) các kinh nguyện: kinh cầu thánh Giuse; bảy sự vui buồn;

b) các thời điểm: thứ Tư hàng tuần, tháng 3 dương lịch.

I. Phụng vụ

 Trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu những lễ được ghi trong lịch phụng vụ phổ quát, sau đó là những lễ của vài địa phương, hoặc đã thuộc về quá khứ.

A. Ngày lễ chính: 19 tháng Ba

Như đã nói trong chương 2, bên Đông phương, nghi điển Byzantin kính nhớ thánh Giuse chung với các thánh tổ phụ vào mùa Giáng sinh; riêng nghi điển Coptô (bên Ai cập) mừng vào ngày 26 tháng Abib. Bên Tây phương ngày lễ chính được cử hành vào ngày 19 tháng ba, với một tiến trình lịch sử kéo dài nhiều thế kỷ.

Lần đầu tiên tên thánh Giuse được nhắc đến vào ngày 19/3 là một cuốn “Tử đạo thư” (martyrologium: nêu danh tánh của các thánh nhân dịp kỷ niệm ngày qua đời của các ngài) thế kỷ VIII của một đan viện Biển-đức ở Rheinau (thuộc tổng Zurigô, Thụy sĩ). Vào thế kỷ IX, một đan viện khác cũng thuộc dòng Biển-đức ở Reichenau (miền nam nước Đức) tưởng nhớ Người vào ngày 19/3, và cũng có thể là nơi xuất phát phong trào phổ biến lòng tôn kính thánh nhân. “Tử đạo thư” thế kỷ X của Fulda đã đặt tiêu đề ngày 19/3 là: “Tại Bêlem, thánh Giuse, Đấng dưỡng nuôi Chúa” (In Bethleem, sancti Joseph, nutritoris Domini).

Người ta không rõ nguồn gốc mối liên hệ giữa ngày 19/3 với thánh Giuse. Một giả thuyết cho rằng trước kia đã có lễ thánh Giuse Antiokia vào ngày 20/3 trong nhiều “tử đạo thư”. Có thể do sự trùng tên cho nên lịch đã ghi thánh Giuse hôn phu của đức Maria vào cùng ngày hoặc vào ngày hôm trước. Một giả thuyết nữa cho rằng thời xưa tại Rôma, ngày 19/3 là lễ của các người thợ tôn kính nữ thần Minerva; vì thế nó được thay thế bằng lễ kính thánh Giuse là một người thợ xem ra dễ hiểu. Tiếc rằng chưa có đủ bằng chứng lịch sử về lễ kính thánh Giuse thợ vào các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Dù nguồn gốc như thế nào đi nữa, việc mừng lễ thánh Giuse vào ngày 19/3 đã được thành hình từ đầu thiên niên kỷ thứ hai.

Vào khoảng năm 1030, một đan viện dòng Biển-đức tại Winchester đã cử hành lễ thánh Giuse. Cũng trong thế kỷ này, dòng Cát-minh từ thánh địa trở về châu Âu đã góp phần vào việc quảng bá lòng sùng kính.

Vào năm 1129 các đan sĩ Biển-đức thuộc đan viện thánh Hêlena đã cất một nhà thờ dâng kính thánh Giuse ở Borgo Galliera (thành phố Bologna, Italia). Có thể nói được đây là trung tâm phổ biến lòng sùng kính thánh nhân sang các nơi khác. Cũng tại nơi đây, tên thánh Giuse, vốn đã trở thành quen thuộc bên Đông phương, bắt đầu được đặt cho các trẻ em khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Có lẽ lòng đạo đức sơ khởi kính thánh Giuse trong dòng Phan-sinh bắt nguồn do ảnh hưởng của cuộc tiếp xúc với Bologna.

Sang thế kỷ XIII, chúng ta tìm thấy những bản văn được soạn để mừng lễ. Tại Liège có môt lời nguyện riêng cho thánh Giuse. Đan viện Biển-đức thánh Lorensô tại thành phố đó đã có toàn bộ kinh nguyện, với cung hát, để tôn kính Người. Đan viện thánh Florianô ở nước Áo có môt quyển sách lễ với một bài lễ kính thánh Giuse, và một bài lễ khác kêu cầu những công nghiệp của Người “chống lại sự phỉ báng của phường tội lỗi”.

Trong thế kỷ XIII, các tu sĩ dòng Phan-sinh đã tự động mừng lễ thánh Giuse, và một “tử đạo thư” đã xếp ngày 19/3 như là ngày lễ duplex maior trong khi một quyển trước đó chỉ mừng với cấp duplex minor[2]. Tại Pháp, nhà thờ Phan-sinh ở Toulouse có một nhà nguyện tôn kính thánh Giuse từ năm 1222, và vào ngày 7/7/1275 một nhà thờ kế cận tu viện Phan-sinh ở Bourbonnais miền Champagne đã được cung hiến long trọng với thánh hiệu này.

Những cuộc thập tự chinh cũng là cơ hội để mang những di tích thánh từ thánh địa về châu Âu, ví dụ như cây gậy của thánh Giuse, và chiếc nhẫn đính hôn Người trao tặng đức Maria.Vào năm 1254, một nhà nguyện được xây cất trong nhà thờ thánh Lôrensô ở Joinville-sur-Marne (Pháp) để tôn kính dây thắt lưng và nơi đây đã trở thành trung tâm hành hương[3]. Có lẽ tại những nhà nguyện được cất lên để tôn kính thánh Giuse, lễ mừng kính Người được cử hành vào tháng ba.

Vào ngày 1/5/1324, dòng Tôi tớ Đức Mẹ trở thành dòng tiên khởi tuyên bố tại tổng hội rằng các thành viên của dòng phải cử hành trong tất cả nhà thờ của họ lễ thánh Giuse được ấn định mừng vào ngày 15/3. Các tu sĩ dòng Tôi tớ Đức Mẹ đã làm chủ nhà thờ thánh Giuse ở Bologna kể từ năm 1301, và họ đã phổ biến việc cử hành lễ này. Tổng hội dòng Phan sinh vào năm 1399 cũng đã thiết lập lễ thánh Giuse với chín bài đọc trong giờ kinh phụng vụ và một Thánh lễ sử dụng phần chung của các thánh “hiển tu”[4] (Commune confessorum), đồng thời quyết định rằng lễ này phải được cử hành vĩnh viễn trong toàn Dòng. Tuy nhiên, không rõ các quyết nghị này có ảnh hưởng đến đâu.

Tại Agrigento (nam Italia), nơi có các tu viện của dòng Phan-sinh, Đa-minh, Cát-minh, vào thế kỷ XIV đã lưu hành “Kinh nguyện kính thánh cả Giuse, cha nuôi của đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Officium Santissimi Joseph nutricii et patris adoptivi Domini nostri Jesu Christi). Trong phần điệp ca của kinh Magnificat, Người được gọi là “dòng dõi ưu tuyển của Bêlem, được giải thoát khỏi mọi vết nhơ tội lỗi” (O proles almifica de Bethleem electa, gemma nimis ardua, ab omni labe erepta).

Những chi tiết vừa rồi nhằm trình bày nguồn gốc của việc mừng kính lễ trong tháng Ba cùng với việc phát triển ở phương Tây. Sang thế kỷ XV, ngày lễ mới bắt đầu được phổ biến hơn. Tại công đồng Constance (1414-1418) các nghị phụ đã nghe cha Jean Gerson thuyết minh về lời bầu cử đầy quyền năng của thánh Giuse, Đấng đã sai khiến hài nhi Giêsu và Đấng có thể được kêu cầu cách hiệu nghiệm để chấm dứt nạn ly giáo đang gây đau khổ cho Hội thánh. Cha Gerson đã xin công đồng xem xét và phong ban cho thánh Giuse một danh dự lớn lao hơn. Tuy nhiên, xem ra ảnh hưởng của dòng Phan-sinh trong thế kỷ này mới thực là nhân tố chính cho việc bành trướng ngày lễ.

Các tu sĩ dòng Phan-sinh như thánh Bernardinô Siena (+1414) không chỉ giảng về thánh Giuse mà còn phân phát lược đồ các bài giảng nữa. Tu sĩ Bernardinô Feltre đã thiết lập ở khắp nước Ý những quỹ tín dụng (cho vay không lãi) mang tên là”những ngọn núi đạo đức” (Monte di pietà) đặt dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Năm 1461 ở Salamanca, tổng hội dòng Phan-sinh (nhánh nhiệm nhặt) đã ấn định ngày lễ vào 19/3. Năm 1471, một người bạn của cha Bernardinô Feltre và là nguyên Bề trên tồng quyền của dòng Phan sinh đắc cử giáo hoàng, đó là đức Sixtô IV. Vào tháng mười một năm 1480, ngài cho phép dòng Phan-sinh được cử hành mừng lễ bậc duplex maior ngang hàng với các lễ Hiển Linh, Truyền Tin, và Phục Sinh. Mặc dầu là đặc ân được ban cấp cho một dòng tu, nhưng sự phê chuẩn công khai của đức thánh cha đã mở đường cho việc bành trướng lễ rộng rãi hơn. Nhiều ấn bản của Sách lễ Roma và Sách nguyện, chẳng hạn như những quyển do tu sĩ Philipphê Rotingo ở Venise xuất bản năm 1481, đã sắp xếp ngày lễ với bậc duplex maior với bài đọc riêng. Người ta cho rằng đức Sixtô IV đã mở rộng lễ này ra khắp Hội thánh với cấp simplex, mặc dầu chưa có tính cách bó buộc. Một ấn bản Sách lễ Roma tại Venise do Giovanni Sessa in vào năm 1497 đăng lịch của dòng Phan-sinh với ngày lễ này và những bản văn riêng mà Sách Lễ của đức Piô V sẽ sử dụng.

Qua thế kỷ XVI, người ta thấy sự bành trướng của việc cử hành lễ 19/3 trong các giáo phận và các dòng tu, với việc ghi tên trong các lịch phụng vụ cùng với việc xuất bản những bản văn dùng trong các Sách lễ và Sách nguyện. Việc cải tổ Phụng vụ sau công đồng Trentô đã thiết lập sự thống nhất các sách phụng vụ trong toàn thể nghi lễ Latinh. Khi đức Piô V cho xuất bản Sách nguyện (năm 1568) và Sách lễ Roma (năm 1570), ngày 19/3 được dành kính “thánh Giuse hiển tu” ở bậc duplex. Nói chung, những lời nguyện được trích từ bài lễ của các vị thánh khác (thánh Matthêu và thánh Tôma). Tuy nhiên, trong thế kỷ này, nhiều thánh thi và lời nguyện được sáng tác và sử dụng trong các lịch riêng, kể cả sau cuộc canh tân của đức Piô V.

Theo lời yêu cầu của nhiều quốc gia và đoàn thể , đức Grêgôriô XV tuyên bố lễ thánh Giuse là ngày lễ buộc trong toàn thể Giáo hội (ngày 8/5/1621). Ngày 6/12/1670, đức Clêmentê X nâng lên bậc duplex secundae classis, và soạn ba bài thánh thi cho giờ kinh phụng vụ (kinh Chiều: Te Ioseph celebrent; kinh Sách: Caelitum, Ioseph, decus; kinh Sáng: Iste, quem laeti).

Ngày 4/2/1714, đức Clêmentê XI phê chuẩn những bản văn riêng cho ngày lễ 19/3, bao gồm những thánh thi đã được đức Clêmentê X chứng nhận. Ngày 8/12/1870 đức Piô IX công bố thánh Giuse là bảo trợ của Hội thánh và nâng lễ thánh Giuse lên bậc duplex primae classsis.

Trong thông điệp Quamquam Pluries năm 1889, đức Lêô XIII ước muốn rằng tại những nơi nào mà ngày 19/3 không phải là lễ buộc thì cũng nên được tuân giữ với lòng đạo đức và lòng nhiệt thành như ngày lễ buộc.

Năm 1911 đức Piô X dời ngày lễ vào Chúa nhật sau ngày 18/3 như để giảm bớt số lượng ngày lễ buộc trong tuần. Tuy nhiên, chỉ sau ba tuần lễ, do những cuộc tranh luận về phụng vụ mùa Chay, lễ thánh Giuse được mừng trở lại vào ngày 19/3 ở bậc duplex primae classsis, nhưng không phải là lễ buộc, với tiêu đề mới “Lễ trọng kính thánh Giuse, bạn trăm năm đức Trinh nữ Maria, hiển tu” (Commemoratio Sollemnis S.Ioseph, Sponsi B.M.V. Confessoris). Với việc cải tổ phụng vụ năm 1913, ngày lễ được giảm xuống bậc duplex secundae classis.

Khi đức Bênêđitô XV ban hành bộ Giáo luật năm 1917, điều khoản 1247 một lần nữa ấn định lễ thánh Giuse là ngày lễ buộc trong toàn thể Hội thánh. Hậu quả là vài tháng sau, lễ phụng vụ được nâng lên bậc duplex primae classsis. Trong bộ Giáo luật 1983, lễ thánh Giuse là một trong mười ngày lễ buộc của Hội thánh hoàn vũ, tuy hội đồng giám mục địa phương có thể xin loại bỏ các ngày đó.

Năm 1956 một quyết định quan trọng theo sau việc thiết lập “lễ thánh Giuse lao động” là huỷ bỏ “lễ thánh Giuse bảo trợ” được cử hành vào ngày thứ tư trong tuần thứ ba sau lễ Phục sinh. Sắc lệnh này đã nối kết tiêu đề của lễ trọng này : “Bảo trợ Hội thánh hoàn vũ” vào ngày lễ chính của thánh Giuse 19/3.

Năm 1969 trong lịch phụng vụ canh tân do đức Phaolô VI ban hành, ngày 19/3  được xếp vào hàng lễ trọng và mang tiêu đề “Thánh Giuse, bạn trăm năm đức Trinh Nữ Maria” (S.Ioseph, Sponsi B.M.V.). Với sự thay đổi này, không chỉ ngày lễ mà cả tiêu đề “bảo trợ Hội thánh hoàn vũ” cũng bị loại bỏ.

1/ Thánh lễ ngày 19/3

Sách Bài đọc ban hành năm 1969 ấn định ba bài đọc như sau: 2 Sm 7,4.12-14a.16 (đấng Mêsia dòng dõi vua Đavit); Rm 4,13.16-18.22 (gương mẫu đức tin); Mt 1,16,18-21.24 hay Lc 2,41-51a.

Sách lễ Roma ban hành năm 1970 có những lời nguyện mới về thánh Giuse trong thánh lễ, đề cao vai trò của Người trong nhiệm cục cứu độ và về niềm vui của Hội thánh có thánh Giuse như là mẫu gương và đấng bầu cử. Những bản văn hiện tại chú trọng đến thánh Giuse trong tương quan với đức Kitô và với Hội thánh:

– đối với đức Kitô, thánh Giuse “đã hết lòng phục vụ Đức Kitô, Con Một Chúa”. “Chúa đã giao phó Con Một Chúa chăm sóc giữ gìn như người cha lo cho con cái”.

– đối với Hội thánh, thánh Giuse là vị bảo trợ “được thánh nhân phù trợ ở dưới thế gian này thì cũng được cầu thay nguyện giúp trước toà Chúa”; đồng thời Người cũng là mẫu gương cho Hội thánh trong việc “cộng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu”, biết “phục vụ hy sinh suốt đời như người tôi trung”.

Kinh Tiền tụng duy trì bản văn được đức Bênêđitô XV châu phê ngày 9/4/1919, tóm tắt những điều chính yếu của Tin mừng về vai trò thánh Giuse “người công chính, kết bạn với Đức trinh nữ Mẹ Chúa Trời… tôi tớ trung tín và khôn ngoan được trao phó coi sóc Thánh gia”, để thay quyền Chúa Cha “gìn giữ đức Giêsu Kitô, Con Một Chúa nhập thể bởi quyền năng Thánh Thần”.

2/ Phụng vụ các giờ kinh

Khi bàn về lịch sử lễ kính thánh Giuse, chúng ta đã đề cập đến sự phát triển của Sách nguyện về lễ này. Vào thế kỷ XIII, một đan viện dòng Biển-đức ở Liège đã có một bài nguyện riêng, và vào năm 1399, các tu sĩ dòng Phan-sinh đã đọc các giờ kinh với chín bài đọc. Đức Sixtô IV (1471-1484) thuộc dòng Phan-sinh đã đưa các bản văn này vào Sách nguyện Roma. Nhiều sách nguyện khác có kinh phụng vụ kính thánh Giuse vào thế kỷ XVI. Sau công đồng Trentô, những bản văn được thống nhất dưới thời đức Piô V (1566-1572) nhưng bản văn đầy đủ hơn được đức Clêmentê XI công bố ngày 4/2/1714 mà người ta nói do chính ngài soạn ra. Những bản văn này không thay đổi trong hai thế kỷ rưỡi, cho đến khi duyệt lại sách phụng vụ giờ kinh năm 1971 bao gồm những bản văn mới cho ngày lễ 19/3, lễ Thánh gia, lễ thánh Giuse lao động.

3/ Lễ ngoại lịch kính thánh Giuse

Lễ ngoại lịch kính thánh Giuse bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XIII, và được đưa vào nhiều Sách lễ xuất bản vào thế kỷ XVI như ở Orleans, Paris, Strasbourg, Salzburg, Chalon và Reims.

Sắc lệnh năm 1883 cho phép các công nghị giáo phận và các công đoàn tu trì sáng tác các kinh nguyện ngoại lịch và ấn định những lễ ngoại lịch vào các ngày khác nhau trong tuần, riêng ngày thứ tư là: “Thánh Giuse, bạn của đức Trinh Nữ Maria, bảo trợ của Hội thánh Công giáo”. Tiêu đề này xuất hiện ở phần “Lễ nhớ ngoại lịch quanh năm” trong Sách lễ Roma được xuất bản dưới thời đức Lêô XIII, nhưng trong ấn bản của đức Bênêđitô XV, tiêu đề chỉ còn giữ lại “Lễ thánh Giuse” mặc dầu các bản văn không thay đổi. Thỉnh thoảng giáo quyền ban phép cho một vài hội dòng được cử hành lễ nhớ ngoại lịch vào những dịp không bị ngăn trở bởi lịch phụng vụ.

Trong Sách lễ Roma năm 1970, các thánh lễ ngoại lịch không còn gắn với ngày nào đặc biệt trong tuần nữa, nhưng được xếp theo thứ tự hệ thống cấp bậc: bắt đầu với lễ Chúa Ba Ngôi, đức Maria ở vị trí thứ tám, các thiên thần ở vị thế thứ chín, thánh Giuse được xếp vào hàng thứ mười, trước các tông đồ.

Ca nhập lễ trích từ Lc 12,42 và ca hiệp lễ lấy từ Mt 25,21 nhằm trình bày thánh Giuse như mẫu người đầy tớ trung tín mà Đức Kitô nói đến. Lời tổng nguyện của bản văn cũ vẫn duy trì, trong khi lời nguyện trên lễ vật và lời nguyện hiệp lễ là những bản văn mới, xin vì mẫu gương và lời chuyển cầu của thánh Giuse, người công chính và vâng phục cùng là thừa tác của các mầu nhiệm cứu độ giúp chúng ta sống thánh thiện và công chính trong tác vụ của mình.

B. Lễ Thánh Gia

Lòng tôn kính Thánh Gia “tam vị ở trần gian” Chúa Giêsu, đức Maria và thánh Giuse mới phát triển ở những thế kỷ gần đây. Vào thế kỷ XVII, việc đạo đức đã trải rộng ở Âu châu và Canada, được hỗ trợ bởi những nhân vật như chân phước Marie de l”Incarnation dòng Ursuline, cha Jean Jacques Olier sáng lập tu hội Xuân bích, và cha Pierre Marie Chaumonot,SJ. Năm 1665, giám mục Nouvelle France, chân phước Francois Xavier de Montmorency-Laval, đã cho phép huynh đoàn Thánh Gia Québec cử hành một lễ kính vào ngày 22/1. Khi lễ kết hôn thánh Giuse được mừng vào ngày này, lễ Thánh gia được dời lên Chúa nhật thứ hai sau lễ Hiển Linh. Đặc ân này đã sớm mở rộng tới toàn thể giáo phận với bài lễ và kinh nguyện riêng.

Năm 1865 bài lễ và kinh nguyện riêng đã được phép sử dụng trong giáo phận Montréal, rồi cho toàn thể tỉnh Québec.

Tông Thư Neminem fugit năm 1892 của đức Lêô XIII đã phê chuẩn những quy chế của Hiệp hội Thánh gia quốc tế. Vào ngày giáp năm tông thư này, đáp lại những lời thỉnh cầu của nhiều giám mục, một thánh lễ và kinh phụng vụ mới về lễ này đã được chấp thuận với những bài thánh ca mà người ta cho rằng do chính đức Lêô XIII sáng tác: Kinh Chiều O lux beata caelitum, Kinh Sách Sacra iam splendent và Kinh Sáng O gente felix hospita. Tất cả những nơi và tổ chức đã được phép mừng lễ có thể sử dụng những bản văn này và dĩ nhiên những giáo phận và hội dòng khác cũng có thể áp dụng phép này. Giáo quyền đã thống nhất việc mừng ngày lễ vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Hiển linh.

Năm 1893, những giáo phận sau đây đã xin và đã được phép cử hành lễ này : Albano, Rome và các vùng phụ cận, Andria, Melfi, Rapolla, Acquapendente, Ariano, Chioggia, Lipari, Caiazzo, Trezzo và Trevisio trong tổng giáo phận Milan, tất cả ở trong nước Ý; Lavant ở Nam tư; Tours và Lyons ở Pháp; Brugge ở Bỉ; Eichstatt ở Đức; năm 1894 tại Litomerice ở Tiệp khắc; năm 1903 Biella ở Ý. Các hội dòng được phép cử hành trong năm 1893-1894 bao gồm dòng Phan-sinh, dòng Chúa Cứu thế, dòng Gioan Thiên Chúa, dòng Biển-đức Silvestrini và các tỉnh dòng Đaminh ở đảo Sicilia và Malta. Lễ được xếp vào bậc duplex maior. Tại Thánh địa, nhà thờ thánh Giuse ở Nazaret và thượng phụ Latinh ở Giêrusalem được phép cử hành lễ ngoại lịch về Thánh gia trong môt số ngày.

Năm 1914 lễ Thánh gia được ấn định mừng vào ngày 19/1. Dưới thời đức Bênêđitô XV, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị giám mục, lễ này đã mở rộng cho toàn thể Hội thánh với bậc duplex maior, vào Chúa nhật trong tuần bát nhật lễ Hiển Linh với những đặc ân giống như ngày Chúa nhật. Trong lịch canh tân 1969, lễ này là một trong bốn lễ được chỉ định thường xuyên mừng vào ngày Chúa nhật, ấn định vào Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh hoặc vào ngày 30/12 trong những năm không có ngày Chúa nhật trong tuần bát nhật.

Các bài đọc mới được thêm vào cho chu kỳ ba năm của Thánh lễ là Hc 3, một vài câu của Cl 3 và hai đoạn Tin mừng. Sách lễ năm 1969 đã thay đổi các lời nguyện. Năm 1971, những bản văn mới cho Phụng vụ các giờ kinh, bao gồm bài đọc trích ở diễn từ của đức Phaolô VI, đã hoàn tất việc sửa đổi lễ này.

C. Lễ thánh Giuse lao động

Lễ này có nguồn gốc gần đây, mặc dầu việc chọn thánh Giuse làm bổn mạng giới công nhân và lao đông có một lịch sử lâu dài. Ở đây chúng ta truy tầm một vài dấu vết trong hai thế kỷ vừa qua. Thí dụ trong diễn từ năm 1871, đức Piô IX đã nhìn nhận rằng việc đăt tên thánh Giuse cho một hiệp hội tìm kiếm việc làm cho những người thất nghiệp thật là thích hợp bởi vì Người đã nuôi sống Thánh gia. Đức Lêô XIII dành một vài đoạn trong thông điệp Quamquam Pluries cho thánh Giuse như là kiểu mẫu và bổn mạng của những người lao đông. Năm 1905 đức Piô X ban ân xá cho một lời cầu nguyện với thánh Giuse, đề cao việc thánh nhân nghỉ việc vào ngày của Chúa và là gương mẫu cho tất cả các công nhân bắt chước. Năm sau, ngài cũng ban ân xá cho ai đọc kinh cầu nguyện với thánh Giuse, gương mẫu của các công nhân. Kinh cầu nguyện nổi tiếng này do chính ngài sáng tác. Năm 1909, kinh cầu thánh Giuse được chấp thuận bao gồm lời cầu “gương mẫu thợ thuyền.” Tự sắc Bonum Sane do đức Bênêđitô XV ban hành năm 1920 đã đặt thánh Giuse như mẫu gương cho những người lao đông để họ có thể học hỏi nơi Người.

Trong một bài huấn từ ngày 11/3/1945, đức Piô XII đã đặt các hiệp hội các người lao động Công giáo Italia (ACLI) dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Để kỷ niệm mười năm biến cố này, ngài đã loan báo vào ngày 1/5/1955 việc thiết lập lễ thánh Giuse lao động trong phụng vụ, được cử hành ngày đầu tiên của tháng Năm, để Kitô hoá ngày lao động trần thế. Ngày lễ muốn trưng bày người thợ khiêm tốn Nazaret như mẫu gương cho các người lao động, giúp họ nhận ra phẩm giá thật sự của sự làm việc và lôi kéo họ đến gần đức Kitô.

Ngày 1/5/1956 những bản văn mới cho Sách lễ và Sách nguyện được ban hành với tiêu đề “Lễ trọng thánh Giuse lao động, chồng của đức Trinh Nữ Maria, hiển tu”. Một đề tài quan trọng là công việc của thánh Giuse tiếp tục công việc của Thiên Chúa trong việc tạo dựng thế giới. Đặc biệt trong thánh thi kinh Sáng, (Te, pater Ioseph, ópifex) chúng ta kêu xin Thiên Chúa là Cha và là thợ đã làm nên tất cả mọi sự, đến giúp đỡ chúng ta trong công việc của mình, biết bắt chước thánh Giuse, người cũng là cha và là thợ. Chín bài đọc trích từ St 1-3, đức Piô XII, thánh Albertô Cả, cùng với Cl 3 và Mt 13,54-58 được dùng cho các bài đọc trong thánh lễ và các giờ kinh nhỏ.

Bậc lễ trọng chỉ kéo dài một thời gian ngắn, bởi vì từ năm 1969 lễ này chỉ còn là lễ nhớ tự do. Tuy nhiên, các bài đọc của Sách lễ vẫn giữ như cũ, chỉ thêm vào môt vài bản văn mới. Bản văn giờ kinh phụng vụ đã chọn số 33-34 của Hiến chế mục vụ “Hội thánh trong thế giới ngày nay” cho bài đọc kinh Sách, và soạn ra những lời cầu mới cho kinh Sáng và kinh Chiều. Thánh Giuse được nhìn nhận như là bổn mạng và gương mẫu cho các người thợ và mặc dầu bậc lễ bị rút lại là lễ nhớ tự do, lễ này còn được cử hành long trọng tại nhiều nơi trên thế giới.

Trên đây là những lễ được mừng trong toàn thể Giáo hội; tiếp theo là những lễ được mừng ở một vài địa phương hay thuộc về quá khứ.

D. Lễ kết hôn của Đức Maria và thánh Giuse

Tại công đồng Constance năm 1416, cha Jean Gerson đã đề nghị các linh mục cử hành một lễ ngoại lịch kính nhớ việc kết hôn của đức Maria và thánh Giuse vào ngày thứ năm của tuần III mùa Vọng vì thích hợp với đoạn Tin mừng của ngày này. Năm 1474 cha Bernardinô Bustis thuộc dòng Phan-sinh đã viết một kinh phụng vụ cho ngày lễ. Năm 1537 các tu sĩ dòng Phan-sinh mừng lễ vào ngày 7/3, và chẳng bao lâu, dòng Tôi tớ Đức Bà mừng ngày 8/3, dòng Đaminh vào ngày 22/1.

Năm 1684 đức Innocentê XI cho phép cử hành trong vương quốc của Leopold I và sau đó ở Tây Ban Nha. Ở Pháp và Canada lễ mừng vào ngày 22/1 trong khi những huynh đoàn Balan mừng ngày 23/1. Năm 1725 đức Bênêđitô XIII mở rộng lễ này cho các quốc gia thuộc quyền giáo hoàng và ấn định ngày lễ vào 23/1.

Trong thế kỷ XIX và XX, Toà Thánh ban phép đặc biệt cho nhiều nơi cử hành lễ, thông thường vào ngày 23/1, nhưng đôi khi vào các ngày khác. Ví dụ năm 1859 lễ được ghi vào ngày 11/2 trong sách kinh nguyện riêng cho tổng giáo phận Fribourg (và ngày 13/2 theo ấn bản 1894) và ngày 26/11 cho giáo phận Cordoba.

Năm 1961, thánh bộ Nghi Lễ ban hành một huấn thị loại bỏ các lễ đặc biệt trong những lịch riêng, trong đó có lễ kết hôn của đức Maria và thánh Giuse, ngoại trừ những nơi có một lý do đặc biệt để cử hành. Trong thời kỳ canh tân phụng vụ hậu công đồng Vaticanô II, lễ này một lần nữa được cho phép trong những lịch phụng vụ riêng. Ví dụ, năm 1989, dòng Hiến sĩ thánh Giuse (Oblati di San Giuseppe) được phép cử hành lễ “kết hôn thánh của đức Maria và thánh Giuse” như lễ kính vào ngày 23/1, với những bản văn riêng, trong đó có kinh tiền tụng như sau :

Cha đã cho Hội thánh niềm vui cử hành lễ kết hôn thánh thiện của đức Maria và thánh Giuse: nơi đức Maria, đầy ân sủng và xứng đáng là mẹ Con Một của Cha, Cha đã báo cho biết sự khởi đầu của Hội thánh, vị hôn thê xinh đẹp của đức Kitô; Cha đã chọn thánh Giuse, người tôi tớ trung tín và khôn ngoan như là chồng của đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, và đặt người làm đầu gia đình của Cha, để trông coi người Con duy nhất của Cha, đấng được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, là đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

E. Lễ thánh Giuse bảo trợ Hội thánh

Năm 1416 cha Jean Gerson, trong bài giảng cho các nghị phụ của công đồng Constance, đã khẩn cầu thánh Giuse như là bảo trợ của Hôi thánh, với niềm hy vọng được thấy sự hiệp nhất trong Hội thánh đang bị chia rẽ do sự hiện diện của hai giáo hoàng giả và một giáo hoàng chính thức. Năm 1621 tổng hội dòng Cát-minh đã chọn thánh Giuse làm bảo trợ và người cha của toàn thể hội dòng. Năm 1680, Toà Thánh đã ban phép cho dòng Cát-minh cử hành lễ thánh Giuse là bảo trợ. Lễ được cử hành vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh với những bản văn riêng cho thánh lễ và các giờ kinh phụng vụ. Lễ đã mở rộng cho dòng Augustinô năm 1700, dòng Đức Mẹ chuộc kẻ làm tôi năm 1702, giáo phận Mexico năm 1703 và chẳng bao lâu đến nhiều dòng tu và các giáo phận khác. Vào giữa thế kỷ XIX, lễ đã lan rộng đến nỗi vào ngày 10/9/1847 đức Piô IX đã châu phê cho toàn thể Hội thánh Sách lễ và Sách nguyện riêng cho lễ này, được cử hành vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh như lễ bậc duplex secundae classis. Sắc lệnh quan trọng ngày 8/12/1870 công bố thánh Giuse bảo trợ toàn thể Hội thánh tăng thêm lý do thần học cho việc cử hành, mặc dầu không thêm gì long trọng cho phụng vụ.

Năm 1911 sắc lệnh của đức Piô X đã ấn định “Lễ trọng thánh Giuse, hiển tu, bảo trợ toàn thể Hội thánh” được cử hành vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh, như lễ bậc duplex primae classis với tuần bát nhật. Với những thay đổi năm 1913 nhằm tách rời các ngày lễ khỏi ngày Chúa nhật, lễ này được ấn định mừng vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh, tuy vẫn duy trì tuần bát nhật và bậc lễ.

Năm 1956, sau khi thiết lập lễ thánh Giuse lao động, lễ này đã bị bỏ đi, nhưng ít là tiêu đề “Bảo trợ của toàn thể Hội thánh” được giữ lại bằng cách gắn thêm cho ngày lễ 19/3. Năm 1957 vì dòng Cát-minh đã mừng lễ này hơn ba trăm năm nên được phép giữ lại trong lịch canh tân của họ như lễ bậc duplex primae classis với kinh phụng vụ và thánh lễ riêng vào ngày thứ Tư trước Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh.

Trong lịch phụng vụ 1969 lễ ngày 19/3 được đặt tên “Thánh Giuse, chồng của Đức Maria” đã bỏ đi tiêu đề “bảo trợ Hội thánh”.

Từ năm 1979, nhiều thỉnh cầu khôi phục lại tiêu đề do các bề trên Tổng quyền, các Trung tâm và Hội thảo quốc tế về thánh Giuse đệ trình lên Toà Thánh, nhưng không được chấp thuận. Năm 1981, Thánh bộ Bí tích và Phụng tự lặp lại phúc thư của Hồng y Villot năm 1973, theo đó tước hiệu bảo trợ nên để trong lịch riêng hơn là trong lịch phổ quát. Cha Gauthier đã lưu ý rằng trong những ấn bản sách lễ Roma bằng tiếng Pháp, môt số các thánh bảo trợ được ghi trong lịch riêng như các vị thánh bổn mạng của nước Pháp, Lục xâm bảo và châu Âu.

Trong tông huấn Redemptoris Custos, đức Gioan Phaolô II xác nhận cách chính thức sự quan trọng của tước hiệu “bảo trợ Giáo hội ngày nay” (chương VI) như sau :

Giáo hội luôn phải kêu cầu thánh Giuse bảo trợ, không những để bảo vệ Giáo hội khỏi những nguy hiểm không ngừng nẩy sinh, nhưng nhất là còn để nâng đỡ Giáo hội trong những nỗ lực canh tân nhằm rao giảng Tin Mừng cho thế giới cũng như tái rao giảng Tin Mừng.

F. Lễ nhớ cuộc trốn sang Ai cập

Dòng Chúa Cứu thế đã cử hành lễ này vào Chúa nhật thứ tư của tháng Tư. Năm 1856 lễ này được dời vào ngày 17/2. Giáo phận Castellammare di Stabia (gần Napoli, Italia) đã xin phép cử hành lễ này vào năm 1866 nhưng bị từ chối. Năm 1937 giáo quyền đã cho phép cử hành các lễ riêng tại đền thánh Giuse ở Allex (Drôme) bên Pháp: hoăc là lễ kết hôn ngày 23/1 hay lễ nhớ cuộc trốn sang Ai cập ngày 17/2. Năm 1958 nhà nguyện thánh Giuse ở Montréal đã được phép cử hành thánh lễ riêng như lễ duplex maior. Lời thỉnh cầu của họ ghi nhận rằng đây là một biến cố trong đời sống của Chúa, trong đó thánh Giuse đóng vai trò chính như là Đấng bảo trợ cho Người. Những bản văn của lễ này là Is 19,20-22 và Mt 2,13-15. Năm 1961, chỉ thị về việc sửa đổi các lịch phụng vụ riêng đã loại bỏ lễ này, ngoại trừ những nơi có sự liên kết đặc biệt của thánh lễ với biến cố này.

G. Tên thánh Giuse trong nghi thức cầu cho bệnh nhân và người hấp hối

Năm 1920 “Hiệp hội thánh Giuse chết lành” đã nhận được phép thêm vào những lời cầu nguyện đặc biệt đến thánh Giuse trong lễ ngoại lịch cho người hấp hối và cho người chết lành ở nhà thờ của họ tại khu phố Trionfale, Rôma, và chẳng bao lâu phép này được mở rộng cho tất cả các linh mục và các nhà của hiệp hội.

Vào ngày 9/8/1922 thánh bộ Nghi Lễ đã thêm vào sách nghi thức Rôma những lời cầu khẩn đến thánh Giuse trong nghi thức xức dầu thánh (nay là xức dầu bệnh nhân), trong nghi thức trao phó linh hồn đang hấp hối và trong những lời cầu nguyện cho người mới qua đời.

Năm 1964 Toà Thánh phê chuẩn cho vùng Canada nói tiếng Pháp những lời cầu khẩn thánh Giuse trong nghi thức bí tích xức dầu bệnh nhân, trong kinh cầu phó dâng linh hồn người đang hấp hối và người vừa tắt thở. Năm 1972 Nghi Thức xức dầu và chăm sóc mục vụ cho bệnh nhân ban hành cho toàn thể Giáo hội có nhắc tới thánh Giuse trong những lời cầu nguyện phó dâng người hấp hối và người sinh thì.

H. Tên thánh Giuse trong Kinh nguyện Thánh Thể

Ít là từ năm 1815 nhiều thỉnh cầu được gởi về Rôma để xin ghi tên thánh Giuse vào trong các lời cầu nguyện của thánh lễ, bao gồm trong Lễ quy (nay gọi là kinh nguyện Thánh Thể). Trong nhiều năm hàng triệu chữ ký đã được thu thập cho lời thỉnh cầu này. Năm 1868, cha Lataste, OP, đã viết thư cho Đức Thánh Cha sẵn sàng dâng hiến chính mạng sống của mình cho viêc công bố thánh Giuse là bảo trợ của Hội thánh và ghi tên Người vào trong Lễ quy. Đức Piô IX đã chấp thuận đề nghị thứ nhất để đáp lại những thỉnh cầu của các nghị phụ công đồng Vaticanô I, nhưng ngài đã không ghi tên thánh Giuse vào trong Lễ quy. Đức Lêô XIII đã vui mừng vì nhiều lời thỉnh cầu gởi đến ngài, nhưng ngài cho rằng không thích hợp để thay đổi một kinh nguyện phụng vụ đã có từ lâu đời. Đức Piô X đã trả lời bằng miệng với tổng giám mục Camilli rằng mặc dầu đề nghị bị từ chối năm 1892 nhưng ngài có thể tiếp tục thúc đẩy phong trào ghi tên thánh Giuse vào trong Lễ quy.

Khi người ta đệ trình những thỉnh cầu này lên đức Gioan XXIII, ngài cảm thấy đã đến thời cơ thuận tiện và ngài đã thông báo cho thánh bộ Nghi Lễ biết ý kiến riêng của ngài về vấn đề này. Tại công đồng Vaticanô II, nhiều giám mục đã thỉnh cầu việc ghi danh bằng những lời đề nghị mạnh mẽ. Ngày 13/11/1962, đức thánh cha đã gây ngạc nhiên cho các nghị phụ khi, qua hồng y Quốc vụ khanh, ngài thông báo sẽ thêm câu “và thánh Giuse, bạn của đức Trinh nữ Maria” ngay liền sau tên Maria trong Lễ quy. Ngài ước mong quyết định này có hiệu lực vào ngày 8/12 như biểu lộ ước muốn của công đồng. Ngày 30/12 một ấn bản mới của sách lễ Roma đã ghi thêm tên thánh Giuse trong đó. Sau đó, đức Gioan XXIII đã tặng nhà thờ Kalisz, Balan một trong những chiếc nhẫn của ngài để tưởng nhớ biến cố này và chiếc nhẫn này đã được gắn vào hình thánh Giuse vào dịp lễ Thánh gia.

Tiếc rằng, 5 năm sau đó, ba Kinh nguyện Thánh Thể mới được ban hành lại không có tên thánh Giuse.

i. Tên thánh Giuse trong kinh cầu các thánh

Thành phố Bologna là địa điểm đầu tiên đưa tên thánh Giuse vào trong kinh cầu các thánh vào năm 1359. Vào thế kỷ XVI dòng Đa-minh, Cát-minh và nhiều dòng khác đã ghi tên thánh Giuse vào trong kinh cầu. Tuy nhiên, sau việc canh tân của công đồng Trentô dưới thời đức Piô V, tên thánh Giuse đã bị bỏ đi, do lỗi của nhà in hơn là do sắc lệnh của cấp thẩm quyền. Sau khi đón nhận vô số thỉnh cầu và theo lời khuyên của Hồng y Lambertini (Giáo hoàng Bênêđitô XIV tương lai), vào ngày 19/12/1726, đức Bênêđitô XIII đã thêm tên thánh Giuse vào trong kinh cầu, sau tên đức Maria, các thiên thần và thánh Gioan tẩy giả, nhưng trước tất cả các vị thánh khác.

II. Những việc đạo đức dân gian

Chúng tôi chỉ giới hạn vào một vài hình thức quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam và bỏ qua những tập tục chỉ lưu hành ở vài nước châu Âu.

A. Những kinh nguyện

1/ Kinh cầu thánh Giuse

Bản kinh cầu thánh Giuse lâu đời nhất là của cha Jerónimo Gracián dòng Cát-minh, xuất bản ở Roma năm 1597 bằng tiếng Ý và  Tây Ban Nha. Có thể ngài đã lấy từ quyển sách nhỏ về bảy sự buồn cùng bảy sự vui của thánh Giuse do Hiệp hội các thợ mộc in ở Perugia. Tuy nhiên, dường như ngài đã thêm vào nhiều lời cầu, và ấn bản tiếng Tây Ban Nha có 49 lời cầu trong khi bản tiếng Ý chỉ có 21.

Trong thời gian này nhiều kinh cầu của các thánh khác đã xuất hiện. Một vài bản kinh chứa đựng những lời cầu sai lầm về thần học; vì thế, năm 1601 dưới thời đức Clêmentê VIII, Toà Thánh đã ra sắc lệnh tất cả các kinh cầu, ngoại trừ những kinh cầu đã được chấp thuận (đó là kinh cầu các thánh và kinh cầu Đức Bà Loreto) phải đệ trình để được duyệt y trước khi cho sử dụng công khai. Các hàng giáo phẩm tại Ý và  Tây Ban Nha giải thích và áp dụng sắc lệnh này cách chặt chẽ nên không sử dụng kinh cầu thánh Giuse trong hai nước này. Tại các nước khác ở Âu châu, hàng giáo phẩm giải thích rằng sắc lệnh chỉ áp dụng cho các kinh cầu được đọc nơi công cộng chứ không áp dụng cho việc sử dụng riêng tư. Có hơn ba mươi phiên bản kinh cầu khác nhau, những bản kinh cầu ảnh hưởng nhất là của: chị María de San José dòng Cát-minh (1548-1603), người bạn thân của thánh Têrêxa Avila và cha Gracián; thánh Francois de Sales trong lá thư cho thánh nữ Gioanna Chantal năm 1614, vv… Trong những kinh cầu đa dạng, một vài lời cầu ca ngợi thánh Giuse, nhìn nhận vai trò của Người trong thời thơ ấu của Chúa Kitô, sự hiệp nhất của Người với đức Maria và những đặc ân của Người như là người chủ của Thánh gia. Một vài kinh tóm tắt đời sống và sự ưu việt của Người, trong khi những kinh khác liệt kê những ân huệ chính với ước vọng sẽ đạt được nhờ lời chuyển cầu của Người. Một vài kinh chứa đựng những ý kiến đạo đức cá nhân chưa được Hội thánh tuyên bố, ví dụ như sự thánh hoá của Người trong lòng mẹ và thân xác Người được đưa về trời, nhưng những điều này không bị Hội thánh phản đối bởi vì nó phản ánh những ý tưởng thần học của thời đại.

Vào đầu thế kỷ XX, nhiều giám mục tại châu Âu và châu Mỹ xin Toà thánh phê chuẩn kinh cầu để được đọc công khai. Sau nhiều lần thỉnh nguyện bị từ chối, sau cùng tổng viện phụ dòng Trappe, cha Sébastien Wyart (+1904) đã soạn một kinh cầu để xin phê chuẩn. Tuy nhiên theo nhiều học giả, công thức của kinh cầu được đức Piô X châu phê ngày 18/3/1909 và được lưu hành hiện nay là của đức hồng y A.M. Lépicier.

Kinh cầu thánh Giuse dựa theo khung sườn của kinh cầu Đức Bà, với bố cục như sau:

 Sau phần dẫn nhập (kêu cầu Chúa Ba Ngôi, và Đức Mẹ), là lời khẩn nài thánh Giuse kèm theo 25 danh hiệu. Có thể phân ra thành 6 nhóm:

a) sự thánh thiện (số 1);

b) nguồn gốc: dòng dõi vua Đavít, và miêu duệ các tổ phụ (số 2-3);

c) các chức vụ được uỷ thác đối với đức Maria (số 4-5) và với Chúa Giêsu (số 6-8)

d) các nhân đức nội tâm, gồm 6 nhân đức: công chính, khiết tịnh, khôn ngoan, mạnh bạo, vâng lời, trung thành (số 9-14);

e) các nhân đức trong tương quan với tha nhân: nhẫn nại, thanh bần, cần cù lao động, mẫu gương cho các gia trưởng (số 15-18);

f) bảo trợ: những người trinh khiết (số 19), các gia đình (số 20), những người túng quẫn (số 21), những người ốm đau và lâm tử (số 22-23), chống cự ma quỷ (số 24), bổn mạng Hội thánh (số 25)

2/ Suy gẫm bảy sự buồn cùng bảy sự vui thánh Giuse

Năm 1536 cha Giovanni da Fano (+1539), một tu sĩ Capuchinô người Ý, đã phổ biến một việc đạo đức gọi là “bảy kinh Lạy Cha của thánh Giuse” trong môt phụ lục của cuốn sách De arte unione. Cha nói rằng chính thánh Giuse đã khuyến khích thói tục ấy, khi hiện ra để cứu hai tu sĩ bị đắm tàu ở Flandre. Kinh này hoạ theo việc suy gẫm bảy sự đau đớn Đức Mẹ do các tu sĩ dòng Tôi tớ Đức Mẹ phổ biến.

Công thức hiện tại được gán cho chân phúc Gennaro Sarnelli (+1744). Vào ngày 9/12/1819 đức Piô VII ban ân xá cho việc đạo đức này. Ngoài ra ngày 22/1/1836 đức Grêgôriô XVI cũng ban thêm ân xá cho việc thực hành “Bảy ngày Chúa nhật kính nhớ bảy sự buồn cùng bảy sự vui của thánh Giuse”.

Bảy sự vui buồn thánh Giuse suy gẫm những biến cố vui buồn của thánh Giuse, dựa theo những trình thuật Tin mừng thơ ấu của thánh Mathêu và thánh Luca, đó là:

– Thứ nhất, Đức Mẹ mang thai Chúa Giêsu, gây ra nhiều băn khoăn cho thánh Giuse, nhưng sau đó được thiên thần giải thích.

– Thứ hai, khi chứng kiến cảnh khó nghèo của Chúa Giêsu khi sinh ra tại Belem. – – Thứ ba, khi làm phép cắt bì cho Chúa Giêsu.

– Thứ tư, khi cụ Simeon tiên báo những đau khổ của Chúa Giêsu.

– Thứ năm, khi trốn qua Ai cập.

– Thứ sáu, khi trở về Nadarét.

– Thứ bảy, khi lạc mất và tìm lại Đức Giêsu trong đền thờ.

Sau mỗi cảnh suy niệm, đọc một kinh Lạy Cha và Kính mừng, có thể thêm kinh Sáng danh.

B. Những thời điểm dâng kính thánh Giuse

Ngoài những lễ phụng vụ, những kinh đọc, truyền thống dân gian còn dành vài thời điểm kính ngài, đó là: ngày thứ tư hàng tuần và tháng 3 dương lịch.

1/ Thứ tư hàng tuần

Tục lệ Kitô giáo dành ngày thứ sáu để kính nhớ cuộc Tử nạn của Chúa, ngày thứ bảy kính Đức Mẹ, và ngày thứ tư kính thánh Giuse. Năm 1876, các sư huynh giáo dục dòng Mariste được phép tưởng nhớ thánh Giuse mỗi ngày thứ Tư trong kinh Tiểu nhật khoá kính Đức Mẹ. Năm 1883 Sách lễ Roma và Sách nguyện đã xếp Thánh lễ ngoại lịch kính thánh Giuse vào ngày thứ Tư.

Dưới khía cạnh lịch sử, các học giả không thấy một mối liên hệ nào giữa ngày thứ tư với thánh Giuse. Vào những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, các tín hữu ăn chay mỗi tuần hai ngày, (thứ tư và thứ sáu), khác với người Do thái cũng ăn chay mỗi tuần hai ngày, nhưng là vào thứ hai và thứ năm. Theo sự giải thích của vài giáo phụ, ngày thứ sáu tưởng niệm Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá, còn ngày thứ tư tưởng nhớ ngày Chúa bị Giuđa phản bội. Không rõ từ hồi nào người ta dành thứ tư để kính thánh Giuse, và vì lý do gì. Tuy vậy, cũng có người bóp trán để giải thích thế này. Ngày thứ tư là ngày ở giữa tuần lễ, với nhịp độ làm việc cao, khác với nhịp độ uể oải hay cầm chừng của đầu tuần hay cuối tuần. Như vậy đáng để dành cho thánh Giuse, gương mẫu của sự cần cù làm việc.

2/ Tháng ba dương lịch: tháng thánh Giuse

Lễ thánh Giuse được mừng vào ngày 19/3 dần dần đưa đến sự phát triển nhiều việc đạo đức kính Người

a) Trước tiên là tập tục chuẩn bị ngày lễ với một tuần cửu nhật.

Như đã nói, sự phát triển lòng đạo đức kính thánh Giuse đã tập trung vào ngày lễ chính của Người 19/3. Việc cử hành được nối dài với tuần bát nhật và được chuẩn bị bởi tuần chín ngày. Ngày 4/3/1713, đức Clêmentê XI ban ân xá cho những người tham dự tuần cửu nhật được tổ chức tại nhà thờ thánh Inhaxiô tại Rôma.

b) Kế đó người ta kéo dài việc tôn kính thánh Giuse ra suốt tháng 3 dương lịch. Năm 1802 giáo xứ thánh Augustinô tại Modena (Italia) in một quyển sách nhỏ với tựa đề “Tháng hoa huệ, tháng ba dâng hiến thánh Giuse” (Il mese del Giglio, ossia il mese consacrato a Giuseppe). Kể từ đó, nhiều sách tương tự được xuất bản tại nhiều nơi, nổi tiếng nhất là tác phẩm của Giuseppe Marconi in tại Rôma năm 1810 (Il mese di marzo consacrato al glorioso patriarca San Giuseppe) và được dịch ra nhiều ngôn ngữ. Ngày 27/4/1865 đức Piô IX ban ân xá cho những ai làm viêc đạo đức trong một tháng để kính thánh Giuse. Sắc lệnh của đức Piô IX ngày 4/2/1877 cho phép tính tháng thánh Giuse từ ngày 16/2 đến ngày 19/3. Giáo hoàng Lêô XIII trong thông điệp Quamquam pluries năm 1889 đã khuyên nhủ thực hành chung việc đạo đức hằng ngày trong tháng Ba để tôn kính thánh Giuse

c) Ngày lễ được mừng vào ngày 19/3 đưa tới một tập tục khác là kính nhớ thánh Giuse vào ngày 19 mỗi tháng. Năm 1884 Toà thánh phê chuẩn thói quen lâu đời của giáo phận La Paz (Bolivia) đọc kinh nguyện và cử hành thánh lễ ngoại lịch vào ngày 19 của mỗi tháng khi không bị ngăn trở. Những đặc ân tương tự cũng được ban cấp cho nhiều chỗ khác, tựa như nhà nguyện của đại học Guatemala và một đan viện Cát-minh bên Tây Ban Nha.

——————————–

[1] Larry Toschi, St Joseph in Liturgy. Liturgical and paraliturgical recognition of Saint Joseph, in: http://www.osjoseph.org/stjoseph/liturgy/index.php

[2] Trong lịch phụng vụ hiện hành (sau Vaticanô II) các lễ được chia làm 3 cấp: lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ. Trước đây, các lễ được chia làm nhiều cấp, tuỳ nơi tùy thời. Nói chung, các bậc từ dưới lên trên như sau: simplex, semiduplex, duplex minor, duplex maior, totum duplex, vv.

[3] Tại Âu châu, vài nhà thờ tự hào là lưu giữ các di tích của thánh Giuse. Perugia (Italia), Auxois (Pháp) giữ chiếc nhẫn cưới của thánh Giuse. Nhà thờ Notre-Dame de Joinville-sur-Marne (Langres, Pháp) giữ thắt lưng của thánh Giuse. Đan viện Camaldoli (Italia) giữ chiếc gậy của thánh Giuse.

[4] “Confessores”. Theo lịch sử, vào những thế kỷ đầu tiên, phụng vụ kính các thánh “tử đạo” (martyres); sau đó thêm “confessores” nghĩa là các tín hữu đã tuyên xưng đức tin và bị giam cầm, nhưng không bị sát hại. Sau thời kỳ bắt đạo, hạn từ confessores áp dụng cho các thánh không tử đạo: giám mục, tu sĩ, giáo dân.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here