Những Đặc Điểm Của “Thế Gian Thù Ghét” Và “Những Kẻ Chống Đối Đức Giêsu” Trong Tin Mừng Gioan

0
695


Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.

 
I. DẪN NHẬP

Trong Tin Mừng Gio-an, nghĩa của từ “kosmos” (thế gian) phong phú và phức tạp. Bài viết:Thế gian (kosmos) trong Tin Mừng Gio-an” đã trình bày năm nghĩa của từ “kosmos” (thế gian): (1) Thế gian vũ trụ, (2) Thế gian trái đất, (3) Thế gian nhân loại, (4) Thế gian chưa tin và (5) Thế gian thù ghét. Thế gian thù ghét là những người giả thiết là đã nghe lời rao giảng về Đức Giê-su nhưng họ quyết định từ chối tin vào Đức Giê-su (Ga 15,18-24). Như vậy, “thế gian thù ghét” không phải là “thế gian nhân loại,” cũng không phải là “thế gian chưa tin.” Thế gian thù ghét là một nhóm nhỏ thuộc về thế gian chưa tin, đặc biệt là chống đối, bách hại Đức Giê-su và các môn đệ của Người. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, thế gian thù ghét này không có nghĩa tiêu cực, ngược lại, thế gian này là đối tượng sứ vụ của Đức Giê-su và của các môn đệ.

Bài viết này sẽ tìm hiểu những đặc điểm của thế gian thù ghét và của những kẻ chống đối Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an. Trước hết là phân tích về liên hệ giữa “thế gian thù ghét” và “những kẻ chống đối Đức Giê-su”, kế đến là tìm hiểu sáu đặc điểm của thế gian thù ghét và của những kẻ chống đối Đức Giê-su.

II. THẾ GIAN THÙ GHÉT VÀ NHỮNG KẺ CHỐNG ĐỐI ĐỨC GIÊSU

Sự hiện diện của “thế gian thù ghét” trong Tin Mừng Gio-an đặt ra câu hỏi: Thế gian thù ghét này chỉ về nhóm người nào? Có hai hướng tìm hiểu khuôn mặt của thế gian thù ghét. Nếu lấy thế gian này trong Tin Mừng Gio-an làm điểm xuất phát (Ga 14–17), có thể tìm hiểu thế gian thù ghét bằng cách (1) lui về quá khứ (en amont), gợi đến những kẻ chống đối Đức Giê-su trong Ga 1–12; hay (2) hướng về tương lai (en aval), gợi đến những kẻ chống đối và bách hại cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ thứ I. Cộng đoàn này đã gặp sự chống đối và thù ghét, không chỉ giới hạn trong giới lãnh đạo Do Thái giáo, mà từ thế giới rộng lớn hơn. Tuy nhiên, độc giả không có nhiều dữ liệu trong Tin Mừng Gio-an về hoàn cảnh cụ thể của cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I. Vì thế, chúng tôi sẽ so sánh “thế gian thù ghét” và “những kẻ chống đối Đức Giê-su” trong Tin Mừng Gio-an. Những gợi ý về cộng đoàn Gio-an cũng như gợi ý áp dụng vào hoàn cảnh độc giả sẽ được nhắc đến trong phần phân tích.

Để tìm hiểu liên hệ giữa “thế gian thù ghét” và “những kẻ chống đối Đức Giê-su” trong Tin Mừng Gio-an, phần sau sẽ trình bày ba mục: (1) Sự chuyển đổi từ “thế gian thù ghét” (số ít) sang đại từ “họ” (số nhiều) ở Ga 15–16. (2)  Nhân vật “những người Do Thái” trong Tin Mừng Gio-an. (3) “Thế gian thù ghét” và “những người Do Thái” trong đoạn văn 7,1-10.

1. “Thế gian thù ghét” (số ít) và “họ” (số nhiều)

“Thế gian thù ghét” trong Ga 17 luôn ở số ít, chẳng hạn Đức Giê-su nói với Cha của Người ở 17,14: “Con đã ban cho họ [các môn đệ] lời của Cha và thế gian [số ít] đã ghét họ vì họ không thuộc về thế gian cũng như chính Con không thuộc về thế gian”. Tuy nhiên, trong Ga 15–16, chủ từ của động từ chuyển từ số ít (thế gian) sang số nhiều (họ). Thế gian là số ít trong các câu 15,18.19; 16,8, nhưng lại ở số nhiều “họ” trong các câu 15,20-25; 16,9. Trình bày song song giữa 15,18 và 15,20b dưới đây cho thấy sự chuyển đổi giữa chủ từ số ít sang chủ từ số nhiều.

Đức Giê-su nói với các môn đệ để ở 15,18.20b:

18:   “Nếu thế gian [số ít] ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.”

20b: “Nếu họ [số nhiều] đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã giữ lời Thầy, họ cũng sẽ giữ lời anh em.

Sự thay đổi từ “số ít” (thế gian) sang “số nhiều” (họ) liên quan đến sự thù ghét và bách hại. Hai điều này đi đôi với nhau, nên “thế gian” và “họ” trong đoạn văn 15,20-25 đứng về một phía. Ai là người đã bách hại Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an? Những trao đổi và tranh luận giữa Đức Giê-su và thính giả trong sứ vụ công khai của Người giúp xác định đại từ “họ” ở 15,20-25. Xavier Léon-Dufour nói về sự chuyển đổi từ “thế gian” (số ít) sang “họ” (số nhiều) như sau: “Kể từ c. 20, đại từ ‘HỌ’ không xác định, thay thế từ ‘thế gian’. Trong đoạn văn tiếp theo (15,22-25) đại từ ‘HỌ’ này hàm ẩn, cách mặc nhiên, đến những người đương thời với Đức Giê-su Na-da-rét. Người ta nhận ra cách gián tiếp rằng, tên gọi ‘những người Do-thái’ trong phần đầu của Tin Mừng là phù hợp [với đại từ ‘họ’], khi tên gọi này là tiêu cực, theo nghĩa từ ‘thế gian’ trong các diễn từ từ biệt: Tên gọi này [những người Do-thái] diễn tả sự từ chối khuôn mẫu trước mặc khải của Người Con.” (X. LéON-DUFOUR, Lecture de l’Évangile selon Jean, t. III, [Parole de Dieu], Paris, Le Seuil, 1993, p. 193). Cách giải thích thú vị này giúp nối kết giữa hai phần của sách Tin Mừng (Ga 1–12 và Ga 13–17) về sự xung đột và bách hại.

Chúng tôi góp thêm vào trích dẫn trên của Xavier Léon-Dufour là đại từ “họ” trong đoạn văn 15,18-25 không chỉ gợi đến “những người Do-thái” mà thôi, mà là thế lực chống đối nói chung trong Ga 1–12, gồm có “những người Do Thái,” “những người Pha-ri-sêu,” “các thượng tế” và “đám đông” ở 7,20. Hơn nữa, cách dùng đại từ “họ” ở 15,20-25; 16,9 còn cho phép giải thích hướng về tương lai (en aval), gợi đến hoàn cảnh khó khăn của cộng đoàn Gio-an. “Họ” là tất cả những người, đã nghe rao giảng về Đức Giê-su, nhưng họ vẫn từ chối tin vào Người. Ở cấp độ nghĩa biểu tượng, tác giả sách Tin Mừng để độc giả xác định “họ” là ai theo những đặc điểm mô tả trong sách Tin Mừng.

2. “Những người Do Thái” trong Tin Mừng Gio-an

nhân vật “những người Do Thái” (Ioudaioi) thường xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an. Nhóm này xuất hiện cách lạ thường trong các trình thuật đặt ra nhiều vấn đề phức tạp. Khó có thể xem “những người Do Thái” là một nhóm nhân vật độc lập, phân biệt rõ ràng với nhóm “những người Pha-ri-sêu” hay “các thượng tế”. Gérald Caron kết luận nghiên cứu về những người Do Thái trong Tin Mừng Gio-an như sau: “Không đồng hóa với bất kỳ nhóm nào trong những nhóm riêng biệt [(1) những người Pha-ri-sêu; (2) các thượng tế; (3) các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kết hợp với nhau; (4) đám đông], tuy nhiên ‘những người Do-thái’ hiện diện trong các nhóm này, lúc này hay lúc khác trong tiến trình thuật chuyện. Có thể nói, những người Do-thái hiện diện trong bản văn như một thái độ, một tinh thần, một tôn giáo, hay có thể gọi là một thứ Do Thái giáo mà người ta có thể tìm thấy khắp nơi, nhưng nổi bật lên nơi những người Pha-ri-sêu và các thượng tế trong trình thuật.” (G. CARON, Qui sont les Juifs dans l’évangile de Jean?, Québec, Bellarmin, 1997, p. 263-264).

Tin Mừng trình bày tương phản giữa “các môn đệ” và “những người Do Thái” liên quan đến quyết định “tin” hay “không tin” vào Đức Giê-su. Thực vậy, Đức Giê-su và các môn đệ là những người gốc Do Thái, nhưng tác giả sách Tin Mừng lại lấy khoảng cách với “những người Do Thái” khi viết: “Lễ Vượt Qua của những người Do-thái” (2,13; 11,55); “lễ của những người Do-thái” (5,1; 7,2). Kiểu nói này hàm ý rằng đó không phải là lễ của người tin vào Đức Giê-su. Khi tin vào Đức Giê-su thì “người tin” phân biệt với “những người Do Thái”. Các môn đệ thuộc dân tộc Do Thái lại sợ những người Do Thái (20,19). Từ những quan sát trên, có thể rút ra hai điều liên quan đến “những người Do Thái” trong Tin Mừng Gio-an:

(1) Ở một số nơi trong Tin Mừng Gio-an, kiểu xưng hô “những người Do Thái” có nghĩa là dân tộc Do Thái, hay còn gọi là “những người Giu-đê” (Ioudaioi). Cuộc trao đổi giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri nói về người Do Thái theo nghĩa trên. Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nước uống, tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?” (4,9a). Người thuật chuyện giải thích ở 4,9b: “Vì người Do Thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri.” Đức Giê-su là người Do Thái, các môn đệ cũng vậy. Đức Giê-su nói với người phụ nữ Sa-ma-ri ở 4,22: “Các người, các người thờ phượng điều các người không biết; chúng tôi, chúng tôi thờ phượng điều chúng tôi biết, vì ơn cứu độ đến từ người Do Thái.” Dù vậy, trong dân Do Thái, có nhiều người đã tin vào Đức Giê-su, nhưng cũng có những người từ chối tin vào Người. Cụ thể trong Tin Mừng Gio-an có một nhóm “những người Do Thái” chống đối và thù nghịch với Đức Giê-su, họ tìm cách bắt và giết chết Người.

(2) Việc nhóm nhân vật “những người Do Thái” xuất hiện cách lạ lùng trong Tin Mừng Gio-an cho phép gợi đến xung đột giữa Do Thái giáo và cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ thứ I. Bởi vì sự thù ghét của “những người Do Thái” trong Ga 1–12 chuyển sang sự thù ghét của thế gian (kosmos) trong Ga 14–17. Trong viễn cảnh này, nhóm nhân vật “những người Do Thái” còn mang nghĩa biểu tượng. Đó là những kẻ bách hại người tin qua mọi thời đại họ tiếp nối hành động thù ghét và bách hại của “những người Do Thái” trong Tin Mừng Gio-an.

Xem một số nghiên cứu hiện nay về “những người Do Thái” trong Tin Mừng Gio-an: P. GRELOT, Les Juifs dans l’évangile selon Jean, enquête historique et réflexion théologique, (CRB 34), Paris, Gabalda, 1995; U. C. VON WAHLDE, “‘The Jews’ in the Gospel of John. Fifteen Years of Research (1983-1998)”, ETL 76/1 (2000) 30-55; R. BIERINGER, (et al.), (éd.), Anti-Judaism and the Fourth Gospel. Papers of the Leuven Colloquium 2000, Assen, Royal van Gorcum, 2001; L. DEVILLERS, “Jean et les Ioudaioi”, dans Id., La fête de l’Envoyé. La section johannique de la fête des Tentes (Jean 7,1–10,21) et la christologie, (EtB.NS 49), Paris, Gabalda, 2002, p. 115-268; F. J. MOLONEY, “‘The Jews’ in the Fourth Gospel: Another Perspective”, in Id., The Gospel of John, Text and Context, (BIS 72), Boston – Leiden, Brill Academic Publishers, 2005, p. 20-44, v.v…

3. “Thế gian thù ghét” ở Ga 7,1-10

Đoạn văn 7,1-10 cho phép nối kết “những người Do Thái” với “thế gian thù ghét.” Trong Tin Mừng Gio-an, nhóm nhân vật “những người Do Thái” là biểu tượng cho sự không tin và đối lập với Đức Giê-su và các môn đệ của Người. Vì thế, chúng tôi bao hàm trong nhóm “những người Do Thái” tất cả những ai chống đối và thù nghịch với Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an, đó là các nhóm nhận vật “những người Pha-ri-sêu”, “các thượng tế” và “đám đông” ở 7,20.

Đoạn văn 7,1-10 được cấu trúc bằng một câu dẫn nhập (7,1), tiếp theo là phần trao đổi giữa Đức Giê-su và anh em của Người (7,2-8), cuối cùng là quyết định của Đức Giê-su (7,9-10). Sau đây là bản văn Ga 7,1-10.

Ga 7,1-10: “1 Sau những điều đó, Đức Giê-su đi lại trong miền Ga-li-lê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền Giu-đê, vì những người Do Thái tìm Người để giết. 2 Lễ Lều, lễ của những người Do Thái gần tới, 3 Vậy anh em của Người nói với Người: ‘Ông hãy rời khỏi đây mà đi sang Giu-đê, để cả các môn đệ của Ông cũng thấy những việc Ông làm, 4 vì không ai làm trong sự kín đáo khi tìm kiếm trong sự công khai. Nếu Ông làm những việc ấy, hãy tỏ mình ra cho thế gian.’ 5 Thật thế, anh em của Người không tin vào Người. 6 Đức Giê-su nói với họ: ‘Thời của Tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng sẵn đó. 7 Thế gian không thể ghét các anh, nhưng Tôi thì nó ghét, vì Tôi làm chứng về nó là các việc của nó thì xấu xa. 8 Các anh hãy lên dự lễ; còn Tôi, Tôi không lên dự lễ này, vì thời của Tôi chưa tròn đầy.’ 9 Nói những điều ấy xong, Người ở lại Ga-li-lê. 10 Nhưng khi anh em của Người đã lên dự lễ, thì Người cũng lên, không công khai nhưng [hầu như] bí mật.”

Trong đoạn văn 7,1-10, người thuật chuyện cho biết tại sao Đức Giê-su giới hạn hoạt động tại Ga-li-lê (7,1), kế đến là phần trả lời của Đức Giê-su (7,6-8) về lời đề nghị không thích hợp của anh em của Người (7,3-4), cuối đoạn văn là quyết định của Đức Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem cách kín đáo nhân dịp lễ Lều (7,9-10). Ngoài các ch. 15–17, sự thù ghét của thế gian chỉ được nói đến ở 7,7 trong bối cảnh đặc biệt: Đức Giê-su tránh đi lại trong vùng Giu-đê “vì những người Do Thái tìm Người để giết” (7,1b). Nhân dịp lễ Lều, anh em Đức Giê-su đề nghị Người “tỏ mình ra cho thế gian” (7,4b) và Đức Giê-su làm lộ ra sự thù ghét của thế gian trong câu trả lời của Người: “Thế gian không thể ghét các anh, nhưng Tôi thì nó ghét, vì Tôi làm chứng về nó là các việc của nó thì xấu xa” (7,7).

Đối với anh em của Đức Giê-su, “tỏ mình ra cho thế gian” (7,4b) tương phản với hành động “trong kín đáo” (7,4a). Đối với Đức Giê-su, Người không muốn tỏ mình ra trong vùng Giu-đê vì sự bách hại của những người Do Thái (7,1b). Bối cảnh đoạn văn 7,1-10 cho phép hiểu rằng sự thù ghét của thế gian (7,7) thể hiện ra bên ngoài bằng việc những người Do Thái tìm giết Đức Giê-su (7,1b). Như thế, sự thù ghét của thế gian (7,7) chính là sự thù ghét của những người Do Thái (7,1). Trong mạch văn, kiểu nói “tỏ mình ra cho thế gian” (7,4b) tương đương với tỏ mình ra cho giới lãnh đạo Do Thái (7,1b), nghĩa là ra khỏi nơi an toàn và phải đối đầu với nguy cơ bị giết chết. Như vậy, sự thù ghét của thế gian được cụ thể hoá trong sự bách hại của những người Do Thái. Hai lần (7,4.7) từ “thế gian” (kosmos) trong đoạn văn 7,1-10 được hiểu theo nghĩa “thế gian thù ghét.” Xem định nghĩa và ranh giới của thế gian này trong bài viết:  “Thế gian (kosmos) trong Tin Mừng Gio-an.”

Theo Raymond E. Brown, có sự giống nhau giữa “thế gian” và “những người Do Thái” trong Tin Mừng Gio-an. Tác giả viết: “Trong Tin Mừng Gio-an, trên thực tế, có sự đồng nhất giữa thế gian và những người Do Thái. Đức Giê-su thường xuyên có những thái độ giống nhau về hai nhóm này. Chẳng hạn, nếu như Xa-tan là thủ lãnh của thế gian thì cha của những người Do Thái là quỷ (8,44); nếu như thế gian ghét Đức Giê-su thì những người Do Thái tìm giết Đức Giê-su. Tuy vậy, thế gian là một khái niệm rộng hơn, vì nó bao hàm cả những người Do Thái và dân ngoại không phân biệt.” (R. E. BROWN, La communauté du disciple bien aimé, (Lectio Divina 115), Paris, Le Cerf, 1994, p. 69, (orig. The Community of the Beloved Disciple, New York, 1979).

Nhận định của Raymond E. Brown về “thế gian thù ghét” và “những người Do Thái” (những kẻ chống đối Đức Giê-su) như trên là phù hợp với bối cảnh Tin Mừng Gio-an. Sự giống nhau giữa hai thế lực thù địch này được củng cố thêm nhờ các đặc điểm giống nhau sẽ được trình bày sau đây.

III. SÁU ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÓM ĐỐI LẬP VỚI ĐỨC GIÊSU

Trong Tin Mừng Gio-an, thế gian thù ghét và những kẻ chống đối Đức Giê-su có sáu đặc điểm giống nhau. Đó là (1) Ghét Đức Giê-su, các môn đệ và Chúa Cha, (2) Thuộc về thủ lãnh thế gian và quỷ, (3) Không biết Đức Giê-su và Cha của Người, (4) Không tin vào Đức Giê-su, (5) Có tội và (6) Được mời gọi tin và nhận biết Đức Giê-su.

1. Ghét Đức Giê-su, các môn đệ và Chúa Cha

Đức Giê-su cho biết thế gian ghét Đức Giê-su (15,18), Chúa Cha (15,23-24) và các môn đệ (15,18-19; 17,14). Người nói với các môn đệ ở 15,18-19: “18 Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Nếu anh em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì là của riêng nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, vì điều này, thế gian ghét anh em.” Trước đây, thế gian đã ghét Đức Giê-su trong sứ vụ công khai ở 7,7 (xem phân tích trên). Khi ghét Đức Giê-su, thế gian ghét cả Chúa Cha. Đức Giê-su cho các môn đệ biết điều này ở 15,23-24: “23 Ai ghét Thầy cũng ghét Cha của Thầy. 24 Nếu Thầy không làm những việc giữa họ, những điều không một ai khác đã làm, họ đã chẳng có tội. Nhưng nay họ đã thấy và họ ghét cả Thầy lẫn Cha của Thầy.” Thù ghét bộc lộ ra bên ngoài bằng sự bách hại, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,20b: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã giữ lời Thầy, họ cũng sẽ giữ lời anh em.”

Về những kẻ chống đối Đức Giê-su trong sứ vụ công khai (Ga 1–12), họ không phải là chủ từ của động từ “ghét”, nhưng sự thù ghét được bày tỏ qua hành động: tìm giết Đức Giê-su. Thực vậy, xuyên suốt các ch. 1–12, những kẻ chống đối Đức Giê-su đã xung đột và tranh luận với Người. Họ kết tội Đức Giê-su vi phạm ngày Sa-bát (5,18; 7,23; 9,16) và phạm thượng (10,33). Những người Do Thái nói với Đức Giê-su ở 10,33: “Không phải vì một việc tốt đẹp chúng tôi ném đá Ông, nhưng vì sự phạm thượng: Ông là người mà cho mình là Thiên Chúa.” Những kẻ đối lập vu khống Đức Giê-su là người bị quỷ ám (7,20; 8,48.52; 10,20.21), là người Sa-ma-ri (8,48). Từ đó họ không ngừng tìm cách “bắt” Đức Giê-su (7,30; 10,39), “ném đá” Người (8,59; 10,31.32.33) và “giết chết” Người (5,18; 7,1; 8,37.40).

Trong Ga 1–12, nhóm “các thượng tế” không tranh luận trực tiếp với Đức Giê-su, tuy nhiên, nhóm này và những người Pha-ri-sêu đã chính thức quyết định giết Đức Giê-su (11,53). Tiếng la hét của những người Do Thái và các thượng tế trước Phi-la-tô về Đức Giê-su: “Hãy đóng đinh vào thập giá, hãy đóng đinh vào thập giá” (19,6.15) là hành động bộc lộ sự thù ghét bằng “những việc xấu xa” (3,19; 7,7) theo thần học Tin Mừng Gio-an. Một cách minh nhiên, thế gian thù ghét và những kẻ chống đối Đức Giê-su có chung đặc điểm liên quan đến bách hại và thù ghét.

2. Thuộc về thủ lãnh thế gian và quỷ

Trong bối cảnh một vụ kiện, đứng về phía nào là lựa chọn tiên quyết. Trong Tin Mừng Gio-an, lựa chọn thuộc về quỷ hay thuộc về thủ lãnh thế gian dẫn đến sự chết và hư mất. Đề tài “thuộc về ai” trong Tin Mừng Gio-an được nhấn mạnh và trở thành một trong những đặc điểm của những kẻ chống đối Đức Giê-su. Thế gian thù ghét làm thành một nhóm người chống đối Đức Giê-su và các môn đệ, câu hỏi đặt ra là họ thuộc về ai? Vấn đề cần làm rõ là “thuộc về thế gian” hay “không thuộc về thế gian”. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,19: “Nếu anh em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì là của riêng nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, vì điều này, thế gian ghét anh em.” Người nói với Cha của Người ở 17,16: “Họ [các môn đệ] không thuộc về thế gian cũng như chính Con không thuộc về thế gian.” Thế gian thù ghét này có thủ lãnh mà Tin Mừng Gio-an gọi là “thủ lãnh của thế gian”. Ba lần “thủ lãnh thế gian” xuất hiện trong Tin Mừng (12,31b; 14,30; 16,11) đều có liên hệ với “thế gian thù ghét” (12,31a; 14,31; 16,8):

(1) Lần thứ nhất Tin Mừng nói về thủ lảnh thế gian ở 12,31-32, Đức Giê-su nói với đám đông: “31 Bây giờ sự xét xử thì dành cho thế gian này, bây giờ thủ lãnh thế gian này sẽ bị tống ra ngoài. 32 Phần Tôi, một khi được giương cao khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” Người thuật chuyện giải thích trong câu tiếp theo: “Người [Đức Giê-su] nói điều này để cho biết cái chết nào Người sẽ chết” (12,33). Như thế, giờ chết của Đức Giê-su là giờ xét xử dành cho thế gian và là giờ thủ lãnh thế gian bị thất bại, “bị tống ra ngoài” (12,31b).

(2) Lần thứ hai, thủ lãnh thế gian xuất hiện ở 14,30-31a. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “30 Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa vì thủ lãnh của thế gian đang đến. Nó không có gì trên Thầy, 31a nhưng để thế gian biết rằng: Thầy yêu mến Cha và như Cha đã truyền cho Thầy thế nào, Thầy làm như vậy.” Hành động “đến” của thủ lãnh thế gian trùng khớp với giờ của Đức Giê-su. Đó là lúc mà thế gian thù ghét có cơ may để biết rằng Đức Giê-su yêu mến Chúa Cha và Người thực hiện ý định của Cha.

(3) Lần cuối cùng, thủ lãnh thế gian được nói đến ở 16,8-11. Trong đoạn văn này, Đấng Pa-rác-lê sẽ xác định tội của thế gian thù ghét và sự xét xử cuối cùng dành cho thủ lãnh thế gian. Đức Giê-su nói với các môn đệ về hoạt động của Đấng Pa-rác-lê như sau: “8 Khi Đấng ấy [Đấng Pa-rác-lê] đến, Người sẽ chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử. 9 Về tội: Họ không tin vào Thầy. 10 Về sự công chính: Thầy đi về với Cha, và anh em không còn thấy Thầy. 11 Về sự xét xử: Thủ lãnh của thế gian này đã bị xét xử.” Điều châm biếm là thủ lãnh thế gian “đến” (14,30) để bị xét xử (16,11) và “bị loại ra ngoài” (12,31). Như thế, thế gian thù ghét thuộc về thủ lãnh của thế gian và cả hai sẽ hoàn toàn bị thất bại.

Nếu “thủ lãnh thế gian” (12,31; 14,30; 16,11) là kẻ dẫn đầu thế gian thù ghét, thì quỷ là cha của những người Do Thái (8,44). Đức Giê-su nói với họ ở 8,44: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông. Ngay từ đầu, nó đã là kẻ sát nhân, và nó đã  không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói, nó nói theo bản tính của nó là sự gian dối, vì nó là kẻ nói dối, và là cha của sự gian dối.” Lý do làm cho những người Do Thái có quỷ là cha là vì họ đang tìm cách giết Đức Giê-su (8,37.40). Đức Giê-su xem hành động này là “làm công việc của quỷ.” Người nói về hành động của họ: “Các ông làm những việc của cha các ông” (8,41); “Các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông” (8,44b). Lựa chọn thuộc về quỷ và làm công việc của quỷ dẫn đến hậu quả trầm trọng: Những người Do Thái trong đoạn văn 8,31-44 không có Áp-ra-ham là cha (8,39), cũng chẳng có Thiên Chúa là Cha (8,41-42) như họ đòi hỏi (8,33.41). Đề tài “thuộc về ai” được trình bày rõ ràng ở 8,47. Đức Giê-su nói với những người Do Thái: “Ai thuộc về Thiên Chúa thì nghe lời Thiên Chúa. Vì điều này mà các ông không nghe, đó là các ông không thuộc về Thiên Chúa” (8,47). Tình trạng “không thuộc về Thiên Chúa” làm cho những người Do Thái mất khả năng “nghe” và “hiểu” lời Đức Giê-su nói (8,43).

Thế gian thù ghét và những kẻ đối lập được trình bày trong Tin Mừng Gio-an là những con người với sự lựa chọn và trách nhiệm của họ, nhưng theo thần học Tin Mừng này, nguồn gốc của sự thù nghịch và chống đối này là ở nơi quỷ (8,44), thủ lãnh thế gian này (12,31; 14,30; 16,11), Xa-tan (13,27) và Ác thần (17,15). Tóm lại, thế gian thù ghét thuộc về thủ lãnh thế gian này, còn những kẻ chống đối Đức Giê-su, họ làm công việc của cha của họ là quỷ (8,41.44).

3. Không biết Đức Giê-su và Cha của Người

Thế gian thù ghét và bách hại các môn đệ, bởi vì thế gian này không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Đức Giê-su. Người nói với các môn đệ ở 15,20-21: “20 Hãy nhớ lại lời chính Thầy đã nói với anh em: ‘Tôi tớ không lớn hơn chủ của nó.’ Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã giữ lời Thầy, họ cũng sẽ giữ lời anh em. 21 Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy cho anh em vì danh của Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy.” Ở 16,2-3, những kẻ bách hại các môn đệ đã không biết Thiên Chúa là Đấng đã sai Đức Giê-su đến thi hành sứ vụ, vì thế họ đã chống lại Đức Giê-su và bách hại các môn đệ. Đức Giê-su cho các môn đệ biết ở 16,2-3: “2 Họ [thế gian] sẽ làm cho anh em thành những người bị khai trừ khỏi hội đường. Sẽ đến giờ, kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. 3 Họ sẽ làm những điều đó vì họ đã không biết Cha cũng chẳng biết Thầy.” Đại từ “họ” trong hai câu trên chính là thế gian thù ghét ở 15,18-19. (Xem phân tích về “thế gian thù ghét” (số ít) và “họ” (số nhiều) trên đây). Ở 17,25, Đức Giê-su nói với Cha của Người về sự không biết của thế gian: “Lạy Cha, Đấng Công Chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con, Con biết Cha, và những người này [các môn đệ] đã biết rằng: Chính Cha đã sai Con” (17,25). Như thế, “không biết Đức Giê-su và Chúa Cha” (15,21; 16,3; 17,25) là một trong những đặc điểm của thế gian thù ghét trong Tin Mừng Gio-an.

Những kẻ chống đối Đức Giê-su trong Ga 1–12 cũng có đặc điểm như thế gian thù ghét. Ở 7,25-27, một số người Giê-ru-sa-lem thắc mắc về việc Đức Giê-su có phải là Đấng Ki-tô hay không. Họ nói: “Nhưng Ông ấy [Đức Giê-su], chúng ta biết Ông ấy từ đâu đến; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến, chẳng ai biết Người từ đâu đến” (7,27). Người thuật chuyện kể tiếp ở 7,28-29: “28 Lúc giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su kêu lên và nói: ‘Các ông biết Tôi và các ông biết Tôi từ đâu đến. Tôi không tự mình mà đến, nhưng Đấng đã sai Tôi là Đấng chân thật, Đấng mà các ông không biết. 29 Phần Tôi, Tôi biết Người, vì Tôi ở bên Người và chính Người đã sai Tôi.” Ở đây, Đức Giê-su giảng dạy ở đền thờ Giê-ru-sa-lem trong bối cảnh xung đột và tranh luận với những người Do Thái, với đám đông và với những người Pha-ri-sêu. Đức Giê-su cho thính giả biết là họ không biết Đấng đã sai Người (7,28b). Ở 8,19, những người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su: “Cha của Ông ở đâu?” (8,19a), Đức Giê-su trả lời: “Các ông không biết Tôi, cũng chẳng biết Cha của Tôi. Nếu các ông biết Tôi, các ông cũng biết Cha của Tôi” (8,19b). Như thế, đối với Đức Giê-su, những kẻ chống đối Người và thế gian thù ghét đã hoàn toàn không biết Người và Cha của Người.

4. Không tin vào Đức Giê-su

Ở 15,22-24, Đức Giê-su cho các môn đệ biết là thế gian thù ghét không đón nhận giáo huấn của Người và không nhận ra Người qua những dấu lạ Người đã làm. Đó là bằng chứng cho thấy thế gian này không tin vào Người. Ở 16,8-9 Đức Giê-su nói với các môn đệ: “8 Khi Đấng ấy [Đấng Pa-rác-lê] đến, Người sẽ chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử. 9 Về tội: Họ không tin vào Thầy…” Lựa chọn “không tin vào Đức Giê-su” là tội dẫn đến sự chết. Bởi vì không tin vào Đức Giê-su đồng nghĩa với không có sự sống đời đời ở nơi mình.

Về phía những kẻ chống đối Đức Giê-su trong Ga 1–12, đề tài “không tin” được bàn đến nhiều lần. Từ ch. 5 đến ch. 10, nhận định của Đức Giê-su vẫn không thay đổi: Những kẻ chống đối không tin vào Người. Ở 5,37-38, Đức Giê-su kết tội những người Do Thái: “37 Cha, Đấng đã sai Tôi, chính Người đã làm chứng về Tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng của Người, cũng chẳng thấy tôn nhan của Người; 38 và các ông không có lời của Người ở lại trong các ông, vì Đấng Người đã sai đến, chính các ông không tin vào Đấng ấy.” Tình hình vẫn không tốt hơn trong cuộc tranh luận cuối cùng giữa Đức Giê-su và những người Do Thái ở 10,24-26. Người thuật chuyện kể: “24 Vậy những người Do Thái vây quanh Người [Đức Giê-su] và nói với Người: ‘Ông cầm giữ mạng sống của chúng tôi cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, hãy nói rõ ràng cho chúng tôi.’ 25 Đức Giê-su trả lời họ: ‘Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc chính Tôi làm nhân danh Cha Tôi, những điều đó làm chứng cho Tôi. 26 Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên của Tôi.’” Lời nói “các ông không tin” xuất hiện hai lần (10,25b.26a) trong hai câu trên. Cuối sứ vụ công khai của Đức Giê-su, người thuật chuyện nhận xét ở 12,37a: “Người [Đức Giê-su] đã làm quá nhiều dấu lạ trước mặt họ, họ không tin vào Người.” Đại từ “họ” trong câu này nói về tất cả những ai không tin vào Đức Giê-su trong sứ vụ công khai của Người, đặc biệt là những kẻ chống đối Người. Tóm lại, phía đối lập với Đức Giê-su và các môn đệ là thế gian thù ghét và những kẻ chống đối đã không tin vào Đức Giê-su.

5. Có tội

Theo Tin Mừng Gio-an, từ chối tin vào Đức Giê-su là tội không thể bào chữa được. Thật vậy, Đức Giê-su cho các môn đệ biết điều đó ở 15,22-24: “22 Nếu Thầy không đến và nói với họ [thế gian], họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không thể bào chữa tội của họ được. 23 Ai ghét Thầy cũng ghét Cha của Thầy. 24 Nếu Thầy không làm những việc giữa họ, những điều không một ai khác đã làm, họ đã chẳng có tội. Nhưng nay họ đã thấy và họ ghét cả Thầy lẫn Cha của Thầy.” Về vai trò của Đấng Pa-rác-lê, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 16,8-9: “8 Khi Đấng ấy [Đấng Pa-rác-lê] đến, Người sẽ chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử. 9 Về tội: Họ không tin vào Thầy…” Tội của thế gian thù ghét là từ chối tin vào Đức Giê-su.

Những kẻ chống đối Đức Giê-su trong sứ vụ công khai (Ga 1–12) cũng có tội vì đã không tin vào Người. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 8,23-24: “23 Các ông, các ông thuộc về hạ giới; còn Tôi, Tôi thuộc về thượng giới. Các ông, các ông thuộc về thế gian này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này. 24 Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ chết trong tội của các ông. Vì nếu các ông không tin rằng: Tôi Là, các ông sẽ chết trong tội của các ông.” Tình trạng của con người là “thuộc về hạ giới” (8,23a), nếu như con người không quyết định “sinh ra một lần nữa” (3,3.7), nghĩa là “sinh ra bởi trên”, “sinh ra bởi nước và Thần Khí” (3,5), thì sẽ chết trong tội của mình. Cuối trình thuật anh mù từ thuở mới sinh được thấy (Ga 9), Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu ở 9,41: “Nếu các ông là những người mù, các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn.” Những người Pha-ri-sêu thấy Đức Giê-su nhưng họ không tin vào Người, nên họ vẫn ở trong tội của họ. Theo Tin Mừng Gio-an, những kẻ chống đối Đức Giê-su và thế gian thù ghét đều có tội không tin vào Đức Giê-su.

6. Được mời gọi tin và nhận biết Đức Giê-su

Sau năm đặc điểm xem ra tiêu cực, đặc điểm thứ sáu có ý nghĩa tích cực. Thế gian thù ghét và những kẻ chống đối Đức Giê-su được mời gọi tin vào Đức Giê-su và nhận biết Người là ai. Đức Giê-su nói với Cha của Người ở 17,20-23: “20 Con không chỉ can thiệp cho những người này, nhưng còn cho những người tin vào Con nhờ lời của họ, 21 để tất cả nên một, lạy Cha, như Cha trong Con và Con trong Cha để họ cũng ở trong Chúng Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. 22 Phần Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con, Con đã ban cho họ để họ nên một như Chúng Ta là Một; 23 Con trong họ và Cha trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; để thế gian nhận biết rằng: Chính Cha đã sai Con và Cha đã yêu mến họ như đã yêu mến Con.”

Ở 17,20, Đức Giê-su can thiệp cho các môn đệ trong tương lại: đó là những người tin vào Đức Giê-su nhờ lời rao giảng của các môn đệ. Về “thế gian” nói đến ở 17,21b và 17,23b, dường như thế gian này không tin vào lời rao giảng của các môn đệ, tuy vậy, thế gian này vẫn có thể tin nhờ vào sự hiệp nhất giữa các môn đệ với nhau, với Đức Giê-su và với Chúa Cha (“để họ cũng ở trong Chúng Ta”, 17,21c). Sự hiệp nhất “hoàn toàn nên một” (17,23b) này có thể làm cho thế gian “tin” (17,21d) và “biết” (17,23c) rằng Chúa Cha đã sai Đức Giê-su và Chúa Cha đã yêu mến các môn đệ như đã yêu mến Đức Giê-su (17,23d). Theo Tin Mừng Gio-an, giờ chết của Đức Giê-su là giờ Người bày tỏ tình yêu dành cho những kẻ thuộc về Người (13,1) và dành cho Cha của Người (14,31). Đức Giê-su mong muốn thế gian thù ghét khám phá ra ý nghĩa giờ của Người như trên. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,30-31a: “30 Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa vì thủ lãnh của thế gian đang đến. Nó không có gì trên Thầy, 31a nhưng để thế gian biết rằng: Thầy yêu mến Cha và như Cha đã truyền cho Thầy thế nào, Thầy làm như vậy.”

Những kẻ chống đối Đức Giê-su trong Ga 1–12 cũng được mời gọi tin vào Đức Giê-su. Người tuyên bố với những người Do Thái ở 8,28: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết rằng Tôi Là, và Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Tôi nói những điều ấy như Cha đã dạy Tôi.” Khi Đức Giê-su được giương cao trên thập giá, những kẻ chống đối có thể nhận ra căn tính của Đức Giê-su (“Tôi Là”) và nguồn mạch sứ vụ của Người (“nói những điều Cha đã dạy”). Ở 8,31b-32, Đức Giê-su mời gọi những người Do Thái trở thành môn đệ đích thực của Người: “31b Nếu các ông ở lại trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Ngay giữa lúc tranh luận mạnh mẽ với những người Do Thái (8,31-59), Đức Giê-su đề nghị với họ ở 8,51: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Nếu ai giữ lời Tôi sẽ không thấy sự chết đời đời.”

Tóm lại, Đức Giê-su quan tâm đến thế gian thù ghét và những kẻ chống đối Người. Người mời gọi họ khám phá ra sự thật mặc khải để có thể tin vào Người và đón nhận sự sống đời đời Người ban tặng cho họ.

IV. KẾT LUẬN

Các nhân vật: “thế gian thù ghét” và “những kẻ chống đối Đức Giê-su” vừa gợi đến những thực tại lịch sử vừa có nghĩa biểu tượng. Những gợi ý lịch sử trong các nhân vật trên liên quan đến những người chống đối Đức Giê-su và bắt bớ các môn đệ trước biến cố Thương Khó – Phục Sinh, đồng thời cũng gợi đến những kẻ bách hại cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I. Trong Tin Mừng Gio-an, thế gian thù ghét ở Ga 14–17, tiếp nối sự bách hại của những kẻ chống đối Đức Giê-su trong Ga 1–12. Đó là những người Do Thái ở Pa-lét-tin, họ đã nghe lời giảng dạy của Đức Giê-su, đã thấy những dấu lạ Người làm, nhưng vẫn không tin. Sự căng thẳng, xung đột của thế gian thù ghét, xuất phát từ một nhóm người cụ thể trong Tin Mừng. Tuy nhiên, việc dùng từ “thế gian” (kosmos) để nói về sự thù ghét bao hàm nghĩa rộng hơn, họ không chỉ là những người Do Thái chống đối Đức Giê-su trong Ga 1–12. Sự chuyển đổi từ “những kẻ chống đối” (Ga 1–12) sang “thế gian thù ghét” (Ga 14–17) gợi đến hoàn cảnh xung đột của cộng đoàn Gio-an từ hai phía: Những khó khăn thử thách của cộng đoàn có thể đến từ phía Do Thái giáo (sự bách hại của những người Pha-ri-sêu và những người Do Thái) hay từ phía dân ngoại (sự bách hại của đế quốc Rô Ma).

Nghĩa biểu tượng của “thế gian thù ghét” là gợi đến tất cả những ai từ chối tin vào Đức Giê-su và ghét các môn đệ của Người trong suốt dòng lịch sử. Mỗi cộng đoàn tín hữu có thể hiện tại hóa trong hoàn cảnh cụ thể về “thế gian thù ghét”. Thế gian này là tất cả những ai đã biết đến giáo huấn của Đức Giê-su nhưng đã lựa chọn không tin vào Người và bách hại các môn đệ của Người (15,18–16,4a). Tuy vậy, các môn đệ không thất vọng về thế gian này, bởi vì sáu đặc điểm của thế gian thù ghét và những kẻ chống đối Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an có ý nghĩa của nó.

Phần nội dung bài viết cho thấy “thế gian thù ghét” và “những kẻ chống đối Đức Giê-su” trong Tin Mừng Gio-an giống nhau về sáu đặc điểm: (1) Ghét Đức Giê-su, các môn đệ và Chúa Cha, (2) Thuộc về thủ lãnh thế gian và quỷ, (3) Không biết Đức Giê-su và Cha của Người, (4) Không tin vào Đức Giê-su, (5) Có tội và (6) Được mời gọi tin và nhận biết Đức Giê-su. Cho dù năm đặc điểm đầu tiên có vẻ tiêu cực, nhưng thực ra chúng có giá trị giáo huấn. Ở cấp độ mặc khải, Đức Giê-su không lên án thế gian thù ghét và những kẻ chống đối Người. Những lời mặc khải của Đức Giê-su về năm đặc điểm đầu tiên nhằm làm cho người nghe ý thức hậu quả trầm trọng của lựa chọn không tin vào Đức Giê-su. Chính vì thế mà đặc điểm thứ sáu là quan trọng và tích cực. Đức Giê-su luôn mời gọi họ tin vào Người. Lời mời gọi này luôn có giá trị và là một lối mở cho thế gian thù ghét và cho những kẻ đối lập với Đức Giê-su và các môn đệ. Về phía những người tin vào Đức Giê-su, sự kiên trì trong việc thi hành sứ vụ Đức Giê-su giao phó, sống hiệp nhất với nhau và hiệp thông với Đức Giê-su và với Chúa Cha là những giá trị cho thấy tình yêu mạnh mẽ hơn sự thù ghét. Nhờ những lời chứng này của người môn đệ, thế gian thù ghét có thể đáp trả cách tích cực lời mời gọi của Đức Giê-su trong đặc điểm thứ sáu./.