JB. Nguyễn Quốc Tuấn
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Được khai sinh từ tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi mà đỉnh cao là cuộc nhập thể cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Giáo hội có sứ mạng đặc biệt loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc. Sứ mạng này là tiến trình đem niềm tin Kitô giáo đến với mọi người thuộc những nền văn hóa đặc thù. Đó là cuộc đối thoại đích thực và phong phú giữa Đức Tin và Văn Hóa, trong đó, Giáo hội là chứng nhân tích cực cho mầu nhiệm Nhập Thể giữa những tương quan đa chiều cùa đời sống nhân loại. Dưới nhãn quan loan báo Tin Mừng, biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô là nền tảng cho toàn bộ tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội. Qua đó, sứ điệp của tình yêu cứu độ không ngừng được loan báo sâu rộng, đồng thời Giáo hội trở nên dấu chỉ huyền nhiệm của Ngôi Lời Nhập Thể đang hoạt động kỳ diệu giữa những bối cảnh lịch sử và nền văn hóa.
Xuất phát từ mối tương quan giữa Tin Mừng và Văn hóa, hội nhập văn hóa là vấn đề quan trọng và cấp bách đang đặt ra cho Giáo hội trong công cuộc loan báo Tin Mừng hiện nay. Trong Tông huấn Giáo Hội Tại Á Châu (1999), Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chỉ dẫn những đường hướng cho việc hội nhập niềm tin Kitô giáo vào những nền văn hóa và sinh hoạt hoạt tổng thể của con người trong đời sống xã hội. Ngài đặc biệt nhấn mạnh hội nhập văn hóa là công việc cấp thiết đối với mọi thành phần dân Chúa tại Á Châu, và mời gọi mọi tín hữu nhất là các linh mục và tu sỹ hãy đặc biệt chú tâm đến vấn đề hội nhập văn hóa.[1]
Hội nhập văn hóa là trọng tâm chương trình sứ vụ của các mục tử và là sứ mệnh của người Kitô hữu nói chung trước những thách đố trong công cuộc loan báo Tin Mừng hôm nay. Trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, ban hành ngày 25 – 03 – 1992, Đức Gioan Phaolô II đã “nhấn mạnh đến yêu cầu phải “Phúc Âm hóa các nền văn hóa”, vì thế, chương trình đào tạo các linh mục phải lưu ý đặc biệt đến các nguyên tắc về hội nhập văn hóa, coi đó là một nhân tố chủ yếu.”[2] Nguyên tắc cơ bản, đó là Tin Mừng được hội nhập vào các nền văn hóa nhưng không lệ thuộc vào các yếu tố đặc thù của nền văn hóa ấy, nhất là có thể tồn tại bền vững trong bất kỳ nền văn hóa nào và có khuynh hướng đâm rễ vào trong nền văn hóa của các đối tượng tiếp nhận. Mẫu mực cho tiến trình này là Lời Chúa bao gồm Lời mạc khải và Lời nhập thể.[3] Khởi đi từ ý nghĩa này, đề tài tập chú tìm hiểu, đào sâu hơn tác vụ của Giáo hội nói chung, và nói riêng đối với những người đang trực tiếp dấn thân loan báo Tin Mừng cho các dân tộc và nền văn hóa.
II. CÁC PHẠM TRÙ CƠ BẢN
1. Văn Hóa
Căn cứ theo truyền thống Tây Phương, chữ văn hóa trong tiếng Anh và Tiếng Pháp là culture, có nguồn gốc từ tiếng La Tinh cultura nghĩa là trồng trọt, cư trú, luyện tập, lưu tâm… Đến giữa thế kỷ XIX, do sự phát triển của các khoa nhân loại học, xã hội học, dân tộc học…, khái niệm văn hóa có sự biến đổi, đặc biệt nhắm tới hoạt động đa dạng của con người trong đời sống xã hội lẫn tri thức và tâm linh. Trước diễn tiến ấy, vào cuối thể kỷ XIX, nhà nhân loại học của nước Anh là Edward Burnett Tylor lần đầu tiên đưa ra định nghĩa mới về văn hóa. Theo Tylor: “Văn hóa là một tổng thể phức tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và cả những năng lực mà con người đạt được trong xã hội”.[4]
Định nghĩa về văn hóa của Tylor mở ra một hướng nhìn về tính ổn định và liên tục của phạm trù văn hóa. Nó cho thấy văn hóa thuộc vào những gì con người trải nghiệm và thành tựu trong cuộc sống do bởi hoạt động tiếp xúc với thế giới bên ngoài, và qua tương quan với môi trường lịch sử xã hội. Tuy nhiên, mối tương quan giữa con người và văn hóa theo cách tiếp cận này chỉ mang tính một chiều, được khởi đi từ con người đến văn hóa. ‘Văn hóa’ như ý niệm lệ thuộc vào nhận thức và hoạt động của con người và có tính chuyển tiếp từ các đối tượng tiếp nhận nó. Điều này cho thấy những giới hạn trong quan niệm về văn hóa của Taylor. Nó không nêu bật được tương tác hai chiều giữa con người và văn hóa, bởi thực tế, con người cũng là đối tượng của văn hóa, lệ thuộc vào văn hóa trong hoạt động thực tiễn xã hội và tâm linh.[5]
Tiếp theo E.B Taylor, nhiều học giả danh tiếng (Alfed Kroeber, Clyde Kluckholn, Clifford Geertz, Federico Mayor…), và các trung tâm học vấn (Viện hàn lâm Pháp, Anh…) đã đưa ra những định nghĩa về văn hóa. Người Nhật Bản đã dùng hai chữ văn hóa để dịch chữ culture của phương Tây, từ đó, chữ văn hóa mới có nghĩa như ngày hôm nay.
Nói chung, văn hóa là một phạm trù phức tạp và vô cùng phong phú khi tiếp cận nó, nên rất khó để “xác lập một định nghĩa hợp lý và thuyết phục hàm chứa các đặc tính và bản sắc văn hóa”.[6] Hai nhà văn hóa học Hoa Kỳ là A. Kroeber và C. Kluckholn đã liệt kê khoảng 300 định nghĩa về văn hóa. Đặc biệt, quan niệm về văn hóa ngày càng đa diện và phong phú hơn do sự phát triển và chuyên sâu của các chuyên ngành xã hội học, nhân loại học, văn hóa học, triết học, tôn giáo học… Các chuyên ngành này đã ảnh hưởng nhất định đến việc tiếp cận nội hàm văn hóa cách đa chiều, phong phú, sinh động. Tuy nhiên mỗi cách xác lập không loại trừ nhau, nhưng bổ túc và làm phong phú thêm ý niệm văn hóa.[7]
Trong khuôn khổ đề tài, nhất là khi tiếp cận vấn đề ‘nhập thể và hội nhập văn hóa dưới nhãn quan loan báo Tin Mừng’, chúng ta cần tập chú đến khái niệm văn hóa theo giáo huấn xã hội của Giáo hội Công Giáo. Công đồng Vatican II (1962 – 1965) đã trình bày tổng quát quan niệm về văn hóa trong Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et Spes). Vì nhắm tới đường hướng mục vụ, Hiến chế này đã đặc biệt lưu ý đến văn hóa và tình trạng văn hóa trong bối cảnh sống của nhân loại ngày nay. Theo Công đồng:
“Văn hóa bao gồm tất cả những gì con người dùng để trau dồi và phát triển các năng khiếu đa dạng về tinh thần và thể xác; cố gắng chế ngự trái đất bằng tri thức và lao động, nhân bản hóa đời sống xã hội, cuộc sống gia đình cũng như toàn thể đời sống dân sự nhờ việc cải tiến các tập tục và định chế; sau hết, văn hóa diễn tả, truyền thông và bảo tồn trong các tác phẩm những kinh nghiệm tinh thần và những hoài bão lớn lao của con người trải qua các thời đại, ngõ hầu giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn”.[8]
Như vậy, theo Gaudium et Spes, văn hóa là một thực tại cần thiết cho nhân loại, có tác dụng làm triển nở, phong phú đời sống của mỗi cá nhân trong tương quan với toàn thể cộng đồng. Nhất là, “văn hóa được hiểu trong viễn cảnh lan rộng và phát triển tới tầm mức hoàn vũ. Văn hóa trở thành nền tảng cho suy tư và hành động của con người trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, đồng thời là tiền đề cho sự hiệp nhất của loài người tiến bộ”.[9]
Hiến chế Gaudium et Spes đã đem lại những thành quả mới mẻ và thiết thực về văn hóa nhờ sự cộng tác chặt chẽ giữa các nhà xã hội học và các thần học gia. Chúng ta dễ dàng nhận thấy nét tương đồng giữa hai định nghĩa về văn hóa của Công đồng Vatican II và UNESCO năm 1982 . Điểm chung là cả hai định nghĩa đã không lệ thuộc “ý niệm cổ điển coi văn hóa như một tổng hợp phức tạp và duy nhất những phương tiện tinh thần, vật chất, trí tuệ và tình cảm của một xã hội.” Với định nghĩa văn hóa đã xác lập, Giáo hội hy vọng bày tỏ cùng toàn thể cộng đồng nhân loại thiện chí muốn “lắng nghe và muốn đối thoại với thế giới ngày nay để đem đến cho nó ánh sáng Phúc Âm”.[10]
2. Hội Nhập Văn Hóa
Thuật ngữ hội nhập văn hóa (inculturation) được phổ biến kể từ sau Hội Nghị về Truyền Giáo tổ chức tại Đại học Urbaniana (05 – 12/10/1975) và sau Tổng Công Nghị Dòng Tên năm 1975.[11] Trong Hiến chế Gaudium et Spes, Công đồng Vatican II đã đề cập đến vấn đề ‘hội nhập văn hóa’, và qua nhiều văn kiện gần đây, Giáo hội càng xác định rõ ràng và mạnh mẽ hơn sứ mệnh hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa đa bản sắc của nhân loại. Dù thuật ngữ ‘hội nhập văn hóa’ tuy mới xuất hiện, nhưng thực tại của nó ngay từ ban đầu đã là một thành phần cốt yếu của sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.[12]
Theo Giáo sư Giuse Thân Văn Thường, ‘hội nhập văn hóa’ là hạn từ thuộc thần học nhưng ở ranh giới giữa thần học và nhân loại học. Nếu như ‘văn hóa’ là thực tại phức tạp, đa diện và phong phú mà khoa nhân loại học không ngừng khám phá, định dạng nó, thì vấn đề ‘hội nhập’ hướng ta trở về với mầu nhiệm ‘Nhập thể’, nhờ đó Thiên Chúa đã bước vào nhân loại để cứu chuộc từ bên trong.[13]
‘Hội nhập văn hóa’ là một thuật ngữ hàm chứa nhiều ý nghĩa. Tông huấn Ecclesia in Africa (1995) đã trình bày sáng tỏ và thấm đượm nền tảng niềm tin Kitô giáo cũng như chiều kích Ba Ngôi khi đề cập đến vấn đề hội nhập văn hóa.[14] Theo Tông huấn:
“Hội nhập văn hóa là tiến trình hướng tới việc truyền giáo đầy đủ. Mục đích của hội nhập văn hóa là giúp con người sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu Kitô cách trọn vẹn, đồng thời biến đổi họ trên bình diện cá nhân, văn hóa, kinh tế, chính trị, ngõ hầu dẫn họ tới cuộc sống kết hiệp mật thiết với Chúa Cha qua hoạt động của Chúa Thánh Thần”.[15]
Trong Tông Huấn về Giáo Lý Trong Thế Giới Ngày Nay (Catechesi trandendae), ban hành ngày 16 – 10 – 1980, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dùng thuật ngữ ‘hội nhập văn hóa’ (inculturation) lần đầu tiên trong một văn kiện chính thức của Giáo Hội. Theo Ngài:
“Hội nhập văn hóa diễn tả rất đúng yếu tố mầu nhiệm Nhập Thể. Chúng ta có thể nói về giáo lý cũng như truyền giáo, là được kêu mời mang sức mạnh của Tin Mừng vào chính tâm điểm của văn hóa và các nền văn hóa…Tin Mừng không thể tách lìa nền văn hóa đang hội nhập, giống như Kinh Thánh đã hội nhập môi trường, và cụ thể hơn, Chúa Giêsu thành Nazareth cũng đã hội nhập môi trường văn hóa của Ngài, cũng như Tin Mừng vẫn tiếp tục hội nhập văn hóa qua các thế kỷ.”[16]
Năm 1990, trong Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ (Redemptoris Missio), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiếp tục nhắc lại và triển khai thêm thuật ngữ ‘hội nhập văn hóa’: “Là sự biến đổi đổi sâu xa các giá trị văn hóa đích thực, qua việc hòa nhập vào Kitô giáo, và hội nhập Kitô giáo vào các nền văn hóa”.[17]
Sự mô tả trên của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về thuật ngữ ‘hội nhập văn hóa’ cho thấy bản chất đích thực của tiến trình ‘hội nhập văn hóa’ liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập Thể. Nó diễn tả ý nghĩa và kinh nghiệm Kitô giáo trong nền văn hóa mà trong đó Hội Thánh hiện diện biến đổi canh tân nền văn hóa ấy. Sự hiện diện này được biểu tỏ cụ thể và sinh động xuyên suốt tiến trình đối thoại, trong đó cộng đồng Kitô giáo đón nhận những giá trị của bản sắc văn hóa địa phương, phát triển những giá trị đó theo hướng thực sự Kitô giáo và dẫn các giá trị đó tới một sự hiệp thông phổ quát hơn. Đây “là tiến trình diễn tả thông điệp và thực tại mà Hội Thánh là dấu chỉ và sự hiện diện”.[18]
Nói chung, thuật ngữ hội nhập văn hóa biểu tỏ thái độ hiểu biết và lòng kính trọng đối với các giá trị của nền văn hóa và tôn giáo khác cũng như độ nhạy bén trong việc tiếp nhận niềm tin Kitô giáo của những người mà các nhà truyền giáo đem Tin Mừng đến.[19]
3. Nhập Thể
a. Nhập Thể Là Gì?
Là một thuật ngữ thần học, nhập thể (Incarnation) được dẫn xuất bởi tiếng La tinh in: trong, nhập; và caro: xác thịt. Nhập thể ám chỉ việc Ngôi Lời mặc lấy thân xác loài người, để thực hiện việc cứu độ nhân loại.[20] Ngôi Lời vừa là Thiên Chúa thật vừa là con người thật. Thần tính kết hợp với nhân tính (Cv 20,28; Rm 8,32; 1 Cr 2,8; Dt 2,11 – 14; 1 Tm 3,16; Gl 4,4).
Nhập thể được coi là khuôn mẫu chính yếu và nền tảng cho việc đem niềm tin Kitô giáo vào các nền văn hóa.[21] Thuật ngữ nhập thể nói lên tiến trình Kitô giáo thấm nhập vào các nền văn hóa, thâu nhận tinh hoa các dân tộc, “sao cho mầu nhiệm Đức Kitô không xóa bỏ, nhưng cứu chuộc và kiện toàn các nền văn hóa”, nền văn hóa mà chính Đức Kitô đã đón nhận và biến đổi nhờ Thần Khí.[22]
Thuật ngữ nhập thể nói lên bản chất của sự kiện Nhập thể có ý nghĩa quyết định đối với tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo Hội. Sự biểu tỏ này cũng đồng thời cho thấy mối tương quan giữa văn hóa và Tin Mừng được đặt trên nền tảng biến cố nhập thể của Đức Giêsu Kitô.
b. Biến Cố Nhập Thể Của Đức Giêsu Kitô
Biến cố Nhập thể của Đức Giêsu Kitô là tâm điểm trong chương trình tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Mầu nhiệm Nhập thể như điểm hội tụ trọn vẹn mối tương ái, giao hòa giữa Thiên Chúa và nhân loại. Con Thiên Chúa đã nhập thể giữa muôn vàn éo le, nghịch cảnh của kiếp nhân sinh, để dẫn đưa loài người đang lâm tình trạng sa ngã, hư mất trở về với sủng phúc nguyên khởi. Đức Giêsu Kitô qua biến cố Nhập thể, đã đạt tới tuyệt đỉnh của sự tự hạ, “đã hạ mình… bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Điểm nhấn của sự ‘tự hạ’ này nói lên tương giao thiết chặt giữa Đức Giêsu với dân tộc mà người đã chọn, và hơn nữa với toàn thể nhân loại đang được tình yêu nhập thể cứu độ. Do đó, biến cố Nhập thể là mầu nhiệm sự khôn ngoan của Thần Khí, để Thiên Chúa nhập thể vào đời sống nhân loại trong bối cảnh văn hóa đặc thù, vì:
“Chính trong lúc nói ngôn ngữ xã hội và văn hóa của một nhóm người riêng mà Đức Giêsu đã bước vào con đường đi đến mọi người để Lời Người trở nên Tin Mừng cứu độ cho toàn thể nhân loại. Đức Kitô là một cá nhân giữa loài người để cứu chuộc mọi cá nhân trong loài người”.[23]
Như vậy, với biến cố Nhập thể, “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14), thì việc hội nhập văn hóa dưới ánh sáng Tin Mừng là điều tất yếu.
III. NHẬP THỂ: NỀN TẢNG CỦA HỘI NHẬP VĂN HÓA
1. Nguyên Lý Căn Bản Của Hội Nhập Văn Hóa
a. “Ngôi Lời Đã Trở Nên Người Phàm Và Cư Ngụ Giữa Chúng Ta” (Ga 1,14)
Do sự sa ngã của nguyên tổ, mối tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại bị rạn nứt trầm trọng. Nhưng vì tình thương, Thiên Chúa đã không bỏ rơi nhân loại, Người đã hứa ban Đấng cứu độ để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa. Ngôi Lời đã làm người để cứu độ nhân loại ra khỏi vòng hư hoại do tội lỗi và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa. Từ địa vị là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã bước xuống dòng sông Gio-đan chịu phép rửa (Lc 3,15 – 16.21 – 22), để gột tẩy đi khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người. Nhờ đó, nhân loại trở thành đối tượng được Thiên Chúa yêu thương. Người đã chủ động đi bước trước, đã cho Ngôi Hai hạ sinh làm một con người để cứu độ muôn người. Chính Ngôi Hai lại tự nguyện bước xuống giữa đoàn lũ những tội nhân để cảm thông và nâng họ dậy từ những yếu hèn cố hữu. Khoảng cách giữa cõi siêu nhiên của Thiên Chúa với con người không còn là một vực thẳm vô tận, mà đã được xích lại trong mối tương liên giao hảo Thiên Chúa – con người.
Nhập thể vào nền văn hóa nhân loại, Con Thiên Chúa đã không tự biến mình trở thành con người trong một nhân tính phi văn hóa. Phổ quát tính của Đức Kitô, và năng lực tác động thường hằng của Người trên bối cảnh không gian, thời gian, nhất là với những con người thuộc mọi nền văn hóa không phải là một tiến trình cá vị, tước bỏ các mối tương quan, nhưng theo thánh ý Thiên Chúa trong chương trình cứu độ từ ngàn xưa:
“Đức Kitô đã từ bỏ tiến trình cá vị ấy, tự trút bỏ thiên tính của mình, đến ở giữa chúng ta như một con người với trọn vẹn thân phận con người. Nghĩa là, Người thuộc về một dân tộc, một nền văn hóa, chứ không phải như một con người được bốc hơi bàng bạc trong một chủ nghĩa đại đồng văn hóa nào đó”.[24]
Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người trở nên gần gũi trong cảm thức khi chúng ta biết rằng Ngôi Lời của Thiên Chúa đã hội nhập vào nền văn hóa đặc thù của nhân loại. Người đã tự nguyện đón nhận những cảnh huống và giá trị văn hóa của nhân loại này như bao con người bình thường khác, đã vui lòng chấp nhận làm con dân trong một dân tộc với lịch sử riêng và kế thừa các giá trị văn hóa Do Thái.
Đức Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, đã “sinh ra dưới bầu khí Cựu ước, lớn lên trong vòng lễ giáo Mai Sen, để rồi cũng sống, làm việc, suy tư, cầu nguyện, rao giảng ơn cứu độ như một người Do Thái giữa những người Do Thái khác”.[25] Môi trường gia đình Nazarét và lối sống, cách sống mang đậm ‘bản sắc Do Thái’ với nhiều mối tương tác đã truyền lại cho Đức Giêsu cách ứng xử thích nghi với nền văn hóa đương thời. Đây là mầu nhiệm kỳ lạ và đầy nghi vấn đối với tư duy nhân loại, là lý do khiến cho các bè rối đầu tiên xuất hiện vào thời điểm sơ khởi của Kitô giáo dù không chối từ thần tính, nhưng công khai phủ nhận nhân tính của Đức Giêsu. Trong Thư gửi giáo đoàn Phi-líp-phê,[26] Thánh Phaolô đã trình bày sự tự hạ của Con Thiên Chúa như tâm điểm của mầu nhiệm Nhập thể. Ngôi Hai Thiên Chúa đã không giữ cương vị Thiên Chúa cho mình nhưng đã tự hạ, nhận lấy thân phận tôi tớ thấp hèn và trở nên giống một người phàm đích thực ngoại trừ tội lỗi, nhờ đó “trở nên mọi sự cho mọi người” (1 Cr 9,22). Thánh Phaolô đã diễn tả khá rõ thực chất về thế giá cứu độ của mầu nhiệm Nhập thể, được hội tụ trọn vẹn nơi cuộc nhập thể của Đức Kitô. Cả Tân ước cũng minh xác và chấp nhận điều này khi cùng làm chứng về mối liên hệ khăng khít của Đức Giêsu với định mệnh riêng của dân tộc Người. Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể là ánh sáng siêu việt và là sự khôn ngoan đích thực được trao cho mọi dân tộc và mọi nền văn hóa.[27] Cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa là cuộc nhập thể cụ thể và trọn vẹn, nên đó cũng là cuộc nhập thể hội tụ ‘bản sắc’ văn hóa của Tin Mừng: “Đức Kitô, qua cuộc nhập thể của Người, đã dấn thân vào những hoàn cảnh văn hóa và xã hội cụ thể của những con người xung quanh Người”.[28] Do đó, trọng tâm sứ điệp của mầu nhiệm nhập thể hệ tại ở điểm này:
“Chính trong lúc nói ngôn ngữ xã hội và văn hóa của một nhóm người riêng mà Đức Giêsu đã bước vào con đường đi đến mọi người để Lời Người trở nên Tin Mừng cứu độ cho toàn thể nhân loại. Đức Kitô là một cá nhân giữa loài người để cứu chuộc mọi cá nhân trong loài người”.[29]
Khởi đi từ biến cố Con Thiên Chúa bước vào đời sống nhân loại để biến đổi, canh tân các chuẩn mực và giá trị văn hóa, nên tự bản chất, Kitô giáo là một Đạo nhập thể. Bởi Ngôi Lời đã chấp nhận làm một con người đích thực, ngoại trừ tội lỗi và “hòa mình với đồng loại như một giọt nước giữa trăm ngàn giọt nước khác. Kể từ đó, nhập thể đã trở thành bản sắc của Đạo Chúa và định hướng nền tảng cho công cuộc loan báo Tin Mừng”.[30]
Nguyên lý trên cho thấy, Hội Nhập Văn Hóa rất phù hợp với mô hình Nhập Thể. Qua Đức Giêsu Kitô, Tin Mừng được ‘nhập thể’ cách trọn vẹn và sống động vào đời sống của một dân tộc và nền văn hóa của dân tộc ấy:
“Mẫu mực chân chính cho việc hội nhập văn hóa là chính cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời: một cuộc trao đổi văn hóa hoặc hội nhập văn hóa sẽ thực sự là phản ảnh cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời, khi mà một nền văn hóa, được biến đổi và tái sinh nhờ Tin Mừng, làm sản sinh khởi đi từ chính truyền thống sống động của mình những cách thức diễn tả độc đáo sự sống, cử hành và những tư tưởng Kitô giáo, nhờ đâm chồi từ nền văn hóa địa phương, nhờ trân trọng các hạt giống Lời và tất cả những gì đang có trong nền văn hóa ấy như là điều tích cực, nhờ mở nó ra với các giá trị Tin Mừng”.[31]
Như vậy, tiến trình đem Tin Mừng vào các nền văn hóa của Giáo hội không chỉ hệ tại ở việc mang niềm tin Kitô giáo đến với các nền văn hóa đa phức, nhưng đồng thời tạo điều kiện cho niềm tin ấy triển nở dồi dào, phong phú giữa các nền văn hóa trong sự hiện diện mầu nhiệm của Ngôi Lời Nhập Thể và sự tác động của Chúa Thánh Thần. Đây là một tiến trình hội nhập mang tính chuyển động kép: phải làm sao cho Kitô giáo được thấm nhập vào nền văn hóa bản địa, và mặt khác “Kitô hóa nền văn hóa bản địa như hình ảnh của nhúm men Kitô được vùi sâu vào trong đống bột văn hóa và làm dậy lên cả đống bột Kitô”.[32]
Biến cố Nhập Thể hội tụ tất cả những chuẩn mực và giá trị chân thực của nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô và tích hợp huyền nhiệm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Những giá trị tinh túy đặc thù từ các tôn giáo và các nền văn hóa nhận diện đầy đủ vị trí, vị thế của nó trong Đức Giêsu và quy hướng về Người. Tiến trình hội nhập văn hóa là động thái làm cho các đối tượng tiếp nhận thuộc nền văn hóa nhận thức được Đức Kitô Giêsu là trung tâm của lịch sử cứu độ và là Đường dẫn đưa nhân loại đạt tới sung mãn trong cuộc lữ hành dương thế.[33] Giá trị này được diễn tả đầy đủ qua Tông huấn Giáo hội tại Châu Đại Dương:
“Được biến đổi bởi Thần Khí của Đức Kitô, các nền văn hóa này đạt được sự sung mãn mà các giá trị sâu sắc nhất của chúng luôn hướng tới và những người dân ở đó luôn hy vọng. Thực vậy, không có Đức Kitô, thì không có nền văn hóa nào có thể trở thành chính nó cách đúng nghĩa nhất”.[34]
Nhờ cuộc nhập thể, Ngôi Lời đã biểu tỏ cho nhân loại về tất cả những tinh hoa văn hóa, những giá trị chân thực của của nhân loại này là thành tố quan yếu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sứ vụ của Giáo hội trong tiến trình hội nhập văn hóa chỉ có thể thành tựu khi nó được khởi đi từ ý định của Thiên Chúa trong biến cố Nhập thể, là làm cho con người nhận diện chỉ trong và qua Đức Giêsu Kitô, các giá trị chân thực nơi mọi nền văn hóa mới có thể đạt được sự sung mãn đích thực cho mục tiêu tối hậu; bởi nếu “không có Đức Kitô, thì không có nền văn hóa nào có thể trở thành chính nó cách đúng nghĩa nhất”.[35]
b. Lời Thiên Chúa
Nhập thể là nền tảng của hội nhập văn hóa. Do vậy, tiến trình của hội nhập văn hóa được khởi đi từ biến cố Nhập thể với niềm xác tín rằng Lời Thiên Chúa là một thực tại siêu việt trên mọi đặc thù của mỗi nền văn hóa, trong đó Lời được diễn tả cách sinh động nhất với đầy đủ nhất chiều kích của nó. Vì chính “Thiên Chúa đã nói Lời vĩnh cửu của Ngài theo cách thức nhân loại; Lời của Ngài “đã trở nên người phàm” (Ga 1,14). Đây chính là Tin Mừng. Đây là lời loan báo đã vượt qua bao thế kỷ để đến với chúng ta hôm nay”.[36] Việc nhập thể của Lời trong con người Đức Giêsu là đặc ân của mầu nhiệm cứu độ đem lại cho con người quyền thông dự vào sự sống sung mãn của Thiên Chúa. Dưới nhãn quan loan báo Tin Mừng, Lời Thiên Chúa là yếu tố nền tảng cho tiến trình hội nhập có thể đạt tới đích điểm trong cuộc canh tân Kitô giáo nơi mỗi nền văn hóa.
Đức Kitô Nhập Thể, Lời Thiên Chúa, từ muôn thuở đã tự mạc khải mình ra nơi con người Đức Giêsu thành Nadarét. Hình thái cuối cùng và mới mẻ trong mầu nhiệm Nhập Thể hệ tại ở Lời Thiên Chúa mặc lấy thân thể người phàm, tự cho mình một thân thể mang hình ảnh Thiên Chúa, là thân mình của Thiên Chúa. Ngôi Lời là Thiên Chúa thật và cũng là người thật:
“Đấng vừa độc nhất vô nhị, vừa đại đồng phổ cập, là chính sự hiện diện sáng tạo trong tất cả những gì hiện hữu: chính Đấng ấy nay đã hóa thành con người đặc biệt đó, làm người của một xứ sở, của một chủng tộc, của một nền văn hóa. Trong Đức Giêsu, chính Thiên Chúa đã ‘hội nhập văn hóa’”.[37]
Theo Tông huấn Verbum Domini thì, “đây là hiện tượng phong phú đã từng được chứng thực rộng rãi trong lịch sử Giáo hội” về mầu nhiệm “Thiên Chúa không tự mạc khải cho con người theo cách trừu tượng, nhưng bằng cách nhận lấy các ngôn ngữ, các hình ảnh và các cách diễn tả gắn liền với các nền văn hóa khác nhau”.[38]
Con đường nhập thể của Lời Thiên Chúa vào nền văn hóa nhân loại được tựu trung cụ thể, phong phú trong Kinh Thánh. Theo Công đồng Vatican II, đó chính là “sự hạ mình kỳ diệu của Đấng Khôn Ngoan”. Sự hạ mình này đã được tỏ lộ trọn vẹn trong bối cảnh nền văn hóa nhân loại với những hạn chế cố hữu của nó nhưng vẫn không làm thương tổn đến sự chân thật và thánh thiện của Thiên Chúa. Nhờ đó, nhân loại có thể nhận ra tình thương vô biên của Thiên Chúa, “và trong sự quan phòng săn sóc đến bản tính chúng ta, Ngài đã thích ứng Lời nói của Ngài đến mức nào.” Lời Hằng Sống ấy được diễn tả qua ngôn ngữ nhân loại, được đồng hóa với ngôn ngữ của con người theo cảm thức của họ, “cũng như xưa Ngôi Lời của Cha Hằng Hữu đã trở nên giống loài người, sau khi nhận lấy sự yếu đuối xác thịt”.[39]
Lời Thiên Chúa đã nhập thể vào trong một dân tộc, một nền văn hóa là Israel, đã nói chính ngôn ngữ của Israel. Nhưng đó là thứ ngôn ngữ đặc thù đã được tích hợp trong tiến trình giao thoa với nền văn hóa Cận Đông, Latin, Hy Lạp… và tiếp biến các chuẩn mực giá trị của các nền văn hóa ấy. Chính vì vậy:
Bản ‘sơ đồ’ của cuộc Nhập thể đã tiềm tàng hiện diện dưới cả hai diện mạo. Diện mạo cá biệt: Đức Giêsu sẽ là người thuộc một dân nước và một thời đại nhất định. Diện mạo phổ cập: Đức Kitô tổng kết toàn bộ không gian cũng như toàn bộ lịch sử loài người ở lại trong Ngài.[40]
Dùng ngôn ngữ của mình, Kinh Thánh muốn biểu tỏ cho nhân loại biết Israel là dân tộc được đặc tuyển, là dân được Thiên Chúa chọn để ban “ơn cứu độ xuất phát từ Dân Do Thái” cho muôn dân. Chính vì vậy, tiến trình hội nhập văn hóa cần phải:
“Giới thiệu một Phúc Âm khăng khít với văn hóa Israel bởi vì đấy là nơi Ngôi lời đã nhập thể: đó là điều tất yếu phải làm, không thể nào tránh né được. Và nếu chúng ta giải thích Phúc Âm ấy theo tư thế là người Tây hay Đông Phương, được thừa hưởng từng nắn đúc nên mình, cũng vậy, chúng ta cần phải chịu để cho các dân tộc khác được làm như vậy”.[41]
Trong tiến trình hội nhập Đức tin vào nền văn hóa, vai trò tiên quyết thuộc về Tin Mừng, cụ thể hơn, chính Đức Kitô là tác giả của công cuộc hội nhập ấy, vì Người là Lời được công bố bởi nhà truyền giáo và cũng là Lời mà nền văn hóa được Phúc Âm hóa đón nhận. Thiên Chúa đã ban cho nhân loại chúng ta trọn vẹn Lời của Người thông qua con đường nhập thể vào nền văn hóa để biến đổi nền văn hóa ấy.[42] Trong thư Ê-phê-xô,[43] theo Thánh Phaolô, nhờ cuộc tận hiến của Ngôi Lời khi nhập thể vào nền văn hóa nhân loại mà bức tường ngăn cách giữa người Do Thái với thế giới ngoại giáo không còn nữa “do sự việc Đức Kitô đã hủy diệt nơi thân xác Ngài hết cả lề luật với toàn bộ sắc lệnh và chỉ thị của nó.” Đấng Nhập Thể đã làm cho hai thế giới biệt lập và xa lạ ấy trở thành một thế giới duy nhất được canh tân bởi nền văn minh tình thương. “Ngài khiến cho nền văn hóa trong đó Ngài đã mặc lấy xác phàm, nổ tung ra. Từ đó, việc hội nhập văn hóa trở thành chuyện có thể làm được”.[44]
Con đường nhập thể của Tin Mừng vào các nền văn hóa biểu tỏ sinh động ‘Lời nhập thể và khổ nạn’. Lời Nhập thể: như Ngôi Lời đã tự hủy, trút bỏ vinh quang Thiên Chúa, sinh ra và lớn lên trong kiếp phàm nhân, đón nhận những giá trị văn hóa trần gian, kế thừa các giá trị của văn hóa Do Thái, thì Tin Mừng cũng hướng tới trở thành một Lời cụ thể và sống động cho những con người trong mỗi nền văn hóa. Lời khổ nạn: tiến trình hội nhập văn hóa còn nhằm làm diễn tả Lời khổ nạn của Con Thiên Chúa: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Hội nhập văn hóa là tiến trình dựa trên nền tảng mầu nhiệm nhập thể, nhưng là sự nhập thể nhằm cứu độ, và biến đổi con người trong những nền văn hóa.[45]
c. Hội Nhập Văn Hóa Của Tin mừng
Dưới nhãn quan loan báo Tin Mừng, Công đồng Vatican II đã vạch ra rằng “công cuộc loan báo Tin Mừng được hội nhập văn hóa” là một hệ quả từ cuộc nhập thể của Ngôi Lời, một cuộc nhập thể thực sự đảm nhận tất cả những gì của con người được thành tựu từ nền văn hóa.[46] Điều này cho thấy vai trò của Giáo hội trong sứ vụ loan báo Tin Mừng luôn bao hàm sự nối kết trực tiếp giữa Tin Mừng và những bối cảnh đặc thù của nền văn hóa nhân loại. Do đó, ‘việc loan báo Tin Mừng được hội nhập văn hóa’ là một tiến trình khởi đi từ chính bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Giáo hội luôn mở ra với thế giới bên ngoài, “với những gì xa lạ, với những gì chưa được khai tâm hay chưa được Phúc Âm hóa hoàn toàn thì căn tính truyền giáo của Giáo hội sẽ càng được đổi mới”.[47]
Công cuộc hội nhập văn hóa của Tin Mừng luôn nhắm tới mục tiêu là đem Tin Mừng của Đấng Nhập Thể đến cho mỗi nhóm người, mỗi nền văn hóa để làm sao cho các đối tượng tiếp nhận “có thể phục hồi căn tính cốt yếu của mình qua việc giải phóng chính mình khỏi tất cả những gì có thể trở thành nguyên nhân đẩy mình đến tình trạng chết”.[48] Sứ mạng này của Tin Mừng phải được biểu tỏ trước hết từ cách diễn tả Tin Mừng sao cho phù hợp với ‘bản sắc’ của mỗi vùng miền văn hóa, kết hợp với thái độ tiếp nhận nhiệt tình của người tín hữu trong việc phục vụ tiến trình hội nhập văn hóa của Tin Mừng. Tất cả sự phối kết này nhằm làm cho “Tin Mừng không ngừng thanh luyện và nâng cao phong hóa các dân tộc. Nhờ thiên ân, Tin Mừng phong phú hóa, từ bên trong, những phẩm tính thiêng liêng và những đặc tính của mỗi dân tộc và mỗi thời đại. Tin Mừng củng cố, bổ túc và tái tạo chúng trong Đức Kitô”.[49]
Xuất phát từ nền tảng và nguyên lý Nhập Thể, Tin Mừng mà Giáo Hội loan báo không thể thiên vị hay đồng hóa hoặc lệ thuộc mình vào bất cứ nền văn hóa nào. Nhưng trái lại, mọi nền văn hóa đều cần sự ‘hội nhập’ của Tin Mừng vào đời sống của nền văn hóa ấy để tái tạo và canh tân nó theo chiều hướng trở nên thấm đượm hơn các giá trị Tin Mừng. Trên thực tế, công cuộc loan báo Tin Mừng luôn được biểu tỏ và gắn bó với một nền văn hóa nhất định. Đây là điểm cốt yếu trong Tông huấn Giáo Hội Tại Á Châu:
“Văn hóa là không gian sống trong đó con người đến với Tin Mừng, mặt giáp mặt. Nếu đích thực văn hóa là thành quả của cuộc sống và hoạt động của một nhóm người, thì những con người thuộc nhóm đó cũng được uốn nắn một phần bởi nền văn hóa họ đang sống… Từ viễn tượng đó, ta nhận thức rõ hơn tại sao Tin Mừng hóa và hội nhập văn hóa tương quan với nhau cách tự nhiên và mật thiết. Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa đến với những người gắn bó sâu xa với một nền văn hóa, và do đó, công cuộc xây dựng Vương Quốc không tránh khỏi việc vay mượn các yếu tố rút ra từ nền văn hóa nhân loại”.[50]
Trong tông huấn về loan báo Tin Mừng Evangelii Nuntiandi, Đức Thánh Cha Phaolô VI đặc biệt đề cập đến vị thế siêu vượt của Tin Mừng trên mọi nền văn hóa, bởi “Tin Mừng có thể thâm nhập vào mọi nền văn hóa mà không lụy thuộc một nền văn hóa nào” để “phục hồi” chúng”.[51] Yếu tố này dựa trên nền tảng cuộc nhập thể của Ngôi Lời vào nền văn hóa nhân loại không phải “là một cứu cánh tự thân nó, nhưng là để nhắm tới cuộc Phục Sinh. Cũng vậy, Tin Mừng nhập thể vào một nền văn hóa không chỉ để hiện diện trong đó, nhưng là để chữa trị các thương tổn của nó, bù đắp những giới hạn của nó và đổi mới nó”.[52] Đó là ý tưởng gợi mở cho Giáo hội trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, phải làm sao tập chú mọi khả năng của mình để hội nhập vào nền văn hóa nhân loại một cách toàn diện và độc đáo dung mạo của Đức Kitô. Nghĩa là, tác vụ hội nhập được nhắm đích phục vụ con người trong mọi nền văn hóa, có thể tiếp cận và biến đổi mình theo các chuẩn mực, giá trị từ Ngôi Lời Nhập Thể. Qua đó, người ta nhận chân được giá trị của mỗi nền văn hóa có vị trí và ý nghĩa nhất định trong Đức Giêsu Kitô và quy hướng về Người, Đấng là cứu cánh tối hậu trong cuộc lữ hành trần thế.[53]
Sự hội nhập văn hóa của Tin Mừng là một chiều kích cốt yếu của Giáo hội trong sứ mạng đem niềm tin Kitô giáo cho các nền văn hóa. Chiều kích này nói lên tầm quan trọng và mối tương quan hỗ tương mật thiết giữa đức tin và văn hóa. Chân phước Gioan Phaolô II đã nêu rõ trong thông điệp Bách Chu Niên:
“Ta hiểu biết con người một cách trọn vẹn hơn nếu đặt con người vào bối cảnh văn hóa của họ, bằng cách lưu ý đến ngôn ngữ, lịch sử của họ, quan điểm của họ trước các biến cố nền tảng của đời sống… Trọng tâm của mọi nền văn hóa là thái độ của con người trước huyền nhiệm lớn lao nhất: mầu nhiệm Thiên Chúa. Từ căn bản, các nền văn hóa khác nhau là những cách thức khác nhau để đối diện với vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi người. Nếu loại bỏ vấn đề này thì nền văn hóa và đời sống luân lý của các quốc gia sẽ bị băng hoại”.[54]
Nói chung, Tin Mừng là yếu tố tương hợp với mọi nền văn hóa trong điều kiện nền văn hóa này không xung khắc với với các giá trị đích thực được khởi đi từ cuộc nhập thể của Đức Kitô. Trong quá trình đem sứ điệp Tin Mừng đến cho mọi người thuộc các nền văn hóa, công cuộc hội nhập văn hóa của Tin Mừng là một phần của lịch sử Giáo hội. Sứ vụ này đã khởi điểm “khi Đức Giêsu bắt đầu gieo hạt giống Tin Mừng và thậm chí trước đó nữa, nghĩa là khi Ngôi Lời trở thành xác phàm trong bối cảnh xã hội và văn hóa cụ thể thuộc thế giới Do Thái ở Palestine”.[55]
d. Hội Nhập Văn Hóa Dưới Tác Động Của Chúa Thánh Thần
Tiến trình nhập thể của Tin Mừng vào các nền văn hóa được diễn ra dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
Sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, các Tông đồ đã can đảm và công khai tiếp nối sứ vụ nhập thể cứu độ của Đức Giêsu Kitô trước toàn thể dân Israel cũng như dân ngoại. Công cuộc hội nhập bước đầu của các Ngài không tránh khỏi những khó khăn do sự hạn hẹp về kiến thức, nhất là còn bị chi phối bởi nhãn quan ‘nệ luật’ của người Do Thái đương thời. Các yếu tố của lề luật cũ mang đậm dấu ấn văn hóa Do Thái vẫn là một rào cản đáng kể cho việc thích nghi với văn hóa Kitô giáo: luật cắt bì, các điều cấm kỵ để tránh nhiễm uế… (Cv 15,1 – 5). Trong bối cảnh đó, Tông đồ Phaolô đã quyết đoán cách khôn ngoan dưới tác động của Thánh Thần và chính Phaolô đã vạch ra nguyên tắc nền tảng cho việc ‘hội nhập’ niềm tin Kitô giáo vào nền văn hóa Do thái và dân ngoại:[56]
“Với người Do thái, tôi đã trở nên Do thái, để chinh phục người Do thái… Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Kitô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật… Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người” (1Cr 9,20 – 22).
Đây là tiền đề cho cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên thống nhất đưa ra quyết định nền tảng: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là không ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, không ăn tiết, thịt loài động vật không cắt tiết và tránh gian dâm” (Cv 15,28 – 29).[57] Điều này nói lên vai trò quyết định của Chúa Thánh Thần trong giai đoạn khởi điểm của Kitô giáo hội nhập vào các nền văn hóa.
Trong tiến trình hội nhập văn hóa, biến cố nhập thể của Đức Kitô là công trình nền tảng và cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần, là ân sủng tuyệt diệu và nguồn mạch cho việc nhập thể Tin Mừng vào các nền văn hóa:
“Bất cứ cái gì mà Thánh Thần mang đến trong tâm hồn con người và lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và tôn giáo, thì giúp chuẩn bị cho Tin Mừng và chỉ có thể hiểu khi quy chiếu về Đức Kitô, Ngôi Lời đã mặc lấy thể xác nhờ quyền lực Thần Khí, ngõ hầu đã là con người hoàn hảo, Người cứu rỗi mọi người và quy tụ mọi sự”.[58]
Tiếp nối sứ vụ của Đức Kitô, Giáo hội có trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc và nền văn hóa, đó là căn tính nền tảng và thâm sâu nhất của Giáo hội. Chính vì vậy, yếu tố quyết định nhất trong sự xuất hiện của Giáo hội địa phương là việc loan báo biến cố nhập thể và phục sinh của Đức Kitô. Tác nhân chính của việc loan báo này hệ tại ở sức mạnh của Thánh Thần đàng sau lời rao giảng, và Thánh Thần “trở nên nguyên lý của hiệp nhất và khác biệt, làm cho Giáo hội có thể hội nhập mọi nền văn hóa vào trong sự hiệp nhất của mình mà không tiêu hủy những khác biệt ấy, và đồng thời vẫn giữ được một phổ quát tính vốn luôn luôn cụ thể”.[59]
e. Loan Báo Đức Kitô Nhập Thể, Tâm Điểm Của Tiến Trình Hội Nhập Văn Hóa
Sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội là đem niềm tin Kitô giáo hội nhập vào những nền văn hóa khác. Thành công của tiến trình này hệ tại ở việc nhập thể các giá trị Tin Mừng vào đời sống của Giáo hội địa phương và mời gọi những con người thuộc các Giáo hội ấy thông dự vào mầu nhiệm Nhập thể ngay trong những biến cố của đời sống thường nhật. Nhờ đó, chương trình cứu độ của Thiên Chúa được tiếp tục triển tỏa và hình ảnh của Đức Kitô trở nên sinh động, phong phú từ động thái thể hiện lối sống, cách sống của những nhóm dân, sắc dân đặc thù. Biến cố Nhập thể luôn là động cơ và mực thước cho những cách thế hội nhập văn hóa, bởi ngay từ bản chất, nhập thể là nền tảng biểu đạt sứ điệp Tin Mừng:
“Có nhiều mối tương quan giữa sứ điệp cứu độ và văn hóa. Bởi vì, từ khi mạc khải cho dân Ngài tới khi biểu lộ tròn đầy trong Chúa Con Nhập Thể, Thiên Chúa đã nói với con người qua các loại văn hóa riêng biệt của từng thời đại. Cũng thế, trải qua những hoàn cảnh khác nhau của lịch sử, Giáo hội đã sử dụng tài nguyên của các nền văn hóa khác nhau để phổ biến và trình bày sứ điệp của Đức Kitô cho muôn dân qua lời rao giảng”.[60]
Biến cố Nhập Thể không thể tách rời khỏi bất cứ những dị biệt nào của nền văn hóa. Bởi chính trong những nét dị biệt đặc thù ấy đã ẩn tàng “những hạt giống của Ngôi Lời.” Tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội là phương thức làm cho “những hạt giống Ngôi Lời” ấy được phát triển xanh tốt trên vùng đất mà tình yêu của Đấng Cứu Tinh đã nhập thể. Vì ở chiều kích phổ quát, mọi nền văn hóa đều lý tưởng cho Đức Kitô nhập thể theo những biểu trưng đặc thù. Vấn đề là những con người thuộc nền văn hóa đó biết mở rộng cõi lòng cho sứ điệp tình yêu của Đấng Nhập Thể được thấm nhập và làm sung mãn cách thế diễn tả sứ điệp Tin Mừng theo văn hóa của họ. Do vậy, việc hội nhập văn hóa của Giáo hội không thể hành động theo cảm tính với những phương thức hứng khởi nhất thời, mà vị trí ưu tiên của việc loan báo là giới thiệu Đấng Nhập Thể cho con người trong các nền văn hóa. Tác vụ này được nêu rõ trong Tông huấn Giáo Hội Tại Á Châu:
“Không thể có Phúc Âm hóa thực sự mà không có loan báo công khai về Đức Giêsu là Chúa… Như Đức Phaolô VI đã minh nhiên viết rằng “không thể có việc Phúc Âm hóa nếu danh xưng, lời giảng dạy, sự sống, những lời hứa, vương quốc và mầu nhiệm Đức Giêsu thành Nadareth, Con Thiên Chúa, không được loan báo”.[61]
IV. HỘI NHẬP VĂN HÓA: TIẾN TRÌNH SỐNG SỨ ĐIỆP NHẬP THỂ
Sự liên kết hệ trọng giữa biến cố Nhập thể với tiến trình hội nhập văn hóa, đó chính là thái độ và hành động sống sứ điệp nhập thể của Giáo hội trong sứ vụ đem niềm tin Kitô giáo đến với những nền văn hóa. Đây là quá trình chuyển tải các giá trị nhập thể nơi Đức Giêsu Kitô được biểu đạt qua những cách thức mà Giáo hội thực thi nhằm làm sáng tỏ căn tính của Giáo hội là nhiệm thể đích thực của Đức Kitô. Tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội do vậy được gắn chặt với đời sống hoàn toàn vị tha của Đức Giêsu Kitô.
Tiếp nối sứ mạng của Đức Kitô, Giáo hội có bổn phận đem tình yêu cứu độ đến với các dân tộc và làm cho mỗi nền văn hóa thuộc các dân tộc ấy được thông dự vào mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa. Khi thực thi trách vụ cao cả ấy, Giáo hội phải “ngỏ lời với các dân tộc một cách thực tế trong ngôn ngữ văn hóa của họ”,[62] như Đức Giêsu khi còn tại thế đã trở nên Lời sống động đối với dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại.
Muốn làm tròn sứ vụ hội nhập văn hóa, Giáo hội phải nói ngôn ngữ văn hóa của mỗi tộc người, mỗi nhóm người, mỗi địa danh mà Giáo hội đặt chân đến rao giảng Tin Mừng. Nhất là để có thể trở nên phổ quát với chính những nền văn hóa ấy, Giáo hội cũng phải trải qua những giai đoạn nhập thể theo cung cách của Đức Giêsu. Tiến trình này “cũng là một phiêu lưu như con đường Đức Kitô đã đi khi Ngài còn ở trần gian. Nó chỉ thể hiện dưới dấu hiệu của sự từ bỏ mình đi, đặc tính của con đường chính Đức Kitô đã chọn như con đường Phúc Âm hóa hiệu nghiệm nhất”.[63]
Việc nhập thể của Đức Giêsu biểu tỏ tuyệt đỉnh tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại, là cách thế hữu hiệu nhất để Người cứu độ nhân loại (Ga 3, 16). Trong suốt hành trình sứ vụ rao giảng – khổ nạn – Phục sinh, Đức Giêsu đã chứng nghiệm trọn vẹn nhất tình yêu của Thiên Chúa và dẫn đưa nhân loại về với nguồn sống Tình Yêu ấy:
“Người sống gần kẻ nghèo, kẻ bị bỏ rơi và thấp bé… Người ăn uống với kẻ tội lỗi, bảo đảm với họ rằng tại bàn ăn của Cha có chỗ cho họ… Người bệnh tật, người què, người mù, người điếc và người câm tất cả đều được chữa lành và được ơn tha thứ khi tiếp xúc với Người… Một gia đình mới được thiết lập dưới tình yêu che chở và đáng kinh ngạc của Chúa Cha.”[64]
Tất cả lời chứng ấy của Đức Giêsu nói cho nhân loại biết biết tỏ tường về tình yêu Thiên Chúa và hướng con người đến thông dự trọn vẹn vào chính Tình Yêu ấy. Nhờ tình yêu đích thực này, Tin Mừng được thể hiện đầy đủ và sinh động nơi mỗi nền văn hóa, có sức lan tỏa tận căn để cảm hóa nền văn hóa ấy. Nhờ đó, tiến trình hội văn hóa của Giáo hội khởi điểm từ mầu nhiệm nhập thể, sẽ “có cái nhìn cảm thông, chia sẻ, để rồi mới có thể “cười với người cười, khóc với người khóc” nơi các nền văn hóa đó”.[65] Đây chính là nền tảng cho Giáo hội trong tiến trình sống mối tương giao với cộng đồng nhân loại, và diễn tả cụ thể, sống động việc nhập thể các giá trị Tin Mừng được khởi đi từ tình yêu của Đấng Nhập Thể.
Qua dòng lịch sử nhân loại với nhiều biến động, thúc bách, Giáo hội luôn được Thần Khí Chúa soi dẫn và thúc đẩy trong tiến trình hội nhập để không bị chệch hướng khi thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng yêu thương. Điểm tựa cho sứ vụ này là làm cho lời mời gọi từ Thập giá được vang vọng và triển nở trong những môi trường và bối cảnh văn hóa dị biệt.
Việc hội nhập văn hóa của Giáo hội là tiến trình xả kỷ và trao ban như chính Đức Kitô đã trao ban, với mục tiêu nhắm tới là làm cho bộ mặt trái đất ngày càng liên đới hơn bởi tình yêu của một Giáo hội đích thực biết tận hiến cho hạnh phúc nhân loại. Vì chỉ khi sống sứ điệp yêu thương của Đức Kitô Nhập Thể, tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội mới cảm hóa được các đối tượng không cùng niềm tin nơi những nền văn hóa. Nhờ đó, Giáo hội mới có thể cùng cảm thông, chia sẻ, cùng vui mừng và hy vọng với những con người trong nền văn hóa đó.
Tất cả tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội nhằm hướng đến việc chia sẻ và cùng nhau xây dựng nền văn minh tình thương, làm cho nhân loại này ngày càng công bằng và yêu thương hơn. Theo gương Đấng Nhập Thể, Giáo hội không ngừng bày tỏ mối quan tâm liên đới mật thiết với những người đau khổ, người nghèo đói trong một xã hội còn nhiều áp bức và bất công, như Đức Gioan Phaolô II đã kêu gọi trong diễn văn đọc tại UNESCO năm 1980: “Phải củng cố con người ở chính họ, chứ không phải vì một lý do hay suy luận nào. Phải duy nhất vì con người thôi. Hơn thế nữa, phải yêu mến con người vì họ là con người; phải đòi tình yêu cho con người vì phẩm giá riêng mà họ có”.[66] Đây là sứ vụ quan trọng và cao cả của Giáo hội, nhằm làm cho nhân loại này ngày càng được đổi mới hơn nhờ sự cứu chuộc chỉ xuất hiện hoàn hảo nơi Đấng Nhập Thể vốn mang ấn tích tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Nhân loại mới này đem đến cho mọi người mô hình đời sống xã hội với và vì người khác, như trong Ba Ngôi, Ngôi Cha chỉ có vì Ngôi Con, và Ngôi Con chỉ có vì Ngôi Cha, trong một tình yêu chung vẹn toàn đến nỗi làm nên một thực tại thứ ba là Chúa Thánh Thần”.[67]
Trong tiến trình hội nhập để thăng tiến một nền văn hóa đích thực, Giáo hội góp phần đem lại “sự hoàn hảo trọn vẹn của con người và thiện ích của toàn thể xã hội là những cứu cánh thiết yếu của nền văn hóa.”[68] Nhờ đó, nền văn hóa ngày càng trở nên hữu ích và phong phú khởi đi từ việc Giáo hội chú tâm phục vụ con người, và “làm phong phú những ai biết sử dụng khả năng tự kiềm chế, hy sinh bản thân, sống liên đới và sẵn sàng đẩy mạnh công ích”.[69]
Khi nhập thể vào nền văn hóa nhân loại, chương trình tình thương của Thiên Chúa không những phục hồi sự hiệp thông giữa Ngài với nhân loại mà còn thiết lập một sự hiệp thông mới giữa con người với nhau vốn bị chia rẽ do tội lỗi. Đấng Nhập Thể đã tái tạo nền văn hóa mới bằng cách làm cho mọi dân tộc trở nên đại gia đình trong sự nhìn nhận một Cha chung trên Trời (Mt 23,9). Trong Đức Kitô Nhập Thể, một sự hòa hợp nảy sinh, giá trị văn hóa mới được triển nở, đó là “không còn chuyện phân biệt, Do Thái hay Hy Lạp… nô lệ hay tự do… đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3, 28) và “Người đã liên kết đôi bên thành một, và đã phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2,14)… Trong tiến trình hội nhập văn hóa, Giáo hội tiếp nối sứ vụ của Đấng Nhập Thể bày tỏ thái độ hiệp thông giữa các thành viên trong hoạt động hội nhập, hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương, liên đới với mọi nền văn hóa là tiêu chí cần thiết để biểu đạt giá trị căn yếu của Tin Mừng. Nhờ đó, Giáo hội có thể minh chứng niềm tin của mình nơi các nền văn hóa, một niềm tin được khởi đi từ Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Chính Người đã kêu mời: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15, 5).
Để có thể biểu đạt triệt để sứ điệp yêu thương và hiệp thông của Đức Kitô Nhập Thể trong tiến trình hội nhập văn hóa, Giáo hội không ngừng tập chú sống thái độ tự hạ của Đức Giêsu khi tiếp xúc và cảm biến các nền văn hóa. Nhập Thể là biến cố tích hợp tinh thần vâng phục Chúa Cha cách tuyệt đối của Ngôi Hai Thiên Chúa và bao hàm sự tự hạ tột đỉnh của Người khi bước xuống giữa dòng lữ thứ để hội nhập vào cõi vô thường của kiếp nhân sinh. Suốt hành trình rao giảng, Đức Giêsu đã sống tinh thần tự hạ từ việc dùng những lời lẽ gần gũi đến thái độ khiêm tốn học hỏi những gì bình dị nhất của con người nhưng mang ý nghĩa gợi tả thâm sâu về Mầu Nhiệm Nhập Thể. Đó là cách thế hội nhập thiết thực và hữu hiệu giữa sứ điệp cứu độ với những sắc thái văn hóa của con người.
Tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội cũng được bắt đầu từ tình yêu tự hạ khi tương tác với những thực trạng đa phức của nền văn hóa. Công Đồng Va-ti-can II là một bước ngoặc đặc biệt của Giáo hội, như điểm nhấn quan trọng trong tiến trình hội nhập tinh thần tự hạ nơi Đấng Nhập Thể vào dòng chảy của những trào lưu văn hóa hiện đại đang có xu hướng tự tôn bản sắc. Dưới ánh sáng Tin Mừng, sự tự hạ khi đối thoại trong tinh thần tôn trọng, cảm thông tạo điều kiện cho Giáo hội dễ dàng nắm bắt và thích nghi với những sắc thái văn hóa, đồng thời là cách thế diễn đạt tốt nhất Tin Mừng của Đức Kitô trong những nền văn hóa ấy.
Hội nhập văn hóa là tiến trình sống sứ điệp Nhập thể còn hệ tại ở đời sống cầu nguyện của Giáo hội khi nhập thể tinh thần cầu nguyện của Đức Kitô vào các nền văn hóa. Bởi như chúng ta biết, hội nhập văn hóa là một tiến trình đức tin của Giáo hội nhằm đưa niềm tin Kitô giáo vào các nền văn hóa, và niềm tin ấy chỉ được biểu lộ sinh động, phong phú, đầy đủ và mạnh mẽ qua chứng từ sống cầu nguyện của Giáo hội. Chứng từ này là sự liên kết chặt chẽ với Đấng Nhập Thể trong suốt hành trình sứ vụ của Người. Chính nhờ đời sống cầu nguyện mà Đức Giêsu có thể kết hợp liên lỉ với Chúa Cha và khôn ngoan khi truyền thụ những gì tinh túy nhất và dễ thích nghi nhất của Giới Luật Yêu Thương cho những con người đang hấp thụ nền văn hóa Do Thái và tín nhiệm luật Môsê.
Cầu nguyện là phương thế tối ưu để Giáo hội dâng lên Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc của mọi nền văn hóa và và kết hợp với Đức Kitô Nhập Thể trong những khó khăn thúc bách của tiến trình hội nhập. Nhất là nhờ đời sống cầu nguyện qua việc tham dự các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Giáo hội dâng lên Thiên Chúa của lễ quý giá, tinh túy của mọi nền văn hóa, “nhờ đó, các nền văn hóa lại được sáng tạo một lần nữa.”[70] Đời sống cầu nguyện trong sứ vụ hội nhập văn hóa của Giáo hội là đòi hỏi cần thiết để Giáo hội luôn quy hướng về Thiên Chúa, nâng lòng trí lên với Người, hiệp thông vào thánh ý và hành động của Người. Nhờ đó, Giáo hội được soi sáng và hướng dẫn để thanh lọc và xây dựng nền văn hóa hoàn hảo. Trong nền văn hóa ấy, con người với Thiên Chúa và con người với nhau tìm gặp mối tri âm để trao ban các giá trị Tin Mừng.
Kết hiệp với Đức Kitô Nhập Thể trong suốt hành trình hội nhập, Giáo hội được “mời gọi trở nên một Giáo hội cầu nguyện… Cầu nguyện, chay tịnh và những hình thức khổ hạnh khác được coi trọng. Hy sinh, bỏ mình. Khiêm tốn, đơn sơ và thinh lặng là những giá trị lớn đối với các tín đồ của mọi tôn giáo”.[71] Ðây là điểm quan trọng mà Tông huấn Giáo Hội Tại Á Châu đã xác định về thái độ sống sứ điệp nhập thể của Giáo hội trong sứ mạng hội nhập văn hóa. Bởi đời sống cầu nguyện của Giáo hội có liên hệ chặt chẽ với sự thăng tiến nhân bản, đó là “nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin Mừng của chúng ta”.[72]
Sứ điệp tình yêu cứu độ của Đức Kitô chỉ có thể được rao giảng cách phổ biến và đầy đủ một khi Giáo hội xác định được mục tiêu nền tảng của việc hội nhập văn hóa. Mục tiêu này Giáo hội chỉ có thể đạt tới khi được “chiếm đoạt và được linh hứng bởi tình tình yêu của Chúa Cha đối với con cái mình, tình yêu đó được bày tỏ nơi Đức Giêsu Kitô… Việc loan truyền Tin Mừng Cứu Độ mà có hiệu quả tại Á Châu, chỉ có thể xảy ra, nếu các Giám mục, hàng giáo sỹ, những kẻ sống đời sống thánh hiến và giáo dân, cháy nóng bằng tình yêu Đức Kitô và ao ước làm cho Người được biết cách rộng rãi hơn, được yêu cách sâu xa hơn, và được theo cách gần gũi hơn”.[73]
Biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô là nền tảng cho tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội. Đến lượt mình, những thành tựu mà Giáo hội đạt được khi nhập thể Tin Mừng vào các nền văn hóa sẽ “kiện toàn và phục hồi chúng trong Đức Kitô. Đàng khác, Giáo hội tiếp nhận những giá trị này khi chúng góp phần với Tin Mừng để đào sâu sự hiểu biết sứ điệp của Đức Kitô và cung cấp cách diễn tả sứ điệp này hiệu lực hơn trong phụng vụ và trong nhiều mặt khác thuộc đời sống của cộng đoàn tín hữu. Tác động kép này trong việc hội nhập văn hóa, như vậy diễn tả một trong những yếu tố cốt lõi của mầu nhiệm Nhập Thể”.[74] Đây chính là sự tác động trở lại biến cố Nhập Thể của tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội.
V. NHẬP THỂ VÀ HỘI NHẬP VĂN HÓA: NHỮNG GỢI MỞ CHO CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG CỦA GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU VÀ VIỆT NAM
Dưới nhãn quan loan báo Tin Mừng, những suy tư trên giúp chúng ta nắm bắt cách sâu xa nguyên lý nền tảng của tiến trình hội nhập văn hóa. Tiến trình này luôn được cụ thể bởi mục tiêu quan trọng là loan báo Đức Kitô Nhập Thể, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Đó là vấn đề trung tâm của cuộc đối thoại giữa Tin Mừng và văn hóa, đồng thời là những gợi mở cần thiết cho công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo hội nói chung, cách riêng là Giáo hội tại Á Châu và Việt Nam.
1. Những Thách Đố Và Thuận Lợi
a. Những Thách Đố
Chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng Giám mục Á Châu, từ ngày 19 – 4 đến ngày 14 – 5 – 1998 và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã xác định những thách đố cơ bản mà Giáo hội tại Á Châu phải đối diện trong tiến trình hội nhập văn hóa hiện nay. Những thách đố này được trình bày rất rõ trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia).
Theo các Nghị phụ và Đức Gioan Phaolô II, khó khăn và thách đố lớn nhất đối với Giáo hội tại Á Châu là “làm sao để trình bày Đức Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, Đấng Cứu Độ thế giới khác hẳn với các đấng cứu độ khác được các tôn giáo lớn giới thiệu tại Á Châu”.[75]
Tông huấn Giáo Hội Tại Á Châu nhìn nhận thách đố của Giáo hội tại Á Châu trong bối cảnh loan báo Tin Mừng giữa những nền văn hóa và nhiều tôn giáo lớn truyền thống. Đây là căn nguyên dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trong tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội khi loan báo Đức Kitô Nhập Thể cứu độ nhân loại. Bởi các tôn giáo này cũng giới thiệu đấng mà họ tôn thờ như là Đấng cứu độ vạn năng có thể cứu nhân loại ra khỏi cõi vô thường đầy nước mắt này. Do đó, người Kitô hữu sẽ gặp phải khó khăn khi rao giảng Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất, vì điều này dễ gây những ngộ nhận và hiểu lầm đối các nền văn hóa và các tôn giáo lớn đã có lâu đời tại Á Châu. Phải làm sao để đưa Tin Mừng hội nhập vào nền văn hóa của các dân tộc địa phương để giúp họ “nắm bắt được ý nghĩa cứu độ phổ quát của mầu nhiệm về Đức Giêsu và về Giáo hội Người” là câu hỏi lớn đặt ra cho Giáo hội tại Á Châu.[76]
b. Thuận Lợi
Trong tiến trình hội nhập văn hóa, dù phải đối diện với những khó khăn thách đố, Giáo hội tại Á Châu và tại Việt Nam có được những ưu thế và thuận lợi khi rao giảng Đức Kitô Nhập Thể cho các nền văn hóa và tôn giáo lớn tại lục địa này. Bởi chính Á Châu là cái nôi sinh trưởng của Đức Giêsu Kitô và của Giáo hội. Đấng Cứu Thế là quà tặng kỳ diệu trong kế hoạch của Thiên Chúa tại Á Châu. Tại lục địa này:
“Đức Giêsu sinh ra, sống, chết và chỗi dậy từ cõi chết nơi Đất Thánh, vùng đất nhỏ bé ở Tây Á đã trở nên mảnh đất đầy hứa hẹn và hy vọng cho cả loài người. Đức Giêsu đã biết đến và yêu mến mảnh đất này. Người gắn bó với lịch sử, những đau khổ và hy vọng của dân miền này… Quả thực từ lâu trước, Thiên Chúa đã chọn dân này và mạc khải chính mình cho họ để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Và từ mảnh đất này, nhờ lời rao giảng Tin Mừng trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, Giáo hội đã ra đi để làm cho “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19)”.[77]
Đây là điểm thuận lợi cho các Kitô hữu tại Á Châu khi giới thiệu gương mặt đích thực của Đấng Cứu Độ thật gần gũi, đầy yêu thương, đã sinh trưởng và liên đới trong vui mừng và hy vọng với lục địa này.
Tiến trình nhập thể Tin Mừng của Giáo hội tại Á Châu có một bề dày lịch sử lâu đời so với những châu lục khác. Giáo hội được khai sinh bắt đầu từ Giêrusalem, sau đó nhanh chóng phát triển tới Antiokia, Roma và lan tới những miền xa như Ethiopia, Scythia, Ấn Độ… Vào thế kỷ V, Tin Mừng đến Trung Quốc. Thế kỷ XIII, Tin Mừng lại được loan báo cho người Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc. Tại những vùng đất này, Giáo hội gặp phải sự đối kháng lớn trong việc thích nghi với các nền văn hóa địa phương và các tôn giáo lớn như Hồi Giáo, Ấn Giáo, Phật Giáo… Dù đứng trước khó khăn, Giáo hội tại Á Châu vẫn không ngừng trưởng thành từ trong mất mát đau thương do xung đột văn hóa. Đó là những kinh nghiệm thực tiễn đầy quý giá cho Giáo hội trên con đường nhập thể đích thực tại lục địa này. Hoa trái ‘hội nhập’ phải kể đến là những nỗ lực của Thánh Phanxicô Xaviê cùng với yêu cầu của Bộ Truyền Bá Đức Tin kêu mời các thừa sai hãy tôn trọng các nền văn hóa bản địa đã đạt những kết quả khả quan hơn vào thế kỷ XVI, XVII tại Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam…[78]
Lục địa Á Châu bao la với nhiều nền văn hóa và tôn giáo lớn chứa đựng những giá trị tâm linh và nhân bản nền tảng, sâu xa. Những giá trị này được biểu đạt theo những sắc thái và cung cách có vẻ không gần gũi với lễ nghi Kitô giáo nhưng về bản chất lại có nhiều điểm gặp gỡ tương đồng với các giá trị Tin Mừng của Đức Kitô. Điều này tạo thuận lợi cho Giáo hội tại Á Châu nói chung và tại Việt Nam nói riêng, có thể tiếp cận dễ dàng các giá trị văn hóa tâm linh bản địa và khám phá chiều kích Tin Mừng cứu độ của Đấng Nhập Thể tàng ẩn trong nền văn hóa ấy, nhờ đó có thể trình bày Đức Giêsu Kitô cách phù hợp với các dân tộc và Giáo hội địa phương.[79]
2. Loan Báo Đức Kitô Nhập Thể
Trong bối cảnh chung của Giáo hội tại Á Châu, tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội không thể tách rời nền tảng là loan báo Đức Kitô Nhập Thể, Đấng Cứu Độ nhân loại. Đây là sứ vụ đầy khó khăn trước những thách đố đang đặt ra cho Giáo hội. Tuy nhiên, khởi đi từ niềm tin Phục Sinh và dưới tác động của Chúa Thánh Thần, công cuộc hội nhập Tin Mừng của Giáo hội tại Á Châu và tại Việt Nam đang từng bước khởi sắc trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm thực tiễn trong tiến trình hội nhập. Giáo hội đã và đang bước vào một cuộc nhập thể thực sự khởi đi từ sứ điệp của Con Thiên Chúa đã ưu ái ban tặng cho lục địa Á Châu.
Để có thể loan báo Đức Giêsu Kitô cho các dân tộc tại Á Châu, Tông huấn Giáo Hội Tại Á Châu đã chỉ rõ:
“Làm chứng về Đức Giêsu Kitô là công việc phục vụ cao cả nhất mà Giáo hội có thể trao tặng cho các dân tộc Á Châu, bởi vì việc đó đáp ứng với sự ước mong sâu xa của họ được gặp Đấng Tuyệt Đối, và nó cũng vén mở những chân lý và những giá trị bảo đảm sự phát triển toàn diện con người”.[80]
Qua đó, chúng ta nhận thấy, sứ vụ của Giáo hội khi loan báo Đấng Nhập Thể cho Á Châu là ‘công việc phục vụ cao cả nhất’, nghĩa là chính Giáo hội phải trở nên hình ảnh đích thực của Con Thiên Chúa đã vì yêu thương mà hạ sinh xuống trên mảnh đất Á Châu để cứu độ nhân loại. Giáo hội chỉ có thể hội nhập toàn vẹn Đức Kitô Nhập Thể vào tâm thức, lối sống của người Á Châu “với lòng kính nể và tôn trọng đầy yêu thương với thính giả của mình… Sự kính trọng này có hai mặt: kính trọng đối với con người khi họ tìm câu trả lời cho các vấn đề sâu xa nhất về cuộc sống của họ, và sự kính trọng đối với hoạt động Thần Khí trong con người”. [81]
Loan báo Đức Kitô Nhập Thể là một đòi hỏi cấp thiết trong công cuộc hội nhập Tin Mừng tại Việt Nam. Người Việt vốn có truyền thống vị tha, tương thân tương ái. Tính cố kết trong đời sống cộng đồng đã tạo cho họ biết quan tâm đến nhau, giúp đỡ nhau giữa những vui buồn của cuộc sống. Đó là nét tinh hoa văn hóa mà người Kitô hữu tại Việt Nam cần tận dụng để hội nhập vào nền văn hóa của dân tộc mình hình ảnh một Đấng Cứu Thế tuyệt hảo về lòng vị tha, nhân ái; điều mà anh chị em lương dân không được thỏa mãn nơi những lãnh tụ hay một anh hùng dân tộc nào đó. Phải làm sao để giới thiệu cho đồng bào của chúng ta một Hài Nhi Giêsu gần gũi với cuộc sống của những người dân nghèo nàn, phải vất vả một nắng hai sương, kinh qua đêm trường tăm tối của thời cuộc; đồng thời gợi mở để họ nhận ra sứ điệp của Đấng Nhập Thể đang lay động họ hơn bất cứ học thuyết chính trị xã hội nào.
Truớc nền giáo dục đang có biểu hiện suy đồi trầm trọng, người Kitô hữu cần nỗ lực giúp cho những đồng bào ‘khác đạo’ ý thức sâu xa hơn bài học đạo đức mà Ngôi Hai Thiên Chúa đem đến cho nhân loại này, cho dù ý thức ấy đối với họ có thể còn rất mơ hồ. Nhờ đó, những con người dù chưa được ‘rửa tội’ vẫn có thể nghiệm cảm về Đấng Cứu Chúa sinh ra nơi máng cỏ đơn hèn đã từng sống kiếp phàm nhân cách triệt để, chỉ vì minh chứng cho Tình Yêu. Nơi Người, giá trị của tình yêu tự hiến trở thành điểm tựa cho những tâm hồn muốn hy sinh xả kỷ vì hạnh phúc đồng bào, quê hương mình.
3. Ưu Tiên Phục Vụ Người Nghèo
Nhập thể vào nền văn hóa nhân loại, sứ điệp của Đức Giêsu Kitô mở ra cho Giáo hội con đường hội nhập đích thực khởi đi từ Đức ái của Tin Mừng. Sứ vụ này được cụ thể trong tiến trình Giáo hội sống mối liên đới sâu xa với những người nghèo, người đau khổ. Đó là phương cách khả hữu để Giáo hội có thể giới thiệu Đức Kitô Nhập Thể cho những nền văn hóa đang khao khát Tin Mừng tình thương.
Lục địa Á Châu nói chung và nói riêng tại Việt Nam là nơi còn rất nhiều người nghèo và người đau khổ do bệnh tật, thiên tai, chiến tranh… Nhập thể tại vùng đất Á Châu, Đức Giêsu Kitô đã ưu tiên loan báo hồng ân cứu độ cho những ‘người nghèo, người đau khổ’ vì Tin Mừng.[82] Tiếp nối sứ mạng này, Giáo hội tại Á Châu và tại Việt Nam luôn ý thức đặt tiêu chí và đối tượng đặc biệt của công cuộc Nhập thể mang tính cách văn hóa tại đây chính là những người nghèo, người đau khổ; như tuyên bố của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu năm 1970:
“Đức Kitô mà chúng tôi tuyên xưng trên đất Á Châu không thể là Đức Kitô vương giả của đạo Kitô đế quốc mà là người Thầy rửa chân cho các môn đệ, vác Thánh giá thay mặt tất cả những ai lầm than bị bóc lột, khinh miệt, người tội lỗi bất cứ ở đất nào”.[83]
Tác vụ ‘hội nhập’ qua con đường phục vụ này “cần làm sáng lên sự ưu ái, chăm sóc của Thiên Chúa dành cho người nghèo; cần thể hiện rõ ràng tính cách phục vụ và cứu độ của Kitô giáo đối với những người nghèo. Theo tinh thần của Đức Kitô, tất cả mọi giá trị tín ngưỡng, văn hóa phải đặc biệt ưu tiên nhằm bảo vệ và loan báo tin vui cho người nghèo”.[84]
Kinh nghiệm của Linh mục thừa sai Léopold Cadière trong những năm tháng dấn thân loan báo Tin Mừng tại đất Việt gợi mở cho chúng ta, những Kitô hữu Việt Nam hôm nay, cần một thái độ sống phục vụ đích thực để có thể giới thiệu Đức Kitô Nhập Thể cho dân tộc, cho đồng bào ta. Linh mục L. Cadière đã tâm nguyện chọn Việt Nam làm quê hương để hiến dâng những tàn hơi cuối đời của nhà thừa sai cho công cuộc nhập thể Tin Mừng trên dải đất chữ S thân thương này.
Trong những năm tháng cuối đời, cha L. Cadière bị chính quyền cách mạng quản chế tại Vinh cùng với sáu thừa sai khác từ năm 1947 đến năm 1953. Chính quyền cũng đề nghị các thừa sai phải trở về Pháp nhưng cha L. Cadière đã nhất mực xin ở lại để được sống chết với người Việt, đất Việt: “Cả đời tôi, tôi đã dâng cho xứ sở này. Cho tôi được ở lại và chết ở đây !” Đặc biệt, nhân dịp kỷ niệm năm mươi năm hồng ân linh mục, thừa sai L. Cadière đã “hé mở cho chúng ta thấy động lực thâm sâu dẫn cha đến quyết định học tiếng, nghiên cứu tôn giáo, văn hóa và lịch sử Việt Nam để rồi gắn bó, yêu thương và nhất quyết sống chết với người dân hiền lành, cần cù, dễ thương…nhưng lại quá lao đao khốn khổ.”[85] Cha đã thổ lộ:
“…Tôi yêu người Việt vì họ thông minh và lanh lợi (…). Tôi yêu người Việt vì những đức hạnh của họ (…). Tôi yêu người Việt vì tính tình của họ (…). Cuối cùng, tôi yêu người Việt vì những bất hạnh của họ. Biết bao khổ đau: biết bao cực nhọc, biết bao khốn khổ của người dân Việt, những nỗi cực nhọc đôi khi chính đáng, nhưng thông thường là do số phận hay một định mệnh nghiệt ngã nào đó”.[86]
Bài học từ cung cách sống Tin Mừng của L. Cadière và bao thừa sai khác thực sự cần thiết và là những gợi mở quan trọng cho tiến trình hội nhập ‘Phúc Âm giữa lòng dân tộc’ của Giáo hội tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tại Á Châu, Giáo hội Công Giáo tại Hàn Quốc đã và đang bừng phát mạnh mẽ những thành tựu trong công cuộc nhập thể Tin Mừng vào đời sống và nền văn hóa bản địa. Hình ảnh của Đức Kitô Nhập Thể được các Kitô hữu Hàn Quốc giới thiệu cách sinh động và đậm nét bằng chính đời sống dấn thân của họ trong việc phục vụ người nghèo, người đau khổ, nhờ đó đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động loan báo Tin Mừng: “Việc dấn thân này mở ra cho tất cả mọi người – không kể quốc tịch, chủng tộc và tôn giáo – cho thấy sự tốt lành, tinh túy của lời răn dạy nguyên thủy vốn là nền tảng của Đạo Công giáo.”[87] Phương thức và thành quả trong công cuộc loan báo Tin Mừng khởi đi từ đời sống dấn thân phục vụ của người Kitô hữu Hàn Quốc đem lại kinh nghiệm thực tiễn cho Giáo hội tại Á Châu trong tiến trình hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa của lục địa này.
4. Đối Thoại Trong Sự Thật
Công cuộc nhập thể các giá trị Tin Mừng tại Á Châu chỉ có thể thành công khi tiến trình này được khởi đi từ hành động đối thoại trong sự thật. Bởi chính Đức Giêsu Kitô đã hạ sinh trên lục địa này để cứu độ nhân loại bằng cuộc Đối thoại Nhập thể dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Thông qua cuộc đối thoại này, Đấng Nhập Thể đã thực hiện Giao ước thần diệu để trao ban tình yêu cứu độ cho người mình đối thoại. Ngôi Lời Nhập Thể đã đi vào đời sống nhân loại, sống trọn kiếp phàm nhân ngoại trừ tội lỗi để bày tỏ “Lời của Tình Yêu cứu độ nhân loại qua cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô”.[88]
Thông dự vào sứ vụ cứu độ của Đức Kitô Nhập Thể, Giáo hội khám phá ra mình là cộng đoàn đối thoại đích thực. Tại lục địa Á Châu, tiến trình hội nhập Tin Mừng của Giáo hội qua con đường đối thoại được nhắm tới đối tượng là những người nghèo, người đau khổ, những nền văn hóa đa dạng và các tôn giáo lớn. Khởi đi từ cuộc nhập thể của Đức Giêsu Kitô, Giáo hội tại Á Châu và tại Việt Nam đối thoại với những con người và nền văn hóa đa dạng, phong phú “trong chân lý, trong lương thiện, khiêm tốn và kính trọng. Khi ban tặng cho kẻ khác Tin Mừng cứu rỗi, Giáo hội cố gắng tìm hiểu nền văn hóa của họ. Giáo hội tìm hiểu tâm trí kẻ nghe, các giá trị và tập quán của họ, các vấn đề và những khó khăn của họ, những hy vọng và những ước mơ của họ. Một khi Giáo hội hiểu biết những khía cạnh văn hóa khác nhau đó, thì bấy giờ Giáo hội mới có thể bắt đầu cuộc đối thoại cứu rỗi”.[89]
Trong tiến trình đối thoại nhập thể tại Á Châu, Giáo hội với tư cách là người mang sứ điệp của Đấng Nhập Thể, không tự mình loại trừ hay đối kháng với bất cứ nền văn hóa nào trên lục địa Á Châu, nhưng trân trọng và tiếp nhận những hạt giống Ngôi Lời từ những nền văn hóa ấy. Cũng theo Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu:
“Chúng tôi chào mừng các tôn giáo bạn có vai trò tích cực trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa trong các truyền thống lớn của tôn giáo Á Châu, có sự hiện diện của Ngôi Lời và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Kỷ nguyên mới này phải là kỷ nguyên của Đối Thoại, Hiệp Nhất trong đa dạng. Chúng tôi phải trở nên những con người của đối thoại trong tinh thần kính trọng và khiêm nhu”.[90]
Sứ vụ đối thoại của Giáo hội tại Á Châu trong công cuộc loan báo Tin Mừng phải dựa trên tinh thần tôn trọng sự thật. Cuộc gặp gỡ đối thoại của Đức Giêsu với người phụ nữ Samari trong Tin Mừng[91] như một gợi hứng cho Giáo hội tại Á Châu khi tiếp cận và thâu nhận các giá trị của Sự Thật ẩn tàng nơi những nền văn hóa và tôn giáo khác. Đây là cuộc gặp gỡ khai mở cho chúng ta về cuộc đối thoại nhập thể kỳ diệu giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau trên hành trình “đi tìm chân lý, thao thức hướng về điều Thiện – Hảo, mặc dầu theo những nẻo đường khác nhau”:[92] “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem…Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,21b.23a).
5. Phát Triển Nền ‘Nhân Bản – Tâm Linh’
Nhân Bản – Tâm Linh, đó là nét bản sắc đặc thù của nền văn hóa Á Châu nói chung và riêng đối với Việt Nam. Cuộc đối thoại nhập thể của Con Thiên Chúa tại lục địa Á Châu đã đã thấm nhập sâu xa vào chiều kích nhân bản – tâm linh ấy. Qua đó, Tin Mừng được tôn vinh khi biểu tỏ động cơ và ý nghĩa cuộc nhập thể cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô hệ tại ở chính hành vi trao hiến của Đấng Nhập Thể, chứ không phải là những những suy lý hời hợt bên ngoài. Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô đang trong tiến trình hội nhập với nền nhân bản – tâm linh của Á Châu, để trở thành một lời chứng sống động trong đời sống của con người, nhất là những người nghèo, người đau khổ, và chan hòa trong các khía cạnh của nền văn hóa đa dạng, phong phú tại lục địa này.[93]
Phát triển nền ‘Nhân Bản – Tâm Linh’ là cách nhập thể Tin Mừng sát thực và hữu hiệu trong tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội tại Á Châu và Việt Nam. Đây là con đường mà Giáo hội dễ dàng tiếp cận và hòa nhịp với những suy tư, cảm nghiệm của người Á Châu luôn có xu hướng đề cao ‘Cái Tâm’, ‘Cái Đẹp’… và không quá thiên về tư duy trừu tượng với những lý thuyết khô khan theo kiểu Tây Phương. Đó là điểm giao tương với Tin mừng của Đức Giêsu, đặc biệt đề cao ‘tâm đạo’ Yêu Thương trong Luật Mới: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10)… Từ khởi điểm này, Giáo hội có thể tiến bước xa hơn trên hành trình nhập thể Tin Mừng nhờ những rung cảm và khám phá mối giao kết “giữa nguồn mạch văn hóa Á Đông với “mạch hằng sống” của Tin Mừng; và mới có thể hy vọng, trong một tương lai dài, khai mở một nền Linh đạo Kitô giáo Việt, một Thần học Kitô giáo Việt nam, cũng như nền văn học mỹ thuật Kitô giáo Việt Nam….”[94]
VI. NHẬN ĐỊNH CHUNG VÀ KẾT LUẬN
1. Nhận Định Chung
Ngày nay, không chỉ Giáo hội mà cả xã hội, người ta bàn nhiều đến vấn đề hội nhập văn hóa, thậm chí những người vô thần cũng nói đến ‘hội nhập văn hóa’, và coi đó như một tiêu chí thiết yếu trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay. Tuy nhiên, nhìn chung, người ta vẫn còn thiếu một cái nhìn tận căn, khách quan về nền tảng của tiến trình hội nhập văn hóa. Điều này là hệ quả gây nên những cách hiểu, cách suy tư ngộ nhận khi xem xét ý nghĩa và vai trò của vấn đề ‘hội nhập’ như một đòi hỏi đầy khó khăn, phức tạp để có thể kiến tạo, phát triển mối tương quan liên vị giữa con người và những nền văn hóa.
Giáo hội, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã trở nên Bí tích của Đức Kitô cách cụ thể và sống động cho thế giới này trong suốt hành trình thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng của Ngôi Lời nhập thể. Đó là biểu chứng cho cuộc nhập thể kỳ diệu và đúng nghĩa nhất của tiến trình giao thoa, đối thoại giữa Đức Tin và Văn Hóa, giữa Tin Mừng với những sắc thái biểu lộ khát vọng tối hậu của con người.
Qua những suy tư xuyên suốt đề tài, dù còn rất hạn hẹp, chúng ta phần nào nhận diện được bản chất, ý nghĩa và vai trò của vấn đề nhập thể và hội nhập văn hóa được đặt ra dưới nhãn quan loan báo Tin Mừng. Khởi đi từ cách tiếp cận này, phạm trù ‘hội nhập văn hóa’ thực sự diễn tả chính xác và bao hàm tiến trình của Giáo hội trong sứ vụ nhập thể sứ điệp Kitô giáo vào những vùng miền văn hóa đa dạng. Thuật ngữ ‘hội nhập văn hóa’ cũng biểu tỏ mối tương quan sinh động giữa niềm tin Kitô giáo và các nền văn hóa, giữa ‘bản sắc Kitô giáo’ với ‘những hiện tượng nảy sinh trong thế giới đương đại’.[95]
Tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội là một huyền nhiệm được khởi đi mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể cứu độ nhân loại và xây dựng nền văn minh tình thương. Do đó, sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội là cách thế cụ thể và đúng nghĩa nhất nói lên thái độ đáp trả trước biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô. Bởi chính Đấng Nhập Thể là Ngôi Lời Hằng Sống đã đón nhận văn hóa nhân loại như quà tặng huyền nhiệm kỳ diệu từ Thiên Chúa Cha, nhất là Người đã nhập thể trọn vẹn, thâm sâu vào nền văn hóa ấy và làm phong nhiêu nó trong tư cách là những ‘hạt mầm của Ngôi Lời’. Chính vì vậy, công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo hội không gì khác là rao giảng mầu nhiệm Đức Kitô Nhập Thể, nền tảng và trung tâm của tiến trình hội nhập văn hóa. Lời loan báo mà Giáo hội đem đến cho mọi dân tộc và nền văn hóa hệ tại ở chứng từ của Giáo hội khi sống sứ điệp Nhập Thể trong tinh thần yêu thương, hiệp thông, cầu nguyện và khiêm tốn phục vụ như Đức Kitô.
Từ thực tế lịch sử và bối cảnh của nền văn hóa Á Châu cũng như tại Việt Nam, Giáo hội đón nhận những gợi mở quan trọng cho công cuộc loan báo Tin Mừng trên cơ sở những trải nghiệm của Giáo hội trong tiến trình hội nhập văn hóa. Việc loan báo Đức Kitô Nhập Thể là ưu tiên trước hết cho tiến trình này. Để có thể vượt qua những thách đố đặt ra cho công cuộc đối thoại nhập thể giữa Tin Mừng và văn hóa, Giáo hội được mời gọi chuyên tâm phục vụ những người nghèo và đối thoại trong Sự Thật với mọi dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, nền văn hóa. Đó là con đường nhập thể tích cực, khả hữu nhất của Tin Mừng.
2. Kết Luận
Dưới nhãn quan loan báo Tin Mừng, hội nhập văn hóa luôn là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong đời sống sứ mệnh của Giáo hội. Trong tiến trình hội nhập văn hóa, Giáo hội “không chỉ làm cho niềm tin Kitô giáo bén rễ trong các nền văn hóa mới, mà còn phục hồi niềm tin Kitô giáo đã bị biến dạng hoặc mai một nơi một số nền văn hóa”.[96]
Giữa những biến động của thế giới hôm nay, biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô luôn giữ vị thế trung tâm của lịch sử nhân loại và là nền tảng của tiến trình hội nhập văn hóa của Giáo hội. Mầu nhiệm Nhập thể được mặc khải trọn vẹn nơi Đức Kitô đang và sẽ tiếp tục định hướng cho sự phát triển toàn diện và bền vững trong xu thế hội nhập của thời đại chúng ta. Sứ mạng của Giáo hội trong nỗ lực hội nhập Tin Mừng với các nền văn hóa là nét son trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nói lên mối tương quan khăng khít, đẹp đẽ giữa đức tin và văn hóa. Qua đó, sứ điệp Tình Yêu Nhập Thể được hiện tỏ bản chất tận căn, đồng thời biểu dương vai trò của Giáo hội trong sứ vụ chứng nhân cho biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô giữa những đa phức của nền văn hóa nhân loại./.
————————————————————————–
[1] Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Giáo Hội Tại Á Châu, số 21 và 22). Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn dẫn ý trong bài viết “Hội Nhập Văn Hóa Trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu”, 2011, http://www.lamhong.org . Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
[2] Felipe Gosmez, SJ, Truyền Giáo Học, Tập I (Copyright: Antôn & Đuốc Sáng), 167.
[3] Felipe Gosmez, SJ, Truyền Giáo Học, Tập I, 167.
[4] Vũ Dương Ninh và Nhóm Tác Giả, Lịch Sử Văn Minh Thế Giới (Hà nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1999), 7.
[5] L.m Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, Lưu hành nội bộ, 7 – 8.
[6] L.m Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, 6.
[7] Gm. Nguyễn Thái Hợp, OP., Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo (Sài Gòn: Nhà Xuất Bản Phương Đông, 2010), 221 – 222.
[8] Gaudium et Spes 53, trong Thánh Công Đồng Va-ti-ca-nô II, b.t Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Đà Lạt: Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972), 811 – 812.
[9] L.m Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, 11.
[10] Giuse Thân Văn Thường, Dẫn Vào Thần Học Hội Nhập Văn Hóa (Hà nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2009), 35.
[11] Felipe Gosmez, SJ, Truyền Giáo Học, Tập I, 165.
[12] Nhóm tác giả, SJ., Bước Theo Đức Kitô Trên Đường Sứ Mệnh – Truyền Giáo Học Cơ Bản, Lưu hành nội bộ, 66.
[13] Giuse Thân Văn Thường, Dẫn Vào Thần Học Hội Nhập Văn Hóa, 81.
[14] L.m Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, 49.
[15] Ecclesia in Africa, 62.
[16] Lm Trần Cao Tường, “Hội Nhập Văn Hóa Với ĐGH Gioan Phaolô II”, http://www.dunglac.org. Truy cập ngày 16 – 03 – 2012.
[17] Đức GH Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, 52.
[18] Nhóm tác giả, SJ., Bước Theo Đức Kitô Trên Đường Sứ Mệnh – Truyền Giáo Học Cơ Bản, 66.
[19]http://www.kinhthanhvn.org
[20] Ga 1, 14; GLHTCG, số 461.
[21] L.m Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, 43.
[22] GLHTCG, số 854, 1204.
[23] Giuse Thân Văn Thường, Dẫn Vào Thần Học Hội Nhập Văn Hóa (Hà nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2009), 85.
[24] Lm Lê Công Đức, “Cuộc Nhập Thể Của Đức Kitô”, http://www.dunglac.org. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
[25] Gm. Nguyễn Thái Hợp, OP., Léopold Cadière Và Hội Nhập Văn Hóa: Một Kinh Nghiệm Loan Báo Tin Mừng, 2011, http://www.dunglac.org. Truy cập ngày 16 – 03 – 2012.
[26] Pl 2, 6 – 7.
[27] Mt 11, 19; Lc 7, 35.
[28] Ad Gentes 10, trong Thánh Công Đồng Va-ti-ca-nô II, b.t Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Đà Lạt: Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972), 619.
[29] Giuse Thân Văn Thường, Dẫn Vào Thần Học Hội Nhập Văn Hóa, 85.
[30]http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=54&ia=13955
[31] Đức GH Bênêđictô, Tông huấn Verbum Domini, 114.
[32]http://www.kinhthanhvn.org/viewItem.jhtml?itemId=4109
[33] L.m Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, 59.
[34] Ecclesia in Ocennia, 16. Được trích lại trong “Hội Nhập Văn Hóa Và Đối Thoại Liên Tôn” của Lm. Nguyễn Văn Viên, 59.
[35] Ecclesia in Oceania, 16.
[36] Đức GH Bênêđictô, Tông huấn Verbum Domini, 1.
[37] Marcel Domergue, “Nhập Thể Và Hội Nhập Văn Hóa”, Nguyễn Tiến Lãng phiên dịch, http://www.htth.org. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2011.
[38] Đức GH Bênêđictô, Tông huấn Verbum Domini, 114.
[39] Dei Verbum 13, trong Thánh Công Đồng Va-ti-ca-nô II, b.t Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Đà Lạt: Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972), 504.
[40]http://www.htth.org
[41]http://www.htth.org
[42] Giuse Thân Văn Thường, Dẫn Vào Thần Học Hội Nhập Văn Hóa, 83.
[43] Ep 2, 13 – 16.
[44]http://www.htth.org
[45] Lm Trần Đình, Truyền Giáo Và Vấn Đề “Hội Nhập”, http://www.simonhoadalat.com. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
[46] Gaudium et Spes 22, Lumen Gentium 8&13, Ad Gentes 3&22.
[47] Lm Lê Công Đức, “Công Cuộc Hội Nhập Văn Hóa Của Tin Mừng”, http://www.dunglac.org. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
[48]http://www.dunglac.org
[49] Vatican II, Gaudium et Spes, 58.
[50] ĐGH Gioan Phaolô II, Giáo Hội Tại Á Châu, 21.
[51] ĐGH Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 20.
[52] Lm Lê Công Đức, “Cuộc Đối Thoại Giữa Tin Mừng Và Văn Hóa”, http://www.dunglac.org. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
[53] L.m Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, 59.
[54] Gioan Phaolô II, Bách Chu Niên, 24.
[55] Lm Lê Công Đức, “Công Cuộc Hội Nhập Văn Hóa Của Tin Mừng”, http://www.dunglac.org. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
[56] Gm. Nguyễn Thái Hợp, OP., Léopold Cadière Và Hội Nhập Văn Hóa: Một Kinh Nghiệm Loan Báo Tin Mừng, 2011, http://www.dunglac.org. Truy cập ngày 16 – 03 – 2012.
[57] http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=54&ia=13955
[58] ĐGH Gioan Phaolô II, Giáo Hội Tại Á Châu, 43.
[59]http://www.dunglac.org
[60] Gaudium et Spes 58, trong Thánh Công Đồng Va-ti-ca-nô II, b.t Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Đà Lạt: Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972), 817.
[61] Đức GH Gioan Phaolô II, Giáo Hội Tại Á Châu, 19.
[62] Giuse Thân Văn Thường, Dẫn Vào Thần Học Hội Nhập Văn Hóa, 53.
[63] Giuse Thân Văn Thường, Dẫn Vào Thần Học Hội Nhập Văn Hóa, 53.
[64] Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, 11.
[65] http://www.liendoanconggiao.net
[66] Đức GH Gioan Phaolô II, D.C (1980, tr. 603 – 609), số 1788.
[67] Giuse Thân Văn Thường, Dẫn Vào Thần Học Hội Nhập Văn Hóa, 79 – 80.
[68] Vatican II, Gaudium et Spes, 59.
[69] Hội Đồng Giám Mục Giám Mục Việt Nam – Ủy Ban Bác Ái Xã Hội, Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội Công Giáo (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2007), 380.
[70] Văn Phương, O.P, “Nhập Thể Và Vấn Đề Hội Nhập Văn Hóa”, 2011, http://www.liendoanconggiao.net. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
[71] Giáo Hội Tại Á Châu, 23.
[72] Giáo Hội Tại Á Châu, 23.
[73] Propositio, 8. Được trích lại trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, 23.
[74] Tài Liệu Học Tập Về Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu (Tòa Giám Mục Xã Đoài), 49 – 50
[75] Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, “Hội Nhập Văn Hóa Trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu”, 2011, http://www.lamhong.org. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
[76] Giáo Hội Tại Á Châu, 20. Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn dẫn lại trong bài viết “Hội Nhập Văn Hóa Trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu”, 2011, http://www.lamhong.org. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
[77] Giáo Hội Tại Á Châu, 1.
[78] Giáo Hội Tại Á Châu, 9. Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn dẫn lại trong bài viết “Hội Nhập Văn Hóa Trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu”, 2011, http://www.lamhong.org. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
[79] Vô Trú, “Con Đường Nhập Thể Văn Hóa”, 2011, http://www.daminhvn.net. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2011.
[80] Giáo Hội Tại Á Châu, 20.
[81] Sđd, 20.
[82] Lc 6, 17 – 22
[83] Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu 1970, 11 – 15.
[84] http://www.daminhvn.net
[85] Gm. Nguyễn Thái Hợp, OP., Léopold Cadière Và Hội Nhập Văn Hóa: Một Kinh Nghiệm Loan Báo Tin Mừng, 2011, http://www.dunglac.org. Truy cập ngày 16 – 03 – 2012.
[86]http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=54&ia=13955
[87] Asia News, Giáo Hội Tăng Trưởng Mạnh Mẽ Hơn Ở Hàn Quốc, Nguyễn Thế Bài chuyển ngữ, 2010, http://www.xuanbichvietnam.wordpress.com. Truy cập ngày 20 – 04 – 2012.
[88] Nữ tu Mai Thành, Cầu Vồng Liên Tôn (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2010), 29 – 30.
[89] Giáo Hội Tại Á Châu, 21.
[90] Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu 1970, 11 – 15.
[91] Ga 4,1– 42.
[92] Nữ tu Mai Thành, Cầu Vồng Liên Tôn, 34.
[93]http://www.daminhvn.net
[94]http://www.daminhvn.net/tai-lieu/1343-con-duong-nhap-the-van-hoa
[95] Lm Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa Và Đối Thoại Liên Tôn, 82.
[96] Walter H. Principe, Faith, History and Cultures: Stability and Change in Church Teachings, 42 – 43. Lm Nguyễn Văn Viên trích dẫn trong “Hội Nhập Văn Hóa Và Đối Thoại Liên Tôn”, 83.