Một Số Ý Niệm Chủ Chốt Trong Tin Mừng Gioan

0
1200


Vũ Văn An

(Theo Leon Morris, The Gospel According to John, 1979).

 

1. NGÔI LỜI

Theo Leon Morris, trong The Gospel According to John (WM. B. Berdmans Publishing Co. Grand Rapids, Michigan), hạn từ Logos (Lời) rất được người Hy Lạp sử dụng. Nó có thể được coi như một cái gì ở bên trong con người để chỉ ý nghĩ hay lý lẽ. Nhưng nó cũng có nghĩa như một cái gì được nói ra để phát biểu ý nghĩ kia, tức lời nói. Nghĩa triết học thường theo nghĩa thứ nhất, để chỉ hồn vũ trụ, hay nguyên lý phổ quát, nguyên lý thuần lý của vũ trụ. Nó là năng lực sáng tạo, theo một nghĩa nào đó, mọi vật đều do nó mà ra. Ít nhất nó đã được sử dụng từ thời Heraclitus (thế kỷ thứ 6 trước công nguyên). Triết gia này cho rằng Lời “luôn luôn hiện hữu”, và “mọi vật đều xẩy tới qua Lời này”. Ông quan niệm thực tại đầu cùng đôi khi là Lửa, đôi khi là Thiên Chúa, và đôi khi là Lời. Theo James Adam, “trong Heraclitus, ba ý niệm Lời, Lửa và Thiên Chúa căn bản đều như nhau. Trong tư cách Lời, Thiên Chúa là sự khôn ngoan luôn luôn hiện hữu qua đó muôn vật được điều hướng” (The Religious Teachers of Greece. Edinburgh, 1909). Heraclitus thấy rằng con người vốn quan niệm vũ trụ bằng ngôn từ vật lý. Nên ông đưa ý niệm Lời vào để giải thích trật tự ông thấy trong vũ trụ (kosmos). Lời chính là nguyên lý ổn định, điều hướng vũ trụ.

Các tư tưởng gia sau Heraclitus phần lớn không nối tiếp dòng tư tưởng ấy. Platon chẳng hạn chỉ thỉnh thoảng lắm mới nhắc đến Lời, vì ông ta quan tâm nhiều hơn đến việc phân biệt thế giới vật chất với thế giới thực tại, tức thế giới “ý niệm”. Chính các triết gia khắc kỉ (stoics) đã quảng diễn ý niệm Lời. Họ từ bỏ các nguyên hình thiên giới của Platon để chọn quan điểm cho rằng vũ trụ thấm đầy Lời, tức nguyên lý trường cửu. Hạn từ Lời diễn tả niềm xác tín của họ vào tính thuần lý của vũ trụ. Họ không ý niệm Lời như có ngôi vị, nên họ không hiểu nó như ta hiểu về Thiên Chúa. Đối với họ. yếu tính của nó là một nguyên lý, một sức mạnh. Nhưng quan trọng ở điểm nó không phải chỉ là một nguyên lý bất cứ nào đó, mà là nguyên lý tối cao của vũ trụ. Nó là sức mạnh phát sinh, thấm nhiễm và điều hướng muôn vật.

Cho nên, khi thánh Gioan dùng hạn từ Lời, ngài đã dùng một hạn từ rất quen thuộc của thế giới Hy Lạp. Dĩ nhiên người bình dân không hiểu nghĩa triết học của nó. Nhưng ít nhất họ cũng hiểu nó chỉ về một điều rất quan trọng. Thánh Gioan khi dùng hạn từ đó, tất nhiên không tránh khỏi khơi dậy trong tâm trí người nói tiếng Hy Lạp ý nghĩ trên. Tuy nhiên, tư tưởng chính yếu của ngài lại không phát xuất từ hậu cảnh Hy Lạp ấy. Quả vậy, Tin Mừng của ngài cho thấy ngài rất ít quen biết với triết học Hy Lạp, chứ đừng nói đến chuyện lệ thuộc thứ triết học ấy. Đối với người Hy Lạp, các thần minh được coi như cách biệt đối với thế giới, vô tình trước các gian nan, tan tác cõi lòng, các hân hoan sợ hãi của con người. Ngôi Lời của thánh Gioan khác hẳn thế. Đó là một Thiên Chúa đã can dự một cách cuồng nhiệt vào lịch sử con người. Vì Ngôi Lời đã đến đây, đã mang lấy bản nhiên của ta, đi vào cuộc đấu tranh của thế giới, và qua cuộc đấu tranh ấy, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.

Điều quan trọng hơn để hiểu Tin Mừng này nói chung và việc sử dụng hạn từ Ngôi Lời nói riêng chính là hậu cảnh Do Thái của nó. Các chữ mở đầu “lúc khởi đầu” buộc ta phải so sánh với Sáng thế 1:1, trong khi “Ngôi Lời” khiến ta nhất định phải chú ý đến những chữ được lặp đi lặp lại “và Thiên Chúa phán” của chương mở đầu Thánh Kinh. Ngôi Lời vì vậy chính là Lời sáng tạo của Thiên Chúa (câu 3). Bầu không khí vì thế là bầu không khí DoThái Giáo, không thể lầm lẫn được.

Một điểm trong giáo huấn của Cựu Ước được thế kỷ đầu rất chú ý là việc nó sử dụng các quan niệm như “Lời”, “Sự Khôn Ngoan” v.v… Dù các quan niệm này không có gì phạm đến chủ nghĩa độc thần căn bản của Do Thái Giáo, nhưng càng ngày người ta càng chú ý đến những đoạn trong đó các thực tại kia mang dáng dấp một hiện hữu độc lập. Cứ như thế, dọc dài Cựu Ước, Lời Thiên Chúa được quan niệm như một tác nhân hữu hiệu thể hiện thiên ý. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời” (Tv 33:6). Khi Thiên Chúa nói là Người làm một cái gì đó. Lời của Người cũng chính là hành động của Người. Hành động mạc khải của Thiên Chúa đôi khi được miêu tả là lời Thiên Chúa “đến” với các tiên tri. Để giữ truyền thống ấy, tiên tri có khi gán cho Lời một sự hiện hữu ít nhiều độc lập, như trong Isaia chẳng hạn, tiên tri cho hay Chúa phán “Lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta trao phó” (Is 55:11). Và trong Thánh Vịnh 29, “tiếng” của Thiên Chúa cũng được quan niệm như vậy.

Cựu Ước cũng đã gần như ngôi vị hóa Khôn Ngoan hay Lề Luật. Do đó, Khôn Ngoan đã được miêu tả như một ngôi vị Thiên Chúa : “Đức Chúa đã dựng nên Tta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất. Ta đã được tấn phong từ đời đời, từ nguyên thủy, trước khi có mặt đất… Đã có Ta hiện diện khi Người thiết lập ra cõi trời… Ta hiện diện bên Người như tay thợ cả; ngày ngày Ta là niềm vui của Người “ (Cn 8: 22 và kế tiếp).

Cũng thế, Isa 2:3 và Mic 4:2 cho thấy “Lề Luật” và “Lời” cũng chỉ cùng một sự vật như vậy. Trong các đoạn ấy, “Khôn Ngoan”, “Lề Luật” hay “Lời” đều có tính thần linh tuy không hoàn toàn y hệt Thiên Chúa.

Trong các bản Targums, ta cũng thấy việc sử dụng có tầm quan trọng. Khi tiếng Hípri không còn được sử dụng làm tiếng nói nữa, thì Thánh Kinh vẫn còn tiếp tục được đọc bằng ngôn ngữ ấy trong các buổi lễ tại hội đường. Để bù vào, người ta có thói quen thoát dịch các đoạn được đọc. Các lời thoát dịch này chính là các bản Targums. Thoạt đầu, Targums chỉ là các bài dịch thoát khẩu, về sau mới được ghi chép thành văn. Những bản còn lại đến nay cho thấy chúng chỉ những lời diễn giải chứ không phải lời dịch đúng nghĩa. Chúng được thực hiện vào thời điểm người DoThái vì lòng cung kính cũng có mà vì sợ phạm đến điều răn thứ ba cũng có đã tránh không dám đọc đến tên Thiên Chúa nữa. Khi đọc đến những đoạn có thánh danh Thiên Chúa, các nhân viên đọc sách cũng như các dịch giả bèn thay thế thánh danh ấy bằng những từ ngữ họ cho là cung kính đủ như “Đấng Thánh” hay “Thánh Danh”. Đôi khi họ dùng hạn từ “Lời” (Memra). Chẳng hạn, trong khi Thánh Kinh của ta viết “Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa” (Xh 19:17), thì bản Targum lại ghi như sau: “… để nghênh đón Lời Thiên Chúa”. Lối dùng này khá quen thuộc. Theo Barclay, nguyên trong bản Targum của Jonathan mà thôi, kiểu nói ấy cũng đã được sử dụng đến 320 lần. Điều muốn nhấn mạnh ở đây không phải để nói rằng các thuật ngữ kia được dùng để chỉ một đấng tách biệt với Thiên Chúa, nhưng chỉ để nói rằng nơi nào người ta quen thuộc với các bản Targum, họ đều cũng quen thuộc với hạn từ ‘Lời” để chỉ về Thiên Chúa. Cách dùng của thánh Gioan không hẳn theo lối của Targum, nhưng chắc chắn không tránh khỏi việc khiến người ta phải liên tưởng đến chúng.

Trong thời gian giữa Cựu và Tân Ước, người ta đã nới rộng việc sử dụng các từ ngữ đang bàn đến. Có những phát biểu rất ngạc nhiên về Khôn Ngoan. Như trong sách Huấn Ca chẳng hạn, Khôn Ngoan nói như sau về chính mình: “Ta xuất phát từ miệng đấng Tối Cao và như mây mù, Ta bao phủ cõi đất. Ta cắm lều trên nơi cao thẳm và đặt ngai Ta trên cột mây. Duy có mình Ta đi vòng cả bầu trời và rảo bước khắp vực sâu thăm thẳm” (Hc 24:3 và kế tiếp). Rõ ràng, Khôn Ngoan rất gần gũi với Thiên Chúa, dù soạn giả đã cẩn thận nhắc đến nó như một thụ tạo: “Người đã dựng nên Ta trước muôn đời từ khởi thủy” (Hc 24:9). Trong sách Khôn Ngoan, ta thấy Khôn Ngoan “làm rạng ngời vinh hiển, bởi luôn sống cùng Thiên Chúa” (Kn 8:3) và “hiểu biết về Thiên Chúa và quyết định về những công trình của Người” (Kn 8:4). Soạn giả còn cầu nguyện như sau: “Lạy Thượng Đế của bậc tổ tiên, lạy Đức Chúa từ bi lân tuất, Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật, dùng sự khôn ngoan Chúa mà cấu tạo con người” (Kn 9:1, đây là một đoạn cho thấy soạn giả không phân biệt giữa Khôn Ngoan và Lời). Lời còn được ngôi vị hóa một cách mạnh bạo hơn nữa: “Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm canh ba, thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu, ví tựa người chiến sĩ can trường xông vào giữa miền đất bị tru diệt…đầu đụng trời chân đạp đất” (Kn 18:14 và kế tiếp). Đồng ý không thể cho rằng các soạn giả trên coi Khôn Ngoan hay Lời hiện diện độc lập với Thiên Chúa, nhưng các hình ảnh mạnh dạn của họ chắc chắn đã dọn đường cho ý niệm Lời của thánh Gioan.

Khó mà biết được nên coi Philo như một tư tưởng gia Do-Thái hay Hy-Lạp. Tuy nhiên người Do-Thái vĩ đại sống tại Alexandria này đã đưa ra một tổng hợp giữa triết học Hy-Lạp và tư tưởng Cựu Ước. Ông đề cập nhiều đến Lời, và các phát biểu của ông không hẳn dễ dàng hoà hợp với nhau. Đôi khi ông nói về Lời như thể “Thiên Chúa thứ hai”, đôi khi lại như một Thiên Chúa đang hành động. Nếu ta muốn mạo hiểm trong việc tổng quát hóa, ta có thể nói rằng ông coi Lời như nhịp cầu đáng kính về phương diện triết học để nối liền Thiên Chúa siêu việt với thế giới vật chất. Ông không hề có ý định từ bỏ Cựu Ước. Nhưng ông chấp nhận các ý niệm triết học của thời ông, và dùng chúng để giải thích Cựu Ước. Do đó, quan niệm của ông về Lời là một triết học hiện hành, một thứ triết học đã được sửa đổi, hơn là quan niệm có tính tôn giáo về Cựu Ước.

C.H. Dodd cho rằng cách hiểu của Philo về Lời là một phần hậu cảnh đưa tới Tự Ngôn của thánh Gioan. Ông cho rằng Philo giúp chúng ta hiểu những thuật ngữ rất khó giải thích nếu chỉ dựa vào hậu cảnh Do-Thái như thuật ngữ ‘Ngôi Lời là Thiên Chúa”. Theo Dodd, những lời mở đầu của Tự Ngôn “rõ ràng chỉ có thể hiểu được nếu ta nhìn nhận rằng Lời, mặc dù có liên hệ đến Lời Thiên Chúa trong Cựu Ước, đồng thời cũng có nghĩa như nhóm Khắc Kỉ chủ trương được Philo sửa đổi, và song hành với ý niệm Khôn Ngoan trong các soạn giả Do-Thái khác”. Tuy nhiên điều đó hình như hàm nghĩa rằng trọn bộ quan niệm về Lời của thánh Gioan phải được giải thích một phần bằng các hậu cảnh của nó, dù hậu cảnh ấy là Do-Thái, là Hy-Lạp hay bất cứ điều gì bạn muốn. Điều này rất đáng tranh luận. Vì tư tưởng của thánh Gioan rất độc đáo. Ngài dùng một hạn từ mà ai cũng có thể hiểu bất kể hậu cảnh của họ. Và dù hậu cảnh của họ là như thế nào, họ vẫn không thấy tư tưởng của thánh nhân đồng nhất với hậu cảnh của họ. Ý niệm của thánh nhân về Lời có yếu tính rất mới mẻ.

Ta có thể dùng lời của William Temple để kết luận phần thảo luận này. Ông nói, Ngôi Lời “đối với người Do-Thái lẫn Dân Ngoại, đều biểu tượng cho sự kiện thống trị vũ trụ, và tự phát biểu mình ra của Thiên Chúa. Người Do-Thái sẽ tâm niệm rằng ‘các tầng trời đã được dựng nên bởi Lời Thiên Chúa’; còn người Hy-Lạp sẽ cho đó là nguyên lý thuần lý mà mọi định luật tự nhiên đều chỉ là những phát biểu đặc thù. Cả hai đều đồng ý rằng Ngôi Lời này là khởi điểm muôn loài”. Thánh Gioan đã sử dụng một hạn từ vốn được người mọi nơi quen sử dụng, dù với nhiều nghĩa khác nhau. Chắc chắn ngài mong mọi người nhận ra ý nghĩa yếu tính của mình.

Như thế đấy là hậu cảnh cho tư tưởng của thánh Gioan. Nhưng không phải là chính tư tưởng của ngài. Ngài có ý niệm phong phú hơn, sâu sắc hơn và đầy đủ hơn tư tưởng của những người đi trước. Đối với ngài, Lời không phải là một nguyên lý, nhưng là một Hữu Thể sống động và là nguồn sự sống; không phải chỉ là một ngôi vị hóa mà là một Ngôi Vị và là một Ngôi Vị Thiên Chúa. Lời không là ai khác mà là chính Thiên Chúa. Ngài là người đã phát biểu trọn vẹn điều ấy, nhưng ta cần thấy rằng việc phát biểu ấy chỉ là kết quả cuối cùng của một khuynh hướng vốn đã có sẵn trong Kitô giáo từ thuở ban đầu.

“Lời” đã được dùng thay cho trọn bộ tin mừng của Kitô giáo trong các đoạn như Maccô 2:2 (chỉ giáo huấn của đức Giêsu) và Maccô 8:32 (xem bản An Sơn Vị, chỉ cái chết của Con Người). Allan D. Galloway thì coi Lời như ám chỉ công trình của đức Giêsu, chứ không hẳn Con Người của Người. Ông muốn nói đó là một hạn từ tóm gồm toàn bộ ý nghĩa cứu độ phổ quát của đức Kitô. Người, tức Ngôi Lời, không phải chỉ là một vị cứu tinh cục bộ, nhưng là hy vọng duy nhất của toàn thể nhân loại. Lời và tin mừng do đó liên hệ với nhau một cách chặt chẽ. Khi thánh Luca nói đến những ai “làm nhân chứng và thừa tác viên của lời” (Lc 1:2), ta khó có thể tránh được cảm nghĩ là ngài hiểu chữ “lời” ở đây không phải chỉ có nghĩa là giáo huấn mà thôi. Hẳn ngài phải nghĩ đến mối tương quan chặt chẽ giữa đức Kitô và tin mừng và gần như muốn gọi đức Giêsu là “Lời” vậy.

Một lần nữa, ta thấy thánh nhân xem ra như không muốn phân biệt giữa giảng lời (Cv 8:4) và giảng đức Giêsu (Cv 11:20). Nhiều lần, thánh Phaolô nói đến việc giảng đức Kitô (1 Cor 1:23; 2 Cor 4:4; Gal 3:1). Trong Col 1:25 và kế tiếp, ngài giải thích “lời Thiên Chúa” như một “một mầu nhiệm” và mầu nhiệm này như là “đức Kitô trong anh em”. Mặc dù cái bước gọi đức Kitô là “Lời” chưa được ai bước (dù có đoạn như 1 Ga 1:1; Kh 19:13), nhưng rõ ràng đường đã được mở ra. Việc mở đường này cũng đã có ngay trong phạm vi ý niệm, thí dụ trong các đoạn như Phil 2: 5 và kế tiếp, Col 1:15 và kế tiếp, dù từ ngữ có khác, nhưng thánh Phaolô đã gán cho đức Kitô những phẩm tính và hoạt động giống như Cựu Ước đã gán cho Khôn Ngoan. Kết luận không thể tránh được là trong khi sử dụng một hạn từ rất quen thuộc và mang theo nhiều ý nghĩa tùy theo hậu cảnh của mỗi người, tư tưởng của thánh Gioan trong yếu tính có tính chất Kitô Giáo rõ rệt. Khi nói đến đức Giêsu như Ngôi Lời, ngài quả đã đặt để một khối đá tảng để cả một toà nhà vĩ đại sẽ được xây trên đó dọc dài qua suốt Tân Ước.

Sau Tự Ngôn, thánh Gioan không áp dụng hạn từ đặc thù Ngôi Lời cho đức Giêsu nữa nhưng không nên quên rằng ngài luôn nhấn mạnh đến “lời” của đức Giêsu hay của Thiên Chúa. Ngài cho ta thấy rõ lời của đức Giêsu chính là lời Thiên Chúa (3:34; 14:10, 24; 17:8, 14), điều ấy khiến cho việc tin tưởng chúng trở thành thiết yếu (5:47). Thực thế, ở trong lời của đức Giêsu cũng có nghĩa là làm môn đệ của Người (8:31). Lời của đức Giêsu đem lại sự sống (5:24; 6:68; 8:51) và thực sự là chính sự sống (6:63). Chúng đem lại sự thanh tẩy (15:3) và hiệu lực trong cầu nguyện (15:7). Phía trái của đồng tiền là nếu từ khước lời đức Giêsu là lãnh lấy án phạt (12:47). Ai từ khước không nghe lời Người là thuộc về ma quỉ (8:47). Điều quan trọng là “giữ” lời đức Giêsu (14:23; 15:20; 17:6). Còn nhiều đoạn khác nữa. Cho nên hiển nhiên một điều là việc dùng hạn từ Lời ở ngưỡng cửa Tin Mừng này không phải là một chuyện tình cờ. Nó đầy ý nghĩa và dẫn ta đến việc hiểu trọn bộ Tân Ước.

2. CON NGƯỜI

Cũng theo Leon Morris, trong The Gospel According to John (WM. B. Berdmans Publishing Co. Grand Rapids, Michigan), “Con Người” là một thuật ngữ rất lạ, và ít thông dụng cả trong Hy Ngữ lẫn Anh Ngữ. Nó là chữ dịch nguyên văn từ tiếng Aramaic và có nghĩa là “người”. Trong các Tin Mừng, nó được đức Giêsu quen dùng để chỉ về chính Người, ít ra cũng hơn 80 lần. Không ai khác đã dùng thuật nghữ này để gọi Người, ngoại trừ Stephen (Cv 7:56) và trong Tin Mừng Gioan, người ta hỏi xem Người có ý chỉ ai khi dùng thuật ngữ ấy (12:34). Sự kiện họ hỏi như thế chứng tỏ từ ngữ này không được chấp nhận trong ý nghĩa Xức Dầu. Nói chung, ta có thể nói rằng đức Giêsu dùng hạn từ này theo ba nghĩa: (i) để thay cho đại danh từ “tôi”, (ii) chỉ Con Người sẽ từ trời suống trong vinh quang, và (iii) chỉ Con Người phải chịu thống khổ để đem ơn cứu độ lại cho con người. Nguồn gốc hạn từ này có lẽ phải tìm trong Dan 7:13 và kế tiếp nơi một Hữu Thể thiên giới đã được chỉ tên như thế.

Một trong những giải thích lý do đức Giêsu nhận tên này “trước nhất bởi vì nó là một hạn từ ít khi dùng và không có liên tưởng gì tới một ý nghĩa ái quần ái quốc gì hết, và do đó không liên lụy đến bất cứ rắc rối chính trị nào…Thứ hai, nó có âm hưởng khiến người ta nghĩ đến thần tính. J. P. Hickinbotham còn đi xa hơn bằng cách quả quyết rằng ‘Con Người’ là một tước hiệu chỉ thiên tính chứ không chỉ nhân tính. Thứ ba, vì hệ lụy có tính xã hội. Con Người theo nghĩa này bao hàm sự cứu chuộc dân Chúa. Thứ tư, nó có hàm nghĩa nhân tính. Người mang lấy sự yếu đuối của chúng ta. Nó là cách vừa ám chỉ vừa che đậy tư cách Đấng Xức Dầu của Người, vì quan niệm Đấng Xức Dầu của Người rất khác với quan niệm của đại đa số.

Trong Tin Mừng thứ tư, còn có thêm một hay hai lý do nữa. Ở đây, hạn từ ấy luôn luôn có liên hệ đến hoặc vinh quang trên trời của Chúa Kitô hoặc sự cứu độ Người đến để thực hiện. Do đó, có những chỗ nhắc đến Người như là đấng có chìa khóa vào trời hay đang ở trên trời rồi (1:51; 3:13; 6:62). Câu 1:51 mang ý niệm Người đem Trời đến cho con người. Người là đấng duy nhất đã từng lên trời và xuống thế (3:13). Người sẽ là quan án luận phạt loài người vào ngày sau hết (5:27). Hai lần Chúa Giêsu nhắc đến việc Con Người được nâng lên (3:14; 8:28) và cũng hai lần nhắc đến việc Người được tôn vinh (12:23; 13:31). Con Người ban bánh hằng sống, một lương thực sẽ không bao giờ cạn (6:27), và ai tiếp nhận bánh này là đã ăn mình Người và uống máu Người (6:53). Ơn ban sự sống đời đời của Người có lẽ cũng bao hàm trong lệnh truyền Người tỏ cho người mù từ lúc mới sinh phải tin vào Con Người (9:35). Trong phương cách đặc trưng của thánh Gioan, đôi lúc có sự phối hợp hai thể tài thống khổ và vinh quang (12:23; 13:31). Vinh quang thực nằm ngay trong các thống khổ của Người. Hạn từ “Con Người” do đó cho ta thấy quan niệm của Chúa Kitô về chính Người như đấng có nguồn gốc thiên giới và như đấng đã chiếm được vinh quang. Nhưng đồng thời nó cũng cho thấy sự thấp hèn của Người và sự thống khổ Người phải chịu vì muôn người. Hai ý nghĩa ấy chỉ là một.

Còn theo Mogens Muller, trong The Oxford Companion to the Bible, mấy điểm sau đây đáng lưu ý: Trong các Tin Mừng nhất lãm, kiểu nói “Con Người” thuộc hai nhóm: một nhóm nói đến sứ mệnh và số phận của Con Người trên mặt đất (xem Mc 2:10; 2:28; 10:45) cùng với những lời tiên báo thụ nạn (Mc 8:31; 9:31; 10:33), nhóm kia liên quan đến địa vị và vai trò của Con Người lúc sống lại và hiển dương cũng như việc Người sẽ tái lâm (parousia) (xem Mc 8:3; 13:26; 14:62). Trong các Tin Mừng này, khi nói về sứ mệnh, về số phận, và địa vị của đức Giêsu, dường như càng ngày càng chỉ dùng thuật ngữ này mà thôi. Trái lại trong Tin Mừng Gioan, nó được dùng song song với thuật ngữ “Ta là đấng đó” (“I am”) hoặc thuật ngữ “Con” (“the Son”); tuy nhiên trong những lời công bố long trọng, thì thuật ngữ “Con Người” luôn được sử dụng.

3. THẾ GIAN

Thánh Gioan sử dụng ý niệm thế gian (kosmos) khá nhiều. Trong tổng số 185 lần từ ngữ này xuất hiện trong Tân Ước, người ta thấy nó 78 lần trong Tin Mừng Gioan, 24 lần trong các thư của ngài và 3 lần trong Khải Huyền…

Thường thường chữ này chỉ việc trang trí, trang sức. Ta thấy nghĩa này trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô (3:3): Ước chi vẻ duyên dáng của chị em không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa; từ chữ này ta có chữ cosmetic. Thế giới hay vũ trụ với những tương quan nhịp nhàng của nó, quả là một sự trang trí vượt bực, và vì thế từ ngữ này được sử dụng để chỉ vũ trụ nói chung. Có lẽ Thánh Gioan đã sử dụng ý nghĩa này khi ngài viết trong Ga 1:10: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có”. Khi Chúa Giêsu được mô tả là “ánh sáng thế gian” (8:12; 9:5) và đến hay được sai đến “thế gian” (3:17; 11:27), thì tuy chữ này thường được hiểu là vũ trụ nói chung, nhưng ta cũng không thể loại bỏ việc nó có thể ám chỉ thế giới này, thế giới của ta nói riêng. Vì đối với con người, trái đất này quả là phần có ý nghĩa nhất của vũ trụ, nên không ngạc nhiên gì khi từ ngữ này được dùng để chỉ thế giới ta đang sống. Ta thấy ý nghĩa này trong các câu như 16:33: Trong thế gian, anh em sẽ gian nan khốn khó.

Từ nghĩa trên, ta dễ nhận ra một chuyển ý với thế gian theo nghĩa đa số con người, như khi những người Biệt Phái thất vọng phát biểu: “Kìa thiên hạ theo ông ấy hết rồi!” (12:19). Nhưng phần lớn con người không say mê phục vụ Thiên Chúa. Với nghĩa này, Chúa Giêsu bảo: thế gian nói chung chống đối Người, rẫy bỏ Người, và cuối cùng đóng đinh Người. Từ đó, ta không nên lấy làm lạ khi “thế gian” được sử dụng để chỉ một nhân loại chống lại Chúa Kitô. Chính vì thế có tác giả đã nói tới thế gian như là “tổng số tạo vật của Thiên Chúa bị sự sa ngã làm cho tan tác và hiện đang đứng trước sự phán xét của Người nhưng được Chúa Kitô xuất hiện cứu chuộc”. Thế gian, vì thế, “theo một nghĩa nào đó, quả là hiện thân cho kẻ chống đối vĩ đại đối với Đấng Cứu Chuộc trong lịch sử cứu rỗi” (Theological Dictionary of the New Testament, Grand Rapids, 1964-1969, tr. 893, 894)

Cái nghĩa thế gian như thù nghịch với Chúa Kitô và tất cả những gì Người giảng dạy này là nghĩa mới mẻ được dùng trong Tân Ước. Trong văn chương Hy Lạp nói chung, không hề có nghĩa này. Trong văn chương này, nó chỉ một điều gì hấp dẫn, tức thứ tự và vẻ đẹp của vũ trụ. Nhưng đối với Thánh Gioan và Thánh Phaolô, điều đáng buồn là con người sống trong cái vũ trụ tươi đẹp và có trật tự này đã hành động một cách xấu xa và vô lý khi giáp mặt với Chúa Kitô. Và thế là thế gian ghét bỏ những kẻ bước theo chân Người. Người nói với họ: “các con biết rằng thế gian ghét Thầy trước khi nó ghét các con” (15:18). Trước đó, Người nói với họ: “Thế gian không thể ghét các con, nhưng Thầy thì nó ghét” (7:7).

Cũng theo nghĩa trên ta thấy có những câu nói tới ma quỉ như là “thủ lãnh thế gian” hay tương tự (12:31; 14:30;16:11). Thế gian vui mừng trong khi môn đệ khóc lóc (16:20). Thế gian đui mù. Khi Ngôi Lời đến thế gian, “thế gian không nhận biết Người” (1:10). Thế gian cũng không nhận biết Chúa Cha (17:25), cũng như không tiếp nhận Chúa Thánh Thần (14:17).

Nhưng Thánh Gioan không để chúng ta ở lại với hình ảnh thù nghịch khôn nguôi giữa Thiên Chúa và thế gian. Đã đành thế gian không lưu tâm gì tới sự việc của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa có bao giờ có thái độ như thế đối với thế gian? Ngược lại, Người vẫn yêu thế gian (3:16). Chúa Kitô cho thế gian hay những điều Người đã được nghe từ Thiên Chúa (8:26). Trọn bộ công trình cứu rỗi mà Thiên Chúa thực hiện nơi Chúa Kitô là nhằm cho thế gian. Chính vì thế, Chúa Kitô đã xóa bỏ tội thế gian (1:29). Người là “Đấng cứu độ thế gian” (4:42). Người hiến mạng sống cho thế gian (6:36). Người ban thịt mình cho “thế gian được sống” (6:51). Chúa Kitô đến để cứu thế gian chứ không phán xét nó (3:17; 12:47). Thành công của Người được mô tả như là việc lật nhào Xatan, thủ lãnh thế gian (12:31; 14:30). Chiến thắng này vĩnh viễn là của Chúa Kitô (16:33) nhưng chiến thắng này vẫn không thay đổi sự kiện: thế gian, trong căn bản, vẫn tiếp tục chống đối Chúa Kitô.

Nói tóm lại, theo Leon Morris, hạn từ thế gian mang theo mình khá nhiều ý nghĩa khác nhau mà người đọc cần lưu ý khi học hỏi Tin Mừng Gioan, vì các biên giới giữa các ý nghĩa này rất linh động. Thánh Gioan di chuyển tự do từ ý nghĩa này qua ý nghĩa nọ, có khi còn một lúc dùng nó với nhiều ý nghĩa khác nhau nữa.

4. SỰ THẬT

Trong văn chương Hy Lạp, ý niệm căn bản về sự thật cũng tương tự như ý niệm của chúng ta. Nó chỉ sự thật ngược với sự giả, chỉ thực chất ngược với vẻ bề ngoài. Nhưng trong Tân Ước, việc sử dụng hạn từ này trở nên phức tạp vì nó du nhập nhiều nét từ Cựu Ước. Những nét này mang thêm ý nghĩa trung thành, đáng trông cậy, đáng tin tưởng, chắc chắn… Nhất là khi những hạn từ này được sử dụng để nói về Thiên Chúa. Có thể không ngoa khi quả quyết rằng phần lớn ý nghĩa của các hạn từ này được rút ra từ ý niệm Thiên Chúa. Thực vậy, Người thường được gọi là “Thiên Chúa sự thật” (Tv 31:6 [1]; Is 65:16 [2]). Như thế, sự thật là đặc tính của Thiên Chúa và chỉ nhờ biết Thiên Chúa ta mới biết sự thật. Nhưng con người cũng có thể biết sự thật vì chính Thiên Chúa đã mạc khải nó cho họ. Chính vì vậy, Giacóp đã có thể nói rằng: “con bé nhỏ, đâu xứng với tất cả mọi ân huệ và tất cả sự thật [3] mà Ngài đã tỏ cho tôi tớ Ngài đây” (St 32:10). Những lời cầu nguyện như câu “trong sự thật [4] của Ngài, xin tiêu diệt chúng” (Tv 54:7) làm chúng ta ngỡ ngàng cho đến khi chịu nhớ ra rằng sự thật bao hàm tính đáng tin cậy và tính chính trực hoàn toàn của Thiên Chúa. Người chắc chắn luôn hành động phù hợp với nền luân lý cao cả nhất.

Trong Tân Ước, sự thật cũng được liên kết với Thiên Chúa (Rm 3:7; 15:8 [5]). Trong một câu đáng lưu ý, Thánh Phaolô nói tới việc thờ ngẫu thần như là việc đổi chác sự thật của Chúa lấy sự dối trá (Rm 1:25), điều này làm cho sự thật rất gần gũi với bản tính cốt lõi của Thiên Chúa. Sự thật cũng được liên kết với Chúa Kitô (2Cor 11:10), nhất là trong kiểu nói “vì sự thật ở nơi Chúa Giêsu” mà người ta thường dịch là “đúng như sự thật ở nơi Chúa Giêsu” [6] (Eph 4:21). Thực ra ở đây, Thánh Phaolô không có ý nói tới một khía cạnh sự thật nào đó mà ngài tìm thấy nơi Chúa Giêsu; nhưng ngài muốn nói rằng sự thật của Thiên Chúa, nghĩa là chính sự thật, cư ngụ trong Chúa Giêsu. Đó chỉ là một bước ngắn dẫn tới chính điều Chúa Giêsu thực hiện và do đó, ta nghe nói tới “sự thật của tin mừng” (Gl 2:5), trong khi “lời sự thật” có thể giải thích là “tin mừng cứu độ anh em” (Eph 1:13). Còn nhiều câu tương tự như thế. Điều này ảnh hưởng đến tác phong người tín hữu. Họ thắt lưng bằng đai sự thật (Eph 6:14), giữ ngày lễ “với bánh không men của lòng thành tín và sự thật” (1Cor 5:8). Tóm lại, sự thật phải là đặc tính của người được cứu độ cũng như nó vốn là đặc tính của Đấng Cứu Độ.

Việc khai triển trên đạt tới đỉnh cao trong Tin Mừng thứ bốn. Đối với Thánh Gioan, sự thật là một quan niệm rất quan trọng. Ngài sử dụng nó tới 25 lần trong Tin Mừng và 20 lần trong các thư, trong khi Tin Mừng Mátthêu chỉ sử dụng 1 lần, hai Tin Mừng Máccô và Luca, mỗi Tin Mừng sử dụng 3 lần, các thư Thánh Phaolô sử dụng tới 47 lần.

Bultmann cho rằng nơi Thánh Gioan, ý nghĩa căn bản của sự thật là thực tại Thiên Chúa (xem Theological Dictionary of the New Testament, I, tr.238). Vì Người là Đấng Tạo Dựng, nên Người là thực tại chân thực duy nhất. Điều đặc biệt quan trọng là sự kiện này: ta có thể liên kết sự thật với Chúa Giêsu. Người “đầy ơn phúc và sự thật” (1:14), và là nguồn ơn phúc và sự thật cho con người (1:17). Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ làm chứng cho sự thật (5:33) và vì ngài tự nhận mình là chứng nhân của Chúa Giêsu (xem 1:7), nên điều này càng liên kết sự thật chặt chẽ hơn với Chúa Giêsu. Chính Người từng phán rằng: “Thầy là… sự thật” (14:6). Bultmann cũng cho rằng sự thật như thế không phải là giáo huấn về Thiên Chúa do Chúa Giêsu truyền dạy mà là chính thực tại của Thiên Chúa đang tự mạc khải, đang đến!, trong Chúa Giêsu. Hiểu như thế, sự thật có một mối liên kết rất đặc biệt với thánh giá. Lúc gần kết thúc Tin Mừng, Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là cái gì?” (18:38). Không một câu đáp bằng lời nào đã được đưa ra, nhưng trình thuật Khổ Nạn chính là câu trả lời bằng việc làm vậy. Như A. Corell từng viết: “Trong Tin Mừng thứ bốn, chỉ có thể có một ý nghĩa cho sự thật: đó là sự thật về cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu… Điều này phù hợp với trọn bộ nền thần học của Tin Mừng thứ bốn, mà trọng điểm là việc Chúa Giêsu “được cất lên” (Consummatum Est, London 1958, tr.161). Sự thật, trong cái hiểu của Chúa Giêsu, rất đắt giá.

Tất cả những điều trên đem đến nhiều hậu quả cho con người. “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (8:31-32). Biết sự thật không phải là bước vào tự do tri thức, nhưng là bước vào kinh nghiệm giải thoát được làm môn đệ Chúa Kitô, với tất cả ý nghĩa của việc được giải thoát khỏi tội lỗi và tội lụy, và tình hiệp thông cũng như nhận biết Thiên Chúa. Chúa Giêsu không mô tả sự thật như một nhân đức luân lý hay một quan niệm triết học. Ý tưởng này rất gần với ý tưởng tại 17:3 là câu mô tả sự sống đời đời theo hướng nhận biết Thiên Chúa “chân thật” và Chúa Giêsu Kitô. Ở đây, có lẽ ta cũng nên xét tới sự kiện này là “mọi ơn phúc và sự thật đều nhờ Chúa Giêsu Kitô mà có” (1:17), vì điều này nói lên một liên kết gần gũi giữa sự thật và tin mừng ơn phúc của Thiên Chúa. Trọn bộ thừa tác vụ của Chúa Giêsu đã được thực hiện để Người có thể làm chứng cho sự thật (18:37; xem thêm 8:40, 45, 46; 16:7). Ngược lại, tên xấu xa không đứng về phía sự thật, và quả thực, trong hắn, không hề có sự thật (8:44).

Sự thật cũng có liên hệ tới Chúa Thánh Thần, là Đấng tiếp nối công trình của Chúa Kitô. Thực vậy, điều này tạo thành một nét đặc thù trong giáo huấn của Tin Mừng thứ bốn. Chúa Thánh Thần là “Thánh Thần sự thật” (14:17; 15:26; 16:13). Thánh Gioan còn quả quyết: “Thánh Thần là sự thật” (1Ga 5:6). Một phần trong việc làm của Chúa Thánh Thần là dẫn con người “tới sự thật” (16:13).

Đối với Kitô hữu, sự thật quan yếu đến nỗi họ có thể coi mình “đứng về phía sự thật” (18:37). Chỉ những ai “đứng về phía sự thật” mới nghe được tiếng nói của Chúa Kitô (18:37). Họ được thánh hóa “trong sự thật” (17:17). Thực vậy, việc Chúa Kitô tự thánh hóa mình (phần lớn các học giả cho rằng điều này ám chỉ Người được chọn riêng ra cho cái chết hiến tế) chính là “để chúng cũng được thánh hóa trong sự thật” (17:19). Để cả họ nữa cũng “sống” sự thật (3:21; xem điều ngược lại tại 1Ga 1:6). Sự thật là một đặc điểm của hành động, chứ không phải chỉ là một ý niệm trừu tượng. Tín hữu thờ phượng “trong tinh thần và trong sự thật” (4:23f). Điều này quan trọng đến nỗi Chúa Cha chỉ tìm những người thờ phượng như thế mà thôi (4:23). Thờ phượng phải phù hợp với thực tại Thiên Chúa như đã được mạc khải nơi Chúa Giêsu Kitô.

Nói tóm lại, mối liên kết với Chúa Giêsu là điều thuộc yếu tính đối với ý niệm sự thật như đã được trình bày trong sách Tin Mừng này. Sự thật bắt đầu với bản tính chủ yếu của Thiên Chúa, nó tìm được cách phát biểu trong Tin Mừng Thiên Chúa cứu độ con người và nó phát sinh ra những cuộc đời đặt căn bản trên sự thật và sẵn sàng biểu dương sự thật.

5. TIN

Một trong các điều lạ về Tin Mừng thứ bốn là trong khi động từ pisteuo (tin) được dùng trong đó tới 98 lần, thì danh từ pistis (niềm tin, đức tin) lại hoàn toàn vắng bóng. Không ai hiểu rõ nguyên do. Người ta phần lớn cho rằng có thể đối với hệ thống tiền ngộ đạo thời ấy, dùng dạng danh từ có thể khiến người ta nghi ngờ Tin Mừng này chăng. Điều này dám đúng lắm, nhưng dù có thế đi chăng nữa, thì người ta vẫn lấy làm lạ tại sao Tin Mừng này lại sử dụng động từ pisteuo nhiều đến thế, trong khi Tin Mừng Mátthêu chỉ sử dụng có 11 lần, Tin Mừng Máccô 10 lần (thêm 4 lần nữa trong phần cuối chương 16 mà có người cho là không phải của Thánh Máccô), và Tin Mừng Luca 9 lần.

Xét chung, Thánh Gioan sử dụng động từ này 4 cách. Sử dụng để chỉ sự việc tin 12 lần, người tin 19 lần, tin “vào” Chúa Kitô 36 lần, và 30 lần sử dụng nó một cách tuyệt đối. Không có gì bất thường khi tin rằng việc này việc nọ đã xẩy ra hay tin vào người tin. Điều đáng lưu ý là việc dùng động từ này với giới từ “vào” (eis = into). Dù việc sử dụng giới từ này phần lớn là để nhấn mạnh nghĩa chiểu tự nhưng rõ ràng cách nhấn mạnh của Thánh Gioan rất giống với cách của Thánh Phaolô khi vị thánh này nói đến việc chúng ta cư ngụ “trong” Chúa Kitô (en Christou). Đối với Thánh Gioan, tin là một hoạt động đưa con người ra khỏi chính họ để kết hợp làm một với Chúa Kitô.

Có nhà chú giải cho rằng Thánh Gioan sử dụng động từ pisteuo với giới từ eis này theo nghĩa Hípri để chỉ lòng tin đơn sơ, tín thác bản thân (xem C.H. Dodd, The Interpretation of the Fourth Gospel, Cambridge 1953). Đây là yếu tố nổi bật trong niềm tin vào Chúa Kitô của các Kitô hữu thuở ban đầu. Cái yếu tố luân lý của lòng tín thác bản thân này rất quan trọng để hiểu được Kitô Giáo buổi sơ khai.

Không hẳn là một tình cờ khi Tin Mừng này, song song với việc nói nhiều về việc tin, cũng đã nói nhiều về việc “ở lại” trong Thiên Chúa và Chúa Kitô. Dù tin và ở lại không có liên hệ với nhau trong nhiều câu nói, ngoại trừ câu 12:46, nhưng rõ ràng chúng chỉ về cùng một sự việc. Thực thế, người ta có thể cho rằng việc ở lại trong Chúa Kitô, từng được nhấn mạnh ở các câu mở đầu chương 15, thực tế đồng nghĩa với tin, và đó là lý do tại sao động từ tin không được dùng trong các câu này.

Quan niệm tin “vào” Chúa Kitô này quan trọng đến nỗi có thể dùng động từ này một cách tuyệt đối, không cần túc từ. Trong Tin Mừng này, khi nói đến tin, không cần phải nói tới tin ai. Tin và Chúa Kitô hoà lẫn vào nhau đến độ đã nói về thực tại này là hàm nghĩa nói tới thực tại kia. Ta thấy rõ điều này trong câu đàm thoại của Chúa Giêsu với người mù từ lúc mới sinh “Anh có tin vào Con Thiên Chúa không?” Anh ta hỏi lại: “Nhưng thưa Thầy, Đấng ấy là ai để tôi tin vào Người?”. Tuy nhiên, khi được trả lời, anh ta không nói “Tôi tin vào Đấng ấy” mà chỉ nói “Tôi tin”. Một lần nữa, ta cũng thấy thực sự không có khác biệt chi giữa việc tin các sự kiện về Chúa Kitô và tin “rằng anh em có thể tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa; và nhờ tin như thế anh em có sự sống nhân danh Người” (20:31). Cũng thế, niềm tín thác đơn sơ vào Chúa Cha là điều có liên hệ tới hồng phúc sự sống đời đời (5:24).

Tóm lại, ý niệm căn bản của tin là làm tín hữu ra khỏi con người mình để kết hợp nên một với Chúa Kitô. Thực sự tin Chúa Cha hay thực sự tin các sự kiện về Chúa Kitô đều hàm chứa trong điều trên. Dù sử dụng cách nào, từ ngữ này cũng nhấn mạnh tới niềm tín thác bản thân vào Thiên Chúa.

____________________

[1] Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là “Thiên Chúa thủy chung”; CGKPV dịch là “Chúa Trời thành tín”. Bible de Jerusalem dịch là “God of truth”.

[2] Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là “Thiên Chúa danh hiệu Amen” với lời chú thích: tiếng “Amen” nghĩa là thật. CGKPV dịch là “Thiên Chúa chân thật”. Bible de Jerusalem: God of truth.

[3] CGKPV dịch là “lòng thành kính”

[4] CGKPV dịch là: “vì Ngài thành tín, xin tiêu diệt chúng”.

[5] CGKPV: “lòng trung thành của Thiên Chúa”

[6] CGKPV, còn Cha NT Thuấn thì dịch là: “quả như (Đức Kitô ấy) là sự thật (đã tỏ bày ra) nơi Đức Yêsu”.