Mc 14,1-15,47: Cuộc Thương Khó Của Đức Giêsu

0
2544


Lm. FX. Vũ Phan Long, OP.

 

Bản Văn Tin Mừng: Mc 14,1-15,47 [1]

1 Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giê-su và giết đi; 2 vì họ nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.”

3 Lúc đó, Đức Giê-su đang ở làng Bê-ta-ni-a, tại nhà ông Si-mon Cùi. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. 4 Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? 5 Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo.” Rồi họ gắt gỏng với cô. 6 Nhưng Đức Giê-su bảo họ: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. 7 Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! 8 Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. 9 Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.”

10 Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. 11 Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giu-đa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.

12 Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” 13 Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. 14 Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” 15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta.” 16 Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.

17 Chiều đến, Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai cùng tới. 18 Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.” 19 Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: “Chẳng lẽ con sao?” 20 Người đáp: “Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. 21 Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”

22 Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” 23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. 24 Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. 25 Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.”

26 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu. 27 Đức Giê-su nói với các ông: “Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. 28 Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em.” 29 Ông Phê-rô liền thưa: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.” 30 Đức Giê-su nói với ông: “Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần.” 31 Nhưng ông Phê-rô lại nói quả quyết hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.

32 Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các ông: “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” 33 Rồi Người đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. 34 Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức.” 35 Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. 36 Người nói: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.” 37 Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: “Si-mon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? 38 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” 39 Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. 40 Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người. 41 Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. 42 Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”

43 Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. 44 Kẻ nộp Đức Giê-su đã cho họ một ám hiệu, hắn dặn rằng: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận.” 45 Vừa tới, Giu-đa tiến lại gần Người và nói: “Thưa Thầy!”, rồi hôn Người. 46 Họ liền tra tay bắt Người. 47 Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai.

48 Đức Giê-su nói với họ: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? 49 Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm.” 50 Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. 51 Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. 52 Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.

53 Họ điệu Đức Giê-su đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư tề tựu đông đủ. 54 Ông Phê-rô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ.

55 Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, 56 vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. 57 Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: 58 “Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!” 59 Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau.

60 Bấy giờ vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Đức Giê-su: “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?” 61 Nhưng Đức Giê-su vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: “Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” 62 Đức Giê-su trả lời: “Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” 63 Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? 64 Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?” Tất cả đều kết án Người đáng chết.

65 Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: “Hãy nói tiên tri đi!” Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi.

66 Ông Phê-rô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của thượng tế đi tới; 67 thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì!” 68 Ông liền chối: “Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!” Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy. 69 Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: “Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy.” 70 Nhưng ông Phê-rô lại chối. Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: “Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Ga-li-lê!” 71 Nhưng ông Phê-rô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” 72 Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phê-rô sực nhớ điều Đức Giê-su đã nói với mình: “Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần.” Thế là ông oà lên khóc.

15 1 Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho ông Phi-la-tô.

2 Ông Phi-la-tô hỏi Người: “Ông là vua dân Do-thái sao?” Người trả lời: “Đúng như ngài nói đó.” 3 Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, 4 nên ông Phi-la-tô lại hỏi Người: “Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!” 5 Nhưng Đức Giê-su không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên.

6 Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tùy ý họ xin. 7 Khi ấy có một người tên là Ba-ra-ba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. 8 Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. 9 Đáp lời họ yêu cầu, ông Phi-la-tô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?” 10 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. 11 Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba thì hơn. 12 Ông Phi-la-tô lại hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?” 13 Họ la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” 14 Ông Phi-la-tô lại hỏi: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” 15 Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba, truyền đánh đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.

16 Lính điệu Đức Giê-su vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. 17 Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. 18 Rồi chúng bái chào Người: “Vạn tuế đức vua dân Do-thái!” 19 Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. 20 Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.

21 Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê. Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giê-su. 22 Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ.

23 Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. 24 Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. 25 Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. 26 Bản án xử tội Người viết rằng: “Vua người Do-thái”. 27 Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. 28 Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.

29 Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: “Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!” 31 Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. 32 Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin.” Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.

33 Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. 34 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” 35 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a.” 36 Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không.” 37 Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. 38 Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. 39 Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”

40 Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê Thứ và Giô-xết, cùng bà Sa-lô-mê. 41 Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giê-su khi Người còn ở Ga-li-lê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giê-ru-sa-lem, cũng có mặt tại đó.

42 Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước ngày sa-bát, 43 nên ông Giô-xếp tới. Ông là người thành A-ri-ma-thê, thành viên có thế giá của hội đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 44 Nghe nói Người đã chết, ông Phi-la-tô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa. 45 Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Giô-xếp lãnh lấy thi hài. 46 Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giê-su xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. 47 Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a mẹ ông Giô-xết, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.

***

I.- BỐ CỤC

Bài Thương Khó tự nó đã là một khối chất liệu phong phú giúp cá nhân cũng như cộng đoàn suy niệm. Để có điểm tựa cho việc suy ngẫm này, chúng ta có thể tìm hiểu cấu trúc bản văn.

Đôi khi người ta cho rằng Mc là tác giả viết không hay mấy. Thật ra không phải thế. Ở đây chỉ nguyên việc nghiên cứu cấu trúc của bài Thương Khó, chúng ta đã nhận ra một nền thần học sâu sắc nằm chìm trong đó. Bản văn có thể chia thành hai phân đoạn:

1/. Mc 14,1-21:

Phân đoạn này có cấu trúc đồng tâm như sau:

    A     cc. 1-2: Giới lãnh đạo âm mưu giết Đức Giêsu

        B     cc. 3-9: Xức dầu tại Bêtania

            C     cc. 10-11: Giuđa phản bội

        B’     cc. 12-16: Chuẩn bị ăn Lễ Vượt Qua

    A’     cc. 17-21: Đức Giêsu báo trước Giuda sẽ phản bội

Cấu trúc này nhắm vào hành vi phản bội của Giuđa (C), đã được chuẩn bị bởi cuộc âm mưu của giới chức tôn giáo (A) và được Đức Giêsu loan báo (A’). Ở bên trong cái khung này, có việc xức dầu ở Bêtania, được coi như lời báo trước cái chết của Đức Giêsu (B), còn các việc chuẩn bị cho bữa tiệc Vượt Qua là như những lời tiên báo về cuộc phục sinh của Đức Kitô (B’). Nằm ngay trọng tâm việc Đức Giêsu cứu độ chúng ta nhờ cái chết và sự sống lại của Người, là hành vi phản bội của Giuđa.

2. Mc 14,22-16,8:

Phân đoạn thứ hai này cũng có cấu trúc đồng tâm như sau:

A     14,22-25: Lập Bí tích Thánh Thể

B     14,26-31: Phêrô sẽ chối Thầy

C     14,32-52: Tất cả các môn đệ chạy trốn

D     14,53-65: Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa, còn thầy thượng tế thì xé áo

E     14,66-72: Đáp lại Đức Giêsu tuyên xưng niềm tin, Phêrô chối ba lần

F     15,1-15: Kết án vua dân Do Thái

G     15,16-20a: Tôn vương vua dân Do Thái

F’    15,20b-27: Thi hành án tử cho vua dân Do Thái

E’    15,19-32: Ba lần Đức Giêsu bị chế nhạo

D’    15,33-39: Đáp lại sự chế nhạo, một người ngoại tuyên bố Người là Con Thiên Chúa. Màn Đền Thờ xé ra

C’    15,40-41: Các phụ nữ đứng đó (họ đã đi theo và phục vụ Đức Giêsu: đây là tư cách của người môn đệ)

B’    15,42-47: Cái chết của Đức Giêsu làm phát sinh các môn đệ mới

A’    16,1-8: Đức Giêsu phục sinh là Đấng đang sống.

Bản văn đúng là một khảo luận thần học về Đức Kitô, về các môn đệ, Bí Tích Thánh Thể, tương quan giữa Đức Giêsu và các cơ cấu phượng tự Israel, sự mở rộng ơn cứu độ cho Dân ngoại. Chúng ta có thể nêu vài nhận xét:

A-A’ cho thấy Bí Tích Thánh Thể như là nơi Đức Giêsu đang sống hôm nay trong Hội Thánh. C-C’ cho thấy người môn đệ đích thực không những là người đã bước theo Đức Kitô, nhưng còn là người đã “phục vụ” (giúp đỡ) Người. Đấng Chịu đóng đinh, Đấng vừa được tôn vương, theo kiểu khôi hài nhưng có thật (G) không là ai khác mà là chính Con Thiên Chúa (D-D’), nghĩa là Đấng làm trọn niềm chờ mong của Cựu Ước, là Đấng Mêsia, vua dân Do Thái (F-G-F’) (như thế đã kết thúc dự phóng của Mc là nhắm cho thấy rằng quả thật Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”, Mc 1,1). Các phân đoạn D và D’ còn cho thấy rằng nếu người ngoại giáo có thể tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa là bởi vì với cuộc Thương Khó của Người, Người đã chấm dứt chế độ tư tế Lêvi (theo Luật, cấm thầy thượng tế xé áo, x. Lv 21,10) và việc phục dịch Đền Thờ là việc bị cấm đối với người ngoại (điều này được cho thấy qua việc màn trường Đền Thờ xé ra).

Tất cả mọi điều này đã có thể xảy ra bởi vì Đức Kitô đã bị đóng đinh và, như phân đoạn thứ nhất 14,1-21 nhắc nhớ, cũng là vì Giuđa đã phản bội…

+ Kết luận

Trọng tâm của cuộc Thương Khó là Đức Giêsu. Người đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng việc loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa và kêu gọi các môn đệ hợp tác với Người. Thế là “con đường” đã thành hình do các lời nói và cách sống của Người. Tuy nhiên, Đức Giêsu liên tục gặp phải sự ngu dốt và trì trệ của các môn đệ. Người cũng đã bị dân Nadarét loại trừ và đám đông không hiểu. Ngược lại có những tín hiệu cho thấy dân ngoại sẵn sàng đón tiếp Người hơn: truyện người phụ nữ xứ Xyri và việc bánh hóa nhiều còn dư bảy giỏ (để dành cho người vắng mặt!). Đức Giêsu đã kết thúc sứ vụ Galilê trong tình trạng tranh tối tranh sáng của các môn đệ.

Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu là cơ hội để vạch rõ gương mặt thật của tất cả mọi con người đã từng có cơ hội tiếp xúc với Đức Giêsu, và cũng là khoảng thời gian chứng minh cao độ nhất tư cách của Đức Giêsu là Đấng Cứu thế và ơn cứu độ viên mãn Thiên Chúa muốn ban cho loài người qua Con của Ngài. Cần chiêm ngắm những chọn lựa của Đức Giêsu. Người có thể tránh khỏi cái chết, nhưng Người lại sẵn sàng nạp mình. Người có thể lợi dụng đám đông để gây ra một cuộc đảo lộn để gây thanh thế, nhưng Người lại im lặng, chịu cảnh cô đơn. Người có thể vận dụng quyền lực của “Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng” để tự giải thoát, nhưng Người đã chịu hành hạ, sỉ nhục, đánh đòn và bị đóng đinh.

Đức Giêsu giống như một con người quá yếu, yếu một cách thảm hại. Người như một kẻ bị thua, thua một cách nhục nhã. Tuy nhiên, Người lại rất mạnh trong chính tình trạng yếu thua đó, khi Người thắng vượt mọi thử thách đau đớn để trung thành với Chúa Cha. Dù như bị Thiên Chúa bỏ rơi, Người vẫn yêu mến, vẫn tin tưởng phó thác. Dù bị chế nhạo, nguyền rủa, Người vẫn một lòng yêu thương tha thứ. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã cứu thoát loài người và đem đến cho con người sự sống vĩnh cửu.

II.- GỢI Ý SUY NIỆM

1. Hai cám dỗ

Khi đọc bài Thương Khó, chúng ta dễ có một trong hai thái độ, thật ra là những cám dỗ nặng nề: hoặc cảm động khi thấy Đức Giêsu đáng thương bị sỉ nhục, bị đánh đòn và bị đóng đinh; hoặc nổi giận với các thượng tế đã kết án Người phải chết và với toán lính đã giết chết Người khi hành hạ và đóng đinh Người. Các tâm tình này đúng là các cám dỗ bởi vì chúng thỏa mãn một thứ linh đạo cảm xúc, nhờ đó chúng ta cảm thấy mình có lương tâm đúng đắn, không có chút gì đáng trách cả, nhưng trong thực tế, chúng ta chẳng hề thấy mình bị liên lụy gì trong bản thân và trong cuộc sống chúng ta với cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Chúng ta cảm thấy mình có “đôi bàn tay sạch”!

2. Kinh nghiệm về đời môn đệ

Muốn biết mình có phải là môn đệ chân chính của Đức Giêsu chăng, ta phải quy chiếu vào Đức Giêsu. Tác giả Mc đã làm như thế cho trường hợp Phêsrô. Khoảnh khắc đặc biệt phù hợp là hoạt cảnh cuộc xử án trước Thượng Hội Đồng. Tác giả Mc đã tinh tế so sánh cuộc thẩm vấn Đức Giêsu do các thượng tế thực hiện (14,53.55-65) với cuộc “hỏi dò” Phêrô do người nữ tỳ và các người giúp việc thực hiện (14,54.66-72). Tác giả đã đặt hai con người trong thế tương phản: khi Đức Giêsu trả lời thật cho các lời chứng dối trước một quyền bính hợp pháp, Phêrô lại trả lời dối cho các dò hỏi có cơ sở của những người cấp dưới không có chút quyền bính. Chính những lúc khó khăn mà vẫn sống giống như Đức Giêsu, người môn đệ mới đúng là môn đệ chân chính.

3. Con người đau khổ

Quả thật, chúng ta cần chia sẻ với nhau xác tín này: Chỉ có nơi Chúa, ta mói có thể tìm ra sức mạnh mà sống cái hiện tại khó khăn và hy vọng vào một tương lai ở bên kia trái đất mà Thiên Chúa đã bảo đảm cho ta. Suy ngẫm cuộc Thương Khó của Đức Kitô, bằng cách nhận ra rằng cuộc Thương Khó này đang xảy ra nơi một con người đang đau khổ ở kề bên ta, giúp ta tránh được việc sống cuộc Thương Khó như một cuộn phim hết sức cảm động hoặc như một quyển tiểu thuyết khiến rơi nước mắt, nhưng thúc bách ta suy nghĩ về đau khổ của Người. Một đau khổ có thể chạm tới được, khi mà Người bị nỗi lo sợ khắc khoải đè bẹp, Người xin Chúa Cha nếu có thể được thì cất xa thử thách này, hoặc hơn nữa, khi hoàn toàn là một con người, trên thập giá, Người kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”. Chính con người trên thập giá, con người của đau thương ấy, thật sự đang là hiện thân của đời sống chúng ta, một cuộc sống thường bị mờ tối đi vì những thử thách và khắc khoải. Tuy nhiên, đây là một đau khổ có thể đưa lại một ý nghĩa tuyệt đối mới mẻ theo viễn tượng của Đức Kitô, Đấng vừa là người vừa là Thiên Chúa, Đấng đã sống lại sau khi chết. Như phụng vụ phép Rửa nhắc nhớ, qua Con của Ngài, Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta “niềm hy vọng vui tươi là được sống đời đời”.

Hôm nay, chúng ta cần phải thấy rõ: chúng ta có được sự sống chân thật ở nơi nào? Nơi các sức mạnh của trần gian hay là nơi Thiên Chúa? Cần phải thấy rõ, và chọn lựa dứt khoát. Lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn vang vọng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.



[1] Bản văn Tin Mừng do nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ chuyển ngữ