Mc 12,38-44: Đạo Đức Giả Và Quảng Đại Thật

0
439


Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

Bản Văn Tin Mừng: Mc 12,38-44[1]

38 Trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. 39 Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 40 Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.

41 Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. 42 Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma. 43 Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. 44 Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”.

***

1.- Ngữ cảnh

Giáo huấn của Đức Giêsu và lời nhắc đến các kinh sư đi với nhau, khiến chúng ta nhớ đến đoạn văn trước (Mc 12,35).[2] Bản văn này là như bức tranh bộ đôi trong đó nổi rõ những nét tương phản. Các kinh sư khoe khoang và đạo đức giả bị chỉ trích trong đoạn văn này là hình ảnh ngược lại với hình ảnh người môn đệ của Đức Giêsu.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

– 1/. Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (Mc 12,38-40);

– 2/. Câu truyện bà góa nghèo (Mc 12,41-44).

Hai phần này được liên kết với nhau bằng từ móc nối “bà góa” (Câu 40; 42).

3.- Vài điểm chú giải

– Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa… thích… (38): Các lời cáo buộc của Đức Giêsu được nêu theo một mức độ trầm trọng tiệm tiến: xúng xính trong áo thụng, thích được chào và thích ghế danh dự. “Áo thụng” (Hy Lạp: stolê) là áo choàng các kinh sư thường mặc để vận dụng trong một số trường hợp. Mt 23,5 trách là họ đã nối dài tua áo.[3] Thật ra chính bộ áo cũng đã “thụng”, khi đi thì kéo lê sát đất. Cũng có thể đây là cử chỉ quấn mình vào trong áo khi cầu nguyện, khi tuyên một bản án hoặc khi giải gỡ các lời khấn. Dù thế nào, đây cũng là một lối khoe khoang áo xống, nhằm được tôn kính. “Ưa được chào hỏi” tại các nơi công cộng cũng là một tật xấu, cùng với tật “ưa chiếm chỗ danh dự” trong các hội đường hay các đám tiệc. Chỗ nhất trong hội đường là vị trí ở trước hòm chứa “Tôrah”, chỗ này được dành cho những nhân vật cao trọng và các quan chức. Chỗ danh dự trong bữa tiệc là chỗ bên cạnh chủ nhà hoặc người khách đặc biệt.

– Họ nuốt hết tài sản của các bà góa (41): Bản văn Hy Lạp viết là “nuốt trửng các nhà”. Vào thời ấy, các kinh sư có thể được cậy nhờ quản lý giúp số tài sản nhỏ nhoi của các bà góa. Nhờ đó, họ có thể trục lợi. Cũng có thể là họ tư vấn về pháp luật cho các bà góa rồi đòi một thù lao cắt cổ. Dưới mắt một số chuyên pháp lý và các ngôn sứ Cựu Ước, bóc lột bà góa, người ít được luật bảo vệ nhất,[4] là một tội đặc biệt đáng ghét,[5] còn nâng đỡ cô nhi quả phụ theo gương Thiên Chúa[6] là một việc lành được kể ở hàng đầu.

– Làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ:[7] Đức Giêsu không kết án việc cầu nguyện lâu giờ, nhưng kết án việc cầu nguyện để cho người ta thấy. Các kinh sư đã làm hỏng hành vi tôn giáo là cầu nguyện khi nối kết nó với thái độ khoe khoang kệch cỡm của họ.

– Thùng tiền (41): Từ Hy Lạp “Gazophylakion” (do từ ngữ Ba Tư gaza = kho tàng). Đây có thể là phòng tàng trữ của cải ở bên trong khuôn viên Đền Thờ; khuôn viên này, chỉ người Do Thái mới được vào. Trong căn phòng này, có đặt mười ba hòm đựng của dâng cúng. Theo 2Mcb 3,6, vào thời vua Sêlêukhô IV, phòng này đầy ứ những của cải. Theo Phl. Gioxép (Chiến tranh Do Thái 6, 282), vào năm 70 sau Công Nguyên, khi Đền Thờ bị thiêu hủy, phòng này đã bị thiêu rụi cùng với vàng bạc châu báu, xiêm y, tiền bạc.

– Người quan sát xem (41): Đức Giêsu ngồi đó như một khán giả xem (etheôrei) cảnh sinh hoạt. Thật ra lối mô tả của Marcô không rõ ràng: Trong khi Đức Giêsu ngồi đối diện với phòng tàng trữ của cải (gazophylakion), dân chúng ném tiền vào trong các hòm của dâng cúng (gazophylakion); mà dường như người ta không được phép ngồi ở đây, nhất là lại ngồi để xem như xem trình diễn!

– Đám đông bỏ tiền: “Tiền” đây dịch từ Hy Lạp “Chalcos” (tiền đồng), nhưng ở đây có nghĩa là “tiền bạc” nói chung.

– Một bà góa nghèo (42): Tác giả dùng từ chỉ số lượng “mia” (one) thay vì dùng “tis” (a certain), nhưng đấy là lối viết thông thường thời đó. Tuy vậy, hẳn là ngài cũng muốn lưu ý đến một sự cố đặc biệt (“một bà góa nghèo đến bỏ vào đó…”).

– Hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc: Hai đồng “tiền kẽm”, “lepta” (số ít: lepton), bằng một “kodrantês”; một “kodrantês” bằng ¼ “as” hoặc “assarion”; một “assarion” bằng 1/6 quan.[8]

– Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa…, bà này thì rút từ cái túng thiếu… (44): Ở đây không có một bài học luân lý nào được minh nhiên rút ra. Nhưng vì đã quen với giáo huấn của Thầy, hẳn các môn đệ Đức Giêsu có thể rút ra được nhiều bài học như: đừng phê phán ngưòi ta dựa vào dáng vẻ bề ngoài;[9] những người quảng đại nhất cũng như những người đạo đức nhất không nhất thiết là những người đã tỏ ra như thế; chỉ một mình Thiên Chúa thấy trong nơi bí ẩn[10] và biết các cõi lòng[11]

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (Câu 38-40)

Giáo huấn của Đức Giêsu được chia thành một lời khuyến cáo mở đầu (Câu 38b), một lời mô tả các kinh sư (Câu 38c-40b), và một lời kết đe dọa phán xét (Câu 40c). Lời chỉ trích đầu tiên nhắm đến cao vọng diễn tả ra trong cố gắng tìm cho được dân chúng nhìn nhận. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng cách mặc những áo dài đại lễ và yêu cầu được người ta cung kính chào tại các quảng trường và được có những chỗ danh dự trong các cử hành tôn giáo và tại bữa tiệc. Đau xót hơn, đó là lời chỉ trích thứ hai liên hệ đến sự tham lam của các kinh sư. Lối sống của họ càng đáng trách hơn nữa khi họ nối kết hành vi bóc lột với việc cầu nguyện lâu dài và giả hình.

Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc tại cuộc xử án cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời.[12]

* Câu truyện bà góa nghèo (41-44)

Khung cảnh Đền Thờ, phòng tàng trữ của cải, cùng với những người giàu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nổi bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà góa, một con người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Đức Giêsu thấy được tấm lòng của bà. Lời giáo huấn Ngài ban cho các môn đệ bắt đầu bằng câu “Thầy bảo thật (amên) anh em” cho thấy rằng Đức Giêsu ở trong thế có thể thật sự lượng định giá trị của lối xử sự của loài người. Không phải là nguyên sự tự do thanh thoát đối với của cải đã đưa lại giá trị cho hành vi dâng cúng, nhưng là tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua hành vi đó.

+ Kết luận

Đấng “dò thấu lòng dạ”,[13] và không bị đánh lừa bởi những dáng vẻ bề ngoài, mời gọi các môn đệ đừng để bị lừa bởi một bộ mặt đạo đức che đậy sự khoe khoang, tham lam và đạo đức giả, hoặc bởi vẻ không đáng kể của những hành vi bác ái do những người nghèo và những người thất học thực hiện. Mỗi người được mời gọi ý thức về sự mỏng dòn của mình mà cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng thiện chí của kẻ khác.

5.- Gợi ý suy niệm

1/. Lời lẽ Đức Giêsu phê phán các kinh sư có thể có phần phóng đại. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân Chúa ở các cấp vẫn cảm thấy được mời gọi đánh giá lại phong cách, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng của mình khi làm các công việc phục vụ. Sự lừa dối đã là đáng trách, nhưng càng đáng trách hơn nữa hành vi lừa dối bằng cách vận dụng những yếu tố liên hệ đến sự thánh thiện[14] để che giấu một thực trạng tiêu cực.

2/. Chúng ta phải cố gắng chu cấp các điều cần thiết cho gia đình chúng ta; nhưng chúng ta được Đức Giêsu giúp hiểu rằng chúng ta cũng có trách nhiệm về tình trạng an vui của kẻ khác. Có rất nhiều những lời bào chữa mà một trái tim ích kỷ có thể tìm ra để tránh né việc giúp đỡ kẻ khác. Hẳn là chúng ta không quên rằng không ai trong chúng ta nghèo đến nỗi không có cái gì để trao tặng.

3/. Tấm gương bà góa mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng to lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng. “Của cho không bằng cách cho!”. Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa kính trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương của bà góa, không những âm thầm kín đáo làm các hành vi đạo đức, mà còn sẵn sàng giúp đỡ những người đang sống cảnh cô độc neo đơn.

 



[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh

[2] Mc 12,35: Khi giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su lên tiếng hỏi: “Sao các kinh sư lại nói Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít?

[3] Mt 23,5: Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài.

[4] Bởi vì: 1/. là phụ nữ; 2/. đại diện cho tình trạng nghèo túng.

[5] Xh 22,21tt: Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp…; Đnl 27,19: Đáng nguyền rủa thay kẻ làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều, cô nhi quả phụ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!; Is 1,7.23: Xứ sở các ngươi hoang tàn, thành thị các ngươi bị lửa thiêu. Đất đai các ngươi, kẻ ngoại bang thôn tính ngay trước mặt, khiến trở nên hoang tàn như bị quân ngoại bang giày xéo… Các thủ lãnh của ngươi là những kẻ phản nghịch, đồng lõa cùng trộm cướp. Tất cả bọn chúng đều thích ăn hối lộ, và chạy theo quà cáp. Chúng không phân xử công minh cho cô nhi, cũng chẳng quan tâm đến quyền lợi quả phụ.; Is 10,2: …để cản người yếu hèn hưởng công lý, tước đoạt quyền lợi người nghèo khó trong dân tôi, để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi.; Gr 7,6: không ức hiếp ngoại kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây, không đi theo các thần ngoại mà chuốc hoạ vào thân; Gr 22,3: ĐỨC CHÚA phán như sau: Hãy thực thi lẽ công minh và điều chính trực; hãy giải thoát người bị bóc lột khỏi tay kẻ áp bức; đừng ngược đãi ngoại kiều, trẻ mồ côi và người goá bụa; đừng cưỡng bức và đổ máu người vô tội ở nơi đây.; Tv 94,6: Chúng giết người quả phụ, giết khách ngoại kiều, tàn sát cả cô nhi!

[6] Đnl 10,18t: là Đấng xử công minh cho cô nhi quả phụ, và yêu thương ngoại kiều, cho họ bánh ăn áo mặc.; Đnl 24,17-22: Anh (em) không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều và cô nhi, không được giữ áo của người goá bụa làm đồ cầm. Anh (em) hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên Ai-cập, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã giải thoát anh (em) ra khỏi đó. Vì vậy tôi truyền cho anh (em) thực hành điều đó. Khi anh (em) gặt lúa trong ruộng mình, mà bỏ sót một bó lúa trong ruộng, thì không được quay lại mà lấy; bó lúa ấy dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ; như vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc tay anh (em) làm. Khi hái ô-liu, thì anh (em) không được trở lại tìm trái sót; những trái đó dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ. Khi hái nho, thì anh (em) không được mót lại; những trái còn sót dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ. Anh em hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên đất Ai-cập. Vì vậy, tôi truyền cho anh (em) thực hành điều đó.; Đnl 26,12t: Năm thứ ba, tức là năm nộp thuế thập phân, sau khi anh (em) đã trích ra một phần mười hoa lợi mà đem cho thầy Lê-vi, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ, và họ đã được ăn uống no nê trong các thành của anh (em); G 29,13: Tôi được người hấp hối chúc lành, tôi đem lại niềm vui cho lòng goá phụ.; G 31,16: Phải chăng tôi từ chối ước vọng của người nghèo, làm cho mắt goá phụ mỏi mòn vì trông ngóng?

[7] Xc. Mt 6,5: “Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi”.

[8] Một quan, “denarius”, là lương công nhật một người thợ

[9] Xc. Mc 12,40: Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.; Mt 23,27: Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.

[10] Mt 6,4.6.18: …để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh…Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh… để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.

[11] Lc 16,15: Người bảo họ: “Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa”.; x. Cv 1,24: Họ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai”.; Cv 15,8: Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta.

[12] Xc. Mc 10,30: mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.

[13] Xh 2,23: Sau những năm dài ấy, vua Ai-cập qua đời. Con cái Ít-ra-en rên siết trong cảnh nô lệ. Họ ta thán, và tiếng họ kêu từ cảnh nô lệ đã thấu tới Thiên Chúa.; x. Tv 7,10: Lạy Thiên Chúa công minh, Chúa dò thấu lòng dạ con người, xin làm cho bọn ác nhân hết đường tác hại và cho người công chính được vững vàng.; Tv 17,10: Kẻ thù con lòng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạn khinh đời.

[14] Tỉ dụ như đọc kinh cầu nguyện, thánh lễ, viếng nhà thờ,…