Mc 10,46-52: Đức Giêsu Chữa Lành Người Mù Ở Giêrikhô

0
4439


Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

Bản Văn Tin Mừng: Mc 10,46-52[1]

46 Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. 47 Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng:Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng:Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”49 Đức Giê-su đứng lại và nói:Gọi anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo:Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. 51 Người hỏi:Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp:Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.52 Người nói:Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

***

1.- Ngữ cảnh

Mc 8,22-26 kể truyện một người mù được dẫn đến gặp Đức Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và được yêu cầu giữ kín việc này; trong Mc 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Đức Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này, cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.

Hai đoạn Mc 8,22-26 và Mc 10,45-52 là những bài tường thuật có vai trò chuyển mạch. Hai đoạn này đưa độc giả đến một lời tuyên xưng công khai vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu: đức tin vào tư cách Mêsia giả thiết có biến cố Khổ Nạn. Trong viễn tượng đối thần này, việc Đức Giêsu mở mắt có giá trị một dấu chỉ.

Đọc trong ngữ cảnh của tác phẩm Marcô, sứ vụ chữa lành của Đức Giêsu bắt đầu bằng một cuộc trừ quỷ trong hội đường Caphácnaum (Mc 1,21-28) và chấm dứt với việc chữa lành anh mù Batimê tại Giêrikhô, trên đường lên Giêrusalem (Mc 10,46-52), nơi Đức Giêsu sẽ bày tỏ chân tính của Người. Chúng ta có tất cả 13 cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với những người đau khổ, mà ta có thể coi như là 13 chặng của hành trình: 11 chặng đi trước việc Phêrô tuyên xưng đức tin (Mc 8,29), kèm theo lời loan báo đầu tiên về Thương Khó (Mc 8,31-32) nhằm khai mạc hành trình lên Giêrusalem. Cuộc trừ quỷ cho đứa bé bị động kinh (Mc 9,14-29) và cuộc gặp gỡ Batimê (Mc 10,46-52) đánh dấu kết thúc sứ vụ chữa lành. Ngược lại với Matthew và Luca, Marcô không đặt một phép lạ nào ở Giêrusalem, nơi hết sức thù nghịch với Đức Giêsu.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1/. Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (Mc 10,46);

2/. Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (Mc 10,47-50);

3/. Đỉnh cao của bài: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (Mc 10,51-52).

3.- Vài điểm chú giải

– Con đường (hê hodos) (46): Chúng ta đang ở trong phân đoạn trọng tâm Trên đường (x. Bố cục). Mc 10,32 ghi: “Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem. Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”. Đề tài này với tất cả những gì liên hệ đến “con đường” (tiến bước, dừng chân…) càng nổi bật trong Mc 10,46-52: họ (các môn đệ, đám đông và Đức Giêsu) đến Giêrikhô. Nhưng rồi Giêrikhô cũng chỉ là một chặng trên “con đường” (“Khi Đức Giêsu … ra khỏi Giêrikhô”).

– Môn đệ: Xem ghi chú ở 2,18. Các môn đệ (mathêtai) đi theo Đức Giêsu được phân biệt với đám đông tổng quát hơn (x. Mc 8,34; 9,14). Khi ghi nhận những lần tác giả sử dụng từ “đám đông” (“ochlos”), chúng ta có thể khẳng định rằng, cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Marcô ghi nhận sự hiện diện thường xuyên của đám đông. Trong một vài đoạn, ngài còn ghi là đám đông đi theo Người (x. Mc 3,20; 5,24; 8,2; x. plêthos ở 3,7 và polloi ở 2,15). Tuy nhiên, trong phân đoạn Mc 8,27–10,52, hiếm khi Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông. Trước Mc 10,46, đám đông xuất hiện ở Mc 9,14 và Mc 10,1 (lần duy nhất “ochloi” ở số nhiều). Trong chuyến đi về Giêrusalem, Đức Giêsu săn sóc đặc biệt các môn đệ. Thông thường, khi cứu xét ngữ cảnh, ta có thể giả thiết là các đám đông là những người phát xuất từ vùng Đức Giêsu đi ngang qua (Mc 10,1). Trong trường hợp Mc 10,46, vì đã gần lễ Vượt Qua, ta có thể nghĩ đến những người hành hương đang cùng đi với nhau tiến về thành thánh. Dù sao, Marcô đã không quan tâm ghi chú lý do vì sao đám đông ra khỏi Giêrikhô với Đức Giêsu và các môn đệ Người.

Báctimê: Báctimê là phiên âm cụm từ Aram “bar timay”, có nghĩa là “con ông Timê”.

– Một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường: So với hành động của anh mù được kể ở câu 52 (“đi theo”), câu này cho thấy vị trí đầu tiên của Báctimê hoàn toàn ngược lại: “đang ngồi ở vệ đường” (“para tên hodon”). Đây là một tư thế cố định được coi như vĩnh viễn (thì vị-hoàn của động từ “ekathêto”). Đã thế, anh lại là người hành khất (“prosaitês”) và bị mù. Tư cách hành khất diễn tả sự cố định, còn sự mù lòa diễn tả sự xa cách. “Bên vệ đường” có nghĩa là “ở bên ngoài đường”. Như vậy, Báctimê ở trong thế bị loại trừ, cố định, xa cách người khác.

– Vừa nghe nói là Đức Giêsu Nazaret, anh ta bắt đầu kêu lên (47): Đám đông can thiệp nhiều lần. Lần đầu tiên, họ cho biết đó là “Đức Giêsu Nazaret” (câu 47). Báctimê nhận thông tin này bằng thính giác (“đã nghe”): vì mù loà nên xa cách. Nhưng có sự gần gũi: Giêsu người Nazaret là một con người; và hình như anh cũng đã được thông tin về Người rồi. Tuy nhiên, sự gần gũi này cũng chưa giúp gì cho anh. Anh kêu lên (vì xa cách): “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Đáng ngạc nhiên là đám đông chỉ giới thiệu Đức Giêsu như một con người (“người Nazaret”), mà anh này lại kêu cầu Người bằng một danh hiệu của Đấng Mêsia (“con vua Đavít”). Dù sao, truyền thống Do Thái chờ đợi Đấng Mêsia nhà Đavít đến giải phóng dân Israel và can thiệp để cứu độ, chứ không chờ Người chữa bệnh. Do đó, nhiều nhà chú giải cho rằng Marcô đã đặt vào miệng anh mù một lời cầu khẩn của Kitô giáo. Đức Giêsu còn ở xa anh, vừa về không gian vừa do tư cách, nên anh phải kêu để mong gặp Người. Lời kêu này đã giúp anh vượt qua khoảng cách đó để gặp được Đức Giêsu.

Nhiều người quát nạt… anh càng kêu lớn (48): Bây giờ, đám đông đã trở thành một trở ngại thật đáng kể; nhiều người muốn bắt anh im đi. Trong các Tin Mừng, sáng kiến đi đến với Đức Giêsu không bao giờ phát xuất từ dân chúng hay các môn đệ. Ở đây, chính sự ngăn cản của họ trở thành một thử thách cho đức tin của anh, nhưng anh càng kêu to hơn. Danh Giêsu đã biến mất khỏi công thức khẩn cầu, chỉ còn lại danh hiệu “con vua Đavít”.

Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (49): Người cắt ngang cuộc tiến bước. Khi làm như thế, Người tách khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người phá vỡ một sức năng động mà Người đã phát động và lôi kéo. Lời Người nói chứng tỏ giữa Người và anh mù, có một khoảng cách, và đám đông đang ở tại vị trí này. Hành vi cắt ngang chuyến đi của Đức Giêsu tạo ra một hậu quả bất ngờ: người mù vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu, y như thể anh không bị mù.

Anh mù: Đáng lưu ý là Báctimê được gọi là “anh mù” (“ho typhlos”: câu 49 và 51) sau khi Đức Giêsu can thiệp. Nếu tác giả Marcô chỉ gọi anh là “anh mù”, phải chăng ngài muốn nói rằng anh không “hành khất” nữa?

Vất áo choàng: Tấm áo choàng (“himation”: “áo”; “áo choàng”) có thể là y phục nói chung (Mc 2,21; 5,28-30; 9,3; 15,20.24), nhưng ở đây có thể là tấm vải dùng như áo choàng (Mc 5,27; 6,56; 11,7.8; 3,16) mà một người nghèo có thể dùng làm mền đắp (Xh 22,25-26; Đnl 24,13), còn anh mù có thể trải ra trước mặt mà nhận các món bố thí (những người hành khất Đông phương thường làm như thế). Hành vi “vất (“apobalôn”) áo” có thể là cách diễn tả một sự hứng khởi tột độ; nhưng dựa theo ý nghĩa của động từ ấy, có thể nói hầu chắc là anh mù làm một hành vi từ bỏ dứt khoát. Ý nghĩa chính của động từ này là “vất đi, quẳng ra sau (với sức mạnh)”“bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26,5 LXX) hoặc “đánh mất” (Is 1,30 LXX; Dt 10,35). Anh mù đã làm một động tác dứt khoát, nhằm bỏ cái áo đi. Hành vi này chứng tỏ một sự liều lĩnh của anh mù, nhưng cũng cho thấy anh hết sức tin tưởng vào sự trợ giúp của Đức Giêsu và không muốn để cho ngay cả một vật cần thiết cho cuộc sống gây cản trở cho mình. Cũng có thể coi động tác ấy có ý nghĩa biểu tượng là từ bỏ chính mình (Mc 8,34-35), cắt đứt với quá khứ (Mc 1,18.20; 10,28).

– Đứng phắt dậy (50): Động từ “anapêdaô” là một “hapax legomenon” (từ dùng mộtlần) trong Tân Ước, và ngày cả trong bản LXX cũng không được dùng thường xuyên (7 lần). Từ này mô tả động tác “nhảy lên” theo cách cương quyết và bất ngờ (Tb 6,2) thường từ thế ngồi (1 Sm 20,34; Tb 2,4; 7,6; Et 5,1e) và vì sự phấn khích (Et 5,1e: “lo âu lao mình xuống”, agôniasas anepêdêsen). Trong những đoạn khác, Marcô diễn tả hành vi “trỗi dậy” bằng động từ “egeirô” quen thuộc hơn (Mc 2,12; 4,27; 13,8.22; 14,27). Theo lời mời “egeire” (“Hãy đứng dậy!”) của Đức Giêsu ở Mc 2,11 và Mc 5,41, phản ứng đáp lại được mô tả cũng bằng động từ “egeirô” hoặc “anistêmi” (Mc 5,42; 9,27). Nếu chúng ta nhớ sự tương ứng của “egeirôanistêmi” ở Mc 5,41-42 và nhớ rằng ở Mc 2,14, “anastas” mô tả sự đoạn tuyệt với cuộc sống đã qua nhằm đi theo Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là, trong một ngữ cảnh nói về việc kêu gọi, động từ “anapêdaô” diễn tả mạnh mẽ hơn một sự sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.

Đến: Động từ này mở đầu bài tường thuật dành cho đám đông (câu 46: “Đức Giêsu và các môn đệ đến”), nay được dành riêng cho anh: “êlthen”, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi duy nhất, quyết liệt.

– Anh muốn tôi làm gì cho anh? (51): Đức Giêsu lưu tâm đến cá nhân anh mù. Người đã cho gọi anh đến như cho vào một cuộc tiếp kiến; bây giờ Người hỏi về điều anh muốn khiến ta nhớ lại Mc 10,36: Đức Giêsu xử sự như Đấng có vương quyền.

– Thưa Thầy: Trong bản văn Hy Lạp, ta đọc là “Rabbouni”; đây là từ Aram đã không được dịch ra Hy-ngữ, tăng cường từ “Rabbi” (“đức ông”, “ngài”).

– ­Anh hãy đi: Đức Giêsu đã ban cho anh được thấy, như là một dấu chỉ của đức tin (“Lòng tin của anh đã cứu anh”).

– Anh đi theo Người trên con đường (52): Động từ “êkolouthei” ở thì vị-hoàn hàm ý một sự tiếp diễn: tiếp diễn trong chuyển động. Bởi vì đây là việc bước đi “trên đường”, nhưng cũng là trong sự gần gũi, bởi vì người ta bước theo sau một ai đó.Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự hiện diện vĩnh viễn “trên đường”. Anh trở thành môn đệ (“bước theo”).

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (46)

Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố cây chà là, cách Giêrusalem 23Km về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măt biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở về phía Tây Nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng cung rộng lớn. Khác với Tin Mừng Luca (18,35–19,10), ở đây Đức Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau: Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh mù thì đang ngồi ở vệ đường.

* Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (47-50)

Đáng ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo” Đức Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân chúng (“Giêsu người Nazaret”). Anh cứ kêu to hướng về Đức Giêsu, bởi vì anh muốn gặp Đức Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to hơn. Và Đức Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Đức Giêsu chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành trình, Đức Giêsu đứng lại (câu 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối xử sự của Đức Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (câu 50) đưa anh mù di chuyển mà gặp Đức Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Đức Giêsu”“con đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi và di động phối hợp với nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.

* Đỉnh cao của bài tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (51-52)

Cái nhìn cho phép gần gũi dù ở xa, và bảo đảm cho có sự an toàn trong khi di động. Từ đó, ta mới hiểu tình trạng mù loà thật sự là tình trạng của đám đông và các môn đệ, một đám đông đang đi đường với Đức Giêsu: họ ở gần mà thật ra họ ở xa, vì họ chỉ có thể thấy đây là “Giêsu Nazaret”. Nay đã được “thấy” bằng lòng tin, Báctimê phải di động, phải theo Đức Giêsu trên đường. Công thức này thường được Marcô (và Matthew) sử dụng trong khung cảnh một sứ vụ do Đức Giêsu giao phó cho người môn đệ (Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13).

+ Kết luận

“Sự mù lòa” tượng trưng sự xa cách dù gần gũi; “sự thấy được” tượng trưng sự gần gũi dù xa cách. Toàn bài xoay quanh những khái niệm này.

Trong bài nổi lên một số nghịch lý: người mù lại là người thấy rõ hơn mầu nhiệm của Đức Giêsu, người ngồi bên vệ đường lại có thể đến gần Đức Giêsu hơn những kẻ đi theo Người lâu nay. Tất cả là do đức tin của người ấy và sự chiếu cố của Đức Giêsu.

Sự gần gũi (bằng lòng tin) phải kéo dài; muốn thế phải di động (“anh đi theo Người trên con đường Người đi”, ở thì vị hoàn). Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh đi theo; anh cũng phải cắt đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín hữu.

5.- Gợi ý suy niệm

1/. Chúng ta có thể suy nghĩ về thái độ của đám đông đi theo Đức Giêsu (trong đó có các môn đệ). Họ đã “đi theo” Người lâu nay, mà họ chỉ có thể giới thiệu về Người rất sơ sài: “Giêsu người Nazaret”. Vì thiếu lòng tin, họ đã không thể giới thiệu sâu sắc hơn về Người. Điều đó đã được tác giả Marcô diễn tả bằng một câu thê lương: “Đức Giêsu dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (10,32).

2/. Con đường đi đến với Đức Kitô luôn luôn bắt đầu với một cảm giác bất ổn, bất an; cảm giác này buộc ta là người đang ở trong bóng tối phải nhìn về hướng mà ta phải đi theo, để suy nghĩ về vị trí hiện tại. Gặp gỡ những người đã từng biết Đức Giêsu là bước đầu tiên đi tới ánh sáng, nhưng trước khi đến được với Đức Giêsu, cần phải thắng vượt một số khó khăn.

3/. Trong đời sống đức tin, đôi khi phải dám “đi ngược dòng”. Như anh mù, dù bị người ta quát nạt bắt im, anh vẫn cứ kêu lên Đức Giêsu, vì anh xác tín chỉ Người mới có thể mở cho đời anh một hướng đi mới. Chúng ta cũng được mời gọi gắn bó mật thiết với Người, vì chỉ Người mới là Đấng duy nhất dẫn chúng ta đi đúng đường.

4/. Cần phải được Đức Giêsu mở mắt tâm hồn để hiểu bản thân và sứ mạng của Người, cũng như để có thể sẵn sàng bước theo Người, làm môn đệ Người. Đã nghe tiếng Đức Giêsu kêu gọi trong cuộc sống, cần mau mắn dứt khoát bỏ đi mọi sự, như bốn môn đệ đầu tiên đã tức khắc bỏ tất cả để đi theo Người. Từ đây cuộc sống của người Kitô hữu sẽ là một sự hiệp thông thân tình với Người.

 


[1] Bản Kinh Thánh Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh