Mc 10,2-12: Đức Giêsu Đối Với Việc Ly Dị Và Các Trẻ Em

0
2104


FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

Bản Văn Tin Mừng: Mc 10,2-16[1]

2 Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người. 3 Người đáp: “ Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?” 4 Họ trả lời: “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.” 5 Đức Giê-su nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. 6 Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; 7 vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, 8 và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. 9 Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” 10 Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. 11 Người nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; 12 và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.”

13 Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. 14 Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 15 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” 16 Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.

***

1.- Ngữ cảnh

Bản văn đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay bỏ câu Mc 10,1 là mộttóm lược nhỏ quen thuộc của tác giả Marcô: một chi tiết địa lý khá mơ hồ;[2] một mô tả tổng quát về hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu cho đám đông đã quy tụ lại. Truyện kế tiếp không liên hệ gì với nội dung của câu 1 cả. Nhưng tác giả có một ý hướng thần học: Đức Giêsu đang tiến đến gần Giêrusalem.

Khi nghiên cứu kỹ đoạn văn câu 2-12, người ta nhận thấy nòng cốt là câu 2-9, một cuộc tranh luận với mấy người Pharisêu. Vì bản văn Kinh Thánh được trích từ Bản LXX, người ta nghĩ đến Do Thái giáo thuộc môi trường Hy Lạp. Sự độc lập của phân đoạn này với câu 10-12 được xác nhận bởi Lc 16,18,[3] trong đó chỉ có câu đầu của giáo huấn ban cho các môn đệ. Có lẽ câu 10-12 đã được thêm vào sau.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

a/. Vấn đề ly dị (Mc 10,2-12):

– Giáo huấn cho dân chúng (câu 2-9),

– Giáo huấn cho các môn đệ (câu 10-12);

b/. Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (Mc 10,13-16).

3.- Vài điểm chú giải

­Chồng có được phép rẫy vợ không? (2): Câu hỏi đề cập đến tính hợp pháp của ly dị, chứ không phải lý do đưa đến ly dị, có xung khắc với sự hiểu ngầm theo Đnl 24,1-4.[4] Vào thời ấy, người ta chỉ tranh luận về các lý do. Một nhóm kinh sư nêu ra các lý do: ngoại tình, một bệnh truyền nhiễm, chứng điên hoặc không thể có con. Đối với đa số các kinh sư, còn có nhiều lý do khác: chỉ cần người đàn ông không bằng lòng một điều gì đó nơi vợ mình là có thể rẫy vợ. Dù thế nào, người chồng có tự do rất lớn.

Để thử: Có tác giả cho rằng, có lẽ họ nhắm đẩy Đức Giêsu vào thế xung đột với đại gia đình Hêrôđê đầy những vụ ly dị. Nhưng hợp lý hơn thì cho rằng, người Pharisêu muốn gài bẫy Đức Giêsu vào thế phải nói ra quan điểm nhiệm nhặt của Người, và như thế Người trở thành đáng ghét trước mắt người ta, do bởi Người giới hạn “tự do” của họ.

– Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? (3): Đnl 24,1-4 coi việc ly dị như được phép; đoạn văn này chỉ đề cập đến thủ tục phải theo khi một người chồng đã quyết định ly dị vợ mình, và lệnh cấm tái kết hôn sau khi cuộc hôn nhân của người phụ nữ này đã chấm dứt. Các lý do để được ly dị được diễn tả mơ hồ: “Thấy nơi nàng có điều gì chướng” (bh ‘erwat dbr). Sự mơ hồ này đã đưa tới một tranh luận của giới kinh sư. Những nố ngoại lệ trong Tin Mừng thứ nhất[5] được hiểu trong bối cảnh này. Nhưng trong Tin Mừng thứ hai, vấn đề được đặt ra tận căn bản: có được phép ly dị không?

– Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị rẫy vợ (4): Người Pharisêu đã trả lời câu hỏi của Đức Giêsu dựa vào nền tảng của Đnl 24,1-4. Trong Do Thái giáo xưa kia, ly dị không phải là một hành vi pháp lý công khai tại tòa án. Người chồng chỉ việc viết một giấy,[6] rồi đưa giấy ấy cho vợ. Ta thấy rằng, người Pharisêu nói về phép tắc (câu 2-4) trong khi Đức Giêsu lại hỏi họ là có một lệnh truyền (= điều răn) nào chăng.[7] Trong Mt 19,7-9, người Pharisêu lại nói về một lệnh truyền của Môsê, còn Đức Giêsu lại trả lời họ rằng đó chỉ là một sự cho phép.

– Vì các ông có lòng chai dạ đá (5): Đức Giêsu coi lời dạy của Đnl 24,1-4 như một sự nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người, và một sự miễn chuẩn cho chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Trong câu trả lời, Đức Giêsu đi từ một “lời cho phép ly dị” đến “lời làm nền tảng cho hôn nhân”: sự miễn chuẩn không hủy bỏ được luật căn bản.

– Lúc khởi đầu công trình tạo dựng (6): Đức Giêsu cho thấy, việc Người phản đối ly dị là do bởi Người dựa vào Kinh Thánh qua việc trích dẫn St 1,27; 2,24.[8] Người khẳng định rằng, trong chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa, những người kết hôn thì nên “một xương một thịt”, nên không được ly dị. Đnl 24,1-14 cho phép ly dị là một cách nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người. Lời giáo huấn của Đức Giêsu nhằm tái lập lại chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng, nên không hề đối lập với Kinh Thánh.

– Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt (8): Lý tưởng hôn nhân này là một suy diễn dựa trên St 2,24; nó cung cấp lý do vì sao không thể ly dị.

– Loài người không được phân ly (9): “Loài người” đây là người chồng, chứ không phải là đệ tam nhân như vị thẩm phán. Bởi vì theo Đnl 24,1-4, người chồng có thể một mình bắt đầu thủ tục, thì không cần một đệ tam nhân. Ở đây Đức Giêsu triệt tiêu thủ tục Cựu Ước.

– Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người (10): Đây không thể là ngôi nhàở Caphácnaum,[9] bởi vì Đức Giêsu và các môn đệ đã bỏ miền Galilê. Đây là một sáng tạo của Marcô để tạo cơ hội cho Đức Giêsu dạy riêng các môn đệ.

– Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình (11): Giáo huấn tuyệt đối này cũng xuất hiện trong Lc 16,18c.[10]

– Và ai bỏ chồng… (12): Luật Do Thái chỉ nói rằng, người chồng có thể tiến hành thủ tục ly dị, chứ không nói là người vợ. Thường thường, các tác giả cho rằng câu 12 này là một cách tác giả ứng dụng giáo huấn của Đức Giêsu cho những người sống dưới luật Rôma và Hy Lạp.

Trẻ em (13): Có thể ở trong khoảng độ tuổi ấu nhi đến 12 tuổi. Người ta mong Đức Giêsu đặt tay để chúc lành cho chúng.

– Chạm tay vào chúng: Hành vi để qua đó được Đức Giêsu chúc lành cho chúng.

– Người bực mình (14): Phản ứng này của Đức Giêsu[11] đã phát sinh do các môn đệ không hiểu Người và bản chất của Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng. Một lần nữa, lối xử sự của các môn đệ lại là cớ để Đức Giêsu ban một giáo huấn tích cực. Trong Tin Mừng thứ nhất và thứ ba đã bỏ đi phản ứng rất người này, có lẽ vì thấy bất xứng với Đức Giêsu.[12]

– Vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng: Đặc tính chính yếu của trẻ em là khả năng đón nhận. Vì không có sức mạnh thể lý và không có quy chế pháp lý, trẻ em biết cách đón nhận tốt nhất. Nước Thiên Chúa phải được đón nhận như một quà tặng, bởi vì không một sức mạnh hoặc quy chế nào của loài người tạo ra được hoặc đòi hỏi cho có được Nước Thiên Chúa (câu 15).

– Thầy bảo thật (15): Từ “thật” được dịch nghĩa từ “amên” trong bản Hy Lạp: “điều vững vàng”, “điều chắc chắn là thế”.

– Đặt tay chúc lành cho chúng (16): Trong các tác phẩm thời ấy, trẻ em được coi như ví dụ về phong cách thiếu hợp lý hoặc là những đối tượng cần được đào tạo. Trong đoạn này,[13] chúng được trân trọng như những nhân vị, cũng như được đặt trong mối tương quan mật thiết với Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Vấn đề ly dị (2-12)

Đức Giêsu đã sang miền Giuđê. Giáo huấn của Người về hôn nhân và ly dị lại là một thách đố nữa cho những ai muốn bước theo Người. Cựu Ước cho thấy có thể ly dị;[14] điều chắc chắn là người đàn ông có thể rẫy vợ. Dù các lý do để ly dị thế nào, hệ thống luật lệ thời ấy cho các người chồng một tự do rất lớn và khiến các bà vợ phải trả giá đắt cho tự do này: vị trí của các bà rất mong manh và các bà phải lệ thuộc sự quyết đoán của chồng.

Khi đặt câu hỏi cho Đức Giêsu, người Pharisêu muốn lôi kéo Đức Giêsu vào trong cuộc tranh luận về các lý do cho phép ly dị. Đức Giêsu không đi vào trong tranh luận về các lý do hợp pháp để ly dị. Như trong các trường hợp khác, Người đặt cuộc tranh luận trên một bình diện khác. Người đưa các người đối thoại trở lại với Kinh Thánh, với cách xử sự và ý muốn của Thiên Chúa Tạo Hóa vào thủa tạo thiên lập địa. Tương quan giữa người nam và nữ không phải là điều mà con người tự do định liệu, bởi vì không phát xuất từ con người, nhưng từ Thiên Chúa trong tư cách là Đấng Tạo Hóa. Ngài đã tạo dựng loài người trong sự khác biệt nam nữ; Ngài đã nhắm người này cho người kia, đã quy định rằng họ kết hợp với nhau và nên “một xương một thịt”. Phá hỏng sự bố trí này của Thiên Chúa Tạo Hóa là một hành vi xuyên tạc thô bạo và chống lại ý muốn của Đấng Tạo Hóa. Như thế, hậu quả tiêu cực là cấm ly dị và tái kết hôn. Vì vậy, sau đó, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng, ly dị và cưới vợ hoặc lấy chồng khác là phạm tội ngoại tình.

* Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (13-16)

Sau một đoạn nói về hôn phối, có một đoạn nói về trẻ em cũng là chuyện hợp tình hợp lý. Nhưng thực ra, bản văn này đề cập đến Nước Thiên Chúa và hạng người hy vọng được tham dự vào đó. Các em bé không tự mình hành động theo sáng kiến của mình; chúng không có khả năng lo liệu cho bản thân; chúng chỉ được an toàn dưới sự che chở của cha mẹ. Chỉ những ai nhận biết và đón tiếp Nước Thiên Chúa như một quà tặng[15] mới hy vọng được thông phần vào Nước Thiên Chúa; Nước này được dành cho những ai không cậy dựa vào quyền thế hoặc đặc quyền, bởi vì Nước này vượt trên mọi quyền lực và quy chế loài người. Công thức đặc biệt nói về việc đón nhận Nước Thiên Chúa gợi ý cho ta coi ở đây Nước này như mộtthực thể hiện tại.

Quả thật người ta đi vào trong Nước tương lai, nhưng dĩ nhiên việc đón nhận Nước ấy phải xảy ra trước. Nước ấy cũng đã hiện diện rồi. Tác giả Marcô đã hiểu tương quan với hiện tại này theo nghĩa Kitô học: Ngay bây giờ người ta đã có thể trải nghiệm Nước Thiên Chúa trong hoạt động của Đức Giêsu. Một hình ảnh được cung cấp trong cảnh kết thúc, khi Đức Giêsu ôm lấy các trẻ em và chúc lành cho chúng: qua hành động này, nguyện vọng của dân chúng được đáp ứng (câu 13), và nhất là lời hứa được công bố ở câu 14 tiếp theo được xác nhận.

+ Kết luận

Có thể nói, trong phần thứ nhất, tác giả Marcô muốn mô tả Đức Giêsu tiếp tục hoạt động, cả trong chuyến đi lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, các môn đệ cần được Thầy giáo huấn kỹ càng để có thể bước theo Thầy. Câu hỏi của các ông cho thấy, các ông không có khả năng hiểu đường lối của Thầy, và do đó rất cần được giáo huấn. Khi đã nhận được một giáo huấn đặc biệt, các ông có tư cách để truyền đạt Lời Chúa cách thuyết phục cho các cộng đoàn.

Phần thứ hai cho thấy cách mà người môn đệ phải hiểu về chính mình. Họ phải thanh thoát khỏi những định kiến ích kỷ và sống như một em bé trước nhan Thiên Chúa. Chỉ như thế, họ mới có thể gặp người thân cận với tình yêu. Bản văn này cũng cho thấy quan niệm của tác giả về Nước Thiên Chúa. Nước này tuy thuộc về tương lai, nhưng đã bắt đầu hoạt động mạnh mẽ trong hiện tại rồi. Đó là vì Đức Giêsu không những loan báo Nước Thiên Chúa, mà còn đưa Nước này đến gần con người trong hiện tại.

Ngoài nội dung riêng của hai phần trong đoạn này, ta thấy hai phần có một nét chung: người phụ nữ và trẻ em bị coi nhẹ trong xã hội lúc ấy, nhưng dưới mắt Đức Giêsu, họ cũng là những nhân vị, và có lẽ còn được Thiên Chúa chiếu cố đến đặc biệt, vì họ là những người bé mọn. Nước Thiên Chúa được dành cho những con người như thế.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Xuyên qua dây hôn của đôi vợ chồng, phát sinh một điều mới, một đơn vị mới và có thể nói, một hữu thể nhân loại mới. Họ vẫn là hai người với đặc tính riêng và trách nhiệm riêng, nhưng họ không còn độc lập, tách biệt và riêng rẽ nữa. Thiên Chúa đã nhắm làm cho sự kết hợp của họ đưa tới sự phát sinh một đơn vị mới chuyên biệt và thực hữu, một dây liên hệ thường hằng. Đó là cách bố trí của Thiên Chúa. “… Gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, ở đó chúng ta học sống chung với nhau bất chấp những khác biệt của người này với người khác và nương tựa vào nhau; gia đình cũng là nơi cha mẹ chuyển giao đức tin cho con cái”.[16]

2. Các môn đệ phải đón nhận Nước Thiên Chúa như các trẻ em, nghĩa là họ không thể đi vào đó bằng sức riêng. Như các em bé, họ phải cảm thấy mình được che chở bởi tình yêu của Thiên Chúa, phải để cho mình được Người lấp đầy bằng những ân huệ. Đi vào Nước Thiên Chúa luôn luôn là mộtân huệ mà ta đón nhận với lòng biết ơn.

3. Các môn đệ chu toàn bổn phận chính yếu, bổn phận phục vụ, bằng cách chu toàn trách nhiệm đối với các trẻ em. Cũng như con cái có bổn phận đối với cha mẹ, cha mẹ cũng có bổn phận đối với con cái. Các bổn phận được giao cho chúng ta có thể là lớn lao và đẹp đẽ, nhưng trước nhan Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là như các trẻ em: chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào tình yêu của Người và để cho Người ban chan hòa các ân huệ.

4. Đức Giêsu dạy chúng ta tôn trọng nhân vị của mỗi người, người lớn cũng như em bé. Chúng ta không có quyền khinh bỉ hay chê bai người nào cả, cũng không có quyền coi mình tốt hơn người khác vì mình là Kitô hữu. Thật ra, nếu chúng ta không thấy được những điều sai phạm của mình để xin tha thứ, thì chúng ta có còn là Kitô hữu nữa chăng?

 

 


[1] Bản Kinh Thánh Việt ngữ của nhóm Phụng vụ Các Giờ Kinh

[2] Miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan

[3] Lc 16,18: “Bất cứ ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình”.

[4] Đnl 24,1-4: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà. Ra khỏi nhà người ấy, nếu nàng đi lấy chồng khác, mà người chồng sau lại ghét bỏ nàng, viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà, hoặc nếu người chồng sau đã lấy nàng làm vợ mà chết, thì người chồng đầu tiên đã đuổi nàng đi không thể lấy nàng làm vợ một lần nữa, sau khi nàng đã ra ô uế. Đó là điều ghê tởm trước nhan ĐỨC CHÚA; anh (em) không được làm cho miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, phải mang tội”.

[5] Mt 5,32: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình”. Mt 19,9: “Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình”.

[6] Trên giấy chỉ cần viết: “Tôi bỏ và ly dị vợ tôi ngày này…”

[7] Chắc hẳn là người Pharisêu sẽ khó mà tìm được một lệnh truyền nào như thế trong Luật!

[8] St 1,27: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”. St 2,24: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt”.

[9] Xc. Mc 1,29; 9,33

[10] Lc 16,18: “Bất cứ ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình”.

[11] Xc. Mc 1,43; 3,5; 8,12; 14,33-34

[12] Xc. Mt 19,14; Lc 18,16

[13] Xc. Mc 9,33-37

[14] Xc. Đnl 24,1

[15] Hành động và tình cảm của một em bé khi được nhận món quà từ người khác

[16] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, số 66