MA QUỶ HỌC – MỤC V. HỘI THÁNH ĐỐI KHÁNG SATAN

0
2316

MA QUỶ HỌC 

Phan Tấn Thành

—————–

MỤC I. KINH THÁNH

MỤC II. SATAN TRONG LỊCH SỬ THẦN HỌC

MỤC III. SUY TƯ THẦN HỌC

Mục IV. TÁC ĐỘNG CỦA MA QUỶ

—————–

MỤC V. HỘI THÁNH ĐỐI KHÁNG SATAN

I. Hội thánh chiến đấu với tội lỗi và sự dữ

A. Hội thánh phục vụ vương triều Thiên Chúa

B. Hội thánh đối kháng tác động “thông thường” của ma quỷ

II. Hội thánh kháng cự với hành động “chiếm hữu”: nghi thức trừ tà

A. Khái niệm

B. Lịch sử

C. Nghi thức trừ tà năm 1998

D. Vài thắc mắc

—————–

Trong mục trước, chúng tôi đã trình bày tác động của ma quỷ đối với loài người, được phân chia làm hai loại: “thông thường” và “bất thường”. Tác động thông thường được hiểu như là thường xuyên và âm thầm lặng lẽ; còn bất thường được hiểu như là họa hiếm nhưng lại ồn ào, có thể quan sát được. Dư luận thường chú ý đến loại bất thường vì tính cách “giật gân”, nhưng dễ quên rằng đó là chuyện năm thì mười họa mới xảy ra, và rồi chẳng mấy quan tâm đến các tác động “thông thường” cũng gây tai họa không nhỏ cho cá nhân và cộng đồng.

Mặt khác, khi trình bày về tác động của ma quỷ trong thế giới, chúng tôi đã theo thánh Tôma Aquinô lồng vấn đề này trong toàn thể chương trình quan phòng của Thiên Chúa, không những chỉ vì muốn cho thấy rằng mọi sự xảy ra trên đời đều nằm trong sự kiểm soát của Chúa quan phòng, nhưng còn muốn nêu bật rằng trong kế hoạch cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sử dụng nhiều “môi giới” tốt nữa (tựa như các thiên thần bản mệnh). Chúng ta không nên chỉ dừng lại ở các tác nhân xấu.

Mục này được chia làm hai phần, tương đương với hai loại tác động của ma quỷ. Phần thứ hai dài hơn bởi vì chúng tôi muốn giới thiệu cuốn Nghi thức trừ tà được Bộ Phụng tự ban hành năm 1998, nghĩa là đã một phần tư thế kỷ, nhưng ít được biết đến ở Việt Nam.

I. Hội thánh chiến dấu với tội lỗi và sự dữ

Như vừa nói, câu chuyện về tác động của ma quỷ cần được lồng trong khung cảnh sự quan phòng của Thiên Chúa. Một cách tương tự như vậy, khi nói đến sự kháng cự của Hội thánh đối với tội lỗi và sự dữ, chúng ta cần lồng trong khung cảnh sứ mạng mà Hội thánh nhận được từ Đức Kitô. Hội thánh tiếp tục sứ vụ cứu độ của Đức Kitô.

Đức Kitô được sai đến trần gian để thiết lập Vương triều Thiên Chúa[1]. Người đã thi hành sứ mạng ấy qua việc rao giảng vương triều đã đến, chữa lành các bệnh tật, xua đuổi ma quỷ, tha thứ tội lỗi, phục hồi sự sống. Tuy nhiên cao điểm của sự thiết lập vương triều là việc Người tuân phục thánh ý Chúa Cha trao hiến mạng sống như bảo chứng của tình yêu vô biên đối với nhân loại. Sự Phục sinh của đức Kitô đánh dấu giai đoạn mới của việc thiết lập vương triều: tội lỗi, sự dữ và cái chết bị dẹp tan; con người lãnh nhận được ơn tha thứ và sự sống nhờ đức Kitô.

A. Hội thánh phục vụ vương triều Thiên Chúa

Trong quá khứ, ra như người ta giới hạn sứ mạng của Hội thánh vào việc “cứu rỗi các linh hồn”. Những năm sau công đồng Vaticanô II, người ta muốn mở rộng sứ mạng ấy đến việc “giải phóng toàn diện con người”. Con người gồm cả linh hồn và thân xác, con người gồm cả cá nhân và xã hội. Việc phục vụ vương triều Thiên Chúa nhắm tới việc giải phóng con người khỏi mọi thứ kìm hãm tự do của con người: tội lỗi, nghèo đói, bệnh tật, dốt nát, mê tín, chiến tranh, kỳ thị, vv.

Đặt trong bối cảnh ấy, sự kháng cự chống lại sự dữ bao gồm nhiều lãnh vực. Dĩ nhiên, chúng ta đừng nên đồng hóa sự dữ với ma quỷ. Nguồn gốc sự dữ là chính ý chí lệch lạc của con người, xét như cá nhân cũng như các cơ cấu xã hội. Hội thánh phục vụ vương triều Thiên Chúa bằng những phương thế nào? Trong thông điệp Redemptors missio (ngày 8/12/1975), ĐTC Gioan Phaolo II mô tả bốn hình thức chính của việc phục vụ vương triều Thiên Chúa như sau: (1) loan báo đức Kitô và Tin mừng của Ngài; (2) thiết lập Giáo hội địa phương, bởi vì Giáo hội là dụng cụ của vương triều Thiên Chúa; (3) cổ võ những giá trị của vương triều Thiên Chúa (tựa như: đối thoại; thăng tiến con người; dấn thân xây dựng công lý và hòa bình; giáo dục và săn sóc người đau yếu bệnh tật; giúp đỡ người nghèo); (4) sau cùng Hội thánh cũng phục vụ Nước Chúa khi cầu nguyện khẩn nài cho vương triều Thiên Chúa mau đến trong thế gian. Hình thức thứ bốn đặt ở cuối cùng nhưng lại là quan trọng nhất, bởi vì việc xây dựng vương triều Thiên Chúa tiên vàn là tác động của Thiên Chúa: chính Ngài mới giữ vai trò chủ động, còn Hội thánh chỉ là “công cụ”.

B. Hội thánh đối kháng tác động “thông thường” của ma quỷ

Việc phục vụ vương triều Thiên Chúa đương nhiên bao gồm sự khử trừ tội lỗi, tội “cá nhân” cũng như tội “xã hội” đã được nhắc đến trong mục trước. Kế hoạch này bao gồm nhiều phương thế được ghi lại trong truyền thống tu đức của Kitô giáo: rao giảng Lời Chúa, cầu nguyện, thực hành các nhân đức (nhất là ba nhân đức hướng Chúa), khổ chế, ban các bí tích (đặc biệt là bí tích tha tội và Thánh Thể) và các á-bi-tích, thực hành các công tác bác ái đáp ứng những nhu cầu tinh thần và vật chất của con người. Đồng thời cũng cố gắng sửa đổi những tính hư tật xấu của cá nhân hoặc bài trừ những phong tục xấu xa của các đoàn thể. Tất cả đều nhằm tạo ra một xã hội xứng hợp hơn với phẩm giá con người. Chúng tôi không muốn dài dòng ở đây, bởi vì Đức thánh cha Phanxicô đã bàn rộng trong tông huấn “Niềm vui Tin mừng” (24/11/2013), chương bố (số 176-216).

II. Hội thánh kháng cự hành động “chiếm hữu”: nghi thức trừ tà

Các tác động được gọi là “ngoại thường” vì ít khi xảy ra nhưng lại gây nhiều tiếng vang, cách riêng nơi hiện tượng “quỷ ám” (possessio diabolica). Trong mục trước, chúng ta thấy các tác giả đưa ra nhiều danh sách khác nhau về các hiện tượng này (quấy rối vật thể hoặc thân thể), nhưng chúng tôi chỉ chú ý đến sự “chiếm hữu”. Hội thánh kháng cự hiện tượng này qua việc trừ tà (hoặc cũng gọi là “trừ quỷ”. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày ba điểm: 1/ Khái niệm về trừ tà: 2/ Lịch sử về việc thực hành trừ tà trong Hội thánh. 3/ Nghi thức trừ tà năm 1998. 4/ Vài thắc mắc liên quan đến việc chẩn đoán, và không bỏ qua chuyện con người đi tìm ma quỷ, chứ không riêng gì ma quỷ đi tìm người.

A. Khái niệm về “trừ tà”

Cũng như đối với nhiều từ ngữ khác, nguy cơ hiểu lầm rất dễ xảy ra. Trên đây, chúng tôi đã nói đến “ma quỷ”: từ này có thể mang một ý nghĩa trong tâm thức bình dân khác với ý nghĩa của “Satan” trong Kinh thánh. Khi nói đến “trừ tà” cũng vậy; nó có thể bị hiểu lầm là giống như phù phép trong các tôn giáo khác!

Trong ngôn ngữ của Kitô giáo, trừ tà là exorcismus, gốc từ tiếng Hy lạp exorcismos,  (thuật ngữ chỉ lưu hành trong Giáo hội), do động từ exorkizo. Trong Kinh thánh, động từ này có ba nghĩa: a) bắt phải thề (St 24,3); b) van nài (1V 22,16; Mt 26,63); c) giải thoát khỏi quyền lực ác thần (Cv 19,13). Việc trừ tà theo nghĩa chuyên môn được hiểu theo nghĩa thứ ba, nghĩa là lời truyền khiến nhân danh Thiên Chúa bắt buộc ma quỷ phải ngưng việc tác quái trên sự vật hay trên một người nào đó.

Việc trừ tà được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo xếp vào hạng các á-bí-tích[2], và giải thích như sau: “Khi Hội thánh, một cách công khai và với thẩm quyền, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, cầu xin để một người hay một đồ vật được Thiên Chúa bảo vệ khỏi Ác thần và giải thoát khỏi ách thống trị của nó, thì người ta gọi đó trừ tà (exorcismus). Chúa Giêsu đã thực hiện điều đó, và chính bởi Người, Hội thánh có quyền và có nhịêm vụ trừ tà. Với hình thức đơn giản, việc trừ tà đã có trong nghi thức cử hành bí tích Rửa tội, Còn việc trừ tà long trọng, gọi là trừ tà “đại thể”, chỉ được thực hiện bởi một linh mục, với sự cho phép của Giám mục. Trong việc này, phải tiến hành cách khôn ngoan, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Hội thánh: Việc trừ tà nhằm trục xuất ma quỷ, hoặc giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền bính thiêng liêng Chúa Giêsu đã uỷ thác cho Hội thánh của Người. Trường hợp bệnh tật, nhất là các bệnh tâm thần thì khác hẳn, việc chữa trị các bệnh này là công việc của y khoa. Vì vậy, điều hết sức quan trọng là, trước khi cử hành nghi thức trừ tà, phải rất chắc chắn rằng đây là trường hợp quỷ ám chứ không phải là một bệnh tật nào đó” (số 1673).

Nên ghi nhận vài điểm:

  • Đặc trưng của việc trừ tà Kitô giáo là nhân danh Chúa Kitô để xin cho một người được giải thoát khỏi ác thần.
  • Có hai hình thức: a) đơn giản, được thực hành lúc cử hành bí tích rửa tội; b) long trọng do một linh mục được giáo quyền đề cử . Từ sự phân biệt này, gần đây người ta còn phân biệt giữa “lời cầu nguyện giải thoát khỏi ác thần” và “lời truyền trục xuất ma quỷ”.
  • Việc trừ tà thuộc lãnh vực tôn giáo, khác với việc chữa bệnh tâm thần.

Sự phân biệt hai hình thức trừ tà có nhiều hệ luận thực hành về nhiều phương diện:

a) Việc trừ tà “long trọng” chỉ được thực hiện do một linh mục được đức giám mục phê chuẩn (chiếu theo điều 1172 của Bộ giáo luật), và giả thiết là nạn nhân bị “quỷ ám” (possessio diabolica). Công thức trừ tà mang tính “truyền lệnh” (exorcismus imprecativus).

b) Việc trừ tà “đơn giản” có thể được thực hịên bởi những người khác, và không giả thiết là nạn nhân bị “quỷ ám”. Công thức trừ tà mang tính “khẩn nài” (exorcismus deprecativus). Chúng ta có thể lấy một thí dụ trong nghi thức rửa tội cho nhi đồng:

Lạy Thiên Cúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian, để trục xuất quyền lực của các ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của nước Chúa, chúng con nài xin Chúa làm cho (những) em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong (các) em. Nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.

Ở đây chúng tôi muốn tìm hiểu việc trừ trà “long trọng”.

B. Lịch sử nghi thức trừ tà

Trong ba thế kỷ đầu của Kitô giáo, không có công thức và cách thức trừ tà chính xác, một phần có lẽ vào thời đó, đặc sủng trừ tà được ban cho nhiều tín hữu. Đến khi đặc sủng này giảm đi, Giáo hội mới nghĩ đến việc trao quyền năng cho một vài người đặc biệt. Chức vụ trừ tà (exorcista) cũng được thiết lập như một phẩm trật[3], tuy rằng việc trừ tà chỉ được uỷ thác cho vài linh mục đặc biệt.

Chứng tích đầu tiên về một thủ bản dành cho người trừ tà được thấy trong bộ sưu tập pháp luật Statuta Ecclesia latinae được gán cho thánh Césaire giám mục Arles thế kỷ VI.

Dần dần, bên cạnh những công thức chính thức của Hội thánh, nhiều tác phẩm của tư nhân cũng ra đời, với cao điểm hồi thế kỷ XVI-XVII. Trong số đó, những cuốn nổi tiếng là Malleus maleficarum (J. Sprengerus – H. Institoris, 1494), Flagellum daemonum (G. Menghi, 1580), Compendio dell’arte esorcistica (G. Menghi, 1580), Iugum ferreum Luciferi (D. Gomez, 1676), Manuale exorcistarum (1720), Gran dizionario infernale (F. Pique, 1871), Le livre secret des grands exorcismes et bénédictions (Paris 1950).

Sách Nghi thức phụng vụ chính thức được biên soạn sau công đồng Trentô và được phát hành năm 1614, dưới thời đức thánh cha Phaolô V. Ấn bản cuối cùng trong thế kỷ XX là Rituale Romanum ở thiên chót (Titulus XII, De exorcizandis obsessis a daemonio), gồm ba chương: 1/ Chương Một là phần quy tắc (Normae observandae circa exorcizandos a daemonio) trình bày những quy tắc và gợi ý về việc trừ tà,, sự thận trọng trong việc sử dụng, những gợi ý về sự phân định những người bị quỷ ám thực sự (chứ không phải chỉ là bệnh hoạn), về thời gian, nơi chốn, thể thức thi hành. 2/ Chương Hai là chính nghi thức trừ quỷ; cấu trúc này đã có từ cuối thế kỷ VIII (do ông Alcuinô du nhập). 3/ Chương Ba mới được thêm từ đức thánh cha Lêô XIII, về việc trừ tà trên các đồ vật bị quỷ ám.

C. Nghi thức trừ tà năm 1998

Nghi thức trừ tà là một trong những sách phụng vụ ra đời muộn nhất, hơn kém 35 năm sau khi ban hành Hiến chế về phụng vụ của công đồng Vaticanô II. Nghị định ban hành của Tổng trưởng Bộ Phụng vụ và Kỷ luật các bí tích đề ngày 22/11/ 1998 và cuốn sách được giới thiệu với báo chí ngày 28/1/1999, mang tựa đề De exorcismis et supplicationibus quibusdam. Đức Hồng y Jorge Medina Estevez cho biết là công việc duyệt lại nghi thức đã mất 10 năm, vừa để nghiên cứu vừa để tham khảo ý kiến các Hội đồng giám mục. Nên biết là trong khoảng thời gian này (năm 1985), Bộ Giáo lý đức tin đã ra một Huấn thị lưu ý về việc thận trọng đừng lẫn lộn giữa việc trừ quỷ và việc cầu nguyện cho các bệnh nhân[4]. Có lẽ văn kiện này đã du nhập một sự phân biệt trong nghi thức giữa việc trừ quỷ theo nghĩa chặt (exorcismus) và việc cầu nguyện xin giải thoát (supplicationes).

Cấu trúc của sách Nghi thức gồm bốn phần: trước hết là phần dẫn nhập; kế đó là hính phần nghi thức; phần thứ ba giới thiệu những bài đọc và kinh nguyện tuỳ nghi lựa chọn; sau cùng là phụ lục

(1) Phần Dẫn nhập gồm Nhập đề và những Chỉ dẫn tổng quát

Nhập đề (prooemium) nhắc vắn tắt ba điểm. 1/ Sự hiện hữu của ma quỷ là một chân lý thuộc đức tin (trích từ sách Giáo lý Hội thánh Công giáo), tham chiếu về công đồng Latêranô IV (năm 1215), Kinh Lạy Cha. 2/ Đức tin không chỉ nói đến sự hiện hữu của ma quỷ mà còn nói đến việc chúng chống đối sứ mạng cứu độ của Đức Kitô. 3/ Hội thánh biết rằng Đức Kitô đã chiến thắng ma quỷ, nhưng cuộc chiến đấu với ma quỷ vẫn tiếp tục, bởi vì chúng vẫn gây nhiều tác hại trên thế giới (GS 22;37). Hội thánh cầu xin để các tín hữu được giải thoát khỏi quyền lực sự dữ.

Mục Chỉ dẫn tổng quát (proenotanda) đi sâu hơn vào những vấn đề thần học và mục vụ, qua 6 điểm chính:

1/ Sự chiến thắng của Đức Kitô và quyền năng của Hội thánh trên các ma quỷ (số 1-7). Công trình cứu độ của Đức Kitô là giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự dữ, trong đó bao hàm việc trừ tà; Người đã ban cho Hội thánh quyền năng tiếp tục sứ mạng ấy.

2/ Các cuộc trừ tà trong sứ mạng thánh hóa của Hội thánh (số 8-12).

3/ Tác viên và những điều kiện của trừ tà trọng thể (số 13-19)

Như đã nói, tác viên phải là một linh mục được giáo quyền chỉ định. Điều quan trọng hơn là khi nào xác định được là trường hợp quỷ ám. Số 16 nhắc lại vài dấu chỉ cổ điển (bởi vì đã được đề cập trong sách Rituale Romanum năm 1564): a) nói trôi chảy những ngôn ngữ lạ hoặc hiểu những ngôn ngữ ấy; b) biết rõ những sự kiện kín đáo hoặc xa xôi; c) biểu lộ sức mạnh vượt quá tuổi tác hoặc điều kiện thể lý; tuy nhiền đó chỉ là vài dấu chỉ (và không hẳn là của ma quỷ); d) ngoài ra cần lưu ý đến những dấu chỉ khác có tính luân lý hoặc tôn giáo, chẳng hạn như tỏ ra sự kinh tởm đối với Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, các thánh, Hội thánh, Lời Chúa, đồ vật thánh (các bí tích, ảnh tượng); tình trạng luân lý đạo đức của nạn nhân. Số 19 cũng nhắc nhở rằng nghi thức phụng vụ là một buổi cầu nguyện, cần diễn ra trong bầu khí đức tin, tránh sử dụng những phương tiện truyền thông mang tính trình diễn.

4/ Mô tả nghi thức (số 20-30). Chúng tôi sẽ trở lại dưới đây.

5/ Những thích nghi dành cho tác viên (số 31-36).

6/ Những thích nghi thuộc thẩm quyền của Hội đồng giám mục (số 37-38).

(2) Phần chính là nghi thức trừ tà trọng thể.

Nghi thức bao gồm những lời kinh và những hành động cử chỉ (dấu thánh giá, đặt tay, thở hơi, rảy nước thánh, quỳ gối, đứng thẳng).

1/ Nghi thức mở đầu bằng việc rảy nước thánh, nhớ lại sự thanh tẩy đã lãnh nhận trong bí tích rửa tội.

2/ Kinh cầu các thánh. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh, xin Chúa thương xót người tín hữu đang bị ma quỷ hành hạ.

3/ Đọc một hay nhiều thánh vịnh để xin Thiên Chúa che chở và tán dương sự chiến thắng của Đức Kitô. Các thánh vịnh có thể đọc liên tục hoặc dưới hình thức đáp ca.

4/ Công bố Tin mừng, dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa Kitô, Đấng đến để gặp gỡ những nỗi đau khổ của con người. Đoạn Tin mừng được đề nghị là: Ga 1,1-14 (tuy cũng có thể thay thế bằng các đoạn khác: Mt 4, 1-11; Mc 16,15-18; Mc 1,21b-28; Lc 10,17-20; Lc 11,14-24).

5/ Tác viên đặt tay lên người tín hữu, để khẩn nài sức mạnh của Thánh Linh ngõ hầu ma qủy ra khỏi kẻ đã được trở nên đền thờ của Thiên Chúa nhờ bí tích Thánh Tẩy. Tác viên cũng có thể thở hơi trên mặt của người tín hữu. (Những cử chỉ này kèm theo những lời nguyện khẩn nài)

6/ Đọc kinh Tin kính, hoặc lặp lại những lời hứa lúc lãnh bí tích Thánh Tẩy. Đọc kinh Lạy Cha để xin “cứu thoát chúng con khỏi Kẻ ác”

7/ Linh mục trỏ cho người tín hữu cây thập giá của Chúa Kitô, nguồn mạch của mọi ơn phúc, và làm dấu thánh giá trên toàn thân để ám chỉ quyền năng của Người trên ma quỷ.

8/ Đọc công thức trừ quỷ dưới hai dạng thức: a) khẩn nài Thiên Chúa (invocativa); b) truyền khiến (imperativa) nhân danh Chúa Kitô buộc ma quỷ phải ra khỏi người tín hữu. Có thể dùng dạng khẩn nài mà không cần dạng truyền khiến; nhưng không thể chỉ dùng dạng truyền khiến mà không có dạng khẩn nài. Những công thức này có thể lặp lại trong cùng một buổi cử hành, hoặc nhiều lần cách nhau.

Sau đây là mẫu của một công thức khẩn nài: Lạy Cha là Đấng thánh, xin hãy lắng nghe lời kêu van của Hội thánh đang cầu nguyện: xin đừng để cho người con cái của Cha bị chiếm hữu bởi người cha của dối trá; xin đừng để người tôi tớ được máu đức Kitô cứu chuộc phải làm tôi tớ của ma quỷ; xin đừng để đền thờ của thần khí của Cha trở nên nơi trú của thần khí ô uế.

Công thức truyền khiến: Satan, thủ lãnh trần gian, ta truyền cho ngươi: hãy nhận biết quyền năng vô địch của đức Giêsu Kitô, kẻ đã khuất phục ngươi trên sa mạc, kẻ đã thắng ngươi trong vườn cây dầu, kể là tước khí giới của ngươi trên thập giá, kẻ đã mang những chiến công của ngươi vào vương quốc ánh sáng. Hãy ra khỏi người này, ra khỏi T. mà Chúa Cứu thế khi hạ sinh làm người đã nhận làm em và khi chết trên thập giá đã cứu chuộc bằng bửu huyết… Satan, hãy cút đi, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Hãy cút đi, vì đức tin và lời cầu của Hội thánh, Hãy trốn đi nhờ dấu thánh giá của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen

9/ Nghi thức kết thúc với một bài ca tạ ơn, lời nguyện và phép lành.

(3) Các bản văn tuỳ chọn

Các thánh vịnh (3; 10; 12; 21; 30; 34; 53; 67; 69; 90) với đáp ca và lời nguyện. Những đoạn Tin mừng (Ga 1,1-14; Mc 1,21b-28; Lc 11,14-22; Mt 4,1-11; Mc 16,15-18; Lc 10,17-20). Các công thức trừ tà.

(4) Phụ lục

1/ Những lời nguyện và trừ tà trong những hoàn cảnh đặc biệt.

Công thức trừ tà nói trên đây áp dụng cho những người bị quỷ ám. Trong phần phụ lục, sách Nghi thức thêm những công thức dành cho trường hợp những đồ vật bị quỷ nhập.

2/ Các kinh dành cho các tín hữu đọc riêng: các lời nguyện; những lời khẩn cầu Chúa Ba Ngôi; những lời khẩn cầu Chúa Kitô; những lời khẩn cầu Đức Mẹ; những lời khẩn cầu thánh Micae; các kinh cầu. Những kinh này các tín hữu đọc cho bản thân mình, chứ không đọc cho người khác.

D. Vài thắc mắc

Chúng tôi đã mô tả sơ lược nội dung của sách Nghi thức trừ tà. Nhiều vấn đề chắc chắn sẽ được đặt lên chung quanh vấn đề „quỷ ám“, vượt quá giới hạn của các sách phụng vụ. Chúng tôi chỉ nêu lên vài vấn đề cần được nghiên cứu thêm.

1/ Làm thế nào phân định hiện tượng quỷ ám?

Dựa theo kinh nghiệm cổ truyền, sách nghi thức đưa ra bốn dấu hiệu (Proenotanda số 16 nói trên đây)[5]. Tuy nhiên, các hiện tượng này có thể chỉ là bệnh tâm thần, hoặc do những tài năng phi thường. Việc hội ý với các nhà chuyên môn thật là cần thiết. Dĩ nhiên, „nhà chuyên môn“ được hiểu không những là các khoa học gia (đặc biệt là chuyên viên về y khoa và bệnh tâm thần) nhưng cũng cần có hiểu biết về lãnh vực tôn giáo (Praenotanda số 17). Sự xác định không đơn giản: khi nào là bệnh động kinh, khi nào là bị quỷ ám? Khi nào là khả năng „cận-tâm-lý-học“ (parapsychology) khi nào là sự can thiệp của ma quỷ? Nếu không chắc chắn là nạn nhân bị quỷ ám thì không sử dụng nghi thức „trừ tà trọng thể“ nhưng có thể dùng các công thức cầu nguyện xin giải thoát nói trong phụ lục.

2/ Nguyên nhân của hiện tượng quỷ ám

Việc quỷ ám nằm trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Như đã nói trên đây, ma quỷ không thể tự do tung hoành theo như ý muốn. Đôi khi một người sống trong ơn nghĩa với Chúa mà cũng bị quỷ ám, do một chương trình bí nhiệm nào đó của Thiên Chúa; nhưng phần lớn những trường hợp quỷ ám là vì đương sự đã có liên lạc gì đó với ma quỷ, chẳng hạn như tham dự vào những việc gọi hồn, đã ký kết hợp đồng với ma quỷ, đã sử dụng ma thuật để làm hại người khác.

3/ Quỷ tìm người hay người tìm quỷ?

Tại Âu Mỹ ngày nay, xem ra số người đi nhà thờ ít đi, và từ đó kết luận rằng con người của thời đại công nghệ đã trở thành „tục hóa“, „duy vật“, chẳng tin Chúa cũng chẳng tin tưởng quỷ thần nào hết. Sự thực không phải như vậy. Các nhà khảo cứu xã hội học tôn giáo cho biết rằng sự giảm sút những người đi nhà thờ kèm theo sự tăng gia số những người tin theo bùa phép, ma thuật, bói toán, đó là chưa kể tục bùa ngải còn thịnh hành ở nhiều nơi. Những tục này được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo nhắc đến ở số 2117[6]. Hơn thế nữa, có người lại tôn thờ Satan. Đây là một hiện tượng đáng lo ngại, được đặt tên là Satanism. Dĩ nhiên, phàm ai phạm tội trọng thì ra như đã nộp mạng làm tôi sự dữ (thay vì làm tôi Thiên Chúa); tuy nhiên, theo một nghĩa chặt chẽ hơn, có những „tín ngưỡng“ được thành lập trong đó Satan được tôn thờ thay cho Thiên Chúa, và được đăng ký hẳn hoi. Nên biết là các phong trào này không thịnh hành ở những nơi dân trí thấp kém nhưng tại những quốc gia tiền tiến về kỹ thuật và khoa học.

Kết luận

Sau khi đã tìm hiểu nghi thức trừ tà được ban hành vào năm 1998, nhiều câu hỏi đã được đặt lên. Đã có bao nhiêu người sử dụng nghi thức này? Nghi thức ấy đã được sử dụng đúng mức hay chưa: có bao nhiều trường hợp thực sự là quỷ ám hay chỉ là tâm bệnh? Những câu hỏi này khó trả lời. Khi viết về ma quỷ, Clive Staples Lewis (1898-1963) nhận xét rằng cần phải tránh hai thái cực vừa sai lầm vừa tai hại: hoặc là phủ nhận sự hiện hữu của nó (nhóm duy vật), hoặc bí ám ảnh bởi quyền lực của hắn (ma thuật). Chúng ta tin có ma quỷ nhưng không tin vào ma quỷ đến nỗi làm nô lệ cho hắn (x. The Screwtape writer).

Dù sao, ngay cả đối với những người bị quỷ ám (và hành hạ), phương pháp trị lịêu của Giáo Hội không chỉ là dùng nghi thức trừ tà nhưng còn khuyến khích nhiều biện pháp mục khác, được Hội đồng giám mục Ý thêm vào ở phần giới thiệu sách Nghi thức như sau.

  • Nhắc nhở các tín hữu đừng thích đi tìm những chuyện giật gân, cũng đừng nhẹ dạ vội tin vào sự hiện diện của ma quỷ khi gặp khó khăn. Đồng thời cũng tránh thái độ duy lý, loại trừ hoạt động của ma quỷ trên thế giới.
  • Cảnh giác các tín hữu về việc theo dõi các sách báo, phim ảnh, khêu gợi tò mò vào các hiện tượng thiếu lành mạnh.
  • Khuyến khích các tín hữu đừng bao giờ tin theo những người tự khoe là có tài ma thuật, hoặc có sức lực huyền bí, thông thương với thế giới bên kia.
  • Giúp cho các tín hữu có sự hiểu biết đúng đắn về sư hiện diện và hoạt động của ma quỷ trong thế giới, dựa trên Thánh Kinh và Thánh truyền.
  • Nhắc nhở, qua việc huấn giáo và giảng thuyết, rằng mê tín, ma thuật là điều trái nghịch với phẩm giá con người, và trái ngược với đức tin vào Thiên Chúa là Cha toàn năng và vào Chúa Giêsu Kitô.
  • Đời sống Kitô hữu chân chính là tin tưởng phó thác cho tình yêu của Thiên Chúa là cha quan phòng (Lc 12,22-31), vâng theo ý Cha (Mt 6,10). Đời sống Kitô hữu dựa trên bí tích rửa tội, được nuôi dưỡng nhờ việc đọc Lời Chúa và tham dự Thánh Thể, được phục hồi nhờ bí tích Hoà giả, được nâng đỡ nhờ các bí tích khác và các á-bí-tích, để ca ngợi Thiên Chúa và kêu cầu Chúa che chở trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.

———————

[1] Lưu ý về từ ngữ. Theo Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, thuật ngữ Basileia tou Theou trong tiếng Hy-lạp của Tân ước có thể hiểu theo ba nghĩa: a) Vương quyền (hoặc chủ quyền; danh từ trừu tượng); b) Vương quốc (danh từ cụ thể, ám chỉ một lãnh thổ địa lý, một nước hoặc quốc gia); c) Vương triều hay triều đại (danh từ chỉ việc cai trị hoặc thời kỳ cai trị). Trong ngôn ngữ thông thường, chúng ta hay nói “Nước Trời, Nước Thiên Chúa”, nhưng từ ngữ này chi hiều về nghĩa thứ hai, mà cũng thiếu sót. Một “nước” hay “quốc gia” không đương nhiên đòi hỏi một vua cai trị; nhưng “vương quốc” thì phải  có vua.

[2] Á bi tích (hay cũng có người dịch là “phụ bí tích”) là những dấu chỉ thánh thiêng do Hội thánh thiết lập với cấu trúc tương tự như các bí tích, để ám chỉ và khẩn nài những ơn ích thiêng liêng. Hiệu lực của các á bí tích không chỉ tuỳ thuộc vào tâm tình của người ban hoặc lãnh nhận, mà còn nhờ lời cầu nguyện của Hội thánh (Xem Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1667-1673.

[3] Chức “trừ tà” được xếp vào bốn “chức nhỏ” (ordines minores), và bị bãi bỏ do Đức Phaolô VI với tự sắc Ministeria quaedam (15/8/1972).

[4] Congregatio pro Doctrina Fidei, Epistula ordinariis locorum missa: in mentem normae vigentes de exorcismi revocantur,” AAS 77 (1985) 1169-70.  Lá thư gửi các Bản quyền, đề ngày 29/9/1985, nhắc nhở các Đấng Bản quyền hãy tuân giữ những quy tắc của giáo luật về việc trừ tà theo nghĩa chặt, cũng như canh chừng những cuộc hội họp để cầu nguyện xin ơn giải thoát.

[5]  Có tác giả dựa theo Tân ước và truyền thống, còn liệt kê một danh sách các dấu chỉ dài hơn: 1/ Chống cự mọi ảnh hưởng của Thiên Chúa. 2/ Sức mạnh phi thường. 3/ Rối loạn của các cơ quan. 4/ Một người nào khác nói thay cho nạn nhân. 5/ Tự gây thương tích cho mình và mưu toan tự vẫn. 6/ Cung cách cư xử thô bạo, giận dữ. 7/ có tri thức khác thường. 8/ Những hiện tượng kỳ quặc sau khi ma quỷ đã bị trục xuất (la thét, nằm xoài ra đất). 9/ Kiệt lực tuy vẫn lành lặn, sau khi ma quỷ bị trục xuất. X. Willem Cornelis Van Dam, Dämonen und Besessene: Die Dämonen in Geschichte und Gegenwart und ihre Austreibung,  Pattloch, Aschaffenburg  1970, p.112-164.

[6] Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo nhắc đến ma thuật, pháp thuật, chiêu hồn ở  số 2117. Tuy nhiên, đừng vội gán các thực hành này cho ma quỷ, bao lâu có thể giải thich được theo khoa học (Parapsychology).

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here