Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.
Bản Văn Tin Mừng: Lc 3,10-18[1]
10 Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” 11 Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. 12 Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” 13 Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”. 14 Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”.
15 Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a! 16 Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. 17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. 18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.
***
1.- Ngữ cảnh
Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cánh cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Marcô: Gioan Tẩy Giả (Lc 3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (Lc 3,21-22), Cám dỗ (Lc 4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (Lc 3,23-28).
Bản văn đọc hôm nay là trích phần đầu của phần 2 của Tin Mừng Luca.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1/. Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (Lc 3,10-14);
2/. Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (Lc 3,15-17);
3/. Tóm kết sứ vụ Gioan (Lc 3,18).
Nếu muốn đầy đủ cho phần rao giảng của Gioan, thì lấy từ câu 7. Chúng tôi sẽ trình bày khởi đi từ câu 7 này.
3.- Vài điểm chú giải
– Đấng Mêsia (15): tức là “Đấng được xức dầu”. Ít ra từ đầu thế kỷ II TCN, trong Do Thái giáo Palestin, đã kết tinh một nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia. Lời sấm của ngôn sứ Nathan (2 Sm 7,14-17)[2] và “những lời cuối cùng của vua Đavít” (2 Sm 23,1-17)[3] tiết lộ lời Thiên Chúa hứa ban mộtvương tộc và minh nhiên quy chiếu về vua Đavít lịch sử như là “đấng được xức dầu” của Thiên Chúa Giacob. Xem Tv 18,51; 89,39.52; 132,10.17.[4]
– Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến (16): Dịch sát là “Đang đến Đấng mạnh hơn tôi”. Luca nhấn mạnh đến động từ “đang đến” (Hy Lạp: “Erchetai”) đặt ở đầu câu; ngài đã lấy lại Mc 1,7,[5] nhưng bỏ cụm từ “sau tôi”. Đây là một gợi ý tới bản văn Ml 3,1.23.[6]
– Tôi không đáng cởi quai dép (16): Hành vi này là nhiệm vụ của một nô lệ. Tập tục được thực thi như sau: người chủ đi dự một cuộc tiếp tân, có một nô lệ đi theo; vào phòng, người chủ phải cởi dép; khi đó, người nô lệ quỳ xuống (x. Mc 1,7) để tháo quai dép cho ông (x. Mc và Lc); và trong suốt cuộc tiếp tân, người nô lệ phải xách dép của chủ (x. Mt 3,11).[7] Trong truyền thống kinh sư Do Thái, các kinh sư cấm môn đệ làm việc này cho thầy mình. Hình ảnh Gioan dùng nêu bật vị trí thấp kém của ông trong quan hệ với Đức Giêsu, Đấng mạnh hơn.
– Phép rửa trong Thánh Thần và lửa (16): Nước có ý nói về nghi thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng diễn tả sự biến đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt của các sự vật, thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa Đấng Mêsia thiết lập, người ta sẽ không gặp được thứ lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh Thần, bởi vì chính Ngài thánh hóa các tâm hồn.
Dựa theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng rất có thể Gioan Tẩy giả lịch sử đã không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là phép rửa trong “gió [khí]”, như thế để cho từ “lửa” vẫn giữ được ý nghĩa “lửa Phán xét” trong suốt bản văn. Sau đó, các Kitô hữu đã đọc lại và đã giải thích lại “gió [khí]” như là làn hơi Thánh Thần: đọc như thế cũng là hợp lý, bởi vì trong tiếng Hípri cũng như tiếng Hy Lạp, một từ ngữ duy nhất (Hípri: “ruâh”; Hy Lạp: “pneuma”) được dùng để chỉ gió và Thần Khí. Như vậy, hẳn là Gioan Tẩy Giả đã nói đến một phép rửa “trong gió [khí] và lửa” Phán xét, nhưng chẳng bao lâu (có khi là ngay lúc còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã hiểu các lời này như loan báo một phép rửa “trong [Thần] Khí hoặc Thánh Thần và lửa” của Lễ Ngũ Tuần.
Cũng cần nói rằng không nên giới hạn tầm mức lời Gioan nói vào phép rửa mà thôi. Cần phải thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh Thần do Đức Giêsu thực hiện, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức, hoặc bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném lửa xuống thế gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha đã hứa); Cv 2,1-4 (lưỡi lửa).[8]
Nhưng cũng vẫn có nghĩa là lửa Phán xét. Chúng ta bị đặt giữa hai ngọn lửa: lửa Thánh Thần và lửa của cơn giận không tắt. Bởi vì Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x. câu 17-18).
– Tay Người cầm nia rê sạch lúa (17): Cái rê (ptyon, winnowing-shovel) là một dụng cụ giống cái xẻng, người ta dùng để rê lúa (“làm sạch thóc bằng cách đổ thóc từ trên cao rơi từ từ theo hướng gió để bụi và hạt lép bay ra hết”, Đại từ điển tiếng Việt), còn thóc thì rơi xuống thành đống (x. Is 30,24).[9] Hình ảnh này được dùng để chỉ việc Đấng quyền thế hơn phân loại loài người theo giá trị của họ.
– Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm (17): Đống thóc tượng trưng những người sẽ được cứu bởi vị thẩm phán đang đến. Công việc phân loại của Người được diễn tả bởi hai hành động, “rê sạch” và “thu vào kho”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Gioan đến như nhà rao giảng sự thống hối và như sứ giả niềm vui. Ông ra sức giải thích cho dân chúng biết rằng sự hoán cải cần được cụ thể hóa bằng những hoa trái xứng đáng (Lc 3,7-9).[10] Và ông dạy họ những việc cụ thể phải làm cũng như về Đấng đang đến. Ông giới thiệu hoàn cảnh trong tính nghiêm túc và trong đặc điểm cứu độ, ông không giấu giếm gì cả. Nguyện vọng duy nhất của ông là chuẩn bị cho dân đón nhận ơn cứu độ, ơn này đang hiện diện nơi Đức Giêsu Kitô.
Các hoa trái hối cải tuyệt đối cần thiết, ta không thể loại trừ hay trì hoãn. Với những lời lẽ hết sức mạnh mẽ, Gioan ngỏ lời với những người muốn hoán cải. Họ đến với ông bởi vì họ coi trọng lời ông loan báo và muốn nhận phép rửa. Gioan bảo họ rằng chỉ có ý muốn mà thôi thì không đủ; còn cần phải có hoa trái nữa, tức là những hành động. Thiên Chúa muốn có những hành động này. Ai không làm những hành động này, thì sẽ phải gánh lấy cơn thịnh nộ của Ngài (Lc 3,7), tức là hậu quả của một chọn lựa đi ngược lại ý Ngài muốn. Phải có một sự hoán cải thực thụ. Dĩ nhiên phải hoán cải con tim, bằng cách hoàn toàn quay hướng về Thiên Chúa. Nhưng sự hoán cải không chỉ dừng lại ở bình diện nội tâm, thiêng liêng. Nó phải được diễn tả ra trong lối xử sự bên ngoài. Người ta không thể tránh né lối sống bên ngoài bằng cách nại đến các duyên cớ nào đó. Nại đến tư cách con cháu tổ phụ Abraham cũng không ích gì. Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng nên cũng phải luôn tìm cách sinh những hoa quà xứng với lòng hối cải.
* Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (10-14)
Những người được Gioan ngỏ lời với không chỉ muốn nghe nói về các hoa quả cách chung chung; họ muốn biết cụ thể họ phải làm gì. Gioan không mời họ thực hành một việc đạo đức hình thức hay tham dự một nghi lễ thống hối nào; ông yêu cầu họ làm một việc cụ thể và triệt để nào đó. Ông trả lời họ không quanh co. Mọi hoa trái hối cải ông đề nghị đều liên hệ đến cách xử sự với người đồng loại. Sự hoán cải, nghĩa là việc quay về với Thiên Chúa, phải được diển tả ra thực sự qua cách thức xử sự với anh chị em mình. Sự hoán cải đòi hỏi sự chia sẻ huynh đệ và từ khước mọi thứ bất công. “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11). Lời yêu cầu này được đề nghị không những cho tất cả những ai đang sống trong sự sung túc, để họ sớt bớt phần dư thừa, nhưng còn được gửi đến tất cả những ai có thứ gì hơn mức thực sự cần thiết. Ngay người chỉ có hai áo cũng phải cho một cái và bằng lòng chỉ còn một cái, nếu người thân cận không có cái nào. Đứng trước nhu cầu của người khác, người ta chỉ được giữ lại điều gì mình cần mà thôi.
Người thu thuế và lính tráng cũng đến với Gioan. Đây là hai hạng người bị khinh bỉ và căm ghét, bởi vì họ thường lợi dụng địa vị mà thủ lợi. Gioan không mời họ bỏ nghề, nhưng kêu gọi họ loại trừ những hình thức xử sự bất công khi hành nghề. Người thu thuế có thể lợi dụng địa vị để đòi mức thuế cao hơn mức đã quy định để làm giàu. Những người lính có thể dùng vũ lực để ép người khác làm theo ý mình, để gia tăng đồng lương. Trong cả hai trường hợp, vấn đề là áp bức người khác để có thêm tiền bạc. Hoán cải, quay về với Thiên Chúa, không phải là chuyện thực hiện trong trừu tượng, nhưng phải được thể hiện ngay trong lãnh vực nghề nghiệp.
Sau này, Đức Giêsu còn yêu cầu mạnh hơn nữa: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,29).
* Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (15-17)
Một yếu tố tiêu biểu của sự cao cả của Gioan là đánh giá đúng đắn vị trí của ông. Ông đến theo bài sai của Thiên Chúa và ông hành động hết sức cương quyết. Do đó, ông đã gợi lên nơi dân chúng ấn tượng là ông chính là Đấng Cứu thế thời cuối cùng, Đấng Mêsia. Ông tuyên bố rằng ông chỉ là người dọn đường, và dứt khoát hướng người ta đến Đấng đến sau ông. Người cao cả hơn ông vô cùng, không sao sánh ví được. Tương quan giữa ông và Đấng ấy không thể mô tả cách nào cho xứng hợp, cho dù là bằng hình ảnh “nô lệ-chủ nhân”. Gioan không xứng đáng làm một việc phục vụ thấp hèn nhất cho Đấng đang đến. Bằng cách đó, vị ngôn sứ cao cả này đã cung cấp cho chúng ta một ý tưởng về sự cao trọng của Đức Giêsu. Ngay cụ Simêôn cũng đã loan báo Người như là Đấng làm cho người này được nâng dậy, còn kẻ khác bị té ngã (Lc 2,34).[11] Gioan đã mô tả cách hành động của Đấng ấy theo hai cách: Người làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa; Người thu gom lúa và đốt vỏ trấu. Đức Giêsu có quyền thông ban thực tại cao hơn và quý hơn: Thần Khí, quyền năng sống động vĩnh hằng của Thiên Chúa, đối lập với mọi thứ bất lực, yếu đuối và mong mạnh tạm bợ. Ai không sẵn sàng với Thần Khí mang sự sống, thì phải chịu phép rửa trong lửa tiêu diệt sự sống. Đức Giêsu quy tụ lại với Người, trong sự hiệp thông vĩnh cửu, lúa (thóc mẩy), tức là những ai phù hợp với những tiêu chí nhân lành của Người; Người loại trừ và đẩy vào nơi bị dày vò muôn đời những người khác, những người trống rỗng và không có giá trị.
* Tóm kết sứ vụ Gioan (18)
Gioan đã “loan báo Tin Mừng” cho dân chúng? Như vậy ông là người đầu tiên loan báo Tin Mừng (Wink). Nhưng nếu theo bản văn Luca, thì dường như thiên thần Gabriel mới là vị đầu tiên loan báo Tin Mừng (Lc 1,19)![12] Thật ra, có lẽ nên cho rằng đây là một từ tác giả dùng để “bình” hoạt động của Gioan, là hoạt động khuyến khích người ta quay về với Thiên Chúa. Tác giả không cho thấy là có lần nào Gioan đã rao giảng về “Nước Thiên Chúa”, bởi vì ngài dành công việc này cho Đức Giêsu. Từ đó có thể nói cho dù hoạt động của Gioan là giai đoạn chuẩn bị cho giai đoạn Đức Giêsu, lời rao giảng của ông vẫn không giống với lời rao giảng của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Gioan không thể loan báo một ơn cứu độ dễ dàng cho mỗi người, dù họ muốn hay không, dù họ sẵn sàng đón lấy hay không. Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng không áp đặt cho loài người chúng ta, bất kể tình trạng cá nhân chúng ta hoặc ngược lại với ý muốn của chúng ta. Bởi vì Gioan biết ý nghĩa của việc Đức Giêsu đến và biết điều gì liên hệ, ông xứng đáng vừa là sứ giả niềm vui vừa là nhà rao giảng việc hoán cải.
5.- Gợi ý suy niệm
1/. Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ dừng lại với những tâm tình tốt đẹp, nhưng phải được diễn tả ra bằng mộtcuộc sống tương hợp cụ thể với giáo huấn của Đức Kitô. Các thính giả của Gioan đã hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”, và vị Tẩy Giả đã chỉ dẫn cho mỗi hạng người một cách thức cụ thể để sống hoán cải. Có người thì phải tôn trọng công bình, có người được đề nghị chia sẻ, có người thì được mời tha thứ những xúc phạm, hoặc sống lương thiện trong nghề nghiệp của mình.
2/. Người ta có thể yêu cầu gì nơi những con người và những dân tộc đang sống và hầu như đang chết ngộp trong sự phồn vinh phú túc, trong khi hàng triệu người đang sống cũng trên trái đất này đang chết đói? Với quyền gì mà có những người được bảo rằng họ được duy trì và đảm bảo sự phú túc của họ, trong khi những người khác thậm chí không có những cái hết sức cần thiết? Tình trạng này là một sỉ nhục, chế nhạo lời kêu gọi hoán cải theo Tin Mừng. Cho dù cá nhân không có nhiều điều kiện để hành động, người ta cũng không được chấp nhận tình trạng ấy. Họ phải làm hết sức mà chia sẻ cách huynh đệ.
3/. Liên kết với mỗi loại địa vị, thẩm quyền, khả năng, kiến thức… là một thứ quyền nào đó. Do đó trong mỗi loại nghề nghiệp, luôn có những nguy cơ và cám dỗ lạm dụng quyền hành để bóc lột người khác hầu thủ lợi cho mình. Mỗi thứ nghề nghiệp đều cần một nền luân lý nghề nghiệp riêng. Và mỗi người phải hành động với tinh thần trách nhiệm trong vị trí của mình và trong chính nghề của mình, phục vụ người khác bằng chính “quyền bính” của mình, chứ không lạm dụng mà làm thiệt hại đến người khác.
4/. Nếu Đấng Mêsia đến đưa ơn cứu độ cho thế giới, các núi đồi (những ai có quá nhiều) phải lấp đầy các thung lũng (những người có quá ít). Nơi nào còn có bất bình đẳng, sự giàu có bất công bên cạnh cảnh sống cùng quẫn, người Kitô hữu phải san bằng các núi đồi và thung lũng. Nếu chúng ta có một thứ mà người khác rất cần, phải chăng chúng ta bán với giá thật cao để trục lợi? Có khi nào chúng ta lạm dụng địa vị, nghề nghiệp để khống chế kẻ khác? Có khi nào chúng ta lạm dụng quyền bính để bắt người khác chờ hàng giờ để được một điều chúng ta có thể làm dễ dàng tức khắc cho họ?
5/. Xin ghi lại một suy tư của thánh Augustin (354-430):
“Gioan cao trọng đến nỗi người ta đã có thể coi ông là Đức Kitô. Chẳng cần ông phải nói ra; người ta đã nghĩ như thế rồi… Nhưng người bạn khiêm tốn ấy của chàng rể, nhiệt thành phục vụ danh dự của chàng rể, không muốn chiếm lấy chỗ của chàng rể, như một chuyện ngoại tình. Ông làm chứng cho bạn mình, ông đưa chàng rể đích thực đến với cô dâu, ông kinh tởm chuyện mình được yêu thương thay thế Người bởi vì ông chỉ muốn được yêu thương trong Người mà thôi…
Người môn đệ nghe tiếng thầy; người ấy đứng bởi vì đang lắng nghe thầy, bởi vì nếu người ấy từ chối nghe thầy, chắc chắn người ấy sẽ té ngã. Điều làm nổi bật sự cao trọng của Gioan trước mắt chúng ta, đó là ông đã có thể được coi là Đấng Kitô, tuy thế, ông đã chọn làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, công bố sự cao cả của Người và hạ mình xuống, chứ không coi mình là Đấng Mêsia và tự lừa dối mình khi lừa dối kẻ khác. Do đó, Đức Giêsu có lý khi nói về ông rằng ông còn hơn là một ngôn sứ… Gioan đã tự hạ trước sự cao cả của Chúa, để sự khiêm nhường của ông đáng được sự cao cả ấy nâng lên”.[13]
[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh
[2] 2Sm 7,14-17: Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi”. Ông Na-than đã nói lại với vua Đa-vít, đúng y như tất cả những lời ấy và tất cả thị kiến ấy.
[3] 2Sm 23,1-17: Đây là những lời cuối cùng của vua Đa-vít: “Sấm ngôn của vua Đa-vít, con ông Gie-sê, sấm ngôn của người được đặt lên cao, của người được Thiên Chúa nhà Gia-cóp xức dầu tấn phong, của người ca sĩ được Ít-ra-en ái mộ. Thần khí ĐỨC CHÚA dùng tôi mà phán, lời Người ở trên lưỡi tôi. Thiên Chúa của Ít-ra-en đã nói, Núi Đá của Ít-ra-en đã phán cùng tôi: Ai cai trị con người với đức công minh, ai cai trị với lòng kính sợ Thiên Chúa, thì khác nào ánh ban mai lúc mặt trời mọc, một buổi sáng không mây, ánh sáng chói loà sau cơn mưa, làm cỏ xanh mọc lên từ lòng đất. Nhà Đa-vít bên Thiên Chúa chẳng như thế sao, vì Người đã lập với tôi một giao ước vĩnh cửu, được sắp đặt chi li và được duy trì? Mọi chiến thắng của tôi và mọi ước vọng, Người chẳng làm cho nẩy mầm đó sao? Nhưng phường vô lại đều như gai bị vứt bỏ: người ta chẳng bắt chúng bằng tay. Người nào đụng đến chúng, phải mang sắt và cán giáo nơi mình, chúng sẽ bị quăng vào lửa mà thiêu rụi tại chỗ”.
Đây là tên các dũng sĩ của vua Đa-vít: ông Ít-bô-sét, một người Tác-cơ-môn, đứng đầu Bộ Ba; chính ông đã vung giáo đâm chết tám trăm người cùng một lúc. Kế đến là ông E-la-da, con ông Đô-đô, con một người A-khô-ác. Ông ở trong số ba dũng sĩ đi theo vua Đa-vít khi họ thách người Phi-li-tinh, lúc chúng tập trung tại đó để giao chiến. Người Ít-ra-en đã rút đi, nhưng ông đứng vững và chém giết người Phi-li-tinh, cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt vào gươm. Và ngày đó ĐỨC CHÚA đã thắng lớn. Quân binh trở lại phía sau ông, nhưng chỉ là để lột các xác chết. Sau ông là ông Sam-ma, con ông A-ghê, người Ha-ra. Người Phi-li-tinh đã tập trung thành một đạo quân. Ở đó có một thửa đất trồng toàn đậu nâu. Quân binh đã chạy trốn người Phi-li-tinh, nhưng ông đứng giữa thửa đất, đuổi người Phi-li-tinh ra khỏi đó, và đánh bại chúng. ĐỨC CHÚA đã thắng lớn.
Ba người trong Nhóm Ba Mươi làm thành một tốp đi xuống và đến gặp vua Đa-vít ở hang A-đu-lam, vào mùa gặt. Một đạo quân Phi-li-tinh đóng trại ở thung lũng người Ra-pha. Vua Đa-vít bấy giờ đang ở nơi ẩn náu, còn người Phi-li-tinh bấy giờ đóng đồn ở Bê-lem. Vua Đa-vít ước ao và nói: “Phải chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng tại cổng thành Bê-lem!”. Ba dũng sĩ đã đột nhập trại Phi-li-tinh, lấy nước ở giếng tại cổng thành Bê-lem, đưa về cho vua Đa-vít. Nhưng vua không muốn uống mà đổ nước ấy làm lễ rưới dâng ĐỨC CHÚA. Vua nói: “Xin ĐỨC CHÚA đừng để ta làm điều ấy! Đó là máu của những người đã liều mạng đi lấy!” Vậy vua không muốn uống nước. Đó là việc ba dũng sĩ đã làm.
[4] Tv 18,51: Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Người đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng Người đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời; Tv 89,39.52: Thế mà nay Chúa lại khinh chê ruồng bỏ, nổi lôi đình với đấng Ngài đã xức dầu tấn phong; Vâng, lạy CHÚA, kẻ thù Ngài thoá mạ, theo sát gót mà buông lời thoá mạ đấng Ngài đã xức dầu tấn phong; Tv 132,10.17: Vì vua Đa-vít, trung thần của Chúa, xin đừng xua đuổi đấng Chúa đã xức dầu phong vương. “Nơi đây, Ta sẽ cho Đa-vít một dòng dõi hùng cường, sẽ thắp cho người Ta đã xức dầu phong vương một ngọn đèn luôn luôn cháy sáng”.
[5] Mc 1,7: Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”.
[6] Ml 3,1.23: Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, – ĐỨC CHÚA các đạo binh phán. Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng.
[7] Mt 3,11: Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.
[8] Lc 12,49: Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Cv 1,4-5: Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Cv 2,1-4: Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.
[9] Is 30,24: Bò lừa cày ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối, cỏ người ta đã lấy xẻng và chĩa mà rải ra.
[10] Lc 3,7-9: Đám đông lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an làm phép rửa; ông nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham.Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”.
[11] Lc 2,34: Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng”.
[12] Lc 1,19: Sứ thần đáp: “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông”.
[13] Bài Giảng thứ hai lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, số 288, 2; PL 38-39, 1302-1304.