Lc 13,1-9: Mời Gọi Hoán Cải – Dụ Ngôn Cây Vả Không Trái

0
5627


Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

Bản Văn Tin Mừng: Lc 13,1-9[1]

1 Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2 Đức Giê-su đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? 3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.

6 Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7 nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ 8 Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi’.”.

***

1.- Ngữ cảnh

Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của Tin Mừng Luca (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Jerusalem. Cuộc hành trình này trước tiên là một chuyến đi đến cái chết: các lời loan báo Thương Khó song song với các Tin Mừng Nhất Lãm khác đều nằm trong phân đoạn này (Lc 18,31-34),[2] nỗi khắc khoải của Đức Giêsu trước “phép rửa” Người sắp phải chịu (Lc 12,50),[3] loan báo số phận của Người tương tự số phận các ngôn sứ (Lc 13,32-33),[4] lời khẳng định Con Người phải chịu đau khổ (Lc 17,25).[5]

Tuy nhiên, chuyến đi này còn hàm chứa những yếu tố sư phạm như:

– a/. Các lời dạy về đời môn đệ: cầu nguyện (Lc 11,2-13; 18,1-8), từ bỏ (Lc 12,51-53; 14,26-27), tiền bạc (Lc 12,13-30; 14,28-33;…), làm chứng cho Đức Giêsu (Lc 12,1-12), tỉnh thức trông chờ Đức Giêsu trở lại (Lc 12,35-48);

– b/. Và như trong bài đọc hôm nay: lời kêu gọi lấy quyết định khi đối diện với Đức Giêsu và cuộc phán xét đang đến (Lc 12,54–13,9; 13,22-30;…).

Những câu truyện được kể trong đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ có trong Tin Mừng Luca mà thôi.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

     1) Mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị xã hội (Lc 13,1-5);

     2) Mời gọi hoán cải qua dụ ngôn Cây vả không trái (Lc 13,6-9).

3.- Vài điểm chú giải

– Máu dổ ra hòa lẫn với máu tế vật (1): Bởi vì “tế vật” (thysiai) chỉ được dâng tại Jerusalem, hẳn đây là những người đang có mặt tại sân tư tế của Đền Thờ. Cũng có thể đây là dịp dâng chiên Vượt Qua. Những người Galilee đây hẳn là các khách hành hương đã về Jerusalem để dự lễ. Sự cố này không được ghi lại trong bất cứ tài liệu nào ngoài Tin Mừng Luca. Sử gia Ph. Joseph có nói đến những sự cố sau:

+ (1) Một cuộc tàn sát người Samari gần núi Garidim (chứ không phải là “người Galilee”) bởi tay quan Pontius Pilate vào năm 35 SCN, và cũng không nói đến “tế vật”;[6]

+ (2) Quan Pontius Pilate đưa các hình tượng của hoàng đế vào khiến các người Jerusalem ái quốc đã nổi loạn;[7]

+ (3) Quan Pontius Pilate lấy quỹ Đền Thờ để xây một đường cống dẫn nước vào Jerusalem,[8] khiến người “Do Thái” (chứ không phải là “người Galilee”) bất mãn;

+ (4) Vua Herod Archelaus, con của vua Herod the Great, đã giết ba ngàn người tại Jerusalem dịp lễ Vượt Qua;[9]

+ (5) Vua Alexander Jannaeus (103-76 TCN) đã giết sáu ngàn người “Do Thái” vì họ đã ném chanh vào ông trong dịp mừng lễ Lều.[10]

Ta không biết đích xác là tác giả Luca đang ám chỉ đến biến cố nào. Tuy nhiên, lịch sử cho biết Pontius Pilate làm tổng trấn Judaea từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do Thái nhận định ông là con người “không nhượng bộ và tàn nhẫn”.[11]

– Chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn (2): Người Do Thái thường tin rằng, các tai họa xảy đến trong đời là kết quả của tội lỗi đã phạm trong quá khứ (x. G 4,7; 8,4.20; 22,5; Xh 20,5c; Ga 9,2-3).[12] Đức Giêsu không đặt vấn đề về niềm tin này, nhưng lợi dụng cơ hội để kêu gọi hoán cải.

– Tháp Siloam (4): Theo sử gia Ph. Joseph, có một cái tháp ở bức tường thứ nhất của thành Jerusalem cổ; tháp này ở phía Đông quay về hướng Nam và nằm bên trên suối Siloam.[13] Nhưng nay thì chẳng còn dấu tích gì về cái tháp này. Sử gia Ph. Joseph cũng không nói gì về tai nạn này.

– Một cây vả trồng trong vườn nho (6): Việc trồng cây vả trong vườn nho có trong Mk 4,4.[14] Có thể Đức Giêsu đang lấy lại một cách ví von của Cựu Ước, coi cây vả là biểu tượng của Judah hay Israel (x. Hs 9,10; Mk 7,1; Ge 1,7; Gr 8,13; 24,1-10).[15]

– Năm nay nữa (8): Thời gian ân huệ trước khi mọi chuyện chấm dứt được diễn tả bằng hình ảnh “năm nay”, nhằm nói lên sự giới hạn.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị xã hội (1-5)

Phân đoạn này là một truyện kèm lời công bố, do có lặp lại các câu hỏi và bài học của Đức Giêsu.

Người Pharisees dạy: “Không có hình phạt nếu không có tội lỗi”. Nếu Thiên Chúa để cho một số người Galilee bị giết là vì họ là những kẻ tội lỗi. Đức Giêsu đã được nghe kể về số phận của những người Galilee đã bị quan Pontius Pilate giết. Đức Giêsu loại trừ mọi liên kết giữa cái chết của những người Galilee ấy và tội lỗi của họ. Thay vào đó, Người vận dụng biến cố để kêu gọi hoán cải. Người cũng nhắc lại cái chết của mười tám người bị tháp Siloam đè, và kết luận rằng biến cố ấy là một thúc bách những người còn sống hoán cải, canh tân đời sống, tức là lấy đức tin mà chấp nhận lời cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giêsu đến loan báo. Cái chết có thể đến gặp bất cứ người nào cũng nhanh như đã gặp những người xấu số trên đây, bất cứ lúc nào: thậm chí ngay đêm nay, “mạng sống” có thể bị “đòi” để chịu xét xử (x. Lc 12,20).[16] Cần biết nhận ra một lời mời gọi hoán cải.

* Mời gọi hoán cải qua dụ ngôn Cây vả không trái ( 6-9)

Phân đoạn này là một dụ ngôn, nhưng không có một áp dụng minh nhiên (áp dụng hàm chứa trong các câu 3 và 5). Dù sao, ta vẫn có thể coi đây là một dụ ngôn về lòng thương xót hoặc thậm chí, một dụ ngôn về “khủng hoảng”, chứa một lời mời gọi hoán cải trước khi quá muộn, lúc đầu được ngỏ trực tiếp cho những người đồng hương của Người. Nhưng rồi bài cũng được gửi cho các Kitô hữu phải đối diện với viễn tượng là một kết cục cuộc sống bất ngờ.

Bài dụ ngôn này nhắc nhớ bản chất “nguy kịch” của cuộc sống con người: lúc này là giờ cuối cùng, thời gian ân huệ cuối cùng trước khi chịu phán xét. Cây vả không trái trở thành biểu tượng của một cuộc sống con người không sản sinh hoa trái thiêng liêng. Như một nối tiếp vào những lời nói của Đức Giêsu mời gọi canh tân đời sống, bài dụ ngôn đưa ra một “mũi nhọn” mang tính răn đe. Những người Galilee hẳn là đã chết vì sự độc ác của vài người, mười tám người Jerusalem hẳn là đã chết vì không may (có mặt tại chỗ không nên vào giờ không đúng), nhưng con người không biết đón nhận lời Đức Giêsu kêu gọi sẽ chết chắc chắn vì không hoạt động và không sinh hoa trái. Cái lỗi do sự trì trệ ươn ái của chính mình thì trầm trọng hơn cái điều tệ hại là chết vì tay của ai khác hoặc vì tai họa bất ngờ.

+ Kết luận

Trước các biến cố, Đức Giêsu cung cấp một giải thích mang tính tôn giáo để mời gọi các thính giả suy nghĩ: thời cuối cùng đã bắt đầu, những gì đang xảy ra trong thời gian này chỉ là một gợi ý về thời điểm chấm dứt mọi sự. Do đó, mỗi người phải lấy lập trường đúng đắn. Cũng như Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu công bố rằng cần phải hoán cải, đừng có trì hoãn, bởi vì thời gian mỗi người đang có đã là thời gian triển hạn rồi. Lời Đức Giêsu còn mang tính cấp bách hơn, bởi vì Người là chính là Đấng mà Thiên Chúa đã giới thiệu trên núi cao là “Con Ta”, và mời chúng ta “hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).[17]

5.- Gợi ý suy niệm

1/. Giải thích các biến cố là một việc rất tế nhị, nhất là khi biến cố ấy gây tai họa cho người khác chứ không phải cho chính ta. Đọc cho ra ý nghĩa các “thời điềm” (= dấu chỉ thời đại) là việc phải làm trong tinh thần siêu nhiên, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, và với tinh thần Giáo Hội. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của các “thời điềm” đó và chọn cho mình một lập trường tương ứng, cũng như giúp người khác chọn lựa đúng đắn.

2/. Có những người chủ trương rằng bạo lực là phương thế duy nhất để tái lập công lý. Thật ra, sức mạnh chẳng bao giờ đưa lại điều tốt, chẳng bao giờ giải quyết được các vấn đề; nó chỉ làm phát sinh những vấn đề mới nghiêm trọng hơn. Đức Giêsu không muốn dính líu với những người cứ nguyền rủa chửi thề. Người không vô cảm trước đau khổ hoặc các tai nạn hay nỗi bất hạnh, nhưng Người biết rằng hận thù, giận dữ và trả thù chỉ làm cho các vấn đề thêm trầm trọng.

3/. Có những Kitô hữu suy nghĩ như người Pharisees, cho rằng may mắn và sức khỏe là những phúc lành Thiên Chúa ban cho người tốt, còn đau khổ là một sự nguyền rủa Ngài giáng xuống kẻ ác. Không phải thế! Quả thật, có điều xấu do con người xấu gây ra, có những điều xấu xảy ra do sự thiếu quan tâm. Nhưng mưa không thuận gió không hòa, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh tật, là những điều ta không được đổ cho Thiên Chúa. Chúng xảy ra vì thế giới chúng ta là như thế. Dù vậy, không có điều gì xảy ra mà ở ngoài chương trình của Ngài. Không biến cố nào, tốt hay xấu, tình cờ hay có kế hoạch, mà vuột khỏi tình yêu của Ngài. Ngài để cho vũ trụ đi theo dòng sinh hoạt của nó, cho thiên nhiên vâng theo luật lệ của chính nó. Ngài cho phép người ta tự do hành động và điều hành các vấn đề sao cho ngay cả những chuyện xấu vẫn đưa đến một điều tốt.

4/. Theo dụ ngôn Cây vả không trái, chúng ta hiểu rằng mình dường như vẫn đang làm cho Chúa Cha (= chủ vườn nho) phải thất vọng, vì đã phí phạm bao nhiêu ân huệ cao quí Ngài ban cho. Và thời gian chúng ta còn đang có trước mắt chính là một “thời gian gia hạn”. Người biết suy nghĩ thì biết cách tận dụng “thời gian gia hạn” cho ích lợi, khi mà mình đã phung phí thời gian dài đã có trước đây. Một sự phung phí như thế cũng rất có thể đã gây ảnh hưởng tiêu cực trên những người khác.

5/. Hôm nay chúng ta vẫn có một Đấng chuyển cầu có thế giá trước nhan Chúa Cha, đó là Đức Giêsu. Người vẫn đang xin Chúa Cha ban thêm ơn cho chúng ta, vẫn xin Chúa Cha “triển hạn” để chúng ta có thể sinh hoa quả xứng với tình thương của Chúa Cha. Lẽ nào chúng ta có thể tiếp tục lạm dụng tình thương cao vời đó mãi?

6/. Mùa Chay là thời điểm thích hợp để suy xét xem liệu chúng ta có chậm trễ đưa ra những thay đổi quan trọng trong đời sống của mình hay không. Dụ ngôn cây vả không sinh trái gợi lên một dấu chỉ của niềm hy vọng. Cây vả được cho một năm hồng ân nữa; thêm một cơ hội, với sự chăm sóc chu đáo và tận tình hơn hầu có thể đơm bông kết trái. Tuy nhiên, vẫn còn đó một lời cảnh báo khắc nghiệt là nếu không sinh hoa trái thì nó sẽ bị chặt đi. Mùa Chay nhắc nhở về lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta và ta có đủ thời gian để đón nhận lòng nhân hậu ấy, và tiếp đó phải thực hiện những đổi mới quan trọng để sắp xếp lại cuộc đời của chúng ta. Tuy vậy, nếu chúng ta không hành động trong thời hạn được trao này thì sẽ phải lãnh một hậu quả bi thảm. Ngày cuối cùng sẽ ập đến bất ngờ với bất kỳ ai trong chúng ta.

 

 


[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh

[2] Lc 18,31-34: 31 Đức Giê-su kéo riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông:Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. 32 Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. 33 Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.34 Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói.

[3] Lc 12,50: Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!

[4] Lc 13,32-33: 32 Người bảo họ:Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này:Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. 33 Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được’.”.

[5] Lc 17,25: Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.

[6] x. Ant. 18.4,1 §86-87.

[7] JW. 2.9,2 §169-174.

[8] JW. 2.9,4 § 175-177.

[9] JW. 2.1,3 §8-13.

[10] JW. 13.13,5 §372.

[11] Đây là câu mà vua Herod Agrippa I viết trong thư gửi cho Hoàng đế Caligula (người kế vị Hoàng đế Tiberius [14-37 SCN], cai trị Rôma từ 37-41 SCN), được triết gia Philon ghi lại, x. Legatio ad Caium, 38.

[12] G 4,7; 8,4.20; 22,5: 7 Xin anh nhớ kỹ: Có ai vô tội mà phải tiêu vong? Có nơi nào người công chính lại bị huỷ diệt? 8 4Con cái anh mà đắc tội với Người, Người bắt chúng phải gánh những hậu quả do tội ác chính mình đã phạm.20Này, Thiên Chúa chẳng loại bỏ con người toàn vẹn, chẳng tiếp tay cho phường gian ác.22 5Há chẳng phải vì anh đã làm vô số điều gian ác và đã phạm muôn vàn lầm lỗi?; Xh 20,5c: Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông.; Ga 9,2-3: 2 Các môn đệ hỏi Người:Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”3 Đức Giê-su trả lời:Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.

[13] JW. 5.4,2 §145.

[14] Mk 4,4: Mỗi người sẽ ngồi dưới cây vả cây nho của mình, không còn ai quấy phá. Miệng ĐỨC CHÚA các đạo binh đã phán như vậy.

[15] Hs 9,10: Ta đã gặp được Ít-ra-en, khác nào chùm nho trong sa mạc, Ta đã xem cha ông các ngươi như trái đầu mùa trên cây vả mới bói. Nhưng phần chúng, khi đến Ba-an Pơ-o, chúng lại gắn bó với các thần ô nhục, và trở thành ghê tởm như những thần chúng yêu mến.; Mk 7,1: Khốn thân tôi! Vì tôi giống như người hái quả trong mùa hè, như người đi mót nho trong mùa thu hoạch: không tìm được chùm nho nào để ăn, chẳng gặp quả đầu mùa tôi hằng ưa thích.; Ge 1,7: Vườn nho của Ta, chúng biến nên chốn hoang tàn, cây vả của Ta, chúng làm thành đống củi vụn. Chúng tước sạch vỏ, hạ đổ thân cây, bóc cành trắng hếu.; Gr 8,13; 24,1-10: 13Ta quyết sẽ thu về – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -, không để trái nào trên cây nho, không để trái nào trên cây vả, cả lá cây cũng phải héo tàn, vì Ta sẽ trao chúng cho những kẻ qua đường.24 1 ĐỨC CHÚA đã cho tôi thấy hai thúng vả đặt ở trước thánh điện của ĐỨC CHÚA. Việc này xảy ra sau khi Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đã phát lưu khỏi Giê-ru-sa-lem: Giơ-khon-gia-hu vua Giu-đa, con vua Giơ-hô-gia-kim, các thủ lãnh Giu-đa, thợ rèn và thợ làm khoá; vua ấy điệu họ về Ba-by-lon. 2 Hai thúng vả ấy, một thúng rất tốt, tựa như vả đầu mùa; còn một thúng rất xấu, xấu đến nỗi không ăn được. 3 Bấy giờ ĐỨC CHÚA phán với tôi:Này Giê-rê-mi-a, ngươi thấy cái gì?” Tôi đáp:Thưa những trái vả: những trái vả tốt thì rất tốt, còn những trái vả xấu thì rất xấu, xấu đến nỗi không ăn được!”4 Bấy giờ có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:5 ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Như những trái vả tốt kia, đoàn người Giu-đa lưu đày biệt xứ đã bị Ta đưa ra khỏi nơi này đến xứ người Can-đê, Ta cũng sẽ đoái nhìn và giáng phúc cho như vậy. 6 Ta sẽ ghé mắt nhìn để ban phúc và sẽ đưa chúng trở về đất này; Ta sẽ xây chứ không phá, sẽ trồng chứ không nhổ. 7 Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA. Chúng sẽ là dân của Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng; bởi vì chúng sẽ hết lòng trở về với Ta. 8 Nhưng cũng như những trái vả xấu, xấu đến nỗi không thể ăn được – quả thật, ĐỨC CHÚA phán như sau – Ta cũng sẽ xử như thế với Xít-ki-gia-hu vua Giu-đa, với các thủ lãnh của vua ấy và với phần còn lại ở Giê-ru-sa-lem, những người còn sống sót trong xứ này và những người cư ngụ trong đất Ai-cập. 9 Ta sẽ khiến chúng trở nên mối kinh hoàng và tai họa cho mọi vương quốc trên cõi đất, nên trò ô nhục, lời đàm tiếu, đầu đề châm chọc và lời nguyền rủa cho mọi nơi Ta đã xua chúng đến. 10 Để trừng phạt chúng, Ta sẽ bắt chúng phải chịu cảnh gươm đao, đói kém và ôn dịch, cho tới khi chúng biến sạch khỏi miền đất Ta đã ban cho chúng cũng như cho cha ông chúng.

[16] Lc 12,20: Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta:Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’.

[17] Lc 9,35: Và từ đám mây có tiếng phán rằng:Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”.