SIÊU HÌNH HỌC
Nguyên tác: Tomas Alvira, Luis Clavell & Tomas Melendo, Metafisica
(Bản tiếng Tây Ban Nha – NXB. 1981)
Fr. Luis Supan, Metaphysics
(Bản tiếng Anh – NXB. 1991)
Chuyển ngữ: Lm. Giuse Đỗ Ngọc Bảo, OP.
***
***
PHẦN DẪN NHẬP
***
CHƯƠNG I: BẢN CHẤT SIÊU HÌNH HỌC
CHƯƠNG II: HỮU THỂ – KHỞI ĐIỂM CỦA SIÊU HÌNH HỌC
Trước khi đề cập đến những chủ đề khác, chúng ta cần có một cái nhìn khái quát sơ khởi về một số khái niệm siêu hình nền tảng, như hữu thể, việc hiện hữu, yếu tính, tồn tại. Vì hữu thể là đối tượng của Siêu hình học, cho nên mọi vấn đề cần phải được giải quyết căn cứ vào ý nghĩa hữu thể. Do đó tiên vàn ta phải am tường về ý nghĩa hữu thể.
I. KHÁI NIỆM HỮU THỂ
Hữu thể là “cái hiện hữu” (Being is that which is = Ens est “id quod est”). Không thể định nghĩa hữu thể theo nghĩa chặt được, vì một định nghĩa cần đến những khái niệm bao quát hơn. Ví dụ, một chiếc xe hơi có thể được định nghĩa là một cỗ xe có gắn môtơ dùng để chuyên chở. Nhưng để định nghĩa hữu thể, người ta cần đến một khái niệm tổng quát hơn bao gồm được hữu thể. Tuy nhiên, không thể có được khái niệm nào theo kiểu đó, vì hữu thể bao trùm mọi thực tại. Do đó ta chỉ có thể giải thích hữu thể là “cái hiện hữu”, “cái tồn tại”, hoặc “cái có thực” (that which is real). Chẳng hạn một con người, một con chim, một chiếc máy bay, tất cả đều là hữu thể.
Nói chặt chẽ, thuật ngữ hữu thể không có cùng ý nghĩa với thuật ngữ sự vật (thing). (Being phát sinh từ động từ “to be” (esse).
Khái niệm hữu thể không phải là một khái niệm “đơn thuần”; nó hàm ý việc kết hợp giữa một chủ thể (a subject = id quod) và một hiện thế (an act = est). Có hai yếu tố can dự vào khái niệm này: “một vật nào đó” vốn hiện hữu, và chính “việc hiện hữu” của sự vật đó. “Vật nào đó” nắm vai trò một chủ thể, có nghĩa là một thực tại đặc thù mà sự hiện hữu (esse) thuộc về (giống như chủ thể của việc cười là con người đang cười).
Tuy nhiên, hai yếu tố trên lại tạo nên chỉ một đơn vị: một yếu tố (ens) bao hàm sự hiện diện của một yếu tố khác. Khi chúng ta nói đến hữu thể, mặc nhiên chúng ta nói đến hiện hữu của nó, mặc dù chúng ta không đưa ra lối phán đoán “nó có” hoặc “một điều gì đó có”. Cũng vậy, khi chúng ta nghe thấy nguyên động từ “có” chúng ta cũng đã bao hàm chủ thể của nó, hoặc chúng ta khám phá ra sự vắng mặt của chủ thể hành vi đó.
Có thể tóm tắt như sau:
1) Hữu thể (“ens”) chủ yếu nói về sự vật hiện hữu: hữu thể ám chỉ sự vật đó trong mức độ nó đang có việc hiện hữu (hiện thế hiện hữu = act of being = esse).
2) Tiếp đến, hữu thể cũng có ý nghĩa là sự hiện hữu (esse) của sự vật đó, vì một sự vật chỉ có thể hiện hữu nếu như nó chiếm hữu việc hiện hữu.
3) Do đó, hữu thể liên quan tới một vật nào đó vốn hiện hữu trong thực tế.
Cần phân biệt “hữu thể thực tế” (real being) với “hữu thể thuộc trí” (being of reason), vì hữu thể thuộc trí là hữu thể trong mức độ nó là một thứ gì đó chỉ tồn tại nơi trí tuệ con người, chẳng hạn như những tính cách giả tưởng trong một cuốn tiểu thuyết, hay những đặc điểm tưởng tượng do trí vẽ (fantasies) của người ta tạo nên. Dĩ nhiên, những khái niệm đó có một tính thực hữu nhất định, hệ tại chuyện chúng được suy tưởng bởi quan năng trí tuệ của chúng ta. Chúng thuần túy là những khái niệm hoặc những thực tại tâm trí không hề có sự tồn tại nào bên ngoài trí tuệ con người. Khi chúng ta nói rằng một điều gì đó là thực, chúng ta muốn phân biệt nó khỏi một “hữu thể thuộc trí”; do đó, một con người có thực thì không phải là sản phẩm của trí vẽ, nhưng là một ai đó tồn tại bằng xương bằng thịt.
II. YẾU TÍNH – CÁCH THỨC HIỆN HỮU CỦA SỰ VẬT
Mọi sự vật thì hiện hữu, và đồng thời, chúng cũng là ‘một điều gì đó’ (something). Mỗi sự vật thì khác với những sự vật khác do bản chất của nó, bản chất đó đặt nó vào một loài nhất định (định loại = specifies). Khi được hỏi một sự vật là gì, chúng ta thường trả lời rằng nó là một cuốn sách, một cái bàn, một con chó hay một thứ gì đó. Những danh từ đó diễn tả sự vật là gì (what), có nghĩa là yếu tính của sự vật: nó cho ta biết về những sự vật, bất kể những phẩm tính phụ thể khả biến có thế nào. Ví dụ, một con ó thì không chỉ thuần túy là một tập hợp những phẩm tính khác biệt; đúng hơn, nó có một sự thống nhất nội tại, hoặc một kiểu hạt nhân mà từ đó xuất phát những phẩm tính nói trên. Hạt nhân này được trí tuệ ta nắm bắt, rồi đến lượt trí tuệ lại diễn tả điều đó qua định nghĩa hạn từ ‘con ó’.
Do đó, yếu tính có thể được định nghĩa như điều khiến cho một vật là chính nó (Therefore, essence can be defined as that which makes a thing to be what it is). Mọi sự vật đều có việc hiện hữu, nhờ đó chúng ta gọi các sự vật là những hữu thể (beings = entia). Tuy nhiên, rõ ràng là mỗi sự vật đều có yếu tính riêng của nó, nhờ đó nó có một danh xưng khác với danh xưng của mọi sự vật khác. Nhờ yếu tính mà một người là con người, nước là nước, chứ không phải là bất cứ thứ gì hiện diện trong thế giới vật chất.
Do đó hai nguyên lý cấu tạo đều hiện diện nơi mỗi thực tại trong vũ trụ là: chính việc hiện hữu (esse) và cách thức hiện hữu (essentia trong tiếng Latinh). Chúng là hai thành tố khẩn thiết và bất khả phân ly của mỗi hữu thể tồn tại trong vũ trụ.
III. VIỆC HIỆN HỮU (ESSE)
Giờ đây chúng ta xem xét yếu tố chính của hữu thể, đó là hiện thế của nó: hiện hữu (to be = esse). Ý nghĩa của hiện hữu thì quá rõ ràng với mọi người, không cần đến một trực giác đặc biệt nào cả.
Chúng ta hãy xem xét một số khía cạnh của esse xét như một hiện thế (esse is an act):
1) Tiên vàn esse là một hiện thế, tức là một hoàn bị của mọi thực tại (esse is an act, that is, a perfection of all reality). Thuật ngữ “hiện thế” được dùng trong Siêu hình học để ám chỉ bất cứ hoàn bị hoặc một đặc điểm nào của một sự vật. Do đó, nó không thuần túy được sử dụng để nói về những hoạt động (việc nhìn hoặc bước đi chẳng hạn)[1]. Theo nghĩa này, một hoa hồng trắng là một bông hoa có màu trắng như một hiện thế đem lại cho hoa hồng một sự hoàn bị loại biệt. Cũng vậy, “hiện hữu” áp dụng cho những sự vật, cũng nói lên một hoàn bị có thực, như hoàn bị “sự sống” nơi các sinh vật. Tuy nhiên, trong trường hợp esse, chúng ta đề cập đến một hoàn bị đặc biệt.
2) Esse là một hiện thế “phổ quát” (Esse is a “universal” act), có nghĩa là nó thuộc về mọi sự vật. Esse không tuyệt đối thuộc về một loại thực tại đặc thù nào, vì nếu không có esse, thì cũng chẳng có sự vật nào cả. Khi chúng ta nói về bất cứ điều gì, trước hết chúng ta biết rằng nó hiện hữu: con chim “hiện hữu”, vàng “hiện hữu”, đám mây “hiện hữu”.
3) Esse cũng là một hiện thế “toàn diện”: nó bao trùm mọi tính chất sự vật (Esse is also a “total” act: it encompasses all that a thing is). Đang khi những hiện thế khác chỉ liên hệ đến một phần hoặc một vài khía cạnh của hữu thể, thì esse là một hoàn bị bao gồm tất cả những gì mà một sự vật có được. Chẳng hạn, “hiện thế đọc sách” thì không diễn tả toàn bộ hoàn bị của người đang đọc sách, nhưng esse là hiện thế của mỗi một và của mọi thành phần của một sự vật. Nếu một cây “hiện hữu”, có nghĩa là toàn thể cây “hiện hữu” với mọi khía cạnh và mọi thành phần của nó – màu sắc, hình thù, sự sống, sự phát triển của nó – tóm lại, mọi thứ nơi nó đều chia sẻ esse của cây. Do đó, esse bao trùm toàn bộ một sự vật.
4) Esse là một hiện thế “cấu tạo” và cơ bản nhất của mọi hoàn bị, vì nhờ có nó thì các sự vật mới “hiện hữu” (Esse is a “constituent” act, and the most radical or basic of all perfections because it is that by which things “are”) . Như yếu tính là điều khiến cho một vật là thứ này thứ kia (sư tử, con người), thì esse là cái khiến cho các sự vật được hiện hữu. Ta có thể xét điều này qua nhiều góc độ.
(a) Esse là điều chung nhất trong mọi hiện thế (Esse is the most common of all acts). Điều khiến cho mọi vật hiện hữu thì không hệ tại những nguyên lý khiến chúng khác biệt (yếu tính của chúng), nhưng chính xác hệ tại hiện thế mà qua đó mọi sự vật đều như nhau, tức là chúng có việc hiện hữu.
(b) Esse thì tự bản chất có trước bất cứ hiện thế nào khác (Esse is by nature prior to any other act). Bất cứ hoạt động hoặc đặc điểm nào đều giả thiết một chủ thể hiện hữu độc lập để hoạt động đó bám vào, vậy mà esse được giả định bởi mọi hoạt động cũng như mọi chủ thể, vì nếu không có esse, thì chẳng có chi hiện hữu. Như vậy, esse không phải là một hiện thế nảy sinh từ yếu tính các sự vật; đúng ra nó là điều khiến cho các sự vật hiện hữu.
(c) Chúng ta phải loại bỏ mọi thứ khác để kết luận rằng esse là hiện thế cấu tạo (We have to conclude, by exclusion, that esse is the constituent act). Không một đặc điểm vật lý hoặc sinh học nào của các hữu thể – năng lượng, cấu trúc phân tử hoặc nguyên tử của chúng – lại khiến cho các sự vật hiện hữu, vì mọi đặc điểm trên nếu muốn tạo nên những hiệu quả của chúng thì tiên vàn phải hiện hữu đã.
Tóm lại, esse là việc hiện hữu đầu tiên và thâm hậu nhất đem lại mọi hoàn bị cho chủ thể, ngay tự bên trong (esse is the first and innermost act of being which confers on the subject, from within, all of its perfections).
Sau đây là những trích dẫn từ các tác phẩm của thánh Thomas Aquinas về esse :
– “Esse thì hoàn bị nhất trong tất cả (…), nó là hiện thế vượt trên mọi hiện thế (…) và là hoàn bị vượt trên mọi hoàn bị” (De Potentia, q.7, a.2, ad 9).
– “Chính esse là hoàn bị nhất trong mọi sự, vì đối chiếu với mọi sự nó là hiện thế; vì không gì là thực hữu trừ phi trong mức độ nó hiện hữu. Do đó, chính esse làm cho mọi sự được thực hữu, ngay cả những hình thế cũng vậy (dù là hình thế bản thể hay phụ thể)” (Summa Theologiae, I, q.4, a.1, ad 3).
– “Esse thì thâm hậu nhất trong mỗi sự vật và gắn bó sâu xa nhất nơi mọi sự vật, vì nó có vai trò kiến tạo (role of form) (hiện thế, một điều gì đó định hình hay thực hữu hoá) đối với tất cả mọi sự có trong một sự vật” (Summa Theologiae, q.8, a.1).
IV. VIỆC HIỆN HỮU (ESSE) XÉT NHƯ HIỆN THẾ MÃNH LIỆT NHẤT [2]
Việc hiện hữu thì thuộc về mọi sự vật như hiện thế đầu tiên và là nguồn cho mọi hoàn bị khác. Tuy nhiên, khi quan sát thế giới chung quanh, chúng ta thấy rằng có nhiều sự vật hết sức đa dạng trong vũ trụ; do đó chúng ta phải kết luận rằng việc hiện hữu không phải là một thứ gì đồng nhất nơi mọi sự vật: bởi vì có khác biệt nơi mỗi sự vật. Nét đặc trưng này không giới hạn vào nguyên esse ; nó còn được nhìn thấy nơi những phẩm chất và nhiều hiện thế khác. Có nghĩa là những hoàn bị đó đã được những chủ thể của chúng chiếm hữu ở nhiều cấp độ khác nhau. Ví dụ, ánh sáng được tìm thấy trong nhiều cấp độ mạnh yếu khác nhau; tương tự thế, hành vi hiểu biết hoặc ước muốn có thể được thực thi với cường độ mạnh hơn hay yếu hơn nơi cùng một cá nhân hay nơi nhiều con người khác nhau, hoặc nơi những hữu thể có trí năng thuộc nhiều bản chất khác nhau (con người, thiên thần, Thiên Chúa).
a) Việc hiện hữu được các hữu thể khác biệt nhau chiếm hữu trong nhiều cấp độ khác biệt nhau, đi từ những thực tại kém hoàn bị nhất lên đến tận Thiên Chúa (The act of being is possessed in different degrees of intensity by different beings, ranging from the most imperfect realities all the way to God). Hiển nhiên là có một phẩm trật hữu thể trong vũ trụ: khởi đi từ thế giới khoáng vật, được tiếp nối bằng nhiều hình thức sự sống, cho đến hoàn bị lớn lao nhất là hoàn bị của Thiên Chúa. Phân tích đến cùng, khác biệt về các hoàn bị bắt nguồn từ những cách thức chiếm hữu việc hiện hữu: vì nguồn mạch mọi hoàn bị của một sự vật chính là esse của nó, những cấp độ chiếm hữu các hoàn bị trên thì phản ảnh những mức cường độ trong việc hiện hữu.[3]
Thiên Chúa chiếm hữu esse trong tất cả viên mãn và cường độ của nó. Do đó Ngài có mọi hoàn bị. Nếu như Ngài thiếu một hoàn bị nào thì Ngài không có esse trong tất cả viên mãn của nó, nhưng phải chịu sự giới hạn. Mặt khác, các thụ tạo chiếm hữu “esse kém hơn”, và chúng càng bất toàn thì càng có ít “esse” hơn; chúng hưởng một cấp độ kém hơn trong việc thông dự vào hiện hữu.
Ta không nên nghĩ rằng mọi hoàn bị khác (ví dụ, sự sống, hiểu biết) thì được thêm vào esse [4]. Không phải là chuyện những sinh thể hiện hữu, rồi vượt xa và ở bên trên hiện hữu, chúng có thêm sự sống; đúng hơn, cách thức hiện hữu của chúng hệ tại chuyện “đang sống” (living), vì sinh động, tức là sống, là một cấp độ hiện hữu cao hơn.
b) Do đó sẽ không chuẩn khi ta coi esse như một thuộc tính mơ hồ và bất định thuộc về mọi sự vật xét như hoàn bị kém cỏi nhất của chúng (Hence, it would be incorrect to consider esse as a vague and indeterminate attribute which would belong to all things as their least perfection). Một số triết gia hiểu esse là một khái niệm nghèo nàn nhất, vì cho rằng nó bỏ qua mọi đặc điểm khiến cho các sự vật khác biệt nhau. Đối với họ, esse là một khái niệm hết sức trừu tượng và trống rỗng, một khái niệm có thể áp dụng cho mọi thứ (ngoại diên tối đa) vì xét về mặt thực hành nó không có nội dung (nội hàm tối thiểu), và chỉ nói lên một điểm tối thiểu mọi sự vật phải có để là thực tế.
Lối hiểu về esse như trên là một lối tiếp cận luận lý hơn là siêu hình, và nó ngăn cản việc hiểu esse như là hiện thế của sự vật, được chiếm hữu theo những cách thức khác nhau, và được chiếm hữu cách hoàn bị nhất nơi Thiên Chúa.
Lối nhận xét esse theo kiểu luận lý hiển nhiên phát sinh do những triết gia duy lý, đặc biệt là Wolff và Leibniz. Tuy nhiên, ngay cả Scotus và Suarez trước đó cũng đã coi esse như khái niệm hết sức bất định mà nội dung của nó thì đồng nhất với “yếu tính khả thể” (possible essence). Như vậy, chúng khiến cho hữu thể (ens) và yếu tính đồng nhất với nhau, và coi yếu tính như một yếu tố trung lập đối với việc hiện hữu (esse), thế là giản lược yếu tính vào nguyên “khả tính hiện hữu”. Đi theo tuyến tư tưởng này, Wolff định nghĩa hữu thể như “cái có thể tồn tại, nghĩa là cái mà sự tồn tại của nó là không mâu thuẫn”[5]. Do đó, ông phân chia hữu thể thành khả thể (possible) và thực tế (real); ưu tiên của hữu thể thuộc về hữu thể khả thể, vì hữu thể thực tế không hơn gì “hữu thể khả thể được đưa vào hiện thế”.[6]
Một trong những thiếu sót chủ yếu trong lập trường này là như sau: tư tưởng thấm nhập hay đồng hóa hữu thể, vì khái niệm hữu thể cực kỳ bất định này chỉ tồn tại trong trí óc con người, như kết quả của việc trừu xuất luận lý (logical abstraction). Do đó, nó không phải là một esse thực tế nhưng chỉ là một esse theo khái niệm. Trong thuyết duy lý, “khả tính” (possibility) được hiểu như đặc điểm “không-mâu thuẫn” của một khái niệm, có nghĩa là, “khả tính của hữu thể được suy tưởng hoặc được quan niệm bởi trí năng.
c) “Hiện hữu (to be) (esse) thì không hoàn toàn đồng nghĩa với “tồn tại”(to exist);“esse” diễn tả một hiện thế, đang khi “tồn tại” chỉ có nghĩa rằng một sự vật đang có đó (“To be” (esse) is not exactly the same as “to exist”; “esse” expresses an act, whereas “to exist” simply indicates that a thing is factually there). Khi quả quyết một sự vật tồn tại, chúng ta muốn nói rằng nó là thực, rằng nó không phải là “hư vô”, rằng “nó đang ở đó”. Tuy nhiên, esse nói đến một điều gì ở bên trong nhiều hơn, chứ không thuần túy nói đến sự kiện có đó nơi thực tại, đúng hơn nó là hoàn bị thâm sâu của một sự vật và là nguồn mạch cho mọi hoàn bị khác.
Tồn tại không diễn tả điều gì khác hơn là khía cạnh bên ngoài của esse – nó là một hiệu quả của esse. Vì một hữu thể có esse, nên nó thực sự ở đó, được đưa ra khỏi hư vô, và nó tồn tại. Do đó, tồn tại là hiệu quả của việc có esse.
Coi esse như tồn tại là một hiệu quả luận lý của việc đồng nhất hữu thể (ens) với yếu tính khả thể, phân cách khỏi việc hiện hữu. Như vậy, nảy sinh hai thế giới: thế giới ý tưởng được làm nên bởi những yếu tính trừu tượng hay tư tưởng thuần túy, và thế giới các thực tại có sự tồn tại thực sự. Thế giới thực tại không hơn gì một bản sao của thế giới tư tưởng, vì nó không thêm gì vào việc kiến tạo hữu thể học của các sự vật. Như Kant đã nói, khái niệm về 100 đồng gilders thật thì chẳng khác gì khái niệm 100 đồng gilders khả thể.[7]
Sự phân biệt giữa một bên là yếu tính ý tưởng hoặc trừu tượng, và một bên là tồn tại đích thực, đã làm nảy sinh những hệ lụy nghiêm trọng trong nhiều vấn đề triết học quan trọng. Đặc biệt trong lãnh vực nhận thức, điều này dẫn đến việc phân cách triệt để trí năng con người khỏi các giác quan: yếu tính trở thành đối tượng của tư tưởng thuần túy, đang khi tồn tại thực tế thì kiến tạo nên đối tượng được nắm bắt bởi giác quan (điều này cũng làm nảy sinh những quan điểm cực kỳ sai lầm là duy lý và duy nghiệm hoặc thực chứng; trong trường hợp của Lebniz, nó làm nảy sinh sự đối lập giữa “các chân lý luận lý” (logical truths) và” các chân lý thực tế” (factual truths).
Hệ quả khác của quan điểm này là cố gắng chứng tỏ sự hiện hữu của Căn Nguyên Đệ Nhất khởi đi từ idea về Thiên Chúa (chủ hữu thể luận = ontologism): Thiên Chúa là yếu tính duy nhất vốn bao gồm sự tồn tại nơi các thuộc tính của yếu tính, do đó Thiên Chúa hiện hữu. “Luận chứng” này kết luận về một Thiên Chúa chỉ tồn tại trong trí óc.
V. Ý NGHĨA CỦA ESSE NHƯ ĐỘNG TỪ NỐI TRONG MỘT CÂU
Chúng ta đã thấy hạn từ esse chủ yếu diễn tả hiện thế hoặc hoàn bị cơ bản nhất của mọi hữu thể – việc hiện hữu của nó (actus essendi)[8]. Vì sự kiện này ta có thể nói rằng “Phêrô hiện hữu”, hoặc “Tôi hiện hữu”, hoặc “những hữu thể hiện hữu”. Tuy nhiên, thay vì nói “Phêrô hiện hữu”, chúng ta thường nói “Phêrô tồn tại”, mặc dù “hiện hữu” không hoàn toàn đồng nhất với “tồn tại”, như đã nói trên.
Bên cạnh việc diễn tả ý nghĩa chính yếu này, esse còn liên tục xuất hiện như một động từ trong mọi ngôn ngữ. Thực vậy, nó tạo nên thành phần của mọi phán đoán bằng cách nối kết chủ từ (subject) với thuộc từ (predicate), vì một phán đoán luôn có nghĩa rằng một điều gì đó là hoặc không là, dù nói đơn thuần hay theo một nghĩa riêng biệt nào. Điều này là rõ ràng trong Anh ngữ, chẳng hạn khi ta nói, “This law is incomplete”, hoặc “Tomorrow is Sunday”. Tuy nhiên, những lần khác, nó chỉ là mặc nhiên, như khi ta nói, “John jogs every morning” hoặc “Ice melts”. Trong những ví dụ sau, động từ to be không xuất hiện rõ ràng, mặc dù ta có thể đưa ra những lối diễn tả tương đương, như “John is a man who goes jogging every morning”, hoặc “Ice is a subtance which melts”.
Trong văn phạm, điều này được qui chiếu về vai trò của động từ to be như một động từ nối (linking verb or copula):
a) ”To be” nói lên việc phức hợp giữa chủ từ và thuộc từ hiện diện trong bất cứ phán đoán nào nảy sinh bởi trí tuệ. Ví dụ, trong câu, “That horse is speedy”, “is” nối kết thuộc từ “speedy” với chủ từ “horse”. Trong trường hợp này, động từ chỉ thuần túy nắm vai trò nối kết hai hạn từ của phán đoán hay mệnh đề. Chức năng đầu tiên này của esse như copula được diễn ra trong cấp độ luận lý học; nó chỉ nối kết hai phần của một câu, – ngay cả những chủ từ và thuộc từ vốn không có thật hoặc trong thực tế chúng không thực sự phù hợp với nhau. Ví dụ, mệnh đề, “Man is irrational” là một phán đoán giả tạo; động từ “is” nối kết chủ từ với thuộc từ, nhưng mệnh đề lại không tương ứng với thực tại.
b) “To be” có thể cho thấy một hoàn bị nào đó thực sự đang gắn bó nơi một chủ thể, như khi ta nói về cây bút chì màu đen: “That pencil is black”, cho thấy rằng phẩm chất đặc thù đó (màu đen) thực sự thuộc về cây viết chì.
c) Ngoài ra, “to be” trong một mệnh đề hoặc phán đoán có nghĩa rằng việc gán một thuộc từ cho chủ từ thì phản ảnh trung thực chân lý – tức là điều được khẳng định trong một mệnh đề phải là thật. Trong vai trò này của esse, chúng ta chạm đến chân lý và sự giả trá: do đó, để nói rằng một điều gì đó là không thật, chúng ta nói “nó thì không” (it is not”, hoặc nếu một mệnh đề nào không phù hợp với thực tại, ta nói rằng nó là giả trá.
Thông thường, ba ý nghĩa trên được nối kết nơi mỗi phán đoán. Ví dụ khi ta nói, “The earth is round”, từ “is” vừa có nghĩa rằng chúng ta đang tạo nên một phức hợp trong phát biểu bằng cách nối kết thuộc từ “round” với chủ từ “earth”; rằng “roundness” thực sự thuộc về trái đất; và phát biểu này là thật.
Ý nghĩa luận lý cũng như văn phạm của esse tùy thuộc vào ý nghĩa chính của nó như hiện thế. Như ta quan sát ở trên, esse là hiện thế cấu tạo hoặc hoàn bị làm nảy sinh mọi hoàn bị tiếp theo. Do đó, để phát biểu rằng một hoàn bị nằm ở một chủ từ, chúng ta sử dụng động từ esse.
VI. CÁC ĐẶC TÍNH CỦA KHÁI NIỆM HỮU THỂ
Ta đã bàn về hữu thể, khởi điểm của Siêu hình học, và một vài nét trong hiện thế cấu tạo của nó, tức là esse của nó. Để hoàn tất quan sát khởi đầu về đối tượng của Siêu hình học, giờ đây chúng ta tìm hiểu những đặc điểm của khái niệm hữu thể (ens).
Ưu tiên của khái niệm hữu thể trong nhận thức nhân loại
Ưu tiên thực sự của esse đối với những hoàn bị khác của các sự vật, đã làm nảy sinh ưu tiên của khái niệm hữu thể trong lãnh vực nhận thức. Mỗi đối tượng của nhận thức chúng ta, trước bất cứ điều gì khác, đều được tri giác là hiện hữu, và do đó trí năng chúng ta tiên vàn biết nó như một điều gì đó đang hiện hữu, như hữu thể. Vì lý do này, khái niệm hữu thể mặc nhiên hàm chứa trong mọi khái niệm khác của trí năng. Ai nấy đều hiểu rằng một “cây” và một “con ngựa” là những sự vật đang hiện hữu và chúng chiếm hữu việc hiện hữu một cách đặc thù nào đó; người ấy nhận biết chúng như những hữu thể đang hiện hữu, với một yếu tính xác định. Do đó, những yếu tố cấu tạo của hữu thể, mà chúng ta đã giải thích, thì hiện diện nơi mỗi nhận thức của trí óc chúng ta, không hề phân cách.
Khái niệm hữu thể là đầu tiên trong mọi khái niệm mà trí năng chúng ta thủ đắc. Trước khi hiểu chi tiết thế nào là một sự vật và đâu là những hoàn bị đặc trưng của nó, thì tiên vàn ta biết rằng sự vật ấy hiện hữu, có nghĩa rằng, nó là một điều gì đó. Có được tri thức sơ khởi này, dần dần chúng ta thủ đắc lối hiểu biết tốt hơn về thực tại đó nhờ kinh nghiệm của mình. Như vậy, ngay trước khi một đứa trẻ có thể phân biệt những đồ vật chung quanh mình, nó đã biết rằng chúng hiện hữu; điều này là tri giác đầu tiên của nó, diễn ra vào lúc bắt đầu có nhận thức trí tuệ. Ta không thể hiểu được bất cứ điều gì, trừ phi trước hết đã hiểu rằng nó hiện hữu.
Tuy nhiên, người ta không được nghĩ rằng điều này chỉ là một nhận thức khởi đầu; con người nối kết mọi khía cạnh của thực tại mà hắn biết được trong cuộc đời vào lãnh vực hữu thể, cách này hay cách khác. Đây là những gì chúng ta hiểu khi ta nói rằng mọi nhận thức đều được giải kết hoặc được thu gọn vào hữu thể.
Khái niệm của ta về hữu thể thì khởi đầu còn bất toàn, và dần dần chúng ta hoàn thiện khái niệm này nhờ kinh nghiệm, khi ta biết được nhiều hữu thể hơn và nhiều cách thức hiện hữu hơn (Our notion of being is initially imperfect, and we gradually perfect this notion through experience, as we come to know more beings and diverse manners of being). Một tiến bộ tương tự cũng diễn ra trong mọi lãnh vực tri thức. Chẳng hạn, một sinh viên khoa Thực vật học đã có sẵn một tri thức về đời sống thực vật, nhưng chỉ nhờ kinh nghiệm và quan sát rộng rãi hơn thì anh ta mới có được tri thức sâu sắc hơn về ý nghĩa của thực vật. Cũng vậy, tri thức của ta về hữu thể trở nên sâu sắc và rộng rãi hơn khi ta khám phá được nhiều đặc điểm cũng như nhiều cách thức hiện hữu khác nhau. Siêu hình học cố gắng hoàn tất công tác này trong cấp độ khoa học.
“Hữu thể” không phải một khái niệm về giống
Giống là một khái niệm được áp dụng đồng đều và bất định cho nhiều sự vật khác nhau vì nó chỉ nói lên những đặc điểm vốn là chung cho tất cả những sự vật đó và bỏ sót những tính chất làm cho chúng khác nhau. Khái niệm “động vật” chẳng hạn, là một khái niệm về giống, được áp dụng không phân biệt cho mọi hữu thể có đời sống cảm giác (ví dụ, người, ngựa, chó). Để đi từ khái niệm giống, tỉ như “động vật”, đến một khái niệm đặc thù hơn, tỉ như “người”, chúng ta cần thêm vào khái niệm “động vật” những khía cạnh sai biệt mới vốn không hàm chứa trong giống, cụ thể là những khác biệt mà chúng ta bỏ đi để tạo nên một khái niệm về giống (ví dụ “có lý tính” hoặc những đặc điểm phân biệt của nhiều loài động vật khác nhau).
Khái niệm hữu thể không phải là một giống, vì không có yếu tố khác biệt nào có thể thêm vào đó, mà lại không hàm chứa sẵn trong đó (The notion of being is not a genus, since no differentiating elements can be added to it, which would not already be contained in it). Khái niệm động vật không bao hàm những khác biệt có thể phân biệt một động vật khỏi động vật khác. Tuy nhiên, khái niệm ens không chỉ nói đến những gì các sự vật có chung với nhau, nhưng cũng còn nói đến những khía cạnh khác biệt của chúng; những khía cạnh khác biệt cũng hiện hữu, và do đó cũng bao hàm trong khái niệm ens.
Một số khái niệm về giống đạt được nhờ trừu xuất thì có một “ngoại diên” lớn hơn (chúng bao gồm nhiều đối tượng hơn) tùy theo mức độ chúng bao gồm rất ít những đặc điểm nằm trong nội dung của chúng (“nội hàm” của chúng). Chẳng hạn, “vật thể” được áp dụng cho nhiều sự vật hơn là “rắn (solid)”, vì khái niệm rắn thêm vào một đặc điểm mới, đó là sự kết cấu ổn định các thành phần. “Các nhạc cụ” bao gồm “nhạc cụ dây”, “nhạc cụ hơi”, và “nhạc cụ gõ”, là những loại xác định hơn.
Tuy nhiên, khái niệm hữu thể lại bao trùm mọi sự: nó có ngoại diên tối đa cũng như nội dung khái niệm hay nội hàm tối đa (The notion of being, however, encompasses everything: it has maximum extension as well as maximum notional content or comprehension). Ens không chỉ bao gồm mọi thực tại trong thế giới nói chung, nhưng cũng còn biểu thị chúng, với tất cả mọi đặc điểm đơn lẻ của chúng. Tuy nhiên, mọi nhân tố xác định đó cũng như những cách thức hiện hữu đều được ám chỉ trong ens theo một cách thức không sai biệt và có phần nào lẫn lộn. Do đó, nếu chúng ta muốn làm cho một thực tại đặc thù được nhận biết, thì ta không thể nói trống rằng đó là một “hữu thể”. Chúng ta cũng phải nêu rõ ràng cách thức hiện hữu đặc thù của nó (yếu tính của nó), bằng cách nói rằng đó là một quyển sách, hay một cây viết, chẳng hạn. Đặc điểm duy nhất này của khái niệm ens nảy sinh từ sự kiện là danh từ ens được lảy ra từ esse, vốn là hoàn bị trên hết mọi hoàn bị, và mọi nhân tố khác vốn ấn định nó thì chỉ là những cách thức hiện hữu.
Một khái niệm ens chỉ thuần trừu tượng và về giống thì tồn tại trong đầu óc các triết gia nghiên cứu về những thực tại siêu hình như thể chúng là những khái niệm luận lý. Như vậy, theo Scotus và Suarez, chúng ta nhận biết những hữu thể cá biệt tồn tại nhờ trí năng của ta, rồi sau đó chúng ta trừu xuất “bản chất chung” của chúng, qua đó đạt tới yếu tính của chúng. Sau cùng, chúng ta đi đến một giống tối cao, vốn là trừu tượng nhất và tách biệt khỏi kinh nghiệm, và điều này được giả thiết là ens. Đây là khái niệm về ens mà nội dung của nó không còn là hữu thể thực tế, nhưng là ý tưởng tổng quát nhất về hữu thể, được thừa kế bởi thuyết duy lý. Điều này giải thích tại sao Siêu hình học, như chủ thuyết duy lý đã hiểu về nó, đã bị coi là một khoa học không có liên quan gì đến kinh nghiệm và thế giới thực tế.
Hữu thể: một khái niệm loại suy
Vì quá đa biệt và phong phú trong nội dung, nên khái niệm “ens” là loại suy, có nghĩa là, nó được gán cho mọi sự vật theo một ý nghĩa phần thì như nhau và phần thì khác nhau (the notion of “ens” is analogical, that is, it is attributed to all things in a sense which is partly the same and partly different). Chẳng hạn, “hiểu” là một khái niệm loại suy vì Thiên Chúa, các thiên thần, và con người đều được coi là hiểu, nhưng tất cả làm điều đó theo những cách thức khác nhau với những chiều sâu tri thức khác nhau. “Thiện hảo” cũng là một khái niệm loại suy vì mục đích của hành động và phương thế để đạt tới nó đều là thiện hảo, mặc dù không theo cùng một cách; cũng vậy, một số tài nguyên vật chất và sự chính trực luân lý của một hành vi nhân đức đều tốt cả, nhưng chúng không tốt theo cùng một cách. Esse là hoàn bị có khả năng được chiếm hữu theo nhiều cách khả thể nhất, vì mọi sự vật trong vũ trụ đều có esse, nhưng theo nhiều cách khác nhau. Do đó, vì hữu thể (ens) là một khái niệm lảy ra từ esse (việc hiện hữu), nên nó được áp dụng cho các sự vật một cách loại suy.
Đặc điểm này của khái niệm hữu thể (ens) có tầm quan trọng lớn lao trong việc nghiên cứu mọi vấn đề siêu hình. Ví dụ, “bản thể” và “các phụ thể”, “hiện thế” và “tiềm năng”, các thụ tạo và Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa, là những thực tại cực kỳ khác biệt, nhưng tất cả đều là “hữu thể” theo cách loại suy. Do đó, tất cả chúng có thể được nghiên cứu bởi cùng một khoa học mà không phải loại bỏ những khác biệt thực sự nơi chúng. Loại suy là một nét đặc trưng chính của phương pháp siêu hình.
Aristotle đã khám phá ra bản chất loại suy của hữu thể. Trước ông, hữu thể chỉ được xét cách đơn ý (univocally), như Parmenides đã dạy. Nếu hữu thể phải được hiểu theo cách đơn nghĩa, thì khi đó mọi thực tại đều được coi là hiện hữu theo cùng một cách, mà sau cùng sẽ dẫn đến thuyết nhất nguyên (monism). Mọi sự đều nhất loạt được coi là một (identically one); do đó, không có khác biệt giữa Thiên Chúa và các thụ tạo (phiếm thần). Tuy nhiên, khi dùng khái niệm loại suy về hữu thể, chúng ta có thể nói về Thiên Chúa và các thụ tạo như những hữu thể, đồng thời vẫn giữ sự cách biệt vô biên giữa các khái niệm đó. Nhờ cách loại suy, hữu thể thụ tạo dẫn ta đến việc nhận biết hữu thể thần thiêng và các hoàn bị của hữu thể này. Đó là lý do tại sao vấn đề này chiếm phần quan trọng nhất đối với Siêu hình học và thần học.
Tương quan giữa “hữu thể” và những khái niệm khác
Sự phong phú của khái niệm hữu thể cũng được phản ảnh nơi những khái niệm diễn tả những lối hiện hữu đặc thù (được gọi là “các phạm trù”) và nơi những khái niệm khác, được gọi là những khái niệm siêu nghiệm, nói lên những khía cạnh chung của mọi hữu thể.
a) Đa số các khái niệm đều giới hạn khái niệm hữu thể vào một cách hiện hữu chuyên biệt (specific mode of being); chúng nói lên một yếu tính mà nhờ đó một điều gì là “chính nó” chứ không phải là sự vật khác. Chẳng hạn, “kim cương” ám chỉ một khoáng vật với một bản chất hay một cách hiện hữu khác với bản chất của bất cứ sự vật nào khác, và “nhân đức” qui chiếu về một tập quán hoạt động đối nghịch với nết xấu. Trong nhóm khái niệm mênh mông này chúng ta có thể lảy ra một số khái niệm rộng hơn, ám chỉ những cách hiện hữu cơ bản nhất mà mọi thực tại có thể được qui vào đó. Những giống tối cao này của thực tại được gọi là “những phạm trù” mà cụ thể là bản thể và các loại phụ thể khác nhau. Sau này chúng ta sẽ nghiên cứu chúng chi tiết hơn.
b) Cũng có một số khái niệm nói lên những đặc điểm của hữu thể xét nguyên nó (trong mức độ nó là hữu thể), và do đó, có thể áp dụng cho mọi vật. Chẳng hạn, vì hiện hữu là một hoàn bị hay một thiện hảo, nên mọi sự, trong mức độ nó hiện hữu, đều có một loại thiện hảo và có thể hấp dẫn những thụ tạo khác và hoàn thiện chúng. Hơn nữa, những sự vật là khả tri và là thực nhờ esse của chúng, vì trí năng nhận biết chân lý khi nó nắm bắt việc hiện hữu của sự vật. Do đó, thiện hảo và chân lý là những đặc điểm thuộc về bất cứ điều gì hiện hữu. Những khái niệm này được gọi là những khái niệm siêu nghiệm, vì chúng không giới hạn hữu thể vào một lối hiện hữu đặc thù nào; đúng hơn chúng siêu việt mọi khía cạnh hiện hữu đặc thù. Nhờ chúng, ta có thể nêu lên một số khía cạnh hoàn bị phù hợp với việc hiện hữu, vốn không được diễn tả minh nhiên trong thuật ngữ “hữu thể”. Chúng giúp ta thủ đắc một cái nhìn sâu sắc hơn và đầy đủ hơn về thực tại. Phần hai của tập sách này bàn về những đặc điểm siêu nghiệm của hữu thể.
—————————————————-
SÁCH ĐỌC THÊM
PARMENIDES, Sobre la naturaleza, Fr. I-II (Diels-Kranz 28B 1 and 2). ARISTOTLE, Metaphysica, V, ch. 7; Vi, 2 and 4; VII, 1; XI, 8. SAINT THOMAS AQUINAS, In I perih, lect. 5; Quodl., IX, q.2, a.3; De ente et essentia c1; In V Metaph., lect 9; De verit., q.1; a.1. E. GILSON, Réalisme thomiste et critique de la connaissance, Vrin, Paris 1947.