Học Thuyết Chiến Tranh Chính Nghĩa: Con Đường Dẫn Tới Hòa Bình

0
3122


Tác giả: Fr. Fausto B. Gomez, O.P.

Chuyển ngữ: Vincent Phạm Xuân Hưng, O.P.

 

Thánh Augustine nói rằng vạn vật đều mong ước hòa bình. Thánh Thomas Aquinas cũng quan niệm nhân loại ai cũng ước mong hòa bình. Ai cũng mong ước đạt được điều mình mong ước.[1] Vì đặt niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Kitô hữu được mời gọi cách riêng biệt đạt được hòa bình, xây dựng hòa bình để trở thành những con người kiến tạo hòa bình. Ngày nay, chúng ta có còn xem “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” như là một con đường dẫn đến hòa bình không?

MỞ ĐẦU

Trong quá khứ, dường như thế giới không lúc nào vắng bóng chiến tranh. Do đó những nhà thần học Kitô giáo và những nhà luân lý đã thành lập “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa”. Cũng vậy, thế giới của chúng ta ngày nay chiến tranh vẫn xảy ra như cơm bữa và thật đáng buồn vì ngành nghiên cứu chiến tranh hoặc chiến tranh học (polemology) vẫn tiếp tục phát triển.

Chiến tranh được hiểu như là một cuộc xung đột vũ trang giữa những quân đội của những quốc gia thù nghịch. Trong bối cảnh hiện nay, chiến tranh còn được hiểu là cuộc xung đột võ trang giữa một quốc gia – hoặc nhiều quốc gia – với những tổ chức như một quốc gia, chẳng hạn những nhóm khủng bố.

Có nhiều loại chiến tranh. Trong bài viết này, chúng ta chỉ tìm hiểu hai loại chiến tranh khác nhau:

– Trước tiên, chúng ta bàn đến “cuộc chiến gây hấn” (cuộc chiến vô cớ với một nước khác), cuộc chiến can thiệp (khởi xướng cuộc chiến nhằm ngăn cản mối đe dọa chiến tranh từ một quốc gia khác)“cuộc chiến tự vệ” (chiến tranh nhằm chống lại kẻ xâm lược bất chính).

– Sau đó, để tìm hiểu sự phân biệt những loại vũ khí hủy hoại đã được sử dụng trong chiến tranh, chúng ta nói đến chiến tranh vũ khí hạt nhân, chiến tranh vi sinh vật và chiến tranh dùng vũ khí hóa học.

Sau những cuộc tấn công khủng bố vào tòa tháp đôi ở New York, và Ngũ Đài Giác ở Washington D.C. ngày 11/9/2001, “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” được “phục hồi” lại. Tổng thống George Bush và những nhà lãnh đạo thế giới khác, trong đó có một số vị lãnh đạo tôn giáo từ những tổ chức tôn giáo khác nhau đã sử dụng “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” biện hộ cho chiến tranh chống lại khủng bố – vài người lý giải rằng, đó là cuộc chiến chống Afghanistan nơi sản sinh ra những cuộc tấn công khủng bố; hay cuộc chiến lật đổ chế độ Saddam Hussein – bị liệt vào chủ nghĩa chống lại nhân loại. Hơn nữa, trên thế giới ngày nay xuất hiện một thứ chủ nghĩa khủng bố khác được bao bọc bởi “chính nghĩa”, đó là “giải thoát những con người đang đi theo con đường sai lạc”; chúng tôi muốn nói đến chủ nghĩa khủng bố của IS.

Khởi đầu trong những thập niên đầu của thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta có nên bàn về cuộc chiến tranh chính nghĩa không?

Để khai triển chủ đề này, theo quan điểm thần học và luân lý, chúng tôi xin được trình bày năm điểm then chốt:

– Trước tiên, chúng ta sẽ suy xét “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” trong “thần học truyền thống”, chủ yếu tập trung vào tư tưởng của Thánh Thomas Aquinas.

– Kế đến, chúng ta sẽ phân tích “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” theo “Học Thuyết Xã Hội Công Giáo”, chủ yếu tập trung vào những bản văn của Đức Giáo Hoàng Piô XII và của Công Đồng Vatican II.

– Tiếp theo, chúng ta sẽ nghiên cứu “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” trong những “bài giáo huấn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sau ngày 11/09/2001”;

– Và quan điểm của “Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới” về “chiến tranh chính nghĩa” đưa ra sau những cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9/2001;

– Cuối cùng, chúng ta kết thúc phần thảo luận bằng một suy tư cá nhân về chiến tranh và hòa bình.

Cần phải biết trước sự phân biệt rất quan trọng: có hai lối tiếp cận trong việc nghiên cứu truyền thống chiến tranh chính nghĩa, gọi là tiếp cận “thần học / luân lý” và tiếp cận “kinh nghiệm / thực hành”. Chúng tôi xin trình bày theo viễn cảnh luân lý và thần học Công giáo.

I. QUAN ĐIỂM CỦA THÁNH THOMAS AQUINAS

Kitô giáo có hai cây đại thụ vững chắc về đạo lý chiến tranh là Thánh Augustine và Thánh Thomas Aquinas.[2] Tới Công Đồng Vatican II, những bài giáo huấn ngắn gọn và súc tích của thánh Tiến sĩ Thiên Thần trong bộ Summa Theologiae rõ ràng có ảnh hưởng lớn đến thần học truyền thống.[3]

Thánh Thomas Aquinas viết bộ Summa Theologiae vào thế kỷ XIII, bấy giờ những cuộc chiến giữa và trong những quốc gia đang xảy ra thường xuyên. Lúc này, có rất nhiều cuộc nội chiến xảy ra tại Italy, trên thực tế những thành viên trong gia đình của thánh sư bị thu hút cách khác nhau và đôi khi họ ở những phe chống đối nhau.[4] Hơn nữa, chúng ta cũng biết rõ vào thế kỷ XIII, Giáo Hội cũng đã tham gia vào chiến tranh trong những cuộc thập tự chinh và tòa tra.

Sau khi tìm hiểu bản chất của đức ái (vấn nạn 23–24), mục đích chính của đức ái (25–26), hành động của đức ái (27–33), Thánh Thomas Aquinas tìm hiểu những tật xấu chống lại phẩm chất thần học đức ái (34–43), những tật xấu chống lại hòa bình (với niềm vui và việc thiện, hòa bình là một kết quả của đức ái), đặc biệt những tật xáu chống lại đời sống bình an gọi là chiến tranh (40), cãi vã (41) và nổi loạn (42).

Vấn nạn 40 mãi mãi sẽ là nguồn mạch cổ điển cho việc giáo huấn thần học và luân lý về chiến tranh, cơ bản là cuộc chiến tranh công lý. “Khi đề cập đến vấn đề chiến tranh công lý, tên của Thánh Thomas Aquinas được đặt hàng đầu dưới hầu hết mọi ngòi bút của các thần học gia”.[5]

Thánh Thomas Aquinas khai triển giáo huấn về chiến tranh chính nghĩa theo bốn tiêu đề: mở đầu vấn nạn 40, Người viết:

– Có cho phép phát động một vài cuộc chiến nào đó không?

– Các tu sĩ có thể tham gia chiến tranh không?

– Những người tham chiến có được sử dụng thủ đoạn lừa gạt không?

– Có thể tiến hành chiến tranh vào những ngày lễ không?

Chúng ta chú ý đến trọng tâm mục một. Mục này được coi như là kim chỉ nam trong tiêu đề này: “Tiến hành chiến tranh luôn là trọng tội chăng?”. Một nhà bình luận có quan điểm khác với lập trường của Thánh Thomas Aquinas dẫn chứng hai tiêu đề ở mục một trên chứng tỏ rằng, tác giả bộ Summa có lập trường chống chiến tranh. Đối với Thánh Thomas Aquinas, thông thường chiến tranh là hành động bất hợp pháp và bất chính. Vậy khi nào thì chiến tranh được đánh giá là cuộc chiến chính đáng?

Có ba điều kiện để định mức một cuộc chiến chính đáng: “Khi thẩm quyền chung (public authority) coi cuộc chiến là chính đáng; khi nó thể hiện một nguyên nhân chính nghĩa; khi đó la một mục đích đúng đắn”.

1. Điều kiện trước tiên: “Thẩm quyền chung (public authority)”. Thẩm quyền chung ở đây không phải phát xuất từ những cá nhân hay những tổ chức xã hội hoặc là một quyền lực siêu quốc gia – không tồn tại vào thế kỷ XIII thời Thánh Thomas Aquinas. Thánh sư đưa ra điều kiện trước tiên cho một cuộc chiến chính đáng:[6]

“Từ khi những người có thẩm quyền được ủy thác để quan tâm đến phúc lợi chung, họ là những người chăm sóc những công việc của một thành phố, một vương quốc hoặc một tỉnh thuộc phạm vi của họ (…). Và như vậy, họ có quyền hợp pháp chống lại sự nhiễu loạn trong phạm vi của họ, và trừng phạt những tội phạm… Vì vậy, một cách hợp pháp, họ dùng quyền lực chiến tranh để bảo vệ cho phúc lợi chung khi có những cuộc tấn công từ bên ngoài”.

2. Điều kiện thứ hai để lượng định một cuộc chiến chính đáng: “Phải có một nguyên nhân chính đáng hay là một mục đích chính đáng”. Chỉ được phép khởi xướng chiến tranh chống lại một quốc gia đã gây ra những bất công đau khổ, nhằm mục đích tái thiết lại công lý giữa các quốc gia. Thánh Thomas Aquinas viết:

“Nguyên nhân được xem là chính đáng khi những người bị tấn công đáng phải nhận sự tấn công đó vì những việc sai trái họ đã gây ra. Thánh Augustine cho rằng, thông thường chúng ta nhìn nhận một cuộc chiến là chính đáng khi cuộc chiến đó báo thù cho những điều sai trái, trừng phạt một quốc gia hoặc một chính phủ đáng bị trừng phạt vì đã không chịu đền bù những xúc phạm do những thành viên của họ đã gây ra hoặc không chịu bồi thường những gì họ đã chiếm đoạt, gây thiệt hại cho quốc gia kia”.

Một cuộc chiến là chính đáng khi đó là cuộc chiến tự vệ nhằm bảo vệ một dân tộc hay một quốc gia, và lợi ích chung. Hơn nữa, đối với Thánh Thomas Aquinas một cuộc chiến là chính đáng khi nó trừng phạt một cách công bằng. Thánh sư cũng dùng những lý lẽ tương tự bảo vệ án tử hình đối với các phạm nhân.[7]

3. Điều kiện thứ ba cần phải có đó là một “mục đích chính đáng” – động lực chủ quan. Chiến tranh chính nghĩa là con đường dẫn đến hòa bình – hòa bình bị quấy nhiễu do sự bất chính. Lệnh ban hành sử dụng quân sự “phải dẫn tới chiến thắng và hòa bình. Chiến tranh sẽ trở nên ngu dại nếu chiến tranh chỉ hoàn thành nhắm tới mục đích chiến tranh”.[8] Từ điều kiện thứ hai này, chúng ta suy ra điều kiện quan trọng khác: “Thành quả chiến thắng là điều khả thi”. Ở phần đầu bộ Summa, Thánh Thomas Aquinas viết: “Mọi cuộc chiến được công nhận là chính đáng phải là những cuộc chiến giúp cho con người tìm được nền hòa bình tốt đẹp hơn tình trạng của họ trước đó”.[9] Trong vấn nạn 40 mục một, thánh nhân viết:

“Việc phát động chiến tranh đòi phải có mục đích chính đáng đó là phải có ý định thăng tiến điều thiện hảo và ngăn chặn việc xấu. Vì vậy, Thánh Augustine viết: “Đối với những người thực tâm tôn thờ Thiên Chúa, những cuộc chiến tranh như thế được xem như là việc kiến tạo hòa bình, việc kiến tạo này không bao giờ khuyến khích làm tăng thêm quyền hành hoặc hành động tàn ác, nhưng với chủ tâm xây dựng hòa bình, ngăn chặn điều xấu và kiến tạo điều thiện hảo”. Giả như bây giờ xảy ra một cuộc chiến được sự cho phép của một nhà nước có thẩm quyền và cuộc chiến đó có một nguyên nhân chính đáng thì cuộc chiến đó vẫn có thể sai vì một mục đích sai lầm như thường”.

Trong bộ Summa, thánh sư còn viết: “Chẳng có phương thế hợp pháp nào ủng hộ hành vi giết người vô tội”. Từ khẳng định này, chúng ta suy ra điều kiện khác cho “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa”, đó là nguyên lý “không phân biệt đối xử”. Thật vậy, thánh sư nhấn mạnh rằng, con người không được phép giết người vì Thiên Chúa tạo dựng nên sự sống của con người. Thật đáng tiếc, vào thời điểm đó, thánh sư nghĩ rằng có một vài tội nhân, họ không có quyền được sống.[10]

Hầu hết các thần học gia luân lý đều đã bình luận điều khoản trên. Đặc biệt những thần học gia gạo cội thế kỷ XVI như Victoria, Soto, Banez và Suarez đã đóng góp nhiều trong việc hình thành nền luân lý và thần học cho “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa”. Tuy nhiên, những thần học gia nói trên không nghiên cứu chiến tranh theo quan niệm hòa bình là hoa quả của đức ái, nhưng là đức công bằng. Ngay khi Thánh Thomas Aquinas xem chiến tranh là tội chống lại hòa bình, và “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” là dụng cụ khả thi dẫn tới hòa bình, thì các thần học gia nói trên lại xem chiến tranh như là dụng cụ của công lý, trong đó bao gồm cả nền công lý của pháp luật: một cuộc chiến tranh bị coi là bất hợp pháp hoặc vô đạo đức khi cuộc chiến đó vi phạm luật chiến tranh; cuộc chiến tranh bị coi là bất chính khi đi ngược với luật lệ quy định và ngược với “luật tự nhiên”.[11]

Những nhà bình luận về Thánh Thomas Aquinas nói trên khai triển cẩn thận ba điều kiện của “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa”, đặc biệt là điều kiện thứ ba: “Nguyên nhân chính đáng”, nguyên nhân này gồm có bốn điều kiện:

– Sự bất công trầm trọng hiện diện một cách ngoan cố lì lợm.

– Sự cần thiết cần đến chiến tranh để đạt đến công bằng.

– Tỉ lệ cân xứng giữa hậu quả của sự bất công và những tai họa chiến tranh (nguyên lý “sự xấu ít hơn” – trong hai điều xấu, chọn điều ít xấu hơn).

– Phải có khả năng chiến thắng.[12]

Khi chúng ta nghiên cứu điểm thứ hai, một vài câu hỏi chợt nảy sinh: “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” có ngăn chặn được chiến tranh không? Học thuyết này có ủng hộ chiến tranh không? Thẩm quyền chung có thể bị kích động chống lại người khác, hay đôi khi chỉ là một cơ quan đầy quyền lực chống lại những kẻ không có sức mạnh? Công lý trừng phạt có phải là nguyên nhân chính đáng hay chỉ thể hiện thái độ “mắt đền mắt, răng đền răng”? Trong trường hợp cụ thể này, nguyên nhân chính đáng thực sự là gì? “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” có bắt nguồn từ Kinh Thánh không?

II. QUAN ĐIỂM CỦA “HỌC THUYẾT XÃ HỘI GIÁO HỘI CÔNG GIÁO”

Mãi tới thời Đức Giáo Hoàng Pio XI, giáo huấn truyền thống Công giáo về chiến tranh chẳng có gì mới mẻ đáng kể. Đức Giáo Hoàng Pio XII khai mở cánh cửa giáo huấn chiến tranh đầy ý nghĩa, và rồi những Giáo Hoàng thời Công Đồng Vatican II, chính Công Đồng này và đặc biệt là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tiếp tục khai triển chúng một cách năng động.

A. ĐỨC GIÁO HOÀNG PIO XII

Thần học gia José Luis Gutiérrez Garcia, một chuyên viên “Học Thuyết Xã Hội Công Giáo” nói rằng, học thuyết mới về chiến tranh của Đức Giáo Hoàng Pio XII xoáy vào ba điểm: thông thường chiến tranh bị kết án mạnh mẽ; một cuộc chiến tự vệ nhằm chống lại kẻ xâm lược bất chính là cuộc chiến hợp pháp, có đạo đức; chiến tranh nguyên tử là chiến tranh vô đạo đức. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Công Đồng Vatican II khai triển nhiều điểm cuối cùng.[13]

Trong Thông điệp Benignitas et Humanitas (1945), Đức Giáo Hoàng Pio XII viết: “Học thuyết chiến tranh được quan niệm như là những phương tiện thích hợp và cân đối để giải quyết những xung đột thực sự đã trở nên lỗi thời: làm sao có thể có sự cân đối giữa những hậu quả tốt và xấu trong chiến tranh. Do đó, phải cấm chiến tranh”. Đức Thánh Cha cũng mạnh mẽ kết án chủ nghĩa dân tộc ích kỷ. Chủ nghĩa này là một nguyên nhân chính gây nên chiến tranh. Chiến tranh có tuyệt đối bị cấm không? Câu trả lời vừa có lại vừa không. Nếu là cuộc chiến tranh xâm lược hoặc gây hấn thì hoàn toàn bị cấm vì đó là cuộc chiến vô đạo đức và bất chính: “Trong tương lai việc kiến tạo hòa bình đòi hỏi phải loại khỏi thế giới tất cả những việc dùng sức mạnh xâm lược cũng như tất cả mọi cuộc chiến tranh gây hấn”.[14]

Cuộc chiến tranh tự vệ có hoàn toàn bị cấm không? Có thể câu trả lời là không nếu như thực hiện theo đúng tất cả những điều kiện được đặt ra trong “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa”. Trong Thông điệp Gravi, Đức Giáo Hoàng Pio XII viết: “Nếu muốn suy nghĩ và hành động như những Kitô hữu thì một người bị đe dọa hay một nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược bất chính không thể giữ thái độ lãnh đạm thụ động. Hơn nữa, tình đoàn kết gia đình nhân loại sẽ không cho phép họ bình chân như vại với thái độ trung lập dửng dưng của những khán giả”.[15] Đoạn trích nguyên văn này mang đầy ý nghĩa. Đoạn văn này đã khai mở cho những sự can thiệp nhân đạo như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sau này đã áp dụng cho việc giải trừ quân bị đối với những kẻ xâm lược.[16]

Ngay khi lên án cuộc chiến tranh xâm lược và chấp nhận cuộc chiến tự vệ với những điều kiện cụ thể, Đức Giáo Hoàng Pio XII kêu mời xây dựng những lương tâm đúng đắn và tinh thần hòa bình. Ngài nói rằng, việc giải trừ những tranh chấp trong lương tâm là điều rất quan trọng cho việc giải trừ quân bị. Ngài còn nói thêm: “Đầu mối gây rắc rối cho hòa bình thực ra phát xuất từ sự thất bại trong tinh thần và sự bại trận trong tinh thần”.[17]

Trong Thông điệp Pacem in Terris (Hòa bình trên địa cầu), Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã lên án việc dùng vũ khí hạt nhân để răn đe chiến tranh và nỗi sợ hãi do chiến tranh tạo nên, đồng thời Đức Giáo Hoàng cũng mạnh mẽ kêu gọi tiến tới việc giải trừ quân bị.[18] Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII dùng một văn phong mới kịch liệt chống lại chiến tranh vũ khí hạt nhân: “Vào thời đại mà sức mạnh nguyên tử là một niềm kiêu hãnh, người ta không còn cảm thấy chiến tranh là công cụ thích hợp nhằm sửa đổi những vi phạm công lý nữa”.[19] Còn về phần mình, trong bức thư kêu gọi chống chiến tranh gởi cho Hoa Kỳ năm 1965, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã lấy làm tiếc về sự can thiệp của Hoa Kỳ, không những đã không ngăn cản dược những nguy cơ chiến tranh, nhưng còn làm cho những người nghèo trở nên nghèo hơn. Cả một thế hệ bị suy sụp là một sự nhục nhã khủng khiếp.[20]

B. CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Giáo huấn về chiến tranh của Công Đồng Vatican II tích cực triển khai học thuyết của Giáo Hội. Trong bối cảnh vũ khí hạt nhân và cuộc chạy đua vũ trang, Công Đồng đã loại hẳn quan điểm có thể có một cuộc chiến chính đáng. Công Đồng cho rằng, ngày nay cần phải xét lại chiến tranh “trong một tinh thần hoàn toàn mới mẻ”. “Sự phát triển khí giới khoa học làm cho chiến tranh tăng thêm phần ghê tởm và khốc hại khôn lường”.[21] Do đó, tất cả nhân loại phải xả thân giải phóng thế giới khỏi cảnh nô lệ ngàn đời của chiến tranh. Ước muốn của nhân loại là một thế giới không chiến tranh: “Nhiệm vụ của chúng ta phải đảm nhận là cố gắng hết sức mình mở rộng nhãn quan trên toàn thế giới làm tan biến tất cả các cuộc chiến tranh cho nhân loại tiến triển tốt đẹp hơn”.[22] Điều đáng quan tâm ở đây là điều mà các nhà chú giải về Thánh Thomas Aquinas khẳng định: Theo thánh sư Tôma, nếu như có một quyền bính quốc tế có thẩm quyền hoặc một tòa án quốc tế thì tất cả mọi cuộc chiến tranh đều bất hợp pháp.[23]

Công Đồng Vatican II không chấp nhận việc sử dụng sức mạnh vũ khí hạt nhân để răn đe, mặc dù có những người khác kháng cự lại vì họ cho rằng đó là phương tiện ngăn ngừa chiến tranh. Công Đồng cũng cho rằng cuộc chạy đua vũ trang “là một cạm bẫy cực kỳ nguy hiểm cho nhân loại” và nó làm cho những người nghèo càng khốn khổ cùng cực hơn.[24] Khi tóm tắt “Học Thuyết Xã Hội Công Giáo”, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (1992) cho rằng, phương pháp răn đe sẽ làm cho nền đạo đức suy yếu cách trầm trọng: “Nguy cơ của chiến tranh hiện đại là tạo dịp cho những người có trong tay các vũ khí khoa học, đặc biệt là vũ khí nguyên tử, sinh học hoặc hóa học, phạm những thứ tội ác như thế”.[25]

Công Đồng Vatican II chống lại cuộc chiến tranh nguyên tử tổng lực: “Mọi hành động hiếu chiến nhằm tiêu diệt bừa bãi nguyên cả một thành phố hoặc những vùng rộng lớn cùng với dân cư ở đó là một tội ác chống lại Thiên Chúa và chống lại chính con người. Phải cực lực lên án và không ngần ngại tố cáo tội ác đó”.[26]

Công Đồng chấp nhận một cuộc chiến tự vệ hoàn toàn không có nguyên tử (sử dụng nguyên lý cân xứng) để chống lại kẻ xâm lược.[27]

Công Đồng vẫn xem quyền và bổn phận của chiến tranh tự vệ chính đáng như là phương thức tối hậu: “Bao lâu nguy cơ chiến tranh còn tồn tại, bao lâu chưa có quyền bính quốc tế có thẩm quyền và có đủ sức mạnh, thì mỗi khi đã dùng hết mọi phương tiện ôn hòa, các chính phủ được phép sử dụng quyền tự vệ chính đáng. Do đó, các thủ lãnh quốc gia và những ai có trách nhiệm trong nước có bổn phận phải bảo vệ dân chúng đã được ủy thác cho mình, họ phải thận trọng trong những vấn đề nghiêm trọng như thế”.[28]

Tuy nhiên, một cuộc chiến tranh tự về phải tôn trọng “giá trị ngàn đời của quyền lợi tự nhiên nơi các dân tộc và những nguyên tắc phổ quát của nó”.[29] Hơn nữa, những người có lương tâm từ chối không tham gia quân ngũ – những người chống đối có lương tâm – phải được tôn trọng miễn là họ mong muốn phục vụ cộng đoàn nhân loại bằng những phương thức phục vụ khác.[30]

Khi bình luận những bài giáo huấn của Công Đồng Vatican II, Kark Peschke bảo vệ cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng, trong đó bao gồm cả cuộc chiến tự vệ chính đáng: “Cuộc chiến tự vệ chính đáng nhằm chống lại một thế lực đe dọa rõ ràng và chống lại quân xâm lược hung ác”. Ông chấp nhận sự răn đe bao gồm cả việc sử dụng vũ khí hạt nhân như phương tiện nhằm thuyết phục để chống lại chiến tranh. Tuy nhiên, ông còn nói thêm: “Chỉ có những vũ khí hạt nhân có thể kiểm soát được mới được phép sử dụng chống lại kẻ xâm lược có sử dụng vũ khí hạt nhân”.[31] Tôi hỏi: “Một quốc gia không có vũ khí hạt nhân làm sao tự vệ trước sự gây hấn của một quốc gia có trang bị vũ khí hạt nhân?”. Đáp lại: “Những quốc gia hùng mạnh thì có khả năng hơn những quốc gia yếu kém và nghèo khổ! Tôi không sao hiểu nổi triết lý của những nước giàu có, những quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân giết chóc nguy hiểm nhưng lại cấm những nước khác có vũ khí đó. Đây là hình thức đạo đức giả. Từ đây ta có thể rút ra tiêu chuẩn luân lý kép cho mọi lãnh vực: Điều xấu thì xấu”.

C. ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Trong Sứ điệp “Ngày thế giới hòa bình” năm 1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói nhiều đến chiến tranh, nhất là chiến tranh tự vệ. Người kêu mời Kitô hữu đấu tranh “chống lại và ngăn chặn mọi hình thức chiến tranh, vì chiến tranh là phương tiện giải quyết những xung đột cách mọi rợ và kém hiệu quả nhất”. Tuy vậy, đối diện với sự bất chính trầm trọng, nhân danh công lý, Kitô hữu phải góp phần vào sự tự vệ chung của xã hội: “Nhân danh công lý, con người có nhiệm vụ và tự do của mình bằng những phương thế tương xứng để chống lại kẻ xâm lược bất chính”. Giáo huấn truyền thống này khó có thể dung nạp vào bối cảnh sử dụng những vũ khí giết người mới mẻ: “Vì chiến tranh cổ điển và sinh học có sự khác biệt từ bản chất và điều nhục nhã của chiến tranh vũ trang chính là tấn công vào sự túng quẫn của thế giới thứ ba, cho nên điều cấp bách và đúng đắn hơn cả đó là thúc đẩy xã hội toàn cầu tự trang bị cho mình những cách thức đàm phán có hiệu quả”.

Khi chưa xảy ra những cuộc tấn công khủng bố ghê rợn vào ngày 11/9, Đức Thánh Cha đã nói về hòa bình nhiều hơn là nói đến chiến tranh: yêu thương người thân cận bằng con đường dẫn đến hòa bình – một tình yêu thương bất bạo động đối với người thân cận. Đức Thánh Cha đã khai triển chủ đề trên thật súc tích trong Thông điệp xã hội Centesimus Annus (1991). Đức Giáo Hoàng đã viết rằng, ảo tưởng dùng bạo động chống lại sự xấu chỉ tổ làm cho sự xấu càng trở nên tồi tệ hơn. Tình yêu thương người thân cận thúc bách chúng ta “kiếm tìm những giải pháp thích hợp khác để giải quyết những xung đột hơn là sử dụng chiến tranh”.[32] Trong Thông điệp Centessimus Annus, Đức Thánh Cha khẳng định mạnh mẽ: “Trong hoàn cảnh chiến tranh thảm khốc ở Vịnh Ba Tư, chính tôi đã lặp đi lặp lại lời kêu gọi ‘Chiến tranh đừng bao giờ xảy ra nữa!’. Đừng!, chiến tranh đừng xảy ra nữa, vì chiến tranh sẽ hủy diệt những con người vô tội, chiến tranh dạy cho người ta chém giết lẫn nhau, chiến tranh còn gây xáo trộn cuộc sống cho cả những người gây ra cuộc chiến và để lại sau lưng vết tích của oán hận, căm thù, thậm chí làm cho việc tìm kiếm một giải pháp thích đáng cho chiến tranh càng trở nên khó khăn hơn”.[33]

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (1992) đề cập đến chiến tranh dựa trên giới luật thứ năm: “Chớ giết người”. Trong số 2309, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo trình bày giáo huấn của Hội Thánh vắn gọn và rõ ràng dựa vào Công Đồng Vatican II. Một cuộc chiến chính đáng cần hội đủ những điều kiện sau:

– Thiệt hại do kẻ xâm lược gây ra cho quốc gia hoặc cho cộng đồng các quốc gia có tính lâu dài, nghiêm trọng và chắc chắn;

– Tất cả các phương thế khác nhằm chấm dứt tình trạng này không thể thực hiện được hoặc vô hiệu;

– Phải hội đủ các điều kiện để thành công;

– Việc sử dụng những vũ khí không gân nên những tai hại và hỗn loạn nghiêm trọng lớn hơn những tai hại ta đang cố loại trừ. Phải lượng định sức mạnh tàn phá của những phương tiện chiến tranh hiện đại khi thẩm định điều kiện này.

Như vậy, cuộc chiến tự vệ vẫn được xem là hợp với luân lý miễn là thi hành đầy đủ những điều kiện nghiêm nhặt của “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa”. Một số thần học gia nghiêng theo quan niệm này, nhưng một số khác lại chống đối. Những thần học gia chấp nhận tính luân lý của “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa” – như Đức Giáo Hoàng Pio XII đã canh tân, Công Đồng Vatican I và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – nhấn mạnh điều kiện của nguyên nhân chính đáng thực sự, nguyên lý của phương thế tối hậu, nguyên lý phân định hoặc liên quan đến những người vô tội (trong đó bao gồm công dân cũng như những mục tiêu quân sự), một hiệu quả tốt và những cách thức tốt. Sau đó, phải có cái mà truyền thống thần học gọi là “ius ad bellum” (quyền phát động chiến tranh), hoặc “luật phán quyết chiến tranh” (luật luân lý trước khi đi đến chiến tranh)“ius in bello” (quyền trong chiến tranh), hay còn gọi là “luật hướng dẫn chiến tranh” (luật luân lý trong chiến tranh).[34]

Tóm lại, theo Học Thuyết Xã Hội Công Giáo, thần học luân lý và triết học đạo đức, thì dù là một việc xấu đi nữa, cuộc chiến tự vệ chính đáng vẫn có thể là con đường dẫn tới công lý và hòa bình. Giáo huấn về cuộc chiến tự vệ này liệu có còn được duy trì sau những cuộc tấn công khủng bố ngày 11/09/2001 nữa không?

1. Sau sự kiện 11/9/2001

Ngay sau khi xảy ra những cuộc tấn công khủng bố vào tòa tháp đôi ở New York và Ngũ Đài Giác ở Washington, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lên tiếng chống lại cuộc tấn công man rợ đó và bày tỏ tình đoàn kết với những nạn nhân do cuộc tấn công khủng bố gây ra. Đức Giáo Hoàng lặp đi lặp lại từ hòa bình – chống chiến tranh. Ngài đã cầu nguyện và mời gọi mọi người cùng hy sinh và cầu nguyện cho hòa bình xuất hiện từ chính trực và tình yêu.

Chúng ta cùng tập trung vào một sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày sau sự kiện 11/9 khủng khiếp đó. Thông điệp “Ngày thế giới hòa bình” năm 2002 mang chủ đề: “Không thể có hòa bình nếu không có công lý. Không thể có công lý nếu không có thứ tha”. Trong thông điệp quan trọng này, Đức Thánh Cha đã nói về chính sách khủng bố và làm sao dùng quan niệm Kitô giáo, tôn giáo và luân lý để đối chất với nó. Ngài đã nói về hòa bình và ba trụ cột chính của hòa bình là: “công lý”, “sự thứ tha”“cầu nguyện”.

2. Chính sách khủng bố và tôn giáo

Ngày 11 tháng 9 năm 2001, “một tội ác tày trời đã diễn ra: hàng ngàn người vô tội thuộc nhiều nền luân lý đã bị giết chết”. Đó chính là một cuộc “bạo động tàn nhẫn” và là một “tội ác thực sự chống lại con người”.[35]

Chính sách khủng bố thế giới này là “một mạng lưới hết sức tinh vi, là một tổ chức bao gồm những thế lực chính trị, kinh tế và kỹ thuật vượt qua những biên giới quốc gia gây áp lực cho toàn thế giới”. “Chính sách khủng bố xuất phát từ lòng căm thù và nó sản sinh ra sự cô lập, hồ nghi và khép kín. Nó được hình thành trên sự khinh miệt cuộc sống nhân loại”.[36]

Chúng ta phải trả lời về tai họa khủng bố thế nào đây? Với tư cách cá nhân và tập thể, Đức Thánh Cha nhắc lại quyền tự vệ. Người nói rằng: “Chúng ta có quyền tự vệ chống lại chính sách khủng bố”. Tuy nhiên, “theo lẽ thường thì quyền tự vệ này phải được thực hiện bằng việc tôn trọng những chuẩn mực pháp luật và luân lý trong việc chọn lựa mục đích và cách thức”.[37] Đức Thánh Cha chỉ đề cập trực tiếp đến chiến tranh và chiến tranh chính đáng! Ngài chú tâm vào chỗ khác: trên tất cả là hòa bình và những nẻo đường dẫn tới hòa bình – nhưng rõ ràng toàn bộ lời lẽ của người có đề cập đến cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9. Chắc chắn tội ác sẽ bị vạch mặt và bị trừng trị thích đáng. Ngài còn cảnh cáo: “Việc trừng phạt tội lỗi luôn luôn thuộc phương diện cá nhân, chính vì vậy không nên mở rộng việc trừng phạt trên quốc gia, trên những nhóm không tôn giáo hoặc những nhóm tôn giáo mà những tay khủng bố đang ở trong đó”.[38]

Trong bức thư gởi cho Bộ ngoại giao, ngày 10/01/2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói về những biện pháp tự vệ chống chính sách khủng bố:

“Cuộc chiến chính đáng chống chính sách khủng bố, chẳng hạn như những cuộc tấn công kinh rợn hồi tháng chín vừa qua, một lần nữa đã cho phép những âm thanh súng đạn vang lên. Những cuộc xâm lược man rợ và việc tàn sát con người không những chỉ thúc đẩy việc hình thành cuộc chiến tự vệ mà còn làm nảy sinh những vấn nạn chẳng hạn như tìm ra cách thức hữu hiệu nhất để tìm ra những nhân tố ẩn nấp bên dưới những hành động khủng bố và tìm biện pháp “chữa lành” hầu khắc phục nỗi sợ hãi, ngăn ngừa sự xấu sản sinh ra sự xấu và bạo động tiếp nối bạo động”.

Như vậy, Đức Thánh Cha vẫn chấp nhận sự tự vệ chính đáng, tuy nhiên sự tự vệ này không phải là phương thức hàng đầu chống lại khủng bố. Trong bức thư gởi cho Bộ ngoại giao, Đức Thánh Cha còn đề cập đến tình hình căng thẳng giữa Ấn Độ và Pakistan, nhưng có thể thích hợp với những loại xung đột khác: ưu tiên hàng đầu là phải kiếm tìm những giải pháp trong những cuộc đối thoại và đàm phán. Người cũng đề cập đến vũ khí và những cuộc tấn công đẫm máu đang diễn ra trong cuộc chiến Đất Thánh: “Vũ khí và những cuộc tấn công đẫm máu sẽ chẳng bao giờ là những phương tiện đúng đắn nhằm bày tỏ quan điểm chính trị với phe đối phương. Cũng chẳng có luật lệ trả thù hợp lý nào có khả năng kiến tạo những con đường dẫn tới hòa bình”.[39]

Trong thông điệp năm 2002, Đức Thánh Cha đã nói rằng, câu trả lời đối với chính sách khủng bố đó là toàn thế giới phải cùng hợp lực chống lại chính sách khủng bố. Cuộc chiến chống những hành động khủng bố còn hệ tại “ở sự can đảm và tính kiên quyết, việc cam kết về phương diện chính trị, ngoại giao và kinh tế để cứu viện trước những tình huống áp bức. Sự áp bức tạo tiện lợi cho những ý đồ của những tay khủng bố. Tóm lại, việc tuyển mộ những tên khủng bố trở nên dễ dàng hơn ở những nơi mà lẽ phải bị chà đạp và sự bất chính được dung tha kéo dài trong suốt thời đại qua”.[40]

Người ta có quyền dùng những hoạt động khủng bố để chống lại những bất công đang xảy ra? Đức Thánh Cha trả lời dứt khoát: “Cần phải xác định cách kiên vững rằng không bao giờ được quyền nại đến những bất công đang xảy ra để biện hộ cho những hành vi khủng bố của mình”.[41] Quả thật, chính những người nghèo, những quốc gia nghèo là những thành phần phải chịu đau khổ nhất do hậu quả của chính sách khủng bố vì đã làm giảm tình đoàn kết trên bình diện toàn cầu.

Chính sách khủng bố là hình thức lạm dụng con người, vì nó đánh mất niềm hy vọng vào nhân loại, vào cuộc sống và vào tương lai. Chính sách đó chà đạp lương tâm con người: “Dùng những phương tiện bạo lực để áp đặt lên người khác những gì mà mình cho là chân lý thì đó là hành vi vi phạm nhân phẩm con người và cũng là vi phạm đến Thiên Chúa, vì con người là hình ảnh của Người. Chúng ta không được áp đặt chân lý của mình lên người khác, chúng ta chỉ có thể trình bày chân lý đó cho người khác mà thôi”.[42]

Chính sách khủng bố cũng là hình thức lạm dụng Thiên Chúa vì đã sử dụng Người như một ngẫu tượng phục vụ cho mục đích riêng. Như lời bình luận sau sự kiện những cuộc tấn công ngày 11/9 của thần học gia người Ý, ông Bruno Forte: “Thiên Chúa là Cha muôn loài, ngay cả người Hồi giáo cũng cầu khẩn Người như là Đấng nhân hậu và đầy lòng thương xót. Người không thể là một tay đao phủ hạ sát con cái của Người”. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại để cho những vụ tấn công đó xảy ra? Ông trả lời: “Những ai có đức tin thì chỉ có một câu trả lời duy nhất: Thiên Chúa không thể lấy lại tự do mà Người đã ban tặng cho con cái mình”.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói rằng chính sách khủng bố thường là hậu quả của một não trạng chính thống cực đoan quá khích và cuồng tín, một não trạng muốn áp đặt quan điểm về chân lý của mình lên người khác. Có phải chăng tôn giáo là ngọn cờ của chính sách khủng bố? Đức Thánh Cha viết: “Thật là một sự xúc phạm đến tôn giáo khi nhân danh Thiên Chúa để khởi xướng chính sách khủng bố, mượn danh Người để gây bạo lực lên người khác”.[43] Trong bức thư gởi cho Bộ ngoại giao, Đức Thánh Cha viết: “Nhân danh Thiên Chúa để giết người là hành vi báng bổ tôn giáo, bóp méo tôn giáo. Thật ra, một niềm tin tôn giáo đích thực phải là một phương thế hữu hiệu giải trừ bạo lực và xung đột.[44] Vì thế, không một nhà lãnh đạo tôn giáo nào được phép tha thứ cho chính sách khủng bố và phải loan báo điều đó bằng cách nào đó”.[45] Những nhà lãnh đạo tôn giáo bắt buộc phải đi đầu trong việc lên án chính sách khủng bố, phản đối những kẻ khủng bố bằng bất cứ hình thức hợp pháp về tôn giáo hay luân lý nào. Hơn nữa, họ phải giảng dạy cho mọi người biết sự cao cả về nhân phẩm của con người, truyền bá ý nghĩa về tính duy nhất của gia đình nhân loại.[46]

Trong sứ điệp ngày thế giới hòa bình năm 1979, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói rằng, các tôn giáo phải đóng góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa hòa bình bằng nỗ lực chống chiến tranh, can đảm đối diện với những hậu quả rủi ro có thể xảy ra. Còn trong thông điệp năm 2002, ngài nhấn mạnh đến giá trị của sự thật, chân lý trong bối cảnh chiến tranh và hòa bình. Đặc biệt, vì cùng tin vào một Thiên Chúa duy nhất, những tín hữu Do Thái giáo, Hồi giáo, Công giáo phải cùng nhau làm chứng cho chân lý rằng việc chủ tâm giết những người vô tội luôn là một tội ác nghiêm trọng, bất cứ xảy ra nơi đâu, không có ngoại lệ trong việc này.[47]

Đối với người tín hữu Kitô giáo, chính sách khủng bố còn đi ngược lại với niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đã sống cuộc sống hòa bình và dạy cho các tông đồ lời nguyện: “Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12). Thiên Chúa là Đấng nhân từ, các tín hữu Công giáo cũng phải bắt chước Người về lòng nhân từ, vì Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng xót thương và tha thứ (x. Mt 8,13). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết: “Những người theo Đức Kitô, được dìm vào trong cái chết và phục sinh cứu độ của Người, họ phải là những người của lòng xót thương và tha thứ”.[48]

3. Công lý và sự tha thứ

“Công lý là con đường dẫn tới hòa bình”, ý tưởng phát xuất từ Kinh Thánh, được Giáo Hội rao giảng và nền thần học khai triển. Trong thông điệp đổi mới năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trích lời của tiên tri Isaia và cũng là quan niệm vững mạnh được Công Đồng Vatican II khai triển,[49] để nói với chúng ta: “Sự nghiệp của đức công minh sẽ là hòa bình” (Is 32,17). Đức Thánh Cha dẫn chứng câu của Thánh Augustine Hippo để định nghĩa: “Hòa bình là một trật tự yên lành”.[50] Hòa bình cho thế giới này phải là hòa bình của một trật tự hợp lý,[51] đó là sự yên lành của công lý và tự do.[52]

Trong bối cảnh xã hội ngày nay, để có được trật tự yên bình, con người phải tôn trọng mọi thụ tạo của Thiên Chúa, trong đó có công lý về hệ sinh thái. Chiến tranh chắc chắn phá hoại môi trường một cách nghiêm trọng. Môi trường bị chiến tranh làm tổn hại. Trong Thông điệp “Ngày thế giới hòa bình” năm 1990, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khẳng định: “Chiến tranh là mối đe dọa nguy hiểm cho môi trường nhân loại”. Đây là diễn văn quan trọng nhất nói đến ý thức và trách nhiệm đối với hệ sinh thái. Đức Thánh Cha viết: “Mặc dù đã có những hiệp ước ngăn cấm sử dụng vũ khí hóa học, sinh hoạc, vi khuẩn, nhưng trong thực tế vẫn còn đó những cuộc nghiên cứu nhằm phát minh những vũ khí tấn công mới có thể làm mất đi sự cân bằng thiên nhiên”.

Quả thật, hòa bình là hoa trái của công lý! Công lý là nhân đức nền tảng của xã hội, là đạo đức luân lý và là sự bảo vệ con người một cách hợp pháp nhất. Công lý chính là sự tôn trọng triệt để quyền lợi và nghĩa vụ, tôn trọng việc phân chia lợi ích và bổn phận một cách chính đáng.[53]

Chỉ công lý thôi thì chưa đủ. Hòa bình là hoa trái của công lý và cũng là hoa trái của tình yêu. Tuy nhiên, điều kiện cốt lõi đầu tiên của tình yêu lại là công lý. Hai đòi hỏi bên trong của tình yêu là tôn trọng sự thật và tôn trọng công lý.[54] Hơn nữa, theo quan niệm Kitô giáo, mọi nhân đức phải là sự hòa giải với tình yêu và như thế cũng là hòa giải với công lý. Công lý đích thật theo quan niệm Kitô giáo không thể là công lý của sự báo thù, ít nhiều mang dáng dấp hận thù, nhưng phải là công lý của Đức Giêsu Kitô, công lý của tình huynh đệ. Nói cách đúng đắn hơn, hòa bình là hoa trái của công lý và tình yêu liên đới: “opus iustitiae pax” and also “opus solidaritatis pax” (hòa bình là thành quả của công lý và cũng là thành quả của tình huynh đệ). Hoa trái của đức ái – hay là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em – là hoan hỷ, từ tâm và khoan dung. Khoan dung đòi hỏi lòng thương xót và sự tha thứ.

Làm thế nào phục hồi lại trật tự luân lý và trật tự xã hội đã bị bạo lực khủng bố phá hủy? Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trả lời: “Một trật tự bị hủy hoại không thể nào khôi phục lại hoàn toàn nếu chúng ta không nối kết công lý với sự tha thứ. Cốt lõi của hòa bình đích thật là công lý và hình thái tình yêu đi liền với công lý đó chính là sự tha thứ. Công lý nhân loại thì luôn luôn mỏng dòn và mãi dở dang. Công lý đó phải được lấp đầy bằng sự tha thứ, một sự tha thứ có khả năng chữa trị và tái tạo lại từ những nền tảng của những tương quan nhân loại đã bị hư hoại”.[55]

Với một lối bút pháp mới lạ và chân thành, trong thông điệp năm 2002, Đức Thánh Cha nối kết sự tha thứ với công lý: “Phải chăng công lý và sự tha thứ không thể hòa hợp được?”. Đức Thánh Cha trả lời rằng, hai phạm trù đó hoàn toàn có thể hòa hợp được. Vì sự tha thứ thì không đối nghịch với công lý, nhưng đối nghịch với oán hận và báo thù: “Công lý và sự tha thứ là điều kiện cần thiết cho sự hòa giải”. Theo ý nghĩa này, ngài trình bày một công lý được thiết lập dựa trên nền tảng Thiên Chúa. Như thế, công lý đó không bị hạn chế vào những lý lẽ biện minh cho chân lý của các bên xung đột nhưng vượt lên tất cả những lý lẽ đó, và hướng đến việc tái thiết lập những tương quan đích thật với Thiên Chúa, với chính mình và với những người khác. Đức Thánh Cha viết trong Sứ điệp “Ngày thế giới hòa bình” năm 1997: “Không có mâu thuẫn giữa sự tha thứ và công lý. Sự tha thứ không có nghĩa là loại trừ hay làm giảm thiểu bổn phận phải bồi thường những gì công lý đòi hỏi, nhưng tìm cách khôi phục lại nguyên trạng vị thế của những cá nhân hay đoàn thể trong xã hội, vị thế của những quốc gia giữa cộng đồng thế giới. Việc không trừng phạt những người gây ra tội ác có thể giữ được phẩm giá cho họ và như thế cánh cửa cho lòng hối cải, ăn năn và trở về luôn được mở rộng”.[56]

Để có thể đạt đến sự hòa bình đích thực, luôn đòi hỏi một sự tha thứ, không chỉ tha thứ trên bình diện cá nhân, nhưng cả trên bình diện xã hội. Trên bình diện cá nhân, tất cả chúng ta, những thụ tạo mỏng dòn, đều cần và mong được tha thứ về những yếu đuối, thất bại và tội lỗi của mình. Vì thế, chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác về những yếu đuối, thất bại và tội lỗi của họ. Nếu chúng ta muốn người khác đối xử một cách nhân từ, thì chúng ta cũng phải nhân từ trong cách đối xử với người khác. “Mọi người đều hy vọng có thể được bắt đầu lại và mãi mãi mong rằng mình không còn bị đóng kín trong những sai lầm và tội lỗi nữa”.[57]

Để đạt đến hòa bình, cũng cần phải có một sự tha thứ trên bình diện xã hội. Tha thứ bắt đầu trong lòng và dàn trải ra ngoài xã hội: chúng ta là những thực thể xã hội. Đức Thánh Cha nói rằng xã hội luôn cần đến sự tha thứ. Tất cả những cộng đồng làm nên xã hội, gia đình, hội đoàn, các đoàn thể, các quốc gia và ngay cả cộng đồng quốc tế, đều cần đến sự tha thứ. “Khả năng tha thứ nằm nơi nền tảng của lý tưởng về một xã hội công bằng và huynh đệ. Ngược lại, thái độ không tha thứ, nhất là khi thái độ đó nhằm duy trì xung đột kéo dài, là một tổn thất rất lớn trong bước đường phát triển nhân loại. Người ta sử dụng tài nguyên phục vụ cho chiến tranh thay vì đóng góp cho tiến trình đi lên của hòa bình và công lý”. Quả thật, hòa bình là nền móng của sự phát triển, nhưng hòa bình đích thật chỉ có thể được kiến tạo bằng con đường tha thứ.[58]

Khi những đoàn thể, quốc gia không thể tha thứ, thì họ sẽ gây ra những đau khổ khủng khiếp cho người khác, như đã từng xảy ra nơi cuộc xung đột giữa khối Arab và Israel trong vùng Đất Thánh, một cuộc xung đột mà ngày nay vẫn còn phải nhờ đến giải pháp đàm phán. Phải chăng việc tha thứ cho người khác thay vì đấu tranh chống lại họ là một thái độ chứng tỏ sự yếu kém của mình? Hay chẳng lẽ sự tha thứ lại là con đường chắc chắn dẫn đến hòa bình đích thực? Sự tha thứ đôi khi mang dáng dấp của sự yếu kém, nhưng thực ra nó đòi hỏi một sức mạnh tinh thần và một dũng khí đạo đức cao độ.[59]

Theo mức độ đạo đức và mức độ con người, công lý và hòa bình luôn đòi hỏi sự tha thứ. Theo mức độ lòng tin thì cang đòi hỏi như vậy. Cho nên, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh, các tôn giáo không thể chỉ theo đuổi con đường của sự tha thứ, một con đường dẫn đến sự hiểu biết, nhưng lại không tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Lời giáo huấn về sự tha thứ chỉ thực sự trở nên hữu hiệu khi các tôn giáo còn có thể đấu tranh chống lại chính sách khủng bố.[60]

4. Lời cầu nguyện và sự bình an

Hòa bình là hoa trái của công lý và của sự tha thứ. Mọi tôn giáo, mọi tín hữu đều cầu nguyện cho hòa bình, và cầu nguyện cho những yếu tố nền tảng của hòa bình như công lý, tự do, lòng nhân ái, cũng như sự tha thứ và lẽ phải.

Cầu nguyện cho hòa bình cũng là cầu nguyện cho công lý, cho trật tự đúng đắn giữa các quốc gia, các dân tộc. Đó cũng chính là cầu nguyện cho tự do. Đặc biệt tự do tôn giáo là quyền cơ bản của mỗi cá nhân con người. Cầu cho hòa bình là xin Thiên Chúa tha thứ, và cầu xin cho mình đủ can để tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình.[61]

Đức Thánh Cha nói rằng nếu chúng ta chân thành nỗ lực hòa giải với anh chị em chúng ta, tha thứ cho họ và xin họ tha thứ cho chúng ta thì lời cầu nguyện của chúng ta sẽ trở thành của lễ làm đẹp lòng Thiên Chúa.[62]

5. Giáo huấn của các Giám mục Hoa Kỳ sau sự kiện 11/9

Vào ngày 14/11/2001, Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ (USCCB) phát hành một thông điệp mục vụ quan trọng với tựa đề “Sống đức tin và hy vọng sau sự kiện 11/9”. Các Giám mục Hoa Kỳ nói lời an ủi đối với các nạn nhân, đồng thời đưa ra tiêu chuẩn cho nhận định luân lý và kêu gọi hành động, đoàn kết trong giai đoạn đầy thách đố và khó khăn này.

Đứng trên quan điểm luân lý, các Giám mục Hoa Kỳ nhiều lần tuyên bố một cách mạnh mẽ rằng: “Không một sự bất công nào có thể biện minh cho điều khủng khiếp mà chúng ta vừa trải qua. Không một lý do, một mối bất bình nào có thể bào chữa cho việc lái những phi cơ dân dụng đâm vào tòa nhà Tháp Đôi hay biện hộ cho việc đầu độc nhân viên bưu chính và các viên chức chính phủ. Lợi ích chung bị đe dọa khi những người dân vô tội trở thành mục tiêu của những kẻ khủng bố”.

Trên lập trường đức tin, không một tôn giáo nào có thể biện hộ cho những cuộc tấn công người dân vô tội: “Thật là sai lầm khi sử dụng tôn giáo làm vỏ bọc cho những động cơ ý thức hệ, tôn giáo, động cơ kinh tế hay chính trị”. “Chỉ có một đức tin méo mó mới có thể biện minh cho bạo lực, hận thù”. Ngày 14/9/2001, tức chỉ 3 ngày sau sự kiện tấn công khủng bố, các Giám mục Công giáo và những nhà lãnh đạo Hồi giáo đã đưa ra lời “Tuyên bố chung”, trong đó có đoạn viết rằng: “Chúng tôi tin rằng Thiên Chúa kêu mời mọi dân tộc sống hòa bình. Không một lời nào trong Kinh Thánh, trong hiểu biết của chúng ta về mạc khải của Thiên Chúa, của cả Công giáo lẫn Hồi giáo, biện minh cho những hành vi khủng bố, những hoạt động hủy diệt hàng ngàn mạng sống con người mà chúng ta chứng kiến trong tuần này. Tất cả chúng tôi cùng lên án những hành vi đó là tội ác và hoàn toàn đi ngược lại với tôn giáo đích thật”.

Đứng trên cái nhìn về phẩm giá và niềm tin, con người có thể xét xử như thế nào về những hành vi khủng bố kinh hoàng ngày 11/9 vừa qua? Những hành vi gây chết người đó không thể tự biện hộ được! “Quả thế, có một quyền luân lý và trách nhiệm quan trọng cho tất cả mọi người, đó là bảo vệ lợi ích chung, chống lại chính sách khủng bố hàng loạt”. Vào ngày 14/10, các Giám mục Công giáo và những nhà lãnh đạo Hồi giáo đã đưa ra tuyên bố chung khẳng định rằng: “Tất cả chúng tôi đều ủng hộ chính phủ trong việc truy đuổi những kẻ chịu trách nhiệm những hành vi khủng bố trong ngày thứ 3 vừa qua, và chúng tôi luôn lưu tâm đến trách nhiệm đạo đức trong việc bảo vệ và tôn trọng sinh mạng của người dân”.

Cần phải nhấn mạnh rằng các Giám mục Hoa Kỳ chủ trương tìm những giải pháp bất bạo động để đương đầu với chiến tranh và chính sách khủng bố. Mặc dù, hoạt động quân sự chưa phải là giải pháp thích đáng để đối chọi với chính sách khủng bố loại này, giải pháp đó đôi lúc có thể là cần thiết dù chỉ là tạm thời, bất đắc dĩ. Có nhiều cách đối phó khác nhau. Có thể dùng biện pháp kinh tế, ngoai giao, sự hiểu biết cần thiết, chú trọng hơn vấn đề an ninh quê nhà, và việc sử dụng sức mạnh chính đáng. Quan tâm chính của chúng ta ở đây là như thế nào thì gọi là sử dụng sức mạnh một cách chính đáng. Ngay cả khi phải đối diện với chính sách khủng bố, những nguyên tắc truyền thống về việc sử dụng sức mạnh vẫn phải được áp dụng.

Trong những tình huống cá biệt, khi mà những biện pháp hòa bình đều thất bại thì có thể phát động một cuộc chiến chính nghĩa theo truyền thống. Cuộc chiến đó luôn có những nguyên tắc đi kèm với những hạn chế trong việc sử dụng sức mạnh quân sự. Trong thông điệp mục vụ năm 2001, các Giám mục Hoa Kỳ đưa vào trong phần phụ lục hai nguồn tài liệu có bàn đến “Học Thuyết Chiến Tranh Chính Nghĩa” đó là: Giáo lý Hội Thánh Công giáo và bức thư mục vụ năm 1993.

Trong bức thư mục vụ năm 1993 với nhan đề “Vụ mùa công lý được gieo trong hòa bình”, các Giám mục Hoa Kỳ viết: “Trong một thế giới bất ổn, một thế giới mà những giải pháp hòa bình cho những xung đột đôi khi tỏ ra không hiệu quả, thì Học thuyết chiến tranh chính nghĩa cổ điển sẽ quy định khuôn khổ pháp lý nền tảng nhằm kiềm chế và điều chỉnh quyền hạn của các chính phủ hay của những tổ chức quốc tế”. Trong bức thư quan trọng này, các Giám mục Hoa Kỳ giải thích phần chính yếu của “Học Thuyết Chiến Tranh Chính Nghĩa” cổ điển bao gồm “ius ad bellum và ius in bellum” – “quyền phát động chiến tranh và quyền trong chiến tranh”.

Lý do chính đáng. Chỉ được quyền sử dụng vũ lực với mục đích ngăn chặn tội ác công khai và nghiêm trọng, chẳng hạn như sự xâm lược hay sự vi phạm một cách thô bạo đến quyền lợi nền tảng của toàn thể dân cư.

Sự công bằng tương ứng. Có thể có cả những điều đúng lẫn sai trái nơi cả đôi bên xung đột, để bác bỏ được những lý chứng chống lại việc sử dụng vũ lực, thì phải chứng tỏ sự bất công do đối phương gây ra quá lớn so với bất công mà mình gây ra cho họ.

Cơ quan hợp pháp. Chỉ có những cơ quan chính phủ được thiết lập một cách công khai, chính đáng mới có quyền sử dụng sức mạnh gây chết người và phát động chiến tranh.

Mục đích đúng đắn. Chỉ có thể sử dụng vũ lực vì mục đích chính nghĩa đích thật và chỉ mục đích đó mà thôi.

Có khả năng thành công. Không thể sử dụng sức mạnh trong trường hợp vì một lý do không đáng kể, hay trong trường hợp để đạt được thành công đòi hỏi những phương tiện không phù hợp.

Tính cân xứng. Việc sử dụng vũ lực có thể gây ra sự hủy diệt trên phạm vi lớn phải được cân nhắc cẩn thận, phải so chiếu với sự thiện đạt được từ việc sử dụng đó. Sự thiện đó bao gồm cả nguyên tắc không phân biệt đối xử, hay nguyên tắc miễn chước cho những người không trực tiếp tham chiến: “Trong việc định lượng những thiệt hại và sự công bằng đón nhận những thiệt hại đó, điều quan trọng nhất đó là quan tâm đến người nghèo, người bất hạnh. Bởi vì họ luôn là những người phải chịu nhiều thiệt hại nhất khi bạo lực chiến tranh tác động đến đời sống của họ”.

Giải pháp cuối cùng. Chỉ được sử dụng đến vũ lực khi mọi phương cách hòa bình đã được thực hiện một cách nghiêm túc, nhưng đều thất bại.

Các Giám mục Hoa Kỳ đưa ra những giải pháp bất bạo động để đương đầu với chiến tranh. Trong bức thư mục vụ, các ngài đề cao mô hình sức mạnh của dân tộc Philippines như là mẫu gương cho một giải pháp đấu tranh bất bạo động thành công. Các ngài miễn cưỡng chấp nhận một cuộc chiến tự vệ chính nghĩa có điều kiện khi những đường lối hòa bình đều thất bại.

D. ĐỨC GIÁO HOÀNG BENEDICT XVI

Nhắc lại điều mà Công Đồng Vatican II tuyên bố, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI nói rằng: “Không phải vì chiến tranh đã chẳng may khai diễn mà các đối phương được phép làm gì thì làm”.[63] Trên thế giới ngày nay, để bảo vệ cho những ý thức hệ riêng hay điều mà người ta gọi là các “quyền lợi”“phòng thủ an toàn”, các quốc gia cũng như phe nhóm thi nhau xây dựng nên những “pháo đài vũ khí lớn mạnh”, đẩy mạnh những cuộc chạy đua vũ trang; song song đó là những cuộc “trấn áp” lẫn nhau bằng nhiều cách nhằm để có một “trật tự ổn định hòa bình” trên thế giới. Điều này dễ dàng dẫn tới những cuộc chiến ngầm có nguy cơ bùng nổ bất cứ lúc nào.[64]

Nguyên nhân chính yếu dẫn đến chiến tranh không đâu khác, mà do bởi chính sự dối trá của con người: “Sự dối trá liên đới với thảm kịch tội lỗi, và những hậu quả tồi bại của nó đã và đang gây ra những tác động tàn phá trên đời sống các cá nhân cũng như các quốc gia”. Chính “những hệ thống chính trị và ý thức hệ sai lạc cố tình bóp méo sự thật đã gây ra cảnh bóc lột và giết chóc một con số khủng khiếp những người nam nữ, xóa sạch cả đến các gia đình và các cộng đồng”. Nghiêm trọng hơn, sự dối trá không đơn thuần phát sinh chỉ bởi một cá nhân, nhưng nó đã trở thành “cả một hệ thống, đang gây ra bao cảnh chết chóc tại nhiều nơi trên thế giới” trong thời đại chúng ta.[65]

Do đó, để hiểu cách đích thực cho câu hỏi “hòa bình đích thực” có nghĩa là gì, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI cho biết, chúng ta cần phải hiểu: Hòa bình không thể chỉ được giản lược vào sự vắng bóng xung đột vũ trang, nhưng cần được hiểu như là “kết quả của một trật tự đã được chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Lập, ghi khắc vào xã hội loài người”, một trật tự “phải nhờ những người luôn luôn khao khát một nền công bằng hoàn hảo”. Là kết quả của một trật tự đã được trù hoạch do tình yêu Thiên Chúa, hòa bình có một sự thật tiềm ẩn, không thể suy vong trong chính nó, và phù hợp với “lòng khao khát và niềm hy vọng bất khả kìm hãm nằm sẵn trong chúng ta”.[66]

KẾT

Để kết thúc, tôi có thể đặt câu hỏi: “Khi nào người ta có thể nói rằng: những giải pháp bất bạo động bị thất bại?”

Để đạt đến hòa bình, tôi chọn tình yêu bất bạo động

Khi còn là một sinh viên thần học, tôi ủng hộ Học thuyết chiến tranh chính nghĩa được Thánh Thomas Aquinas diễn giải trong luận thuyết về đức ái (II–II, 40): thánh nhân đề cập đến một cuộc chiến chính nghĩa và hầu như ngài đã trình bày một điều là không thể nào có một cuộc chiến chính nghĩa đúng nghĩa được. Có một lời tuyên bố tôi đã in trong lần xuất bản bộ Summa, đã trở thành một vấn nạn nhức nhối cho tôi. Lời tuyên bố đó của một tu sĩ Đa Minh người Pháp, la Labourdette: “Việc trình bày về chiến tranh theo lối cổ điển xuất phát trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn hơn chúng ta. Những bản văn của Thánh Thomas Aquinas rất tuyệt vời, tuy thế đó lại là một sự nhầm lẫn”. Nhầm lẫn chăng? Quả thực, Thánh Thomas Aquinas là một con người rất thông minh – có thể nói là một thần học gia của mọi thời đại – nhưng dĩ nhiên cũng chỉ là một con người trong một thời đại nhất định. Ngày nay, tôi tìm thấy một học thuyết mới về chiến tranh, khắt khe hơn học thuyết Thánh Thomas Aquinas, nhưng vẫn còn một chút lầm lẫn về quan điểm chủ nghĩa nhân đạo mới và về niềm tin Kitô giáo được đổi mới.

Tôi còn nhớ hình ảnh sống động của Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI, trong tấm áo choàng trắng tinh khiết, ngài đứng trước Hội đồng Liên Hiệp Quốc tại New York vào ngày 4/10/1965. Và tôi sẽ không bao giờ quên lời thỉnh cầu đã làm tất cả mọi người xúc động: “Xin đừng để xảy ra chiến tranh nữa! Đừng để lặp lại chiến tranh! Hòa bình! phải có hòa bình hướng dẫn các dân tộc và toàn thể nhân loại”.

Tôi biết rằng chúng ta sống trong một thế giới đang còn dở dang, thậm chí con có bạo lực, và vì thế cuộc chiến tự vệ vẫn có thể xảy ra. Nếu đó không phải là cuộc chiến chính nghĩa thì ít ra đó là cuộc chiến ít bất công hơn những cuộc chiến kinh tởm khác, một cuộc xâm lăng bất chính hay những vụ tấn công khủng bố. Điều này trông có vẻ hợp lý nhưng lại không cụ thể, trừu tượng. Theo quan điểm thần học luân lý, đạo đức học, điều trừu tượng thì không bao giờ tồn tại. Thánh Thomas Aquinas nói rằng chúng ta phải xét đến từng sự kiện cụ thể, từng hành vi đặc thù của con người. trong những trường hợp cụ thể, chẳng hạn như cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991, hay cuộc chiến chống khủng bố tại Afghanistan năm 2001 của phe đồng minh do Mỹ đứng đầu, chúng ta có thể nói rằng những phương tiện của phe đồng minh sử dụng để đương đầu với những kẻ thù khủng bố ở đó là tương xứng không? (cùng với nhiều người khác, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho rằng cuộc chiến đó là bất công. Tám người được giải Nobel Hòa Bình đã viết thư lên Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, Koffi Anna, lên án cuộc tấn công quân sự tại Afghanistan).[67]

Tôi có thể tin vào mục đích chính đáng của các nhà lãnh đạo chính trị không? Thần học gia Rafael Larraneta nói rằng: “Quê hương tổ quốc đã trở thành miếng mồi ngon cho lòng tham quyền lực, kinh tế”.[68] Thậm chí chúng ta có thể bàn về một cuộc chiến tự vệ cùng những phương tiện xứng hợp để đương đầu với những kẻ xâm lược bất chính và những kẻ khủng bố hay không? Cuộc chiến đó, hay bất kỳ cuộc chiến nào, chẳng lẽ không làm phát sinh những bất công mới, hình thức bạo động mới, tạo ra những hủy hoại khủng khiếp và hận thù nơi những dân tộc tham chiến hay sao? Theo nguyên tắc không phân biệt đối xử, làm thế nào cuộc chiến đó có thể là chính nghĩa khi người dân vô tội bị giết hại, bị trọng thương và những phương tiện sinh sống của họ bị phá hủy? Hay phải chăng đây là những thiệt hại phụ? Khi nào thì được sử dụng đến giải pháp sau cùng đó? Tại sao lại không là bằng những phương tiện hòa bình (chính trị, kinh tế, đàm phán) – chẳng lẽ không thể dùng lại những giải pháp hòa bình thêm một lần nữa sao?

Người ta nói: “Muốn sống hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh” (Si vis pacem, para bellum). Tôi không nghĩ như vậy. Ngày nay phải nói rằng: “Muốn sống hòa bình, hãy chuẩn bị hòa bình” (Si vis pacem, para pacem).

Là người Kitô hữu, khi đối chiếu với Tin Mừng của Đức Giêsu, nhất là Bài giảng trên núi, tôi thấy thật là khó khăn để biện minh cho một cuộc chiến tự vệ chính nghĩa. Một nhà luân lý nói rằng: “Nơi những nhà luân lý chấp nhận một “Học thuyết chiến tranh chính nghĩa”, chắc chắn họ cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, vì họ luôn đặt những lý lẽ thần học của mình trên nền tảng Cựu Ước. Mặc dù Cựu Ước cũng là lời được mạc khải, nhưng mạc khải đó chưa được hoàn trọn, chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho mạc khải quyết định ngang qua Đức Giêsu”. Nhà luân lý còn nói thêm: “Tin Mừng không đưa ra bất kỳ một mô hình nào nhằm biện minh cho những hành vi giết người hàng loạt do chiến tranh gây ra… Tin Mừng chỉ đưa ra mẫu gương của những người tử đạo, hoàn toàn ngược lại với hành vi giết người ở trên”.

Là người theo Đức Giêsu, tôi thấy không thể nào tìm được một lời biện minh cho một cuộc chiến chính nghĩa, dù nó là cuộc chiến tự vệ. Nhân đức trong đời sống của tôi là đức ái: mến Chúa yêu người; yêu người cũng là yêu kẻ thù, kể cả những kẻ khủng bố, và như thế phải tha thứ cho họ và sau đó hòa giải với họ. Tôi biết rằng tha thứ không phải là hủy bỏ sự công bằng, nhưng tôi tự hỏi chả lẽ không loại trừ được hành vi giết người khác?! Tự vệ chăng? Nhưng cũng có thể dám chấp nhận chịu đau khổ, thậm chí bị những kẻ gây hấn một cách bất công giết chết mình, thì đó cũng là một sự lựa chọn! Còn việc tự vệ chống lại tội ác thì thế nào? Việc duy trì án tử hình là một lý lẽ sai lầm mà tôi cũng như bao người khác phải chấp nhận. Việc đấu tranh bằng vũ lực để bảo vệ cộng đồng thì sao? Đó có phải một lựa chọn chính đáng để tìm kiếm hòa bình hay không? Có thể, nhưng tôi rất nghi ngờ.

Là tín hữu Công giáo, vấn nạn cốt lõi nhất của tôi, nó luôn hiển hiện, đó là: Đức Kitô của tôi có ủng hộ một cuộc chiến chính nghĩa, cuộc chiến tự vệ không? Nhiều người đã trả lời là “có”. Tôi không nghĩ như vậy! Chắc chắn Đức Giêsu có thể tự bảo vệ mình khi Người bị bắt tại vườn Giêtsimani. Ngài nói với Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần” (Mt 26,52–53). Phải chăng Đức Giêsu cũng không chấp nhận việc sử dụng bạo lực để bảo vệ tập thể, hay bảo vệ người khác? Có lẽ như vậy, ít là đối với các tông đồ của Người. Brian Wicker viết rằng:

Thế giới ngày nay đầu dẫy bạo động và luôn dùng đến phương thế bạo lực như là giải pháp cuối cùng để tự vệ. Điều đã xảy ra như vậy vì như lời Thánh Vịnh (69,4) mà Đức Giêsu thường nói: “Chúng ghét con vô cớ”. Tuy nhiên các tông đồ không thuộc về thế gian này. Nhiệm vụ của các ngài đơn giản là làm chứng cho Đấng Phù Trợ mà Thầy Giêsu gửi đến để bảo vệ các ngài. Không thể cho rằng Chúa Thánh Thần là vũ khí cho giải pháp sau cùng. Tóm lại, Đức Giêsu tin tưởng tuyệt đối vào Cha của Người, vì lý do đó, Người không cần đến nguyên tắc “giải pháp cuối cùng” và các tông đồ cũng không.[69]

Ngày nay tôi nghiêng về xu hướng chống lại Học thuyết chiến tranh chính nghĩa cả trên bình diện lý thuyết lẫn thực hành. Người ta từng nói rằng Học thuyết chính nghĩa có thể hạn chế được bạo lực trong chiến tranh, và thậm chí ngăn chặn được những chiến tranh có thể xảy ra. Tôi tự hỏi có phải chăng, đôi khi, chính điều đó đã biện minh cho chiến tranh. Có một luận chứng luân lý trong lãnh vực đạo đức sinh học gọi là “chiều hướng hành động có thể dễ dàng dẫn đến tai hại”. Tôi đã cố gắng trình bày truyền thống về Học thuyết chiến tranh chính nghĩa theo ba đường hướng chính yếu: đường hướng triển khai của Thánh Thomas Aquinas, của Đức Giáo Hoàng Piô XII và Công Đồng Vatican II, và của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ.

Tôi tin chắc rằng cách tốt nhất để đương đầu với nền văn hóa chiến tranh không phải là sử dụng thêm chiến tranh, nhưng phải bằng một nền văn hóa hòa bình. Gandhi nói: “Không có con đường nào khác dẫn đến hòa bình, ngoại trừ bằng con đường hòa bình”. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Chỉ có bằng cách thực thi hòa bình mới đưa tới hòa bình được”.[70] Tôi muốn hành động cho hòa bình, một nền hòa bình đích thực. Hòa bình không chỉ là không có chiến tranh, mặc dù nó bao gồm cả chuyện đó. Hòa bình còn có công lý, tình liên đới, và cả việc không ngừng thi hành công lsy và tình liên đới bao gồm việc tôn trọng quyền của con người – mà đầu tiên đó là quyền được sống của mọi người, của những con người đã sinh ra và sẽ sinh ra, cho dù họ là phạm nhân hay người vô tội – quyền được giáo dục các giá trị, chống lại nghèo đói cũng là chống lại sự bất công và sự lãng phí tài nguyên. Đây chính là hòa bình mà Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tiên đoán một cách mạnh mẽ trong Thông điệp Pacem in terris (Hòa bình trên địa cầu); là hòa bình năng động; hòa bình để sống với nhau trong công lý và tình yêu. Quả thật, không thể có hòa bình đích thật nếu không có sự ngay chính, chân thật, công bằng và tình huynh đệ. Giáo lý Hội Thánh Công giáo trình bày Học thuyết chiến tranh chính nghĩa cổ điển chỉ như một khảo luận về việc ngăn chặn chiến tranh. Sách Giáo lý tuyên bố:

“Hòa bình không ngừng bị đe dọa và chiến tranh nổ ra vì những bất công, bất bình đẳng thái quá về kinh tế hoặc xã hội, vì lòng tham, sự ngờ vực và tính kiêu căng đang hoành hành giữa những con người và các quốc gia. Tất cả những gì được thực hiện nhằm khắc phục các tệ hại này đều góp phần vào việc kiến tạo hòa bình và xa lánh chiến tranh”.[71]

Tôi kính trọng những con người với sự trung thành và lòng nhân đạo, trong những tình huống bạo lực và bất công cụ thể, họ đã kiên vững theo đuổi truyền thống chiến tranh chính nghĩa đổi mới này. Với tính cách cá nhân, tôi càng lúc càng có khuynh hướng theo đường lối bất bạo động đang lớn mạnh sau những gương mặt Gandhi, Martin Luther King, và nhất là gương sáng con người Giêsu Kitô Nazareth, Con Thiên Chúa và là con của Mẹ Maria.[72]

Tôi tin tưởng và hy vọng rằng với một chủ nghĩa nhân đạo mới, con người không chỉ đề cao những giá trị của quốc gia, nhưng còn quan tâm đến giá trị nền tảng của cả cộng đồng nhân loại. Đó chính là những giá trị của một nền văn minh, nơi đó nhân phẩm, quyền lợi, tự do, công bằng, sự thật và tình liên đới được tôn trọng.

Chúng ta có thể làm được điều gì? Tôi không chủ trương một Học thuyết chiến tranh chính nghĩa. Lựa chọn của tôi là hòa bình chứ không phải chiến tranh, tình yêu chứ không phải bạo lực, hợp tác chứ không phải đua tranh, lòng trắc ẩn chứ không phải quyền lực. Tôi sẽ nỗ lực để trở thành người kiến tạo hòa bình, một công cụ của hòa bình trong gia đình, trong đoàn thể, quốc gia và thế giới này.[73]

Là một người kiến tạo hòa bình vì Đức Kitô, tôi phải thuận hòa với chính tôi: thân xác quy phục tinh thần, tinh thần quy phục Thiên Chúa (St. Augustine). Tôi còn nhớ những lời thách đố của thánh Seraphim: “Nếu bạn tìm được bình an bên trong và hòa bình cho hàng ngàn người xung quanh, bạn sẽ được giải phóng”.

Để được bình an, tôi cần phải hòa thuận với Thiên Chúa. Tội lỗi là sự chia rẽ, sự đổ vỡ là tình trạng nô lệ. Thánh Thomas Aquinas đã viết: “Nơi không có ân sủng có thể có bình an, nhưng thực ra đó không phải là bình an đích thực”.[74]

Tôi phải nỗ lực sống hòa thuận với tất cả mọi người: “Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hòa thuận với mọi người” (Rm 12,18). Tôi phải hành động với anh em vì hòa bình và công lsy được đặt nền tảng sự thật và trong tình liên đới với mọi người: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Tôi phải yêu thương người nghèo và đối xử với những người bị áp bức bằng tình yêu trên hết. “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống” (Is 55,2).

Tôi phải hòa thuận với toàn thể thụ tạo. “Và Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp” (St 1). Lời tuyên bố rất thú vị của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Nếu con người không hòa thuận với Thiên Chúa, thì địa cầu sẽ không được bình an”.[75]

Dù không phải là tiên tri, tôi cũng tiên đoán rằng trong tương lai – hy vọng cũng gần thôi – sẽ có nhiều người, nhiều quốc gia hủy bỏ án tử hình vì cho đó là hình thức tàn nhẫn và không cần thiết; Học thuyết chiến tranh chính nghĩa sẽ được thay thế bằng những phương thế hòa bình như đối thoại, đàm phán; Liên Hiệp Quốc sẽ trở thành cơ quan nhấn mạnh đến đời sống luân lý; và kẻ yếu đuối cũng được mạnh mẽ. Tôi phải cầu nguyện cho điều đó, cầu nguyện cho thị kiến đầy sức mạnh của ngôn sứ Isaia được thành hiện thực: “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” (Is 2,4).

Tôi là tội nhân, luôn cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa và của anh em. Tôi biết rằng hòa bình là hồng ân Thiên Chúa. Vì thế tôi nài xin Thiên Chúa cũng như anh em hồng ân được bình an. Hồng ân mà chúng ta luôn cầu xin trong lời nguyện:

Xin hòa bình hãy đến trên địa cầu

Và hãy khởi đi từ đáy tim tôi

Xin hòa bình hãy đến trên địa cần

Mang ý nghĩa thâm sâu cho vạn thể.

Lạy Cha là Chúa trời đất,

chúng con là anh em với nhau

xin để cúng con hòa chung nhịp bước

cùng hòa theo nhịp đập con tim.

 

UST Faculty of Theology, Theo Week 3, Manila.

 

***

PHỤ LỤC VỀ CHIẾN TRANH

(Summa Theologica, Q .II – 2, vấn đề 40)

 

Mục 1: Tham gia chiến tranh luôn là một tội ác chăng?

Nghi vấn: Hình như tham gia chiến tranh luôn là một tội ác?

1/. Vì sự trừng phạt không bị giáng phạt từ phi có tội. Ngày nay những người tham gia chiến tranh bị cảnh báo bởi sự trừng phạt của Thiên Chúa, theo Phúc Âm Matthew 26,52: “Tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm”. Vì thế, tất cả các hình thức chiến tranh đều là bất hợp pháp.

2/. Vả lại, bất cứ điều gì trái ngược với luật của Thiên Chúa đều là tội ác. Nhưng chiến tranh thì trái với luật của Thiên Chúa, vì theo Thánh Matthew: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em đừng chống cự người ác” và trong thư Rome 12,19: “anh em thân mến, đừng tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó”. Vì thế chiến tranh luôn là tội ác.

3/. Vả lại, không có gì trái ngược với một hoạt động của nhân đức, ngoại trừ tội ác. Nhưng chiến tranh thì đi ngược lại với hòa bình. Vì thế chiến tranh luôn là tội ác.

4/. Vả lại, việc luyện tập một việc hợp pháp thì tự bản chất nó là hợp pháp, cũng giống như tính hiển nhiên trong các cuộc thí nghiệm khoa học. Nhưng việc luyện tập kỹ năng chiến đấu trong những cuộc chiến thì bị Giáo Hội nghiêm cấm, bởi lẽ những ai bị thiệt mạng trong những cuộc tập luyện này thì không được an táng theo nghi thức của Giáo Hội. Vì thế dường như chiến tranh là một tội ác tự trong bản chất.

Nhưng: như Thánh Augustine đã nói trong một bài thuyết giáo về đứa con trai của viên sĩ quan (Ep 138 ad Marcellinus): “Giả như đạo Kitô giáo hoàn toàn cấm chiến tranh, thì những người tìm kiếm lời khuyên bổ ích trong Tin Mừng hẳn rằng đã được khuyên bảo nên vứt bỏ vũ khí, và giã từ đời lính. Nhưng ngược lại, họ được khuyên: chớ hà hiếp ai… hãy an phận với số lương của mình (Lc 3,14). “Nếu như ông ta ra lệnh cho họ bằng lòng với số lương của mình, nghĩa là ông không cấm đoán đời lính”.

Luận giải: Để một cuộc chiến tranh được coi là chính đáng, cần có ba yếu tố. Trước tiên, quyền tuyên chiến phải được thực hiện bởi cơ quan hữu quyền. Vì thế đó không phải là việc của một cá nhân, bởi vì anh ta có thể tìm kiếm sự đền bù quyền lợi từ tòa án tối cao. Hơn nữa, công việc phải làm trong thời chiến là quy tụ mọi người lại với nhau cũng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ. Và khi việc bảo quản tài sản chung được giao cho những người có trách nhiệm, thì công việc của họ là trông coi tài sản chung của thành phố, của quốc gia hay của tỉnh thành mà họ cai quản. Và cũng như việc họ phải dùng gươm để bảo vệ quyền lợi chung chống lại các cuộc nội chiến, trừng phạt những kẻ làm điều xấu được coi là hợp pháp, theo lời các thánh tông đồ: “họ mang gươm không phải không có lý do: vì họ là những người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác” (Rm 13,4), thì cũng vậy, họ cũng cần phải nhờ đến gươm để chiến đấu bảo vệ quyền lợi chung chống lại những kẻ thù ngoại xâm. Vì thế, những nhà cầm quyền được nhắc nhở rằng Tv 82,4: “giải phóng những ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân”. Và vì lý do này, Thánh Augustine đã nói: “phẩm trật tự nhiên giúp con người sống hòa bình với nhau đòi hỏi quyền công bố chiến tranh và điều hành chiến tranh phải được những người có trách nhiệm tối cao nắm giữ” (Contra Faustum Manichaeum XXII,75).

Thứ hai, cần có một nguyên nhân chính đáng, ấy là những người bị tấn công, có thể bị tấn công do họ xứng đáng phải chịu vì một lỗi lầm nào đó. Vì thế, Thánh Augustine đã nói: “một cuộc chiến tranh chính đáng thường được miêu tả như là một cuộc chiến đấu chống lại những điều sai trái, khi một quốc gia hoặc một bang từ chối bồi thường những thiệt hại gây ra do lỗi của mình, hoặc từ chối hoàn trả lại những gì mình đã tịch thu một cách bất công, thì phải bị trừng phạt” (QQ. In Heptateuchum, Q10, super Jos).

Thứ ba, những người tham gia chiến tranh cần thiết phải có thiện ý để họ hướng đến việc thăng tiến điều tốt và tránh điều xấu. Vì lý do đó Thánh Augustine đã nói: “Tôn giáo chân chính xem những cuộc chiến tranh mang tính hòa bình này được tiến hành không phải vì động cơ tăng cường sức mạnh, hoặc do tính hung ác, nhưng với mục đích giữ gìn hòa bình, trừng phạt những kẻ làm điều xấu, và đề cao những người làm điều tốt” (De Verbis Domini, những lời được trích này được tìm thấy không phải trong tác phẩm của ngài, nhưng trong bộ luật Apud., Causis 23, vấn đề 1). Vì có trường hợp một cuộc chiến được chính quyền hợp pháp tuyên bố, và với một nguyên nhân chính đáng, nhưng vẫn bị coi là bất hợp pháp vì với ý hướng xấu. Vì lẽ đó, Thánh Augustine nói: “Tất cả những động cơ như: sự đam mê gây ra tai họa, cơn khao khát cuồng nộ trả thù, một tâm hồn bất ổn và tàn nhẫn, một cơn sốt nổi loạn, sự khao khát quyền lực và những động cơ đại loại như vậy pahri được loại bỏ ngay khỏi chiến tranh” (Contra Faustum Manichaeum XXII, 74).

Giải đáp:

1/. Như Thánh Augustine nói: “Nếu không có lệnh hoặc sự chấp thuận của cấp trên hay chính quyền hợp pháp thì cầm gươm là tự trang bị cho mình để tước đoạt mạng sống của kẻ khác” (Contra Faustum Manichaeum XXII, 70). Mặt khác, người có thẩm quyền tối cao hoặc tòa án (với tư cách là một cá nhân) hoặc người có thẩm quyền (với tư cách là một công dân) vì nhiệt tình bảo vệ sự công bằng mà cần phải dùng đến gươm thì được Thiên Chúa nhắc nhở là không được “cầm gươm”, nhưng được sử dụng gươm khi được ủy nhiệm, vì thế họ không đáng bị trừng phạt. Và ngay cả những người dùng gươm một cách tội lỗi không phải lúc nào cũng sẽ chết vì gươm, nhưng họ sẽ luôn luôn chết vì gươm của chính mình, bởi vì trừ khi họ ăn năn, nếu không họ sẽ bị trừng phạt đời đời vì việc dùng gươm một cách tội lỗi của mình.

2/. Như Thánh Augustine nhận xét (De Sermaone Domini in Monte I,19): Những giới luật như vậy phải luôn được ghi nhớ sẵn sàng trong tâm trí, để chúng ta có thể dễ dàng tuân theo những giới luật đó, và nếu cần thiết, phải kìm chế sự phản kháng hoặc tự vệ. Tuy nhiên, đôi khi một người cũng cần phải hành động ngược lại vì lợi ích chung hoặc vì lợi ích của những người đang cùng chiến đấu với anh ta. Vì thế Thánh Augustine nói: “Đối với những người chúng ta phải trừng phạt nghiêm khắc từ tâm, cần xử lý bằng nhiều cách thức ngược lại với ý muốn của họ. Bởi vì khi chúng ta đang tước bỏ tội lỗi của một người vô pháp luật, thì tốt nhất là nên chế ngự anh ta, vì lẽ rằng không có gì thất vọng hơn là hạnh phúc của người tội lỗi, một thứ kẻ thù bên trong tạo nên sự miễn chước hình phạt phạm tội và ý muốn xấu xa” (Ep. 138 ad Marcellinus).

3/. Những người tiến hành chiến tranh một cách chính đáng phải hướng đến mục đích hòa bình, và vì thế họ không chống lại hòa bình, ngoại trừ một nền hòa bình độc ác, một thứ hòa bình mà Thiên Chúa “đến không phải để mang tới cho trái đất” (Mt 10,34). Vì lý do này, Thánh Augustine nói (Ep. 189 ad Boniface): “Chúng ta không tìm kiếm hòa bình trong tình trạng chiến tranh, nhưng chúng ta đến với chiến tranh để có thể có hòa bình. Vì thế hãy an tâm trong lúc chiến đấu, để có thể đánh bại những người mà bạn đang chiến đấu chống lại, và đem họ đến sự phồn thịnh hòa bình”.

4/. Việc luyện tập kiên cường những kỹ năng chiến đấu của quân đội không phải bị nghiêm cấm hoàn toàn, nhưng chỉ những hành vi quá đáng và nguy hiểm dẫn đến chết chóc hoặc hành vi cướp bóc mới bị cấm mà thôi. Ngày xưa, việc luyện tập kỹ năng chiến đấu tỏ ra không quá nguy hiểm như vậy. Và vì thế chúng được gọi là “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, như Jerome khẳng định trong một bức thư (Reference incorrect: Vegtius, De Rei Militaris).

Mục 2: Phải chăng các Linh mục và Giám mục tham gia chiến tranh là bất hợp pháp?

Nghi vấn: Dường như các Linh mục và Giám mục tham gia chiến tranh là điều hợp pháp?

1/. Vì, như đã trình bày ở trên (mục 1), những cuộc chiến tranh là hợp pháp và chính đáng trong mức độ họ bảo vệ người nghèo và toàn bộ tài sản chung khỏi bị thiệt hại do tay quân thù gây ra. Ngày nay, điều này dường như chủ yếu là trách nhiệm của hàng Giám mục, vì như Đức Gregory nói (Hom 14 in) “sói còn uy hiếp đàn chiên bao lâu còn có người bất công và tham lam đàn áp những người trung thực và bé nhỏ. Nhưng người được coi là mục tử và những người khác đã bỏ đàn chiên chạy trốn vì anh ta sợ rằng sói sẽ tấn công anh ta và không dám đứng lên chống lại sự bất công của mình”. Vì thế, các giáo sĩ và Giám mục tham gia đấu tranh là hợp pháp.

2/. Vả lại, Đức Giáo Hoàng Leo IV viết (Bộ Giáo lệnh XXIII, q.8, quy điển Igutur): “Bởi vì tin tức về phía người Hồi giáo thường là tin xấu, nên khi một vài nguồn tin cho biết người Hồi giáo sẽ ngấm ngầm bí mật đến cảng thành phố Rome, chúng tôi đã ra lệnh cho mọi người tụ họp lại và đi xuống vùng bờ biển”. Vì thế, các Giám mục và Linh mục tham gia đấu tranh là điều hợp pháp.

3/. Vả lại, một cách hiển nhiên, dù một người tự làm một điều gì đó, hay đồng tình với điều người khác làm thì cũng giống nhau, theo thư gửi tín hữu Rome 1,32: “Không chỉ những người làm những điều như vậy thì đáng chết, nhưng cả những người đồng tình với những việc người khác làm cũng vậy”. Ngày nay, những người xui khiến người khác làm một điều gì đó, dường như trước hết họ đồng tình với điều đó. Nhưng đối với các Giám mục và giáo sĩ, xui khiến người khác đấu tranh là điều hợp pháp: vì có lời chép rằng: vua Charles đã tiến hành cuộc chiến tranh với Lombards theo lời đề nghị và yêu cầu của Giám mục Adrian thành Rome (Decrital XXIII, q.8, Caan Hortan). Vì thế, họ cũng được phép chiến đấu.

4/. Vả lại, bất cứ điều gì tự nó là tốt và đáng khen thì hợp pháp đối với hàng giáo sĩ và Giám mục. Ngày nay, đôi khi tiến hành chiến tranh là một điều tốt và đáng khen, vì có lời chép rằng: “Bất cứ ai chết vì niềm tin chân thật, hy sinh vì tổ quốc, hay chết trong việc bảo vệ những người Kitô hữu, thì sẽ được Thiên Chúa ban cho phần thưởng trên trời” (Decretal XXIII, q.8, Canon Ommi Timore). Vì thế, các Giám mục và Linh mục tham gia đấu tranh là điều hợp pháp.

Nhưng: điều này đã được nói rõ cho thánh Phêrô với tư cách là người đại diện hàng Giám mục và giáo sĩ: “Hãy xỏ gươm vào vỏ” (Mt 16,52). Vì thế, các Giám mục và Linh mục tham gia đấu tranh là điều bất hợp pháp.

Luận giải: Có nhiều điều cần thiết cho lợi ích của xã hội loài người, và như một triết gia nhận xét, có một số công việc thì nhiều người làm tốt hơn và nhanh hơn một người làm (politica I,1), trong khi có những công việc rất trái ngược với công việc khác đến nỗi không thể cùng lúc thực hiện một cách thích hợp; vì thế những người được trao trách nhiệm quan trọng thì bị cấm không được bận rộn với những công việc ít quan trọng khác. Vì vậy, theo luật dân sự thì, những người lính được ủy nhiệm theo đuổi công việc chiến đấu thì bị cấm không được làm kinh tế.

Ngày nay, việc theo đuổi công việc chiến đấu hoàn toàn không thích hợp với trách nhiệm của Giám mục và giáo sĩ, vì hai lý do. Lý do thứ nhất là một lý do thông thường, nghĩa là bởi vì việc theo đuổi chiến đấu có quá nhiều lo âu gây rất nhiều trở ngại cho tâm trí trong việc suy tư thần học, ca tụng Thiên Chúa và cầu nguyện cho tha nhân, là những việc thuộc bổn phận của hàng giáo sĩ. Do đó, cũng như hàng giáo sĩ bị cấm không được kinh doanh thương mại vì nó làm cho đầu óc của họ bị chi phối quá nhiều, thì việc cấm theo đuổi công việc chiến đấu cũng vậy, thoe thư thứ 2 Timothy 2,4: “Không ai là lính của Thiên Chúa mà lại để mình vướng mắc vào những việc thuộc đời sống dân sự”. Lý do thứ hai là một lý do đặc biệt, nghĩa là bởi vì tất cả các chức sắc thuộc hàng giáo sĩ đều được hướng dẫn tới thừa tác vụ bàn thánh, mà ở đó cuộc Vượt Qua của Đức Kitô được hiện tại hóa một cách bí tích theo 1Cr 11,26: “Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn bánh và uống chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết”. Vì thế, hàng giáo sĩ giết hại và làm đổ máu người khác là điều không thích hợp, nhưng họ nên sẵn sàng đổ máu mình vì Đức Kitô, để thực sự noi theo những điều họ mô tả trong thừa tác vụ của mình thì thích hợp hơn. Vì lý do này, nên đã có sắc lệnh quy định rằng, hễ ai làm đổ máu người khác, dù không phải lỗi của mình cũng là bất hợp pháp. Ngày nay, không ai đang thi hành một trách nhiệm nào đó, lại có thể thực hiện một công việc mâu thuẫn với trách nhiệm trên một cách hợp pháp được. Như vậy, hàng giáo sĩ tham gia chiến đấu là hoàn toàn bất hợp pháp, bởi vì chiến tranh dẫn đến việc đổ máu.

Giải đáp:

1/. Hàng Giám mục phải chống lại không chỉ những con sói mang đến sự chết chóc tâm linh cho đàn chiên, mà còn cả những kẻ cướp bóc và đàn áp làm tổn thương đến thể xác người khác; tuy nhiên không phải bằng những cánh tay hữu hình của họ, nhưng bằng vũ khí tinh thần, theo lời của các thánh tông đồ (Cr 10,4): “Khí giới chúng tôi dùng để chiến đấu không phải là thứ khí giới xác thịt, nhưng là những khí giới nhờ Thiên Chúa”. Đây là những lời cảnh báo sinh ơn cứu độ, là những lời cầu nguyện chân thành, và đối với những người ngoan cố, thì đây là lời tuyên án cắt phép thông công.

2/. Do quyền bề trên của mình, hàng Giám mục và giáo sĩ có thể tham gia chiến tranh, không phải bằng cách trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu, nhưng bằng việc hỗ trợ tinh thần cho những người chiến đấu vì chính nghĩa, qua việc cổ vũ và xá tội cho họ hoặc bằng những hình thức hỗ trợ tinh thần khác. Vì vậy, trong Cựu Ước (Giosua 6,4) các tư tế đã được ra lệnh thổi kèn thánh trong trận chiến. Vì mục đích này, hàng Giám mục và giáo sĩ trước hết được phép tham gia trận chiến, nhưng nếu bất cứ một ai trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu thì đó là một sự lạm việc cho phép này.

3/. Như đã trình bày ở trên (q.23, A4, r2) mọi thứ có liên quan tới mục đích như quyền lực, nghệ thuật hay nhân đức, phải được sắp xếp để hướng tới mục đích. Ngày nay, những cuộc chiến tranh trần thế trung thực cần phải được xem như là có liên quan tới mục đích là điều thiện thần học mà hàng giáo sĩ được ủy thác. Vì thế, trách nhiệm của hàng giáo sĩ là sắp xếp và hướng dẫn người khác tiến hành một cuộc chiến tranh chính đáng. Việc họ bị cấm cầm vũ khí chiến đấu dường như không phải bởi vì điều đó là tội lỗi, nhưng bởi vì công việc như vậy không thích hợp với nhân cách của họ.

4/. Mặc dù tiến hành một cuộc chiến tranh chính đáng là một việc làm đáng khen, tuy nhiên, nó được xem là bất hợp pháp đối với hàng giáo sĩ, vì lý do những công việc họ được ủy nhiệm vẫn còn đáng khen hơn. Theo cách đó, việc kết hôn có thể là đáng khen, tuy nhiên, đối với những ai đã khấn vâng giữ đời sống khiết tịnh thì đó là điều đáng trách, vì họ còn bị ràng buộc với một điều thiện lớn hơn.

Mục 3: Bố trí những cuộc phục kích trong chiến tranh là điều bất hợp pháp chăng?

Nghi vấn: Hình như việc bố trí những cuộc phục kích trong chiến tranh là điều bất hợp pháp.

1/. Vì rằng, có lời chép trong sách Đệ Nhị Luật: “Anh em hãy theo đuổi sự công chính và chỉ sự công chính mà thôi” (Đnl 16,20). Nhưng vì những cuộc phục kích là một loại mưu mẹo gian dối nên dường như nó thuộc về sự bất công. Vì thế, việc bố trí những cuộc phục kích trong chiến tranh là điều bất hợp pháp, ngay cả trong một cuộc chiến tranh chính đáng.

2/. Hơn nữa, những cuộc phục kích và những mưu mẹo chiến lược dường như trái với tính trung thực, thậm chí là sự dối trá. Nhưng như thánh Augustine đã tuyên bố: bởi vì chúng ta buộc phải giữ lòng tin đối với tất cả mọi người, nên thật là sai lầm nếu chúng ta lừa dối mọi người (Contra Medacium XV). Vì vậy, theo thánh Augustine, một người buộc phải giữ lòng tin đối với kẻ thù của mình (Ep. 189 ad Boniface) thì việc phục kích những kẻ thù của mình dường như là điều bất hợp pháp.

3/. Vả lại, như Thánh Matthew viết: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12); và chúng ta nên xem xét điều này trong tất cả những mối quan hệ của chúng ta với những người hàng xóm của chúng ta. Vì vậy, bởi vì không ai muốn chuẩn bị những cuộc phục kích hay những mưu mẹo gian dối cho chính mình, nên hẳn là không ai xúc tiến một cuộc chiến tranh bằng cách bố trí những cuộc phục kích.

Nhưng: thánh Augustine nói: “Miễn là một cuộc chiến tranh chính đáng, thì dù nó có được tiến hành một cách công khai hay chỉ là những cuộc phục kích, nó cũng chẳng đụng chạm gì đến sự công bằng” (QQ. In Heptateuchum, q. 10, super Joshue), và để chứng minh điều này thánh nhân đã viện dẫn tới uy thế của Thiên Chúa khi Ngài ra lệnh cho ông Gioshue mai phục thành Hai (Gs 8,2).

Luận giải: Mục đích của việc bố trí phục kích là để đánh lừa kẻ thù. Ngày nay, một người có thể bị đánh lừa bởi một chữ hay một bản văn của kẻ khác dưới hai hình thức. Trước tiên, do bị nói dối, hoặc bị thất hứa, và điều này luôn luôn là phi pháp. Hẳn rằng không ai lại đánh lừa kẻ thù của mình theo cách thức như thế, bởi vì theo thánh Ambrose: “ngay giữa những kẻ thù với nhau thì chắc chắn cũngcó những quyền lợi và những thỏa ước về chiến tranh mà đôi bên cần phải tôn trọng” (De Officiis Ministorum I).

Thứ hai, một người có thể bị đánh lừa do những điều chúng ta nói hoặc những việc chúng ta làm, vì chúng ta không giải thích rõ mục đích và ý nghĩa cho họ hiểu. Ngày nay không phải lúc nào chúng ta cũng buộc phải làm điều đó, bởi vì ngay cả trong Giáo lý thánh thiêng vẫn có nhiều điểm cần phải được che đậy, đặc biệt đối với những người không tin để họ khỏi nhạo báng, như Thánh Matthew (Mt 7,6) có viết: “Của Thánh, đừng quăng cho chó”.

Do đó càng cần phải đấu tranh không cho kẻ thù biết được kế hoạch trong chiến dịch của mình. Vì lẽ này mà một trong những điều người lính cần phải học biết là nghệ thuật che giấu mục đích của mình không để cho kẻ thù biết, như Frontinus đã trình bày trong tập sách bàn về chiến lược (Satratagematum I,1). Kiểu che giấu như vậy chỉ có ý nghĩa nếu cuộc phục kích được áp dụng một cách hợp pháp trong một cuộc chiến tranh chính đáng.

Những cuộc phục kích này không đáng bị gọi là sự lường gạt, cũng không thể cho rằng chúng đi ngược với sự công bằng hay ngược với một tấm lòng chân chính. Bởi vì sẽ là một người có tấm lòng quá quắt nếu anh ta không muốn một ai giấu giếm anh ta bất cứ điều gì.

Điều này đủ để trả lời cho những nghi vấn trên.

Mục 4: Chiến đấu trong ngày thánh có phải là điều hợp pháp?

Nghi vấn: Hình như chiến đấu trong ngày thánh là điều bất hợp pháp?

1/. Bởi vì ngày thánh được lập nên để chúng ta có thể dành thời gian cho việc thờ kính Thiên Chúa. Và do đó, nó bao hàm cả việc giữ này Sabath trong ý nghĩa như được diễn tả trong sách Xuất Hành 20,8: Ngày Sabath được hiểu là để nghỉ ngơi. Nhưng chiến tranh thì có quá nhiều lo âu. Vì thế chiến đấu trong ngày thánh không thể là điều hợp pháp.

2/. Vả lại, sở dĩ có một số người bị trách mắng (Is 58,3) do trong những ngày ăn chay họ cứ khăng khăng đòi cho bằng được những gì người khác còn nợ họ, là vì tội tranh chấp và tội đánh đập người khác. Vì thế, càng phải kết luận rằng, chiến đấu trong ngày thánh là điều bất hợp pháp.

3/. Hơn nữa, chẳng có hành động xấu nào được xem là nên làm để ngăn ngừa khỏi bị những thiệt hại trần gian, mà chiến đấu trong ngày thánh dường như tự bản chất là một hành động xấu. Vì thế, không nên chiến đấu vào ngày thánh, ngay cả vì nhu cầu để tránh những thiệt hại trần gian.

Nhưng: Như trong sách Maccabê, người Do Thái xác định một cách thẳng thắn rằng: “Bất cứ người nào đến tấn công chúng ta vào ngày Sabath, chúng ta sẽ đánh trả lại” (1 Mc 2,41).

Luận giải: Việc giữ luật trong những ngày thánh không phải là sự cản trở đối với những gì mang lại sự an toàn cho con người, ngay cả sự an toàn về mặt thể lý. Vì thế, Chúa chúng ta (Đức Kitô) đã tranh luận với những người Do Thái như được nói đến trong Tin Mừng Gioan: “Tại sao các ông lại nổi giận với tôi, vì tôi đã chữa lành toàn thân một người trong ngày Sabath?” Như vậy, thầy thuốc có thể chăm sóc bệnh nhân trong những ngày thánh một cách hợp pháp. Ngày nay, càng có nhiều lý do để bảo vệ hạnh phúc chung (nhờ đó cứu nhiều người khỏi bị giết chết, và ngăn chặn vô số những tội ác cả về mặt vật chất lẫn tinh thần), hơn là sự an toàn thể lý vủa một cá nhân. Do đó, vì mục đích bảo vệ hạnh phúc chung của người tín hữu, việc hciến đấu trong những ngày thánh được xem là hợp pháp, với điều kiện là nó thực sự cần thiết: bởi vì nó sẽ thuyết phục Thiên Chúa nếu nó không đi ngược với một nhu cầu như vậy, bằng không sẽ phải tự kiềm chế chiến tranh.

Tuy nhiên, ngay khi nhu cầu chấm dứt, thì việc chiến đấu trong những ngày thánh không còn được coi là điều hợp pháp nữa, vì những lý do đã nêu ở trên. Như vậy, điều này đủ để trả lời cho những nghi vấn trên.

 

 

 


[1] St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, II–II, q. 29, a. 2.

[2] Edmund Ryden, SJ, Just War and Pacifism. Chinese and Christian Perspectives in Dialogue, Taipei Ricci institute: Varietes Sino Logiques New Series 89, 2001.

[3] St. Thomas Aquinas, Summa Theolgiae, II–II, q. 40, a. 1-4.

[4] St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Vol. 35, Consequences of Charity (II–II, 35–46), Commentaries and Appendices by Toma R. Heathe, O.P., Great Britian: Blackfriars, 1972, Appendix 2, pp. 193–197.

[5] Bruno Solages, La theorie de la guerre just, Paris, 1946, pp. 9: quodted by Marceliano Llamera, O.P., Introducciones a la Summa Tiológica, VII, Madrid: BAC, 1959, pp. 1014–1015.

[6] St. Thomas Aquinas, Summa Theolgiae, II–II, q. 40, a. 1.

[7] Germain Grsez, Living a Christian Life, Vol. 2 of his The Way of the Lord Jesus, Quincy, Illinois: Franciscan Press, 1993, pp. 900–902: Fausto B. Gomez, O.P., “Abolition of the Death Penalty: Christian Perspective,” Unitas, Vol. 74, No. 3 September 2001, pp. 376–405.

[8] St. Thomas Aquinas, Contra Gentes, III, 34.

[9] St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, II–II, q. 29,2, a. 2.

[10] Ibid., q. 64, a. 6.

[11] R. Bose, Sociologia de la paz, Barvelona: Ed. Estela, S.A., 1967: Id., Evangelio, violencia y paz, Madrid: Ed. Morova, 1977, pp. 53–55.

[12] R. Coste, Moral internacional, Barcelona: Herder, 1967, pp. 479–480; Fausto Gomez, O.P., “The Justice of the ‘Just War’,” in his book, The Praxis of Justice and Solidarity, Manila: USTSRC, 1998, pp. 131–136.

[13] Corinto, José Luis Guti é rrez Gacía, “Guerra”, Conceptos fundamentals en la doctrina social de la Iglesia, II, Madrid: Centro de Estudios Sociates del Valle de los Caidos, 1971, pp. 225–236.

[14] Pius XII, Negli ultimi, 1946, số 29.

[15] Pius XII, Gravi, 1949, số 28; Corinto, José Luis Gutiérrez García, O.C., pp. 230.

[16] Edmund Ryden, O.C., pp. 50–53.

[17] La Decimoterza, 1952, pp. 32–34; in Gutiérrez García, O.C., pp. 233.

[18] John XXIII, Pacem in Terris, số 112.

[19] Ibid., số 55 và trong G. Grisez, O.C., pp. 901.

[20] Paul VI, PP. số 53.

[21] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 80.

[22] Ibid., số 82.

[23] Marceliano Llamera, O.P., Introducciones a la Summa Teológica, VII, Madrid: BAC, 1959, 1015.

[24] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 81.

[25] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 1992, số 2314.

[26] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 80.

[27] Ibid., số 80–81.

[28] Ibid., số 79.

[29] Ibidem, số 79.

[30] Ibidem, số 79.

[31] Karl Peschke, Christian Ethics 2, Manila: Divine Word Publecations, 6th Printing, 1997, pp. 592–600.

[32] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Cantessimus Annus, Ngày 01-05-1991, số 51.

[33] Ibid., số 52.

[34] René Coste, Moral international, Barcelona: Herder, 1967, pp. 478–480.

[35] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Ngày thế giới hòa bình, Ngày 01-01-2002, số 2,4.

[36] Ibid., số 4.

[37] Ibid., số 5.

[38] Ibidem.

[39] Address 10.1.2002, số 3.

[40] Ibid., số 5.

[41] Ibid., số 5.

[42] 2002 Message, no.6.

[43] Ibid., nos. 6 and 7.

[44] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Ngày thế giới hòa bình, Ngày 01-01-2002, số 14.

[45] Ibid., số 7.

[46] Ibid., số 12.

[47] Ibid., số 12.

[48] 2002 Message, no.7.

[49] x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 78.

[50] St. Augustine, De Civitate Dei, 19,13.

[51] 2002 Message, no.3.

[52] Ibid., số 12.

[53] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp “Ngày thế giới hòa bình”, Năm 1990, số 3

[54] 1997 Message, no.5.

[55] 2002 Message, no. 3 and 2.

[56] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp “Ngày thế giới hòa bình”, Năm 1997, số 5; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Dives in Misericordia (Thiên Chúa giàu lòng thương xót), Ngày 30-11-1980, số 14.

[57] 2002 Message, no. 8.

[58] Ibid., no. 9.

[59] Ibidem.

[60] Ibid., no. 13.

[61] 2002 Message, no.14.

[62] x. John Paul II, Message 1997 World Day of Peace, no.6.

[63] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng), số 7.

[64] Xc. Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, Sứ điệp Ngày hòa bình thế giới, Năm 2006, số 13, 14.

[65] Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, Sứ điệp Ngày hòa bình thế giới, Năm 2006, số 5.

[66] Ibid., số 3.

[67] http://www.elmundo,es/elmundo/2001/10/09/enespecial/1002585462.html

[68] Rafael Larraneta, “Ya no hay guerras Justas,” in La maldición de la Guerra. Salamance: Editorial San Esteban, 1984, pp. 117.

[69] Brian Wicker, The Gulf War and the Criterion of Last Resort,” New Black friars, Vol. 73, No. 859, April 1992, pp. 223.

[70] Message, January 1, 1979.

[71] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2317. x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes, no.78.

[72] x. Fausto Gomez, OP, Promoting Justice through Active Nonviolence, trong tác phẩm The Praxis of Justice and Solidarity, Manila: UST SRC, 1998, pp.130–160.

[73] x. Fausto Gomez, OP, Peace and Peacemaking, Manila: UST SRC, 1990, pp.1–48.

[74] St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, II–II, q. 29,3 ad. 1.

[75] Message for World Day of Peace, January 1, 1990.