Giải Thích Bộ Giáo Luật – Quyển II: Dân Thiên Chúa – Các Tu Hội Đời Sống Thánh Hiến Và Tông Đồ (3)

0
2107


GIẢI THÍCH

BỘ GIÁO LUẬT NĂM 1983

CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Tác giả: Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

***

***

QUYỂN II:

DÂN THIÊN CHÚA

—***—

PHẦN III

CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

CÁC HỘI ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ

***

MỤC VII

VIỆC TÔNG ĐỒ CỦA CÁC TU HỘI

 

Dưới khía cạnh pháp lý, chúng ta có thể tìm thấy trong chương này những qui định của bộ Giáo luật về việc tông đồ của các tu sĩ, cách riêng về các tương quan với giám mục giáo phận.

Đây lại là một chương mới nữa mà nội dung hầu như không có nơi bộ Giáo luật cũ. Cần ghi nhận rằng: chương V này không đề cập tới “các hội đời sống tông đồ”, nhưng bàn về tất cả các tu hội theo phương diện tông đồ, bởi vì tất cả các tu hội đều là “tông đồ”.

I. TẤT CẢ CÁC TU HỘI ĐỀU LÀ “TÔNG ĐỒ”

Trong Kinh Thánh và thần học, những tư tưởng kêu gọi, thánh hiến và sai đi (vocatio – consecratio – missio) gắn liền với nhau: Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hiến một người nào đó để sai họ đi thi hành một kế hoạch cứu độ của Ngài. Đối lại, khi con người đón nhận tiếng gọi đó thì cũng dâng hiến đời mình cho Chúa để Ngài sử dụng vào chương trình cứu rỗi. Do đó, dưới khía cạnh thần học, chúng ta có thể nói: sự tận hiến của đời tu không những chỉ nhắm đưa con người tối chỗ toàn thiện qua việc mến Chúa hết lòng, nhưng còn đưa con người tới việc phục vụ nước Chúa nữa.

Tuy nhiên, cần phải xác định từ ngữ cho chính xác. Khi nói tới hoạt động tông đồ, người ta dễ liên tưởng ngay tới những tu hội chuyên về mục vụ, bác ái và xã hội, còn các tu hội kín thì bị loại. Quan niệm như vậy là không đúng, bởi vì các dòng kín cũng hoạt động tông đồ, nhưng theo đường lối riêng của họ. Quan niệm đối lại cũng sai lầm không kém, nghĩa là khoán trắng đời sống chiêm niệm cho các dòng kín, còn các dòng khác được miễn. Không phải thế, tất cả các tu hội đều phải sống chiều kích chiêm niệm cũng như tất cả các tu hội đều phải sống chiều kích tông đồ.

Các văn kiện của Giáo hội về đời sống tông đồ của các dòng tu từ công đồng Vaticanô II tới nay thì rất nhiều, chẳng hạn:

– Sắc lệnh “Đức ái trọn hảo” (số 5,7-9)

– Tông huấn “Chứng tá Tin Mừng” (số 8-10)

– Văn kiện “Tương quan giữa các giám mục với dòng tu”(1978)(số 10-23)

– Văn kiện “Các tu sĩ và sự thăng tiến con người” (1980)

– Văn kiện “Những yếu tố cốt yếu của đời tu sĩ” (1983)(số 23-27)

Điều luật mở đầu chương nói về việc tông đồ của các tu hội cho thấy Giáo luật đã trở về với quan điểm nguyên thủy về chiều kích tông đồ của đời tận hiến khi nhấn mạnh tới chứng tá của việc cầu nguyện và đền tội như các đan sĩ sống đời tông đồ, trước khi nói tới các công tác từ thiện bác ái khác (đ 673).

Điều luật này lặp lại gần như nguyên văn 2 câu của văn kiện công đồng Vaticanô II (C.O.33, LG.44), và đặt ra nguyên tắc chung cho các điều khoản của chương V. Điều các tu sĩ phải thực hiện trước hết trong việc tông đồ là họ phải làm chứng cho cuộc sống thánh hiến của họ bằng lời cầu nguyện và các việc khổ chế. Mỗi tu hội tham gia hoạt động tông đồ theo hình thức phù hợp với các đặc tính của tu hội mình.

II. CÁC TU HỘI CHIÊM NIỆM

Điều 674 nêu ra một nguyên tắc cơ bản: dù việc tông đồ có khẩn trương đến đâu, cũng không bao giờ được kêu gọi tới các tu sĩ chiêm niệm, vì sự phong phú tông đồ của họ sâu xa hơn.

Điều luật này đã được rút ra từ sắc lệnh P.C. số 7. Nó phù hợp với điều luật trên, bởi vì nếu chứng tá của đời sống thánh hiến là điều quan trọng hơn hết, thì chứng tá này thấy được cách rõ nhất nơi các tu hội chiêm niệm.

Hậu quả pháp lý là: các tu sĩ của các tu hội này không thể được gọi để làm công tác tông đồ, dù có những nhu cầu khẩn cấp. Đây là một điều để bảo vệ đời tu của họ chống lại những vị lo việc tông đồ hoạt động (giám mục, cha xứ), và chống lại chính các bề trên của họ, khi các vị này áp đặt các công tác tông đồ cho họ.

Như thế, không có nghĩa là các tu hội này không phải thi hành các thừa tác vụ của họ (việc tông đồ bằng các cử hành phụng vụ, mở rộng cửa đón các nhóm tĩnh tâm, tổ chức các buổi cầu nguyện, làm phúc bố thí, góp phần nghiên cứu các vấn đề tôn giáo trong văn hóa và thế giới,.v.v…)

Khi duy trì nội cấm Giáo hoàng, chẳng hạn, Giáo hội cho thấy sự quý mến đặc biệt của Giáo hội đối với những trung tâm cầu nguyện và đền tội là các đan viện có nội cấm. Ở đây, vai trò của phái nữ thật không có gì thay thế được, bởi vì “việc giáo sĩ hóa” đa số các đan viện phái nam, thường buộc các tu sĩ này phải đảm nhận thừa tác vụ, cho nên, các nữ tu đan viện là những người hoàn toàn giữ được cuộc sống đan viện chiêm niệm. Đó là kho tàng quý giá mà Giáo hội lo giữ như “con ngươi mắt mình”.

III. CÁC TU HỘI KHÁC

Điều 675 cho thấy Giáo luật lấy lại những nguyên tắc về linh đạo của đời tông đồ mà công đồng Vaticanô II đã nói tới ở số 8 sắc lệnh canh tân dòng tu, tóm vào 3 mối liên hệ của hoạt động tông đồ:

1. Hoạt động tông đồ và đời tận hiến

Tất cả đời sống tu trì phải thấm nhuần tinh thần tông đồ, và tất cả hoạt động tông đồ phải được sinh động nhờ tinh thần tu trì.

2. Hoạt động tông đồ và đời nội tâm

Đời sống tông đồ cần phải phát xuất từ sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, đồng thời sự kết hợp với Chúa cần được củng cố và hun đúc bằng hoạt động tông đồ.

3. Hoạt động tông đồ và Giáo hội

hoạt động tông đồ được thi hành nhân danh Giáo hội và với sự ủy nhiệm của Giáo hội, do đó, cần được thực hiện trong sự hiệp thông với Giáo hội.

Những nguyên tắc trên có tính tổng quát cho tất cả các tu hội. Khi hoạch định hướng đi cụ thể, cần phải thêm một nguyên tắc nữa, đó là mỗi tu hội hãy tham gia hoạt động tông đồ theo hình thức phù hợp với đặc tính của tu hội mình.

– Các tu hội giáo dân nam cũng như nữ tham dự vào chức năng mục vụ của Giáo hội bằng những việc từ thiện tinh thần và thể xác, và phục vụ loài người bằng rất nhiều cách. Vậy hãy trung thành trong ơn gọi của mình (đ 676).

– Các bề trên và các thành viên phải trung thành giữ sứ mạng và các công việc tông đồ của mình, đừng làm biến chất các công việc đó. Nhưng phải thích nghi với hoàn cảnh về nơi và về thời đại. Phải lo giúp các hội liên kết với tu hội của mình. Đó là 2 lời khuyên của điều 677.

Trong thực tế, Giáo luật đã dẹp bỏ những khác biệt trước kia giữa các hội dòng ba và các hội khác. Nay tất cả đều được coi là các hội liên kết với gia đình tu hội, nhưng luật riêng vẫn có quyền dành những đặc ân cho những hội dòng ba truyền thống.

IV. CỘNG TÁC GIỮA CÁC TU SĨ VÀ CÁC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN

– Điều 678 là một điều mới. Đây là một tổng hợp khéo léo giữa những lời dạy của công đồng và các văn thư hậu công đồng liên quan đến những liên lạc giữa các giám mục và các tu sĩ. Có hai điểm rõ ràng:

1/. Sự tùng phục của các tu sĩ và sự thỏa thuận giữa đức giám mục và các bề trên. Các tu sĩ phải vâng theo các chỉ thị của giám mục về tất cả những gì liên hệ đến các việc tông đồ. Tuy nhiên, các tu sĩ vẫn dưới quyền bề trên của mình, theo đức vâng lời.

2/. Không coi đức giám mục và các bề trên là hai thế đối lập, nhưng là một sự tổng hợp. Đó là ý nghĩa của khoản 3: giám mục và bề trên phải bàn bạc với nhau.

Tóm lại, trong lãnh vực thuần túy pháp lý, những điều khoản này nhằm qui định 2 chiều kích:

a/. Chiều kích Giáo hội: các tu sĩ hoạt động tông đồ trong Giáo hội, do đó, cần duy trì mối quan tương quan với giám mục giáo phận.

b/. Chiều kích dòng tu: các tu sĩ không hoạt động với danh nghĩa riêng, nhưng với tư cách là phần tử của tu hội, vì vậy, cần duy trì mối tương quan với bề trên của mình.

– Điều 679 dành cho giám mục giáo phận được quyền áp dụng sự trừng phạt. Buộc phải có 3 điều kiện:

+ Lý do rất nghiêm trọng

+ Bề trên cao cấp đã được khuyến cáo

+ Sự thiếu đáp ứng của vị bề trên này

Ba điều kiện này phải có trước khi ra hình phạt, và lập tức sau đó phải trình báo cho Tòa thánh. Có lẽ để Tòa thánh được thông tin đầy đủ khi nhận được đơn thượng cầu của bề trên dòng.

– Điều 680: nêu lên một mục tiêu, đề ra các phương tiện và ghi rõ những giới hạn.

* Mục tiêu là sự phối trí và hợp tác giữa hoạt động của tu hội và của các linh mục triều. Đây là một hệ luận của chiều kích Giáo hội của hoạt động tông đồ: mục tiêu không phải là tìm lợi lộc cho một cá nhân hay một nhóm nào, nhưng là để xây dựng Giáo hội.

* Để đạt được mục tiêu này, phải tuân theo các chỉ thị của giám mục giáo phận. Nhưng phải tôn trọng đặc tính của mỗi tu hội và các luật lệ của việc thành lập.

Thí dụ: Giám mục không thể đòi một cộng đoàn chuyên lo dạy học, phải lo công việc bệnh viện, hoặc coi giữ phòng thánh của một giáo xứ, kể cả việc yêu cầu dạy giáo lý. Ngược lại, cũng đừng quá ôm đồm, nhưng hãy nhớ trung thành với sứ mạng riêng biệt của mình, do đấng sáng lập đã đề ra và là cái làm nên bộ mặt của tu hội.

Trong thực tế, sự cộng tác này được thực hiện bằng những phượng tiện pháp lý (liên hiệp các tu sĩ, các tổ chức hỗn hợp trong hội đồng giám mục, tham dự vào hội đồng linh mục và các phương tiện tinh thần).

– Điều 681: nói về hoạt động trong khuôn khổ giáo phận, được giám mục ủy thác cho các tu sĩ. Các tu sĩ này sẽ phục quyền cả hai quyền bính. Nhưng để mọi sự được rõ rệt hơn, buộc phải có một giao ước (= một hợp đồng) bằng văn bản giữa hai bên với những chi tiết về: các việc mà các tu sĩ phải chu toàn – việc chỉ định các tu sĩ đó – và vấn đề tài sản, kinh tế.

Nói rõ hơn, luật riêng phải xác định cấp bậc bề trên nào có thẩm quyền để ký hợp đồng: bề trên cao cấp (giám tỉnh, giám miền) đã đủ hay là bề trên tổng quyền. Trong hợp đồng phải xác định mục tiêu của công tác, nhân sự được cử vào, vấn đề kinh tế, thời hạn.

– Điều 682: bổ sung cho điều luật trước. Đây là một tu sĩ được đức giám mục trao cho một chức vụ trong Giáo hội (giáo vụ) (đ 145) với tư cách cá nhân chứ không phải do tư cách là phần tử của tu hội. Dĩ nhiên tu sĩ ấy chỉ có thể chấp nhận với phép của bề trên (đ 671).

Hành động có thể do đức giám mục khởi đầu, và được sự ưng thuận của bề trên tu hội, và đức giám mục chấp thuận bằng cử chỉ bổ nhiệm. Dầu sao, Giáo luật nhấn mạnh về sự tu sĩ vẫn tùy quyền của hai bên, và có thể bị thay thế, theo điều 1642 §2, nói về chức vụ linh mục chính xứ. Nhưng nếu bị bãi nhiệm, đương sự có thể thượng cầu theo các điều 1732-1739.

Nói rõ hơn, khi một tu sĩ đảm nhiệm một giáo vụ trong giáo phận (thí dụ: linh mục chính xứ) thì sự bổ nhiệm thuộc quyền giám mục (với sự đề cử hay đồng ý của bề trên). Tuy nhiên, sự bãi chức, thì thuộc quyền cả đôi bên, nghĩa là cả giám mục (sau khi đã báo cho bề trên) lẫn bề trên (sau khi đã báo cho giám mục). Nên ghi nhận: trong việc bổ nhiệm, thì giám mục và bề trên phải đồng ý với nhau. Còn khi bãi chức thì luật chỉ đòi bên này báo cho bên kia biết nhưng không buộc phải có sự đồng ý của bên đó.

– Điều 683: nói về các cuộc kinh lý mục vụ, một dụng cụ của truyền thống trong Giáo hội để ngăn ngừa và đối phó với các lạm dụng. Kinh lý là quyền và bổn phận của đức giám mục. Giáo luật không nói đến chu kỳ của cuộc kinh lý này, nhưng gián tiếp nhắc đến trong điều 396 §1 (ấn định 5 năm một lần). Đối tượng kinh lý này là các nhà thờ, nhà nguyện, các cơ sở giáo dục, từ thiện do các tu sĩ điều hành.

Cuộc kinh lý này khác với cuộc kinh lý được đề cập nơi điều 806 §1, về chương trình giáo dục, mặc dù 2 điều luật này được coi là bổ sung cho nhau. Các người đón nhận sự kinh lý phải tuân theo những chỉ thị của điều 628 §3. Nếu nhận thấy có sự lạm dụng, đức giám mục sẽ khuyến cáo bề trên dòng có phận sự, và nếu sự khuyến cáo không mang lại hiệu quả, đức giám mục sẽ có quyền đối phó. Nên ghi nhận lời lẽ của điều luật: đức giám mục có thể cử người kinh lý thay mặt ngài, nhưng chính ngài có những quyết định cần thiết.

***

MỤC VIII

CÁC THÀNH VIÊN RỜI TU HỘI

 

Trong chương nói về việc thâu nhận và huấn luyện các phần tử, chúng ta thấy các tập sinh và các tu sĩ khấn tạm thời có thể rời bỏ tu hội, và đối lại tu hội cũng có thể khước từ không cho họ khấn trọn đời. Chúng ta không trở lại những trường hợp đó nữa. Chương này chỉ nói về những tu sĩ đã khấn trọn đời.

Khi một tu sĩ tuyên khấn trọn đời trong tu hội là họ cam kết sẽ ở trong tu hội cho đến chết. Tuy nhiên, vì lý do này hay lý do khác, xảy ra những hoàn cảnh không thể tuân giữ lời cam kết đó được. Hoặc vì lý do sức khỏe, gia cảnh, hoặc chuyển sang tu hội khác, hoặc muốn trở về lập gia đình. Giáo luật đã dự trù những hình thức rời bỏ tu hội: hoặc do đương sự xin hoặc do chính tu hội loại ra.

Như vậy, sơ đồ của bộ Giáo luật mới hơi khác với bộ Giáo luật cũ. Cũng dưới để mục đó, nhưng với những điều luật khác và được sắp xếp lại rất rõ ràng với những hình thức khác nhau của sự rời bỏ tu hội.

I. CHUYỂN SANG MỘT TU HỘI KHÁC

1. Thẩm quyền

a/. Từ tu hội này sang tu hội khác: chỉ cần sự đồng ý của cả hai bề trên tổng quyền với sự thỏa thuận của hai hội đồng cố vấn liên hệ. Như vậy, không cần xin phép Tòa thánh hay giám mục giáo phận, kể cả khi chuyển từ tu hội Tòa thánh sang tu hội giáo phận và ngược lại (đ 684 §1).

b/. Từ một đan viện tự trị này sang một đan viện tự trị khác thuộc cùng một tu hội hay liên hiệp hội dòng (thí dụ: từ đan viện Phước Sơn sang Châu Sơn): cần sự đồng ý của hai bề trên cao cấp (đan viện trưởng) với sự thỏa thuận của công hội (tu nghị – Capitulum) của đan viện nơi muốn đến (đ 684 §3).

c/. Từ một tu hội dòng sang một tu hội đời hay một hội tông đồ: phải xin phép Tòa thánh (đ 684 §5).

2. Thủ tục

Tu sĩ phải qua thời gian thữ luyện ít là một năm trong tu hội mới. Luật riêng sẽ ấn định thời gian và cách thức việc thử luyện. Nếu chỉ chuyển sang một đan viện tự trị cùng tu hội, thì không cần phải qua thời kỳ thử luyện nếu luật riêng không ấn định cách khác (đ 684 §2,4).

3. Hậu quả

a/. Trong thời gian thử luyện, lời khấn vẫn còn giá trị. Quyền lợi và nghĩa vụ trong tu hội cũ bị đình chỉ, buộc phải giữ luật của tu hội mới (đ 685 §1).

b/. Sau khi mãn hạn thử luyện, tu sĩ sẽ được nhận khấn trọn đời trong tu hội mới, hoặc trở lại tu hội cũ. Nếu không muốn trở lại, thì xin đặc ân tháo lời khấn để hồi tục (đ 684 §2).

c/. Kể từ khi khấn trong tu hội mới, tu sĩ trở thành phần tử thực thụ của tu hội này (đ 685 §2).

II. RA KHỎI TU HỘI (SỐNG NGOÀI NỘI VI TU HỘI)

Phân biệt: ra khỏi tự nguyện và ra khỏi cưỡng bách.

A. Tự nguyện

1. Thẩm quyền

Có 3 cấp độ khác nhau, tùy theo thời gian xin ra khỏi tu hội.

a/. Cho đến 3 năm: Bề trên tổng quyền thỏa thuận với hội đồng của ngài (ban cố vấn).

b/. Nếu trên 3 năm: phải xin phép Tòa thánh nếu là tu hội Tòa thánh, hay phải xin phép giám mục nếu là tu hội giáo phận (đ 686 §1).

c/. Nếu là nữ tu dòng kín, thì dù thời gian bao lâu cũng phải xin phép Tòa thánh (đ 686 §2).

2. Điều kiện

a/. Lý do trầm trọng (đ 686 §1)

b/. Nếu là một giáo sĩ, cần có sự thỏa thuận của vị thường quyền sở tại, nơi tu sĩ sẽ trú ngụ trong thời gian ra khỏi tu hội (đ 686 §1).

3. Hậu quả

a/. Vẫn còn là tu sĩ: phải giữ những bổn phận tu sĩ, phải sống độc thân.

b/. Phải tùy thuộc bề trên tu hội mình, kể cả vị thường quyền địa phương nếu là giáo sĩ.

c/. Có thể mặc tu phục dòng, trừ khi đã ấn định khác.

d/. Mất quyền bầu cử và thụ cử trong thời gian ra khỏi tu hội.

e/. Phải trở về tu hội khi đặc ân mãn hạn (đ 687).

B. Cưỡng bách

1. Thẩm quyền

Theo thỉnh cầu của bề trên tổng quyền với sự đồng ý của hội đồng cố vấn của ngài, Tòa thánh hay giám mục có thể bắt buộc một thành viên tu hội sống ngoài nội vi (đ 686 §3).

2. Điều kiện

a/. Lý do trầm trọng (đ 686 §3).

b/. Công bằng và bác ái (đ 686 §3): cảnh cáo và quyền bào chữa, có thể thượng cầu.

3. Hậu quả

Giống như ra khỏi tự nguyện, chỉ khác là họ không được tự tiện xin trở lại nếu không có phép của Tòa thánh hay giám mục giáo phận.

III. DỨT KHOÁT RA VỀ (HỒI TỤC )

A. Đối với một tu sĩ khấn tạm

– Hết thời gian khấn, tu sĩ có thể tự ý ra về (đ 688 §1).

– Trong thời gian còn lời khấn, nếu có lý do quan trọng, đối với tu hội Tòa thánh, thì bề trên tổng quyền với sự thỏa thuận của ban cố vấn có thể ban phép xuất tu, hoặc giám mục nếu là tu hội giáo phận (đ 688 §2).

– Hết thời gian khấn, nếu có lý do chính đáng, có thể bị loại không cho khấn tiếp bởi bề trên cao cấp và ban cố vấn (đ 689 §1).

Tuy nhiên, cần lưu ý:

* Mắc bệnh thể lý hay tâm thần sau khi khấn là một trong những lý do chính đáng nêu trên (đ 689 §2).

* Nhưng nếu hóa điên trong thời gian khấn tạm, tu hội không thể loại người ấy (đ 689 §3). Bề trên được quyền khuyên người ấy xin xuất tu, nếu họ từ chối, tu hội có bổn phận đảm trách họ.

– Trường hợp nhận lại một tu sĩ đã chuyển sang triều hay tu hội khác không cần bắt đương sự tập lại, nhưng phải qua một thời gian thử thách tùy bề trên tổng quyền quyết định trước khi khấn tạm hay khấn trọn đời (đ 690 §1). Bề trên của đan viện tự trị cũng có phép này, với sự ưng thuận của ban cố vấn (đ 690 §2).

B. Đối với một tu sĩ đã khấn trọn đời

1. Thẩm quyền

a/. Tòa thánh, nếu thuộc Tòa thánh.

b/. Giám mục, nếu thuộc giáo phận, nơi tu sĩ được bổ nhiệm, chứ không phải nơi trụ sở của tu hội (đ 691 §2).

2. Điều kiện

a/. Lý do trầm trọng

b/. Làm đơn lên cơ quan có thẩm quyền (Tòa thánh hay giám mục) viện dẫn lý do xin chuẩn lời khấn, qua trung gian của bề trên tổng quyền. Bề trên chuyển đơn cùng với ý kiến của mình và ban cố vấn (đ 691 §1).

* Lưu ý: Bề trên có thể không đồng ý cho tháo lời khấn, nhưng cứ phải chuyển đơn lên Giáo hoàng. Lý do vì đương sự làm đơn lên Giáo hoàng chứ không phải lên bề trên.

3. Hậu quả

Đơn được chấp thuận, tu sĩ được miễn khỏi các lời khấn và nghĩa vụ khác, ký vào phúc thư khi được thông tri. Nếu không ký thì không có chuyện gì xảy ra, đương sự cứ ở lại và giữ lời khấn (đ 692).

C. Đối với một tu sĩ là giáo sĩ

Nếu là một giáo sĩ, đương sự cần phải kiếm một giám mục chấp thuận cho nhập tịch (giáo sĩ là phó tế và linh mục). Trở thành giáo sĩ triều, giám mục có thể nhận cho nhập tịch ngay hay đòi thử nghiệm một thời gian không quá 5 năm. Sau 5 năm, giám mục không cho nhập tịch thì sao ? Có ít là 2 giải pháp:

– Kiếm giám mục khác.

– Trở về với tu hội, vì việc chuẩn lời khấn chỉ có giá trị với điều kiện là được nhập tịch.

Sau cùng, cùng cực nữa là làm đơn lên Tòa thánh xin miễn chuẩn những nghĩa vụ linh mục (đ 693).

IV. THẢI HỒI THÀNH VIÊN (LOẠI BỎ, TRỤC XUẤT)

Bô Giáo luật cũ đã dự trù nhiều thủ tục khác nhau tùy theo đương sự mới khấn tạm hay khấn trọn đời, trong dòng giáo sĩ miễn trừ hay không miễn trừ, trong dòng giáo dân.

Bộ Giáo luật mới đã bỏ những phân biệt ấy, và chỉ phân biệt các thủ tục dựa theo tính cách trầm trọng của tội phạm. Ta thấy có 3 cấp độ:

– Cấp 1: đương nhiên bị thải hồi (đ 694)

– Cấp 2: phải thải hồi (đ 695)

– Cấp 3: có thể bị thải hồi (đ 696).

A. Đương nhiên bị thải hồi (ipso facto)

Phải kể là tức khắc bị thải hồi khỏi tu hội:

a/. Thành viên đã công khai chối bỏ đức tin công giáo.

b/. Thành viên đã kết hôn hoặc toan kết hôn, dù chỉ là tòa đời (đ 694 §1).

Trong những trường hợp này, bề trên cao cấp phải cùng với ban cố vấn công bố sự kiện, sau khi thu thập các bằng chứng để việc loại ra được xác lập theo pháp luật (đ 694 §2).

B. Bắt buộc phải thải hồi (phải trục xuất)

Thành viên phạm những tội nói ở điều 1397 (giết người, đánh người bị trọng thương, giam cầm người khác), điều 1398 (tham dự vào việc phá thai), điều 1395 (tư tình, các tội phạm lỗi phong hóa), trừ khi bề trên thấy rằng vi phạm ở điều 1395 không tuyệt đối cần thiết phải loại và còn có cách khác để tu sĩ sửa chữa (đ 695 §1).

Trong những trường hợp tương tự, sau khi thu thập các chứng cớ về các sự kiện và qui trách nhiệm, bề trên cao cấp thông báo cho thành viên sắp bị loại biết bản cáo trạng cùng với những chứng cớ, để đương sự có thể tự biện hộ. Tất cả những giấy tờ do bề trên cao cấp và vị chưởng khế ký cùng với những câu trả lời do đương sự viết và ký, phải được chuyển lên bề trên tổng quyền (đ 695 §2).

C. Có thể bị thải hồi

Vì những nguyên nhân khác miễn là quan trọng, bề ngoài có thể bị buộc tội và được chứng minh về pháp lý, như:

– Thường bỏ không giữ những nghĩa vụ của đời sống tận hiến.

– Vi phạm nhiều lần các lời khấn.

– Cố chấp không vâng phục những qui định hợp pháp của các bề trên trong những quyết điều quan trọng.

– Gương xấu nặng do hành vi tội lỗi.

– Cố tình bênh vực hoặc tuyên truyền những giáo thuyết đã bị quyền bính của Giáo hội kết án.

– Công khai theo ý thức hệ nhiễm mùi chủ nghĩa duy vật và vô thần.

– Vắng mặt bất hợp pháp nói ở điều 665 §2 kéo dài tới 6 tháng.

– Và những lý do nghiêm trọng khác tương tự, do luật riêng ấn định (đ 696 §1).

Thủ tục cũng gồm 3 giai đoạn như trường hợp bắt buộc phải thải hồi.

Để thải hồi một tu sĩ khấn tạm, thì những lý do ít nghiêm trọng hơn do luật riêng ấn định cũng đủ (đ 696 §2). Ngoài những trường hợp trên, điều 703 còn dự trù một biện pháp loại ra lập tức trường hợp rất khẩn trương: khi xảy ra gương mù trầm trọng bên ngoài hoặc trước một hiểm họa rất nguy hại cho tu hội.

1. Thủ tục phải theo

Thủ tục vẫn như những trường hợp khác. Bề trên cao cấp cần phải tiến hành thủ tục như sau:

a/. Thu thập hoặc bổ túc các bằng chứng.

b/. Cảnh cáo đương sự bằng văn thư, hoặc trước hai nhân chứng với lời ngăm đe rõ ràng sẽ bị thải hồi nếu không hối cải, nói rõ lý do bị thải hồi, cho tự bào chữa. Nếu cảnh cáo mà vẫn vô hiệu, thì cảnh cáo lần 2, cách lần trước ít là 15 ngày.

c/. Nếu vẫn vô hiệu, bề trên cao cấp cùng với ban cố vấn thấy rõ đương sự không sửa mình và các lời tự bào chữa không đủ, thì sau một thời hạn 15 ngày nữa, kể từ lần cảnh cáo sau, bề trên cao cấp sẽ chuyển lên bề trên tổng quyền tất cả các văn thư có chữ ký của ngài và chưởng khế (công chứng viên) với những câu trả lời của đương sự có chữ ký của người ấy nữa (đ 697).

– Trong tất cả các trường hợp nói ở điều 695 và 696, bị thải hồi vì có những lỗi nặng hay có thể bị thải hồi vì những lý do nặng khác, thành viên vẫn luôn được quyền tiếp xúc với bề trên tổng quyền và trực tiếp gửi lên ngài các lời biện hộ của mình (đ 698).

d/. Bề trên tổng quyền cùng với ban cố vấn, để thành sự phải ít nhất là 4 thành viên, sẽ tiến hành cách tập thể: cân nhắc rất cẩn thận các chứng cớ, các lý luận và các lời bào chữa. Sau một cuộc bỏ phiếu kín, quyết định thải hồi, bề trên tổng quyền sẽ ra sắc lệnh về việc này và để thành sự, phải nói rõ ít là cách tổng quát những lý do theo luật và theo sự kiện (đ 699 §1).

Trong những đan viện tự trị nói ở điều 615, giám mục giáo phận, được bề trên trình bày các sự việc đã được ban cố vấn chứng thực, sẽ ra sắc lệnh thải hồi (đ 699 §2).

2. Việc nhận sắc lệnh, kháng cáo

Sắc lệnh thải hồi không có hiệu quả nếu không được Tòa thánh châu phê. Vì thế, sắc lệnh cùng với tất cả các văn thư phải được chuyển lên Tòa thánh. Nếu là tu hội thuộc giáo phận, việc chuẩn y thuộc quyền giám mục nơi có nhà tu sĩ ở đó. Tuy nhiên, để thành sự, sắc lệnh phải chỉ rõ thành viên bị thải hồi có quyền kháng cáo nơi vị có thẩm quyền trong vòng 10 ngày, kể từ khi nhận được thông tri. Việc kháng cáo này có hiệu quả ngưng thi hành sắc lệnh (đ 700).

Tiến trình thải hồi này không những liên hệ đến các tu sĩ khấn trọn đời thuộc các tu hội giáo sĩ miễn trừ, mà còn áp dụng cho tất cả các tu sĩ đã khấn trong bất cứ tu hội nào nam hay nữ.

3. Hậu quả của việc thải hồi

a/. Chấm dứt các lời khấn và các nghĩa vụ trong tu hội. Nếu là giáo sĩ, không thi hành tác vụ cho đến khi tìm được một giám mục nhận vào giáo phận theo điều 693 (đ 701).

b/. Không được đòi hỏi gì về bất cứ công việc nào đã làm trong tu hội. Còn tu hội phải giữ sự công bình và bác ái Phúc Âm đối với người ấy (đ 702 §1,2).

Trong bản báo cáo gửi Tòa thánh được đề cập ở điều 592 § 1 (bề trên tổng quyền báo cáo ngắn gọn về tình hình và sinh hoạt của tu hội, theo cách thức và vào thời gian do Tòa thánh ấn định), phải ghi tất cả các thành viên đã rời bỏ tu hội về bất cứ cách nào (đ 704).

V. TU SĨ ĐƯỢC NÂNG LÊN CHỨC GIÁM MỤC

Nhiều người coi đây là một trường hợp rời bỏ tu hội cách vinh quang. Phần chủ yếu của pháp chế cũ vẫn còn hiệu lực: vị giám mục vẫn còn là tu sĩ thành viên của tu hội, nhưng các nghĩa vụ của ngài được thích nghi với hoàn cảnh mới (đ 705).

1/. Về lời khấn vâng lời: từ nay bề trên trực tiếp sẽ là Đức Giáo hoàng.

2/. Về lời khấn khó nghèo: tùy theo bản chất của lời khấn trong tu hội.

a/. Nếu đã khước từ quyền sở hữu, thì từ nay giám mục được hưởng quyền sử dụng, hưởng dụng và quản trị những tài sản đến sau đó. Sở hữu chủ của những tài sản này là giáo phận (nếu ngài là giám mục giáo phận), hoặc là tu hội (nếu chỉ là giám mục hiệu tòa) trừ khi chính tu hội cũng đã khước từ quyền sở hữu (trong trường hợp này, tài sản thuộc về Tòa thánh).

b/. Nếu không khước từ quyền sở hữu, thì quyền sử dụng, hưởng dụng và quản trị những tài sản đã có trước nay được phục hồi, còn các tài sản đến sau thì được thủ đắc toàn vẹn, nghĩa là có toàn quyền sở hữu.

c/. Trong cả hai trường hợp, đều phải tôn trọng ý định của người dâng tặng: ân nhân muốn dâng biếu giáo phận, tu hội, hay bản thân giám mục (đ 706).

3/. Về quyền bầu cử và ứng cử trong tu hội: bộ Giáo luật không nói gì, nhưng Hội đồng Tòa thánh đặc trách giải thích các văn kiện pháp lý tuyên bố rằng: các tu sĩ được được thăng chức giám mục, thì mất hết quyền bầu cử và ứng cử, cho dù đã hồi hưu (AAS. 1986, 1323-1324).

4/. Sau khi từ chức, giám mục có thể tự do lựa chọn nơi cư ngụ, không buộc trở về nhà của tu hội, trừ khi Tòa thánh định khác (đ 707 §1).

Về sự cấp dưỡng, đừng kể khi tu hội tình nguyện cáng đáng, nghĩa vụ thuộc về những đơn vị sau:

a/. Giáo phận ngài đã phục vụ.

b/. Qui định của hội đồng giám mục, theo điều 402 §2.

c/. Tòa thánh (đ 707 §2).

VI. HỘI ĐỒNG CÁC BỀ TRÊN CAO CẤP

Hình thức pháp lý này được đưa vào bộ Giáo luật sau những kinh nghiệm có kết quả tốt đẹp 30 năm qua. Từ năm 1950, đâu đâu cũng thấy nhu cầu liên kết, liên hiệp các tu hội lại để cùng nhau xem xét nhưng vấn đề chung khác nhau, và để phối trí các nỗ lực với nhau. Những sáng kiến này đã đúc kế thành sự ra đời của các sự liên kết khác nhau ở khắp năm Châu, nơi hơn 80 nước, với những tên gọi khác nhau: các liên hiệp, các tổng liên hiệp, các hiệp hội, các hội đồng,.vv… tập hợp các bề trên cao cấp của một nước lại với nhau. Các hội nghị các bề trên cao cấp như thế có thể được tổ chức thành những ủy ban, hoặc những ban thư ký nhận trách nhiệm về những vấn đề nhất định. Đôi khi, vì tầm quan trọng của công việc tông đồ, các tổ chức này đã trở thành những liên hiệp tự trị. Hiện nay, con số những liên hiệp và tổng liên hiệp này đã vượt quá 160.

Phong trào liên hiệp các tu hội cũng đã xuất hiện trên bình diện quốc tế nay đã có 4 tổ chức loại này, đó là:

– Hội đồng các bề trên tổng quyền.

– Hội đồng quốc tế các bà bề trên tổng quyền.

– Hội đồng thế giới của các tu hội đời.

– Hội đồng Mỹ châu La-tinh của các tu sĩ.

Bản văn của 2 điều luật này (đ 708-709) hoàn toàn mới và phát xuất từ những khuyên nhủ của công đồng Vaticanô II về sự hợp tác giữa các tu hội tu sĩ (P.C. số 23).

– Các bề trên cao cấp có thể liên hiệp với nhau cách hữu ích thành hội đồng hay hội nghị để chung sức với nhau làm việc, hoặc để bảo đảm tốt hơn mục đích của tu hội mà vẫn giữ được sự tự trị, đặc tính và tinh thần riêng, hoặc để nghiên cứu các việc chung, hoặc để phối hợp và cộng tác thích đáng với các hội đồng giám mục cũng như từng vị giám mục (đ 708).

Các bề trên cao cấp được hoàn toàn tự do gia nhập và các hội đồng phải tôn trọng quyền tự trị của các tu hội. Hoạt động của hội đồng phải theo đúng các qui định của các giám mục và của Tòa thánh, và phải tránh hình thức của một “huấn quyền song hành”.

Các hội đồng giám mục và các hội đồng của các bề trên cao cấp có thể thiết lập những liên lạc dưới nhiều hình thức khác nhau: – các ủy ban hỗn hợp các giám mục và các bề trên cao cấp – hoặc các ủy ban giám mục trong khuôn khổ của các hội đồng giám mục, đại diện của bên này tại các ủy ban của bên kia, hoặc đại diện của các tu sĩ trong các ủy ban giám mục. Về các vấn đề này, bộ các tu sĩ và các tu hội đời, và bộ các giám mục đã ban hành chung những “Normae Directivae” rất hữu ích, ngày 14-5-1978.

– Thẩm quyền thiết lập hội đồng các bề trên cao cấp được dành cho Tòa thánh. Việc thiết lập bao gồm sự phê chuẩn nội qui của hội đồng. Thường thường Tòa thánh đòi hỏi hội đồng các dòng nam phải tách biệt khỏi hội đồng các dòng nữ. Ngoài ra, tu hội tận hiến và hội tông đồ có thể họp chung với nhau. Còn các tu hội đời thì họp thành hội đồng riêng.

Nội qui dự trù những phiên họp khoáng đại (thường là hằng năm), ban chấp hành (gồm 1 chủ tịch, 1 hoặc nhiều phó chủ tịch, và thành viên cố vấn, tổng thư ký), những ủy ban hỗn hợp (giữa bề trên dòng nam và dòng nữ hoặc với ban thường vụ của hội đồng giám mục), các tiểu ban đặc trách (thí dụ: ơn gọi, đào tạo, truyền giáo,…)(đ 709).

Hội đồng không có thẩm quyền nào trên các tu hội và trên các tu sĩ thành viên.

Xét về thẩm quyền, không thể so sánh với hội đồng giám mục, vì hội đồng các bề trên không có quyền hành lập pháp, hành pháp, tư pháp trên các hội viên.

Ngoài ra, việc thành lập hội đồng không có tính cách bắt buộc. Các tu hội không buộc phải gia nhập một khi đã thành lập.