GIẢI THÍCH
BỘ GIÁO LUẬT NĂM 1983
CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Tác giả: Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
***
***
QUYỂN II:
DÂN THIÊN CHÚA
—***—
PHẦN III
CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
VÀ
CÁC HỘI ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ
***
MỤC IV
THÂU NHẬN ỨNG SINH VÀ HUẤN LUYỆN THÀNH VIÊN
Những ghi nhận:
Nhìn qua người ta thấy sơ đồ của phần này giống như trong bộ luật cũ. Nhưng thật ra đã có một sự đơn giản hóa đáng kể, chẳng hạn, nay không còn “thời kỳ dự tu” (postulatum), của hồi môn, chương trình học vấn của các tu hội giáo sĩ.v.v… nếu muốn, người ta có thể duy trì trong các hiến pháp (về thời kỳ dự tu). Trái lại, người ta thấy có những nét mới: huấn luyện sau khi khấn, và chú ý nhiều đến việc huấn luyện thường xuyên (gọi là thường huấn). Cấu trúc của phần này rất sáng sủa và tốt hơn nơi bộ luật cũ nhiều. Bộ luật 1983 chỉ giới hạn vào những qui tắc tổng quát và để cho mỗi tu hội thảo ra một qui chế huấn luyện riêng phù hợp với bản tính của tu hội mình.
I. VIỆC THÂU NHẬN
1. Thẩm quyền thâu nhận ứng sinh
Luật chung dành thẩm quyền thâu nhận người vào tập viện cho bề trên cao cấp (đ 641). Đây là quyền dành riêng cho bề trên cao cấp và không có chia sẻ cho các bề trên nhà, hoặc cho các hội đồng (ban cố vấn), hoặc cho các tu nghị.v.v…
Bộ Giáo luật dành cho luật riêng của tu hội được chỉ định các vị có quyền nhận người vào thời kỳ dự tu (hoặc gọi bằng bất cứ danh từ nào). Các vị này có thể là bề trên nhà, vị phụ trách huấn luyện sơ bộ, nhóm chuyên trách về ơn gọi.v.v…
Nhưng việc nhận ứng sinh vào tập viện là quyền của bề trên cao cấp. Luật riêng phải xác định rõ hơn cấp độ của bề trên cao cấp (bề trên tổng quyền, giám tỉnh, giám miền) cũng như những điều kiện khác (thí dụ: tham khảo hay thỏa thuận của ban cố vấn, ủy ban huấn luyện.v.v…)
2. Điều kiện cần có của ứng sinh
Các bề trên phải “hết sức cẩn thận” khi thâu nhận các ứng sinh, càng phải lưu ý tới tuổi đời, sức khỏe, tính tình thích hợp, các đức tính đầy đủ của người trưởng thành (đ 642). Ngoài những lời khuyên tổng quát trên, Giáo luật còn liệt kê vài điểm cụ thể trong 3 điều:
– Điều 597 §1: phải là người Công giáo. Để chứng minh, cần xuất trình giấy rửa tội, thêm sức (đ 645 §1).
– Điều 643 §1: kể ra 6 điều kiện chi phối sự hữu hiệu của việc thâu nhận vào tập viện, tức là nhận những người sau đây vào tập viện sẽ bất thành:
1/. Người chưa đủ 17 tuổi trọn.
2/. Người đã lập gia đình, giá thú còn hiệu lực.
3/. Người đang bị ràng buộc (tức là hiện còn lời khấn) với một tu hội đời sống thánh hiến hay hội đời sống tông đồ.
4/. Người vào tu hội vì vũ lực, sợ hãi trầm trọng, hoặc man trá (lường gạt).
5/. Người được bề trên nhận vào vì lý do cùng một cách thức như trên (do vũ lực, sợ hãi, hoặc lường gạt).
6/. Người giấu diếm việc mình đã gia nhập một tu hội đời sống thánh hiến hay một hội đời sống tông đồ.
– Điều 644 còn thêm hai điều kiện tiêu cực nữa, đó là cấm không được nhận:
+ Các giáo sĩ triều, nếu chưa tham khảo vị thường quyền riêng của họ.
+ Những ai đang mắc nợ nần không trả nổi.
Lưu ý: Trường hợp thứ nhất nói: “tham khảo”, tức là chỉ hỏi ý kiến, sau đó, các bề trên được tự do nhận hay không. Trường hợp thứ 2 là những nợ nần thật sự, người ta có quyền đòi, chứ không phải những khoản nợ giả thuyết. Tuy nhiên, có trường hợp, để tùy sự phán đoán khôn ngoan của các bề trên, tuy không được nêu ra ở đây. Đó là sự cấm đoán thâu nhận sẽ chấm dứt khi ứng sinh trả được nợ (do giá cả thay đổi, hoặc do được hưởng một gia tài…), hoặc khi hết nợ (vì được tha nợ, hoặc tu hội nhận trả thay…).
Ngoài những điều kiện trên, luật riêng có thể thiết lập các ngăn trở khác của việc thâu nhận hoặc đặt thêm điều kiện khác cho phù hợp với những đòi hỏi riêng của tu hội (đ 643 §2).
Thí dụ: phái tính: một dòng nữ không nhận người nam, hoặc ngược lại. Tuy nhiên, phải thận trọng, và đừng đặt ra những cản trở không cần thiết (xc. đ 587 §3). Tốt nhất chỉ nên đặt thêm những điều kiện để củng cố cho các cản trở đã ấn định. Các cản trở và những điều kiện này sẽ chấm dứt theo các qui định của luật và có khi tự chúng chấm dứt. Và bao giờ cũng có thể xin ơn chuẩn chước của Tòa thánh.
* Bộ luật mới không còn nói tới của hồi môn trong các dòng nữ, cũng như đã bỏ qua việc thường quyền sở tại khảo sát ý chí tự do của các nữ ứng sinh. Nhiều tu hội còn dự trù việc khảo hạch và bỏ phiếu.
II. TẬP VIỆN
Tiếng Việt gọi nơi tập tu là “tập viện” không dịch sát chữ “Novitiatus” của La tinh. Ngoài nguyên ngữ gợi lên ý tưởng “mới” (novitiatus gốc bởi novus). Tiếng “Novitiatus” bao hàm 3 tư tưởng:
1/. Nơi tập tành, huấn luyện (tiếng Việt dịch “tập viện” là đúng).
2/. Thời gian huấn luyện.
3/. Chính sự luyện tập: đào tạo những người vừa mới gia nhập đời tu.
Không thiếu những người chỉ chú ý tới 2 khía cạnh đầu mà quên đi hay không chú ý đủ tới khía cạnh thứ 3.
1. Mục đích của tập viện
Điều 646 cho thấy tập viện là khởi đầu cuộc sống của tu hội. Như thế có nghĩa là đoạn tuyệt với lối sống trước kia và chấp nhận những cam kết cho cuộc sống mới. Cuộc sống ở tập viện có mục đích:
a/. Hiểu rõ hơn về ơn thiên triệu của mình trong tu hội để có thể có sự đáp ứng tích cực.
b/. Có kinh nghiệm về lối sống của tu hội: cầu nguyện, nghe lời Chúa, đời sống tông đồ.
c/. Học hỏi về đặc sủng của tu hội: lịch sử, tinh thần, đặc tính, những sinh hoạt khác nhau.
d/. Trắc nghiệm về khả năng thích hợp để theo đuổi đời sống của tu hội (đ 646)
Như vậy, tập viện là nơi khởi đầu cuộc sống trong tu hội. Đây là một khẳng định rất quan trọng, chấm dứt được mọi tranh luận. Các tập sinh chưa hoàn toàn là “tu sĩ”, vì họ chưa tuyên khấn, nhưng họ đã ở “trong cuộc sống tu trì”, và phải tuân theo tất cả các nghĩa vụ của tu hội. Bộ luật mới duy trì những nét chính của truyền thống.
2. Nơi chốn (nhà tập)
Đây là vấn đề nơi ở của tập sinh, đó là một nhà của tu hội mà bề trên tổng quyền, với sự đồng ý của ban cố vấn của ngài, có thể dùng sắc lệnh để thành lập, tức là tập viện được thành lập do nghị định của bề trên tổng quyền với sự thỏa thuận của ban cố vấn (đ 647 §1).
Để di chuyển hoặc dẹp bỏ một tập viện, bề trên tổng quyền đều cần phải có sự đồng ý của ban cố vấn, thì hành vi mới thành hiệu (đ 127). Như vậy, không cần sự can thiệp của Tòa thánh.
Ngôi nhà tập là nơi duy nhất để các tập sinh hoàn thành việc tập tu của mình cách thành hiệu (đ 647 §2). Nhưng có 2 khả năng:
1/. Bề trên tổng quyền, với sự đồng ý của ban cố vấn, có thể cho phép một hoặc nhiều tập sinh được tập tu trong một nhà khác của tu hội dưới sự hướng dẫn của một tu sĩ đầy kinh nghiệm (đ 647 §2). Đây là trường hợp cá biệt và ngoại lệ (như ơn kêu gọi muộn hoặc việc thành lập nhà mới tại các miền xa xôi).
2/. Bề trên cao cấp, không nhất thiết là bề trên tổng quyền, có thể cho phép các tập sinh cư ngụ một thời gian tại một nhà khác của tu hội (đ 647 §3).
Cần phân biệt 2 hoàn cảnh khác nhau:
a/. Một tập sinh trải qua năm tập ở ngoài nhà được chỉ định làm tập viện (thí dụ: vì không hợp thủy thổ – vì không có giấy phép của chính quyền).
Lưu ý: phải qua thời gian tập tại một nhà của tu hội, chứ không phải tập viện liên dòng, càng không phải tại tư gia.
b/. Các tập sinh được phép ra sống ngoài tập viện một thời gian, lý do có thể là để theo học một lớp nào đó, hay tham dự khóa tĩnh tâm, hay chỉ là đi xả hơi, hoặc để tránh thời tiết khí hậu vào những tháng khó ở hoặc để quen biết các cộng đoàn khác. Bề trên cao cấp (giám tỉnh, giám miền) có thể cho phép này.
3. Thời gian tập
Vì quá quen với luật cũ, đòi hỏi thời gian tập là một năm, nên ta thường gọi là “năm tập”. Từ ngữ này không còn thích ứng với bộ luật mới, vì hai lý do:
1/. Thời gian tập có thể ngắn hơn một năm. Điều 648 chỉ đòi có 12 tháng. Theo lối tính của điều 202, thì 12 tháng làm thành 360 ngày, đang khi một năm kéo dài 365 ngày trọn. Hơn nữa, bề trên cao cấp có thể miễn chuẩn 15 ngày.
2/. Đối lại, có thể kéo dài hơn một năm, nếu luật riêng ấn định như vậy, nhưng không được phép kéo dài quá hai năm (đ 648 §3).
Như vậy, để việc tập luyện được hữu hiệu, tập sinh phải trải qua 12 tháng tại tập viện (đ 648 §1) vắng mặt quá 3 tháng, dù liên tục hay cách quãng, sẽ làm cho thời gian tập vô hiệu. Tức là thời gian vắng mặt đã vô hiệu hóa thời gian sống trong nhà tập, các sự tuyên khấn sau đó sẽ bất thành. Còn nếu vắng mặt quá 15 ngày phải được bù lại (đ 649 §1). Sự vắng mặt này phải bù cho đủ số ngày vắng mặt, bất kể duyên cớ, điều kiện và thời gian của sự vắng mặt. Sự bù đắp này có tính bắt buộc và không tùy thuộc vào các bề trên, dù là bề trên cao cấp, hoặc vị giáo tập.
Ngoài ra, bề trên cao cấp có thẩm quyền (của các tập sinh) có thể cho phép khấn sớm trước thời hạn (đ 649 §2), nhưng không sớm quá 15 ngày, khi có lý do chính đáng (như tiện dịp có một nhóm khấn; trùng hợp với một lễ trọng của tu hội.v.v…). tập sinh chưa đủ 18 tuổi, theo điều 656 số 1 sẽ không được hưởng ơn chuẩn miễn này. Phép này có thể được bề trên ban cho một hoặc nhiều, hoặc cả một nhóm tập sinh, nếu ngài nhận thấy đủ lý do.
4. Chương trình
Mỗi tu hội phải thảo ra một chương trình về việc huấn luyện các tập sinh.
Điều 652 đã phác họa những nét chính của nội dung chương trình huấn luyện. Điều luật này tóm thâu tất cả các qui định tản mác trong bộ luật cũ, đồng thời ghi lại những chỉ thị hậu công đồng Vaticanô II. Cho nên, đây là một bản chỉ dẫn cho việc huấn luyện được nêu nơi điều 650. Điều luật này nêu lên 3 điều khác nhau:
a. Khía cạnh nhân sự
Giáo luật nhắc nhở vai trò và trách nhiệm của vị giáo tập và ê-kíp huấn luyện trong việc nhận xét ơn kêu gọi và việc huấn luyện các tập sinh. Giáo luật cũng lưu ý trách nhiệm của các thành viên khác của tu hội, phải cộng tác bằng gương sáng và lời cầu nguyện. Những điểm này có tính tu đức hơn là pháp lý.
b. Về nội dung huấn luyện
Đây là nét mới của bộ Giáo luật, đó là đưa ra những chỉ dẫn về huấn luyện. Tất cả khoản 2 là sự kê khai những gì mà tập viện phải truyền đạt cho các tập sinh:
1/- Phát huy các đức tính nhân bản
2/- Hướng dẫn cầu nguyện và từ bỏ mình
3/- Chỉ cách chiêm ngắm mầu nhiệm cứu chuộc
4/- Đọc và suy gẫm Kinh Thánh
5/- Chuẩn bị vào sự thờ phượng Chúa trong phụng vụ
6/- Học hỏi về đời sống thánh hiến qua các lời khuyên Phúc Âm
7/- Dạy về đặc tính, tinh thần, mục đích, kỷ luật, lịch sử, đời sống của tu hội
8/- Thấm nhuần lòng yêu mến Giáo hội và các chủ chăn
Ngoài những chủ đề của chương trình huấn luyện, điều 652 còn cho thấy sự huấn luyện bao hàm nhiều khía cạnh: đạo lý và thực hành: đào luyện nhân bản và đức tin, phát triển đời sống nội tâm cũng như thúc đẩy hoạt động tông đồ.
c. Chuyên chú
thời gian 12 tháng ở tập viện phải được dành nguyên cho việc huấn luyện, nên các tập sinh không được có những hoạt động không phù hợp, như học hành, là thư ký, thi hành thừa tác vụ thánh (đối với người có chức thánh) như giải tội (đ 652 §3).
5. Những người hữu trách
Điều 651 cho thấy cái gọi là “một ê-kíp huấn luyện” với vị chủ yếu là giáo tập và các người cộng tác, nếu cần.
a. Giáo tập (giám sư tập viện)
Luật chung đòi hỏi 3 điều kiện:
– Phải là phần tử của tu hội
– Đã tuyên khấn trọn đời
– Được chỉ định hợp pháp (theo các qui định của điều 651) và theo luật riêng (ai có quyền chỉ định, và chỉ định theo cách thức nào: công nghị các bề trên, những điều tra cần thiết phải có trước.v.v…). Luật riêng có thể xác định thêm những điều kiện khác (thí dụ: tuổi đời và tuổi khấn).
b. Phụ tá Giáo tập (phụ tá giám sư tập viện)
Nếu cần có thể đặt thêm các phụ tá giáo tập, nếu số tập sinh đông quá, nếu họ thuộc nhiều loại, nhiều nguồn gốc khác nhau, văn hóa khác nhau. Trong thực tế, các cộng sự viên này được xưng hô nhiều cách khác nhau: phụ tá, trợ lý, cộng sự viên,… Nhưng việc làm của họ vẫn là dưới quyền vị giáo tập. Vị giáo tập và các cộng sự viên đều phải được chuẩn bị đầy đủ và không vướng mắc các nhiệm vụ khác không thích hợp để có thể hết lòng lo cho các tập sinh.
c. Bề trên cao cấp
Các bề trên cao cấp có trách nhiệm thâu nhận các tập sinh và chấp nhận cho tập sinh khấn.
6. Quyền lợi và nghĩa vụ của tập sinh
Tuy chưa phải là thành phần chính thức của tu hội, nhưng tập sinh đã được chia sẻ vào đời sống tu trì của tu hội. Luật riêng phải nói rõ về những nghĩa vụ và quyền lợi của tập sinh.
– Quyền lợi: được thông công vào các công nghiệp thiêng liêng của tu hội.
– Nghĩa vụ: đóng góp tài chính để trang trải những phí tổn.
7. Cuối thời kỳ tập viện
Điều 653 qui định những thể thức chấm dứt thời gian ở tập viện. Đó là:
a. Tự ý ra về
Tập sinh có thể tự do rời bỏ tu hội bất cứ lúc nào (§1) và luật pháp bảo vệ quyết định này (đ 219). Tu hội không có quyền giữ tập sinh lại, dù bề trên hay vị giáo tập thấy quyết định của tập sinh không đủ lý do.
b. Bị cho ra về
Đây là quyền của tu hội, nhưng tu hội không được hành sử cách tùy tiện, mà phải có lý do chính đáng, hoặc do tập sinh, hoặc do tu hội. Không cần hồ sơ, cũng không cần thủ tục, chỉ cần có nguyên nhân khiến phải có quyết định.
* Câu hỏi lúc này được đặt ra: Có buộc phải cho đương sự biết lý do bị cho về chăng?
Bộ luật mới không nói gì hết, theo lý, thì nên cho biết, trừ khi dự trù có những bất tiện nghiêm trọng. Dầu sao đương sự vẫn có quyền thượng cầu nơi các bề trên cao cấp của tu hội, hoặc nơi Tòa thánh. Như vậy tất nhiên phải bày tỏ lý do của việc cho ra về, và có thể phải đền bù những thiệt hại có thể gây ra cho đương sự. Sự cho ra về này sẽ bắt buộc nếu hết thời gian tập rồi mà tập sinh vẫn tỏ ra không thích hợp, hoặc tập sinh có những thái độ không phù hợp với tinh thần của tu hội.
c. Nhận cho tuyên khấn
Tập sinh được nhận xét là thích hợp và được nhận cho tuyên khấn. Như vậy là chấm dứt thời gian tập viện. Cũng kể vào đây trường hợp tập sinh bị loại ra cách tùy tiện: tập sinh có quyền thượng cầu để được nhận cho khấn.
d. Gia hạn thời gian tập
Khi có những hồ nghi nghiêm trọng và có cơ sở, sự gia hạn này sẽ do bề trên cao cấp có thẩm quyền ban, nhưng không kéo dài quá 6 tháng. Tất nhiên không cần đợi đủ 6 tháng nếu bề trên thấy không đủ lý do đề hồ nghi nữa và có thể nhận cho khấn trước khi hết thời hạn 6 tháng. Trái lại, các tác giả đồng ý rằng: không nên từ chối và cho tập sinh ra về, trước khi hết thời hạn 6 thàng này, kẻo có thể làm người ta thấy một sự thiếu nghiêm chỉnh, và không dành cho đương sự đủ thời giờ chứng minh khả năng của mình.
III. TUYÊN KHẤN
Trong tiếng Việt, hai từ “tuyên khấn” thường đi liền với nhau, nhưng trong Giáo luật thì đó là 2 thực tại khác biệt: “tuyên” (professio) nghĩa là phát biểu ra ngoài miệng điều mà mình đã quyết định (propositum) trong lòng, “khấn” (votum) nghĩa là hứa với Chúa sẽ thực hành một điều thiện toàn. Theo thể chế của bộ Giáo luật hiện hành, thì chỉ có các phần từ của tu hội đời sống thánh hiến mới buộc phải khấn và khấn công. Còn các phần tử của tu hội đời thì vẫn “tuyên” nhưng không buộc phải “khấn”, họ có thể chỉ “tuyên thệ” hay “tuyên hứa”.
Bộ luật mới qui định các tu hội thánh hiến phải tuyên khấn. Để cho luật riêng xác định thời hạn cam kết tạm thời, trong vòng từ 3 năm tới 6 năm (tối đa là 9 năm). Trong khoảng thời gian đó, có những phương thức khác nhau: hoặc khấn tạm 3 năm 1 lúc, hoặc khấn tạm từng năm 1 trong vòng 3 hay 6 năm.v.v…
Giáo luật cho thấy việc tuyên khấn gồm 3 yếu tố chính:
A. Tuyên khấn tuân giữ 3 lời khuyên Phúc Âm
Ngoài 3 lời khấn khiết tịnh, khó nghèo, vâng lời, một số tu hội còn thêm lời khấn thứ 4 (thường gắn với mục tiêu tông đồ của tu hội)[1]. Bộ luật mới đã nhấn mạnh rằng mỗi tu hội có quyền và nghĩa vụ bảo vệ di sản của mình. Như vậy, ta có thể kết luận: nếu tu hội nào đã có lời khấn thứ 4 như di sản thì cứ việc giữ.
B. Thánh hiến cho Thiên Chúa nhờ thừa tác vụ của Giáo hội
Giáo hội thay mặt Chúa để đón nhận sự hiến dâng này, để cho sự hiến dâng này đạt được hiệu quả đầy đủ.
C. Gia nhập vào tu hội
Người tuyên khấn hiến dâng và tu hội đón nhận: kết quả là người tuyên khấn được gia nhập tu hội (đ 654).
1. Khấn tạm
Trong các dòng cổ truyền, sau khi mãn thời kỳ thử luyện, tập sinh được nhận cho khấn vĩnh viễn ngay. Việc khấn tạm mới được đưa vào luật.
a. Thời hạn
Giáo hội từ thế kỷ XIX, thời Đức Giáo hoàng Piô IX (năm 1862), lúc đầu chỉ đòi hỏi các dòng có lời khấn trọng. Bộ Giáo luật 1917 bắt buộc hết mọi dòng. Ngoài ra, trong bộ luật cũ còn có sự phân biệt giữa khấn đơn và khấn trọng: các dòng cổ (ordo) mới có lời khấn trọng, còn các dòng cận đại (congregatio) chỉ có lời khấn đơn. Bộ luật mới không nói tới vấn đề này.
Tuyên khấn tạm thời không phải là một điều tự nó có ý nghĩa: người ta không thể lặp lại lời khấn tạm này mãi mãi, để kiên trì ở lại trong tu hội. Tuy có tính tạm thời, nhưng việc tuyên khấn này là một lời khấn đích thực, nó là bước tiến trong sự phát huy việc huấn luyện người tu sĩ, và là đỉnh cao của sự hòa hợp giữa tu hội và người tuyên khấn.
Điều 655 đặt ra 2 giới hạn: 3 năm và 6 năm.
Trong giới hạn này, các tu hội có thể tùy ý chọn:
– 3 năm, rồi sẽ khấn trọn đời.
– 2 lần 3 năm, rồi sẽ khấn trọn đời.
– Mỗi năm khấn lại, cho tới 3 năm,.v.v…
Ta thấy quan điểm của nhà lập pháp khá co giãn, bởi vì không những đã để cho luật riêng được quyền ấn định thời hạn của việc khấn tạm và kể cả hạn kỳ của nó nữa. Cũng nên chú ý: có thể kéo dài thời hạn này, theo điều 657 §2, như một ngoại lệ, chứ đây không phải là một luật tổng quát.
b. Điều kiện để tuyên khấn hữu hiệu
Không dành cho luật riêng làm việc này, điều 656 đã đưa ra 5 đòi hỏi sau đây để xác định tính cách thành hiệu của lời khấn:
1/. Tuổi trọn 18 (nghĩa là tuổi trưởng thành theo Giáo luật: đ 97 §1): Theo nguyên tắc, đòi hỏi về tuổi này có được chuẩn chước.
2/. Đã qua thời gian tập viện hữu hiệu: việc này phải được đánh giá theo luật chung và luật riêng, vì luật riêng có thể đặt thêm những cản trở.
3/. Được nhận cho khấn do bề trên có thẩm quyền với ý kiến của ban cố vấn. Đây là một hành vi pháp lý khác biệt với sự nhận vào tu hội, được đề cập nơi số 5. Điều luật không nói rõ, nhưng phải hiểu đây là bề trên cao cấp (chứ không phải là bề trên nhà). Bề trên phải xin ban cố vấn của mình bỏ phiếu: luật chung dành quyền cho luật riêng để quyết định đây là phiếu tư vấn hay biểu quyết. Khuynh hướng chung muốn đây là lá phiếu có tính biểu quyết. Sau hết, sự nhận cho khấn này phải hoàn toàn tự do.
4/. Phải tuyên khấn cách rõ ràng, nghĩa là phải phát biểu lời khấn ra ngoài miệng, và không bị ảnh hưởng của vũ lực, sợ hãi trầm trọng hay lường gạt.
5/. Lời khấn phải được nhận bởi bề trên hợp pháp. Khác với việc nhận vào tu hội, việc nhận lời khấn này có thể được nhận do vị bề trên ủy nhiệm.
c. Quyền lợi và nghĩa vụ
Do hiệu quả của lời khấn, tu sĩ trở nên phần tử của tu hội, đảm nhận những nghĩa vụ và quyền lợi trong tu hội. Tuy nhiên, chưa được hưởng tất cả quyền lợi như người đã khấn trọn đời. Luật riêng phải xác định rõ những giới hạn đó. Luật chung qui định những điều sau:
a. Vấn đề tài sản: Trước khi khấn lần đầu, các phần tử phải nhượng lại việc quản lý tài sản riêng cho ai mà mình đã chọn – bất kỳ vật gì thủ đắc thì thủ đắc cho tu hội.
b. Vấn đề tiếp tục hay rời bỏ tu hội: điều 657 cho biết thời gian khấn tạm có thể được chấm dứt nhiều cách khác nhau:
– Bằng sự lặp lại lời khấn: nếu tu sĩ tự động xin và được xét là xứng đáng, và miễn là thời gian khấn tạm không quá 9 năm.
– Bằng sự ra về: từ bỏ tu hội, theo điều 688, đương sự được hoàn toàn tự do quyết định.
– Bị từ chối không cho khấn trọn đời. Bề trên thấy đương sự không thích hợp. Sự từ chối này không bị coi là một sự trừng phạt, và đương sự có thể thượng cầu nơi các bề trên của tu hội, hoặc tại Tóa thánh.
– Bằng việc tuyên khấn trọn đời. Đây là kết thúc thường tình và tốt đẹp.
* Những điều cần lưu ý:
– Trong thời gian khấn tạm, tu sĩ có thể xin tháo lời khấn khi có lý do trầm trọng. Thẩm quyền tháo lời khấn là bề trên tổng quyền với sự thỏa thuận của ban cố vấn. Trong các tu hội giáo phận (và các đan viện tự trị), đặc ân chuẩn chước ấy cần phải được giám mục giáo phận chuẩn y thì mới có giá trị.
Như vậy, các tu hội thánh hiến thuộc quyền Tòa thánh, không còn phải xin phép Tòa thánh nữa.
– Trong thời gian khấn tạm, nếu có lý do trầm trọng, tu hội có thể trục xuất. Nhưng thường người ta sử dụng một biện pháp khác có tính cách mềm dịu hơn, đó là cho lặp lại lời khấn tạm (xc. đ 689 §1).
2. Khấn trọn đời
a. Điều kiện
Ngoài những điều kiện nói ở điều 656, số 3,4,5, luật chung đòi hỏi 2 điều kiện sau:
1/. Đủ 21 tuổi.
2/. Khấn tạm trước ít là 3 năm, vẫn giữ nguyên qui định của điều 657 §3 (đ 658).
Luật riêng có thể đặt thêm những điều kiện khác, cũng như mô tả tỉ mỉ những thủ tục phải tuân giữ trước khi khấn trọn, thí dụ: khảo hạch, cấm phòng, chúc thư mà 668 §1 đòi hỏi.
Chúng ta nên biết một qui định quan trọng ở điều 690, đó là người nào đã rời bỏ tu hội cách hợp lệ sau khi mãn tập viện hay sau khi mãn hạn khấn, thì nếu muốn trở lại, họ không phải lặp lại thời gian tập nữa. Họ có thể được thâu nhận do bề trên tổng quyền (chứ không phải chỉ có bề trên cao cấp) với sự thỏa thuận của ban cố vấn. Bề trên tổng quyền sẽ ấn định một thời gian thử nghiệm trước khi nhận cho khấn tạm hay khấn trọn đời.
b. Hiệu quả
– Tu sĩ trở thành phần tử thực thụ của tu hội, với đủ quyền lợi và nghĩa vụ chiếu theo hiến pháp. Trong số những quyền đáng kể, là quyền được đảm nhận các chức vụ trong tu hội (xc. đ 623; 651§ 1), đối với các phần tử thuộc tu hội giáo sĩ, thì sau khi khấn trọn đời họ mới được lãnh chức thánh (xc. đ 1019 §1).
– Trong số những nghĩa vụ kèm theo lời khấn, có lẽ chế tài nghiêm trọng nhất là các tu sĩ khấn trọn đời mắc ngăn trở tiêu hôn (đ 1088). Nói khác đi, nếu họ lập giá thú, không những mắc vạ cấm chế (đ 1394), bị khai trừ khỏi tu hội (đ 694 §1,2), mà hôn nhân lại vô hiệu nữa. Còn về lời khấn khó nghèo, tu sĩ có thể mất quyền sở hữu nếu luật riêng của tu hội đã qui định như vậy (đ 668 §4).
IV. HUẤN LUYỆN CÁC TU SĨ
Mục này bàn về việc huấn luyện các tu sĩ, đã rút gọn nhiều so với bộ luật cũ, nhưng đều mới và đáp ứng một thiếu sót mà các nhà chú giải về luật tu sĩ vẫn nhắc tới. Nguyên tắc được nêu rõ nơi đ 659 §2: “Công cuộc huấn luyện khởi đầu trong tập viện vẫn còn phải tiếp tục dựa theo một chương trình huấn luyện riêng của mỗi tu hội”.
A. Từ khi khấn lần đầu cho tới khi khấn trọn đời
Thời gian của việc huấn luyện bắt đầu sau ngày khấn đầu tiên và không có hạn chót: nơi một số tu hội, sự huấn luyện này chấm dứt với việc khấn trọn đời. Còn nơi các tu hội khác lại vẫn tiếp tục thêm một thời gian. Mọi sự cũng tùy ở thời gian dành cho việc khấn tạm thời trước đó, theo điều 655. Riêng việc huấn luyện các thành viên để lãnh các chức thánh, chương trình học vấn phải theo luật riêng và các qui định của luật chung và các chỉ thị khác.
Mục đích của việc huấn luyện này nhằm giúp cho tu sĩ “sống đời tu riêng của tu hội cách sung mãn hơn và chu toàn sứ mạng của tu hội cách hoàn hào hơn” (đ 659 §1).
Việc huấn luyện này phải có hệ thống, thích hợp với trình độ của các phần tử, bao gồm lãnh vực thiêng liêng và tông đồ, đạo lý và thực hành. Nếu thấy tiện, có thể lấy các bằng cấp đạo và đời. Việc thi lấy các bằng cấp đạo và đời là điều mới và rất nên làm. Trong xã hội ngày nay, các bằng cấp này có thể cần thiết cho sứ mạng của một số tu hội (chẳng hạn các tu hội lo việc giảng dạy, đ 660 §1).
Điều trên cần được bổ sung bởi điều 819: kêu mời các bề trên hãy gởi những tu sĩ có năng khiếu hơn tới các đại học Công giáo hay các phân khoa của Giáo hội. Lời khuyên nhủ này không những có giá trị cho các linh mục tương lai, mà còn cho các sư huynh và các sơ nữa.
Trong thời gian huấn luyện này, đừng nên trao cho các phần tử những chức vụ và công tác nào làm ngăn trở việc học hành (đ 660 §2).
Thiết tưởng có một bước tiến trong bộ Giáo luật mới. Trước đây, chỉ để ý đến việc huấn luyện trong các tu hội giáo sĩ. Bây giờ đòi hỏi tất cả các tu hội, dù là giáo sĩ hay giáo dân (thí dụ: các sư huynh và nữ tu) đều phải có chương trình huấn luyện cho các tu sĩ vừa mãn tập viện. Điều này đòi hỏi nhiều tu hội phải thay đổi não trạng, khi họ coi chuyện học hành vừa mất thời giờ vừa tốn tiền vô ích. Có tu hội thì sợ rằng các tu sĩ học giỏi quá thì họ sẽ ra mất. Thiết tưởng thay vì lo sợ như vậy, thì tốt hơn nên xét lại đường lối tuyển lựa và huấn luyện các ơn gọi: phải chăng tu hội chưa trắc nghiệm đủ những động lực tu trì? phải chăng sự huấn luyện còn quá lỏng lẻo?
Dĩ nhiên, chương trình huấn luyện của mỗi tu hội phải ấn định không những về những môn phải học, mà cả những yếu tố khác liên quan với việc huấn luyện nữa, thí dụ: những người phụ trách (có nên cử một giám sư hay không); môi trường huấn luyện (tại học viện riêng, hay tại các cộng đồng làm việc); thời gian dành cho việc huấn luyện,… Dĩ nhiên, không phải mỗi tu hội đều có khả năng để tổ chức học viện riêng, vì vậy, nhiều nơi đã mở ra những học viện liên dòng, dưới sự bảo trợ của hiệp hội các bề trên cao cấp.
B. Sau khi khấn trọn đời
Kể cả sau khi tuyên khấn trọn đời, việc huấn luyện vẫn chưa chấm dứt. Ngoài những người chuẩn bị lãnh chức thánh, còn phải theo đuổi các khoa triết và thần học kéo dài thêm vài năm, tất cả các tu sĩ phải tiếp tục công cuộc huấn luyện thường xuyên (thường huấn), không những là trong lãnh vực chuyên môn về hoạt động tông đồ, mà nhất là trong con đường tu đức trọn lành mà chúng ta biết rằng nó không bao giờ cùng.
“Việc huấn luyện thường xuyên” này là một sự mới mẻ của bộ luật mới. Đây không phải là điều tùy tiện. Tất cả các tu sĩ đều phải theo đuổi việc huấn luyện thường xuyên này. Và các bề trên phải lo liệu để họ có thời giờ và có phương tiện để theo đuổi công cuộc thường huấn. Ở thời đại này, hành trang thủ đắc lúc thanh niên không đủ, cần phải luôn luôn cập nhật hóa. Tóm lại, đây là điều rất phù hợp với phong trào “huấn luyện thường xuyên” hiện nay, không những trong Giáo hội mà còn ngoài xã hội nữa (đ 661).
***
MỤC VI
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI CỦA CÁC TU HỘI VÀ CÁC THÀNH VIÊN
Khác hẳn với bộ luật 1917, chương này cho thấy một viễn ảnh mới về cái gọi là qui chế bản thân của các tu sĩ. Bộ luật cũ nói tới “những đặc ân”, những từ này nghe không chỉnh đối với thời nay, nên bộ luật mới đã thay bằng danh từ “quyền lợi”. Thật sự, cũng có nghĩa như nhau, vì đây là những quyền lợi của tu sĩ.
Đúng vậy, không nói gì đến những đặc ân của các tu sĩ, cũng không có điều khoản nào để đồng hóa họ với các giáo sĩ (như điều 592 bộ luật 1917). Trái lại, tất cả đều nói đến nghĩa vụ của các tu sĩ, mặc dù thật ra đó là những quyền lợi như nhan đề của chương này.
Nói rõ hơn, Giáo luật không chủ ý làm một bản kê khai tất cả những quyền lợi và nghĩa vụ mà tu sĩ được hưởng trong tu hội và trong Giáo hội. Khi phân tích chương IV từ điều 662 đến 672, chúng ta chỉ đếm được một quyền lợi (quyền được chu cấp các phương tiện cần thiết để đạt tới mục đích của ơn gọi (đ 670)), những gì còn lại đều là nghĩa vụ.
Từ quan niệm về quyền lợi và nghĩa vụ như là những phương tiện và yêu sách để đạt tới lý tưởng, chúng ta có thể tóm lược những quyền lợi và nghĩa vụ dưới khía cạnh pháp lý vào 4 nhóm sau đây:
I. QUYỀN LỢI CỦA CÁC THÀNH VIÊN
Quyền lợi của các thành viên, tức là nghĩa vụ của tu hội đối với các thành viên: Tu hội phải cung cấp cho các thành viên của mình tất cả những gì cần thiết theo hiến pháp, để họ đạt tới mục đích ơn kêu gọi của họ (đ 670).
Điều này thay thế cho một loạt những điều luật của bộ Giáo luật cũ, với những nghĩa vụ đặt ra cho các tu sĩ. Điều luật này nêu lên quyền lợi cơ bản nhất rất quan trọng của các tu sĩ. Như chúng ta đều biết: mỗi nghĩa vụ đều tương ứng với một quyền lợi, và như vậy, điều 670 này nói lên nghĩa vụ của tu hội, tức là cũng nói lên quyền lợi của các tu sĩ. Các tu sĩ có thể đòi hỏi những gì cần thiết để đạt tới mục đích ơn kêu gọi của mình theo hiến pháp: được huấn luyện đầy đủ, có môi trường xứng hợp, có đời sống cộng đoàn đầy khích lệ…và những nhu cầu vật chất. Như vậy, điều luật này không chỉ liên quan đến những nhu cầu vật chất mà thôi. Tu hội còn buộc phải bảo đảm cho các thành viên có khung cảnh sinh sống, cầu nguyện và giữ luật lệ tu trì, có cách thức làm việc tông đồ mà họ có quyền đòi hỏi vì họ đã khấn dấn thân vào việc đó.
II. NGHĨA VỤ VỀ ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
1. Đi theo Đức Kitô
Điều 662 gọi sự “Đi theo Đức Kitô là luật tối thượng của đời sống tu sĩ”. Lý tưởng này được bộ Giáo luật lặp lại nhiều lần nơi nhiều điều luật. Từ sự khẳng định trên, “đi theo Đức Kitô” theo như hiến pháp, sẽ rút ra được những nghĩa vụ khác.
2. Nuôi dưỡng đời sống nội tâm bằng các việc đạo đức
Những nghĩa vụ nói trong điều 663-664 cũng gần với những nghĩa vụ của luật cũ, nhưng nay có khác: chính các tu sĩ phải nhận lấy trách nhiệm cách trực tiếp, chứ không để trách nhiệm đó cho bề trên, nghĩa là các việc đạo đức này được Giáo luật trực tiếp chỉ thị, chứ không làm cách gián tiếp bằng cách để cho các bề trên ra chỉ thị.
– Yêu cầu tham dự thánh lễ hằng ngày.
– Rước lễ hằng ngày không những được khuyến khích, mà còn được coi như bình thường.
– Tôn thờ Thánh Thể. Tiếng “tôn thờ” đã được ưa hơn tiếng “viếng” Thánh Thể, như thế có nghĩa là một sự cầu nguyện lâu hơn và sâu xa hơn.
– Cần thiết suy gẫm đã được nhắc lại và còn thêm việc đọc Kinh Thánh.
– Trong tinh thần canh tân hậu công đồng Vaticanô II, dù các tu sĩ không phải là giáo sĩ hay không phải là đan sĩ, xem ra cũng buộc cử hành các giờ kinh phụng vụ về phần nào đó, theo hiến pháp qui định. Ít ra cũng kêu mời cách khẩn thiết để làm việc đó.
Kinh nhật tụng không còn dành riêng cho các đan viện, nhưng đã trở thành lời cầu nguyện của tất cả dân Thiên Chúa.
– Đức Trinh Nữ Maria phải được tất cả những người tận hiến tôn kính đặc biệt bằng kinh Mân côi.
– Xét mình hằng ngày vẫn là việc bắt buộc.
– Việc năng xưng tội cũng thế. Nhưng không chỉ rõ nhịp độ nào hết. Luật cũ nói rõ là xưng tội hằng tuần. Để được coi là “siêng năng”, có lẽ phải xưng tội 15 ngày một lần, hoặc ít là mỗi tháng một lần. Không cấm ấn định một nhịp độ trong luật riêng.
– Đối vối việc tĩnh tâm hàng năm, vẫn như trước, không có gì thay đổi.
III. NGHĨA VỤ VỀ ĐỜI SỐNG CHUNG TRONG NHÀ DÒNG
Các điều 665-667 minh xác nhiều yếu tố riêng cho đời sống tu trì:
1. Sự cư trú
Điều 665 đã hệ thống hóa và tập trung lại các luật lệ tản mác trong bộ luật cũ về đời sống cộng đoàn, đúng theo quan niệm về đời sống tu trì của điều 607.
Sau khi nêu nguyên tắc chung: sống trong nhà dòng của mình, luật nói đến các trường hợp vắng mặt:
– Nếu vắng mặt một thời gian ngắn, bề trên nhà có thể cho phép.
– Nếu vắng mặt lâu hơn, không tới một năm, sẽ cần có phép của bề trên cao cấp. Vị này còn có thể cho phép vắng mặt lâu hơn nữa vì 3 lý do: chữa bệnh, học hành, làm việc tông đồ nhân danh tu hội.
Tu sĩ vắng mặt vẫn phải chu toàn các nghĩa vụ của người tu sĩ, và vẫn được hưởng các quyền lợi phù hợp với tình trạng vắng mặt ở nhà dòng.
– Trong trường hợp tu sĩ kéo dài sự vắng mặt với ý định thoát quyền các bề trên, thì có thể áp dụng điều 696 §1, nhưng trước khi xử theo lý, thì khoản 2 của điều 665 này khuyên các bề trên hãy lấy tình thương mà xử cách nhẹ nhàng.
Cần phải nói thêm rằng:
– Cuộc sống chung dưới cùng một mái nhà là điều thường buộc phải giữ. Những cuộc gặp nhau theo kỳ hạn sẽ không đủ.
– Xem ra không cần có phép của bề trên mỗi lần ra khỏi nhà nhưng chỉ cần phép đó khi ra ngoài một thời gian.
– Trường hợp một tu sĩ nhận trách nhiệm coi xứ đạo, nhất là nơi các xứ truyền giáo, hoặc làm việc trong một cơ quan của Giáo hội trong một thành phố mà ở đó tu hội không có nhà, thì phải có phép bề trên cao cấp, với sự đồng ý của ban cố vấn.
– Bộ luật không đề cập đến lý do rất thường gặp ngày nay: phải lo săn sóc cho bà con ruột thịt đau yếu, đây là một vấn đề rất khó khăn vẫn chưa được giải quyết.
2. Sử dụng các phương tiện truyền thông
Điều 666 đề cập đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Đây cũng là một điều mới và rất thích hợp. Kinh nghiệm những năm gần đây cho thấy tai hại của việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội một cách thiếu suy xét. Luật chỉ nhấn mạnh về những nguy hiểm cho ơn kêu gọi và đức khiết tịnh, nhưng cần phải thêm rằng: nó làm mất nhiều thời giờ, giảm sút thời giờ dành cho việc cầu nguyện và học hành, khiến người ta trở thành phù phiếm, nông cạn và phán đoán sai lạc.
3. Nội cấm
Điều 667 đưa ra những đổi mới và ấn định 4 thứ nội vi, cũng gọi là nội cấm. Luật lệ hiện nay nhẹ nhàng và uyển chuyển hơn trong luật cũ. Nên phân biệt:
a/. Nội cấm thông thường
Là thứ phải có ở bất cứ nhà dòng nào, để các tu sĩ có một khu vực dành riêng cho họ (đ 667 §1).
b/. Nội cấm của các đan viện nam tu sĩ chuyên lo chiêm niệm
Bộ Giáo luật không đề ra các chi tiết và dành quyền ấn định cho luật riêng (đ 667 §2)
c/. Nội cấm Giáo hoàng
Đây là loại nội cấm của các nữ đan viện chuyên lo cầu nguyện và chiêm niệm với những luật lệ do Tòa thánh ấn định, liên quan đến sự biệt lập của nội cấm, sự giao tiếp giữa trong và ngoài nội cấm (những hình phạt dành cho những vi phạm này trong bộ Giáo luật cũ, nay bị dẹp bỏ)( đ 667 §3).
d/. Nội cấm dành cho các đan viện khác
Đó là “nội cấm Giáo hoàng cấp thấp” được đề cập trong huấn dụ “Sponsa Christi”. Đây là một sự giảm nhẹ sự nghiêm ngặt của nội cấm Giáo hoàng, để cho các nữ tu có thể thi hành một số hoạt động tông đồ: các luật lệ sẽ do hiến pháp qui định. Giám mục giáo phận có vai trò quan trọng trong việc tuân giữ luật nội cấm này (đ 667 §4).
4. Y phục
Chứng tá công khai của đời sống tu trì gồm có việc mang y phục tu sĩ (đ 669). Đây là một điều bó buộc khó chấp nhận ngày nay. Nhưng Tòa thánh nhiều lần nhắc lại trong các văn thư từ sắc lệnh của công đồng Vaticanô II (P.C. số 17) đến những diễn từ và tuyên bố mới đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (R.D. số 14 về cuối).
Trước kia, việc mang y phục tu sĩ được coi là một nghĩa vụ quan trọng và buộc lương tâm. Điều 669 cũng phải được giải thích theo hướng đó, nhưng nhiều tác giả cho điều buộc này không còn quan trọng như xưa. Điều luật đưa ra 2 lý do có tính nghiêm trọng:
– Y phục tu sĩ là dấu chỉ của sự thánh hiến, vì từ lúc đầu cuộc sống tu trì, y phục biểu lộ rõ sự trở lại, sự thay đổi bậc sống trong Giáo hội của tu sĩ. – Đàng khác, y phục còn là chứng tá của sự khó nghèo, điều này không nhất thiết có nghĩa là bộ y phục ít tiền hơn bộ áo ngoài đời, nhưng nó là dấu chỉ một sự hoàn toàn bỏ mình, lan rộng ra cả bên ngoài và dấu chỉ sự tùy thuộc vào cộng đoàn đã trao y phục cho tu sĩ, không có chọn lựa.
– Các tu hội không bao giờ có y phục riêng, thì sẽ cứ giữ thể chế riêng của mình.
– Nếu tu sĩ là giáo sĩ (tu hội không có y phục riêng), thì phải mang y phục giáo sĩ của địa phương đó.
IV. NGHĨA VỤ PHÁT XUẤT TỪ BA LỜI KHẤN
1. Khó nghèo
Điều 668 là một trong những điều luật dài nhất và phức tạp nhất của bộ Giáo luật. Vấn đề là thực thi đức khó nghèo, đồng thời chú ý đến những liên hệ của tu sĩ và tài sản của mình. Sau đây là những việc phải làm:
a/. Hết quyền quản lý tài sản của mình
Đây là việc các tập sinh phải thực hiện trước khi khấn lần đầu. Các tập sinh có thể nhường quyền quản lý này cho ai tùy ý. Việc nhường quyền này phải có tính toàn diện, tuyệt đối, không thể truất bãi. Nếu có thể, việc làm phải có cả giá trị theo dân luật. Tập sinh phải hiểu rõ những hiệu quả của sự nhường quyền này.
b/. Có thể định đoạt về quyền sử dụng và về hoa lợi các tài sản
Quyền này được dành cho các tập sinh, trong khuôn khổ của hiến pháp. Định đoạt sử dụng cho mình hoặc cho người khác. Phải có giấy tờ có hiệu lực cả về dân luật. Các tập sinh phải nhận thức rõ ràng về hành vi nhường quyền này.
c/. Bản di chúc
Trễ nhất trước khi khấn trọn đời, như vậy có thể trễ hơn 2 việc trên. Đây cũng phải là một văn thư, có giá trị về dân luật, và nói rõ mình để của cải lại cho ai.
d/. Muốn sửa đổi
Khi có lý do chính đáng, cần sửa đổi 3 văn kiện trên, sẽ cần phải có phép của bề trên thẩm quyền (do luật riêng chỉ rõ). Phép này cũng cần cho bất cứ hành vi nào liên hệ đến các tài sản của các tu sĩ đã khấn.
e/. Các sự thủ đắc
Tất cả tiền của mà tu sĩ kiếm được, “với tư cách tu sĩ” (hay với danh nghĩa tu hội) đều thuộc về tu hội, vì có suy đoán là người ta cho tu sĩ “vì tu hội”. Cũng thuộc về tu hội các khoản tiền có tầm quan trọng trong đời sống xã hội ngày nay như: các khoản trợ cấp, các phụ cấp, các tiền bảo hiểm. Bộ Giáo luật mới nêu đích danh các khoản tiền này, tuy có để cho luật riêng được rộng đường định đoạt.
f/. Hậu quả của sự từ bỏ
Sự từ bỏ này có thể do bản chất của lời khấn trong tu hội, hoặc có thể do ước muốn của người khấn dòng, với sự ban phép của bề trên tổng quyền: trong cả hai trường hợp, sự từ bỏ phải có hình thức có giá trị cả ở luật đời. Khi đã khấn từ bỏ như thế, lời khấn sẽ có 3 kiệu quả được nêu lên ở điều luật này, đúng như lời khấn lọng trọng về đức khó nghèo xưa – khi sự từ bỏ chỉ có tính tùy nghi, thì phải giữ theo nội dung lời khấn và theo qui định của hiến pháp.
Tóm lại, cần lưu ý:
– Trước khi khấn lần đầu, sẽ nhường quyền tài sản cho ai tùy ý.
– Trước khi khấn trọn đời, phải làm chúc thư.
– Thay đổi những quyết định trên, cần phải có phép của bề trên (luật riêng xác định rõ là vị nào).
Như vậy, sau khi khấn lần đầu, tu sĩ không được mua, cho, cho mượn bất cứ của gì. Đối với sự chi tiêu ít quan trọng, phép này có thể là một phép tổng quát. Luật riêng phải xác định rõ ràng, chính xác.
– Tất cả những gì thủ đắc đều thuộc về tu hội, kể cả những tặng phẩm riêng do gia đình cho.
– Những điều ở khoản 4 và 5 đề cập đến việc từ bỏ các tài sản của cha mẹ để lại. Có hai trường hợp rất khác biệt được xét đến ở đây:
1). Những tu sĩ mà “theo bản chất của tu hội mình” PHẢI từ bỏ các tài sản cha mẹ để lại, thì phải nhượng cho ai tùy ý. Và sự nhượng này có giá trị kể từ ngày khấn, phải làm giấy tờ.
2). Những tu sĩ trong các tu hội khác, MUỐN bỏ hoàn toàn hay một phần di sản của mình khi có phép của bề trên tổng quyền, cũng phải làm giấy tờ.
– Để tránh mọi phân cách đối với phụ nữ, bộ Giáo luật không còn nhắc tới của hồi môn, là món tiền giúp cho nữ tu sinh sống và sẽ được hoàn trả lại khi bỏ tu. Hiện nay, phụ nữ sinh nhai như nam giới, và sự phá giá đồng bạc làm cho món tiền hồi môn chóng bị giảm sút giá trị.
2. Khiết tịnh
– Các tu sĩ, dù là tu hội đời, cũng buộc phải giữ một số nghĩa vụ của giáo sĩ (đ 672), nghĩa là các qui định của Giáo luật về các giáo sĩ (liên quan đến người và tu hội) cũng sẽ được áp dụng cho các tu sĩ.
– Điều 277: khôn ngoan thận trọng trong những liên hệ sinh nguy hiểm cho đức khiết tịnh hoặc sinh gương mù cho giáo dân.
– Điều 285 §1,1: buộc phải tránh xa tất cả những gì không xứng hợp với bậc giáo sĩ và bậc tu trì. Thí dụ: lui tới một số những chỗ hội họp nào đó, rạp hát, nhà hàng,…
3. Vâng lời
– Điều 285 §3: cấm đảm nhận những chức vụ công quyền. Điều này, trong pháp chế hậu công đồng Vaticanô II tỏ ra nghiêm ngặt hơn luật cũ nhiều. Trước kia, các tu sĩ có thể là dân biểu, bộ trưởng, có khi là nhiếp chính những vương quốc. Bộ Giáo luật 1917 vẫn còn dự trù khả năng có thể xin được phép. Nhưng với Vaticanô II, Giáo hội đã ý thức sâu sắc hơn về sứ mạng đặc biệt tinh thần của các giáo sĩ và tu sĩ.
– Điều 285 §4: cấm kinh tài cho đệ tam nhân.
– Điều 286: cấm buôn bán.
– Điều 287: cấm tích cực tham gia vào các đảng phái chính trị, lãnh đạo các nghiệp đoàn.
– Điều 289: cấm tình nguyện gia nhập quân đội.
Trong những trường hợp trên, khi có lý do đặc biệt, có thể xin được phép.
“Không có phép của bề trên hợp pháp, tu sĩ không được nhận những trách nhiệm và những chức vụ ở ngoài tu hội của mình” (đ 671).
Qui định của điều luật này là một hậu quả trực tiếp của việc khấn dòng. Qua đó có một sự lệ thuộc chặt chẽ của mỗi thành viên đối với tu hội của mình. Cho nên, các tu sĩ cần phải có phép của bề trên có thẩm quyền, để nhận “các nhiệm vụ” và “chức vụ”, một từ rất rộng để chỉ các hoạt động đạo hay đời, chính trị hoặc tông đồ.
[1] Xin xem thêm trong bài viết: “Lời Khấn Thứ Tư Trong Các Dòng Tu” của Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. (https://catechesis.net////index.php/tai-lieu/hieu-song-duc-tin/823-hieu-song-duc-tin-loi-khan-thu-4-trong-cac-dong-tu)