Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.
I. BẢN VĂN GA 21,20-25
20 Phê-rô quay lại, thấy môn đệ – người Đức Giê-su yêu mến – đi theo sau; ông này là người, trong bữa ăn tối, đã nghiêng mình vào ngực của Người và nói: “Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?” 21 Khi thấy người này, Phê-rô nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” 22 Đức Giê-su nói với ông ấy: “Nếu Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Thầy.” 23 Vậy có lời đồn giữa anh em là người môn đệ ấy không chết. Nhưng Đức Giê-su đã không nói với ông ấy là “Anh ấy không chết”, mà là “Giả như Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến [, thì việc gì đến anh?]”
24 Chính môn đệ này là người làm chứng về những điều đó và là người đã viết những điều đó, và chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. 25 Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm, nếu viết lại từng điều một, tôi thiết nghĩ cả thế gian cũng không chứa nổi các sách được viết ra.
II. BỐI CẢNH VÀ CẤU TRÚC GA 21
Ga 21 được xem là do soạn giả sách Tin Mừng Gio-an viết và thêm vào sau. Soạn giả viết kết luận thứ hai (21,24-25) trong khi sách Tin Mừng đã có kết luận thứ nhất ở cuối chương 20 (20,30-31).
Ga 21 trình bày tương quan giữa Đức Giê-su với hai khuôn mặt nổi bật của cộng đoàn Gio-an (Johannine community): Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Toàn bộ chương 21 được cấu trúc thành 4 tiểu đoạn:
1) 21,1-14. Đức Giê-su Phục Sinh tỏ mình lần thứ ba trên bờ biển hồ Ti-bê-ri-a. Hai nhân vật chính của câu chuyện là Si-môn Phê-rô và môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Hai nhân vật này sẽ được bàn đến trong các tiểu đoạn tiếp theo.
2) 21,15-19. Đức Giê-su hỏi Phê-rô ba lần về tình yêu của ông dành cho Đức Giê-su, và ba lần Đức Giê-su giao phó sứ vụ chăn dắt đàn chiên của Người. Sau đó, Đức Giê-su báo trước cách Phê-rô chết để tôn vinh Thiên Chúa, còn bây giờ, nhiệm vụ của Phê-rô là đi theo Đức Giê-su (21,19.22).
3) 21,20-23. Ý muốn của Đức Giê-su về vận mệnh của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Người nói với Phê-rô: “Nếu Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Thầy” (21,22). Lời này được người thuật chuyện lặp lại ở 21,23b để xác định rõ lời Đức Giê-su, bởi vì một số người đã hiểu sai. Cũng như Phê-rô, người môn đệ này cũng là người “đi theo Đức Giê-su” (21,20).
4) 21,24-25. Soạn giả viết kết luận thứ hai của sách Tin Mừng dựa trên bút tích và lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.
III. PHÂN TÍCH
Phần sau sẽ phân tích nhân vật “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” trong tiểu đoạn 3 và 4 (21,20-23; 21,24-25) với 3 ý: (1) Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. (2) Ý muốn của Đức Giê-su về vận mệnh của người môn đệ này (3) Bút tích và lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.
1. Môn đệ Đức Giê-su yêu mến
Động từ “đi theo” (akoloutheô) nối kết vận mệnh của Phê-rô với vận mệnh của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Ở cuối tiểu đoạn 2 (21,15-19), Đức Giê-su nói với Phê-rô: “Anh hãy theo Thầy” (21,19). Đến câu mở đầu của tiểu đoạn 3 (21,20-23), người môn đệ Đức Giê-su yêu mến cũng đang trong tư thế “đi theo sau”. Người thuật chuyện kể: “Phê-rô quay lại, thấy môn đệ – người Đức Giê-su yêu mến – đi theo sau” (21,20a). Cuối câu 22, Đức Giê-su lại mời gọi Phê-rô: “Phần anh, anh hãy theo Thầy” (21,22b). Qua việc nhấn mạnh ý tưởng “đi theo Đức Giê-su”, nghĩa là “làm môn đệ của Người” bản văn cho độc giả thấy “đi theo Đức Giê-su” là đặc điểm của người môn đệ đích thực, dù đó là người đứng đầu nhóm các môn đệ (Phê-rô) hay là người có tương quan mật thiết với Đức Giê-su (người môn đệ Đức Giê-su yêu mến). Nói cách khác các môn đệ qua mọi thời đại được mời gọi “đi theo Đức Giê-su” trong mọi hoàn cảnh, dù trong tình trạng bị bách hại (Phê-rô) hay trong hành trình làm chứng về Đức Giê-su (người môn đệ Đức Giê-su yêu mến).
Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong đoạn văn 21,20-23 được xác định khi nhắc lại những gì người môn đệ này đã làm trong trình thuật nói về Giu-đa, kẻ sẽ nộp Đức Giê-su (13,21-31). Ga 21,20 nhắc lại hai chi tiết: Chi tiết thứ nhất nói về vị trí đặc biệt của người môn đệ này bên cạnh Đức Giê-su trong bữa tiệc ly: “Ông này là người, trong bữa ăn tối, đã nghiêng mình vào ngực của Người [Đức Giê-su]” (21,20b). Chi tiết thứ hai là lời người môn đệ này nói với Đức Giê-su trong bữa tiệc: “Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?” (21,20c). Trong trình thuật 13,12-31, câu hỏi này được đặt ra là do gợi ý của Phê-rô. Thật vậy, ở 13,24, Người thuật chuyện cho biết: “Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy hỏi xem Thầy nói về ai” (13,24).
Hai chi tiết ở 21,20 liên quan đến người môn đệ Đức Giê-su yêu mến cho thấy tầm quan trọng của người môn đệ này giữa nhóm các môn đệ và trong cộng đoàn Gio-an. Thật vậy, theo Tin Mừng Gio-an, người môn đệ này có vị trí bên cạnh Đức Giê-su trong bữa tiệc ly (13,23); người môn đệ này đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (19,25); ông là người môn đệ đầu tiên “đã thấy và đã tin” (20,8) trước ngôi mộ trống và cũng là người môn đệ đầu tiên nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh khi Người tỏ mình ở biển hồ Ti-bê-ri-a (21,7). Như thế, phẩm chất về tương quan với Đức Giê-su của người môn đệ này hơn Phê-rô, nhưng người môn đệ Đức Giê-su yêu mến không cạnh tranh với vai trò và vị trí của Phê-rô.
Trong đoạn văn 21,15-19, Đức Giê-su đã trao cho Phê-rô sứ vụ chăn dắt đàn chiên của Người cách long trọng qua việc Đức Giê-su hỏi và Phê-rô tuyên xưng ba lần tình thương của ông dành cho Đức Giê-su (21,15-17). Đức Giê-su cũng báo trước Phê-rô sẽ chết như thế nào để tôn vinh Thiên Chúa (21,18). Cuối cùng Phê-rô được mời gọi đi theo Đức Giê-su (21,19), nghĩa là sống tư cách người môn đệ. Với sứ vụ mục tử, Phê-rô là người đứng đầu nhóm các môn đệ. Tuy nhiên trong cộng đoàn Gio-an, có những thắc mắc và lời đồn đại về một khuôn mặt bí ẩn, đó là người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Câu Phê-rô hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” (21,21b) cũng là câu hỏi của cộng đoàn Gio-an và của độc giả. Đặc biệt câu trả lời của Đức Giê-su gây ngạc nhiên và không kém phần bí ẩn: “Nếu Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Thầy” (21,22).
2. Ý muốn của Đức Giê-su về người môn đệ Đức Giê-su yêu mến
Ý muốn của Đức Giê-su được chính Đức Giê-su nói ra (21,22) và sau đó được người thuật chuyện lặp lại ở 21,23. Lời Đức Giê-su nói với Phê-rô về người môn đệ Người yêu mến: “Nếu Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?” đã bị hiểu lầm. Có người nghĩ người môn đệ này không chết trước khi Đức Giê-su trở lại. Người thuật chuyện kể: “Có lời đồn giữa anh em là người môn đệ ấy không chết” (21,23). Lời đồn này đã được người thuật chuyện điều chỉnh lại khi viết: “Đức Giê-su đã không nói với ông ấy là ‘Anh ấy không chết’, mà là ‘Giả như Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến [, thì việc gì đến anh?]’” (21,23).
Số phận của Phê-rô được Đức Giê-su nói rõ ở 21,18-19, còn số phận của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến không được nói rõ mà lệ thuộc vào ý muốn của Đức Giê-su. Người nói với Phê-rô: “Nếu Thầy muốn anh ấy…” (21,22a). Số phận của người môn đệ này tùy thuộc vào ý muốn của Đức Giê-su chứ không phải ý muốn của cộng đoàn. Mạch văn cho phép hiểu cộng đoàn Gio-an muốn người môn đệ này sống với họ mãi nên mới có lời đồn là người môn đệ này không chết. Ước muốn này cũng dễ hiểu vì người môn đệ Đức Giê-su yêu mến là khuôn mặt nổi bật trong cộng đoàn. Ý muốn này của cộng đoàn đã dựa trên cách hiểu không chính xác về lời Đức Giê-su (21,22).
Qua cách thức kể chuyện như trên, độc giả có thể hiểu tình trạng của cộng đoàn Gio-an theo cách giải thích của F. J. Moloney: “Người môn đệ được yêu đã không còn sống nữa, và cộng đoàn không nên ngạc nhiên về cái chết của người môn đệ này. Dù điều gì đã xảy ra cho người môn đệ được yêu cũng là làm trọn ý muốn của Đức Giê-su cho người môn đệ ấy. Cả hai, Phê-rô (cf. vv. 18-19) và người môn đệ được yêu (cf. vv. 18-19) đã chết” (MOLONEY, F. J., The Gospel of John, (SPS 4), Collegeville (MN), The Liturgical Press, 1998, p. 557). Cả hai nhân vật quan trọng này giữ những vai trò khác nhau trong cộng đoàn Gio-an. Phê-rô được Đức Giê-su đặt làm mục tử đàn chiên của Người, còn người môn đệ Đức Giê-su yêu mến, ông đã viết lời chứng xác thực và đáng tin cậy của mình về Đức Giê-su cho cộng đoàn.
3. Bút tích và lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến
Qua những lời Đức Giê-su nói với thân mẫu và với người môn đệ Người yêu mến dưới chân thập giá (19,26-27), người môn đệ này được xem là vị sáng lập cộng đoàn Gio-an. Người thuật chuyện kể lời trối của Đức Giê-su ở Gôn-gô-tha như sau: “26 Khi Đức Giê-su thấy thân mẫu và môn đệ đứng bên cạnh, – môn đệ Người yêu mến –, Người nói với thân mẫu: ‘Thưa bà, đây là con của bà.’ Rồi Người nói với môn đệ: ‘Đây là mẹ của anh.’ Và kể từ giờ đó, người môn đệ đón nhận mẹ về nhà mình” (19,26-27). Đối với cộng đoàn Gio-an, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến là một nhân vật được kính trọng như là người sáng lập cộng đoàn, thể hiện qua tương quan mật thiết với Đức Giê-su và lời chứng đáng tin cậy của người môn đệ này về Đức Giê-su. Người môn đệ này đã đứng dưới chân thập giá và làm chứng về những gì đã xảy ra. Người thuật chuyện long trọng kể lời chứng của người môn đệ này như sau: “Người đã xem thấy [người môn đệ Đức Giê-su yêu mến], đã làm chứng, và lời chứng của người ấy là xác thực; và người ấy biết rằng mình nói sự thật để cả anh em nữa, anh em tin” (19,35).
Ở 21,24, soạn giả nói về bút tích và lời chứng của người môn đệ này: “Chính môn đệ này là người làm chứng về những điều đó và là người đã viết những điều đó, và chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (21,24). Hai lần dùng đại từ “houtos” ở giống trung, số nhiều: “những điều đó” trong các cụm từ “Làm chứng về những điều đó” và “đã viết những điều đó” ở 21,24 gợi về cốt lõi nội dung sách Tin Mừng.
Khi soạn giả khẳng định: “Chúng tôi biết rằng…” (21,24b), soạn giả đã nhân danh trường phái Gio-an (trường phái thần học Gio-an) để xác nhận người môn đệ Đức Giê-su yêu mến “đã viết những điều đó”, nghĩa là đã để lại bút tích trong sách Tin Mừng. Ngày nay phần lớn các tác giả cho rằng người môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã không viết tất cả Ga 1–20 với lời kết luận ở 20,30-31. Tình trạng bản văn Tin Mừng Gio-an như chúng ta có hiện nay cho thấy Tin Mừng được hình thành qua nhiều giai đoạn. Có thể nói rằng nội dung cốt lõi của Tin Mừng Gio-an là bút tích của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến (21,24), môn đệ này là người sáng lập cộng đoàn Gio-an và đứng đầu trường phái thần học Gio-an. Sau đó, một hay nhiều thành viên của trường phái Gio-an, được gọi là tác giả Tin Mừng, đã hoàn thành bản văn Tin Mừng với kết luận thứ nhất ở 20,30-31. Cuối cùng một hay nhiều soạn giả, thuộc trường phái Gio-an, viết Ga 21 và kết thúc sách Tin Mừng với kết luận thứ hai ở 21,24-25. Soạn giả đã xuất bản và cho lưu hành sách Tin Mừng Gio-an như chúng ta có hiện nay. Tóm lại, có thể nói đến ba giai đoạn chính trong việc hình thành sách Tin Mừng Gio-an: (1) Bút tích của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến; (2) Tác giả (author) viết phần chính của sách Tin Mừng và kết luận ở 20,30-31; (3) Soạn giả (redactor) viết Ga 21 và xuất bản Tin Mừng Gio-an như chúng ta đọc hiện nay.
IV. KẾT LUẬN
Đoạn văn Ga 21,20-25 nói về số phận bí ẩn của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Qua câu chuyện, soạn giả cho biết làm thế nào cộng đoàn các môn đệ có thể tồn tại mà không có sự hiện diện thể lý của Đức Giê-su (x. 20,29) và những người lãnh đạo cộng đoàn dần dần ra đi. Bởi vì vào lúc sách Tin Mừng được viết ra Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã chết. Thực ra, cộng đoàn vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển vì vai trò mục tử của Phê-rô được tiếp nối nơi các đấng kế vị, và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến vẫn ở lại cho đến khi Đức Giê-su trở lại nhờ bút tích và lời chứng có uy tín và đáng tin cậy của người môn đệ này trong sách Tin Mừng.
Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến là một nhân vật có uy thế trong cộng đoàn Gio-an và là hình ảnh về người môn đệ lý tưởng. Độc giả qua mọi thời đại được mời gọi sống theo khuôn mẫu của người môn đệ này: tương quan mật thiết với Đức Giê-su; niềm tin vững mạnh và can đảm làm chứng về Đức Giê-su. Độc giả có thể thực hiện lời mời gọi này bằng cách học hỏi và suy gẫm Tin Mừng Gio-an./.
***
MỤC TỪ NGỮ
– marturia, -as, hê, dt., lời chứng
– martureô, đt., làm chứng
1. Marturia, dt., lời chứng
Danh từ “marturia” (lời chứng) xuất hiện 14 lần ở các nơi: 1,7.19; 3,11.32.33; 5,31.32.34.36; 8,13.14.17; 19,35; 21,24. Các nơi này nói về 7 lời chứng:
1) Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (2 lần): 1,7.19.
2) Lời chứng của Đức Giê-su (6 lần): 3,11.32.33; 5,31; 8,13.14.
3) Lời chứng của Chúa Cha (1 lần): 5,32.
4) Lời chứng của người phàm (1 lần): 5,34.
5) Lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm (1 lần): 5,36.
6) Lời chứng của hai người: Đức Giê-su và Cha (1 lần): 8,17.
7) Lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến (2 lần): 19,35; 21,24.
2. Martureô, đt., làm chứng
Động từ “martureô” (làm chứng) xuất hiện 33 lần và phân bổ như sau:
Ch. 1–4 (12 lần): 1,7.8.15.32.34; 2,25; 3,11.26.28.32; 4,39.44.
Ch. 5–8 (12 lần): 5,31.32a.32b.33.36.37.39; 7,7; 8,13.14.18a.18b.
Ch. 9–12 (2 lần): 10,25; 12,17.
Ch. 13–17 (3 lần): 13,21; 15,26.27.
Ch. 18–21 (4 lần): 18,23.37; 19,35; 21,24.
Trong 33 lần trên có 11 nhân vật và 2 điều là chủ từ của động từ “martureô”:
+ 11 nhân vật làm chủ từ của động từ “martureô”:
1) Gio-an Tẩy Giả (7 lần): 1,7.8.15.32.34; 3,26; 5,33.
2) Người ta (1 lần): 2,25.
3) Đức Giê-su (10 lần): 3,11.32; 4,44; 5,31; 7,7; 8,13.14.18a; 13,21; 18,37.
4) Các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả (1 lần): 3,28.
5) Người phụ nữ Sa-ma-ri (1 lần): 4,39.
6) Chúa Cha (4 lần): 5,32a.32b.37; 8,18b.
7) Đám đông dân chúng (1 lần): 12,17.
8) Đấng Pa-rác-lê, Thần Khí sự thật (1 lần): 15,26.
9) Các môn đệ của Đức Giê-su (1 lần): 15,27.
10) Thuộc hạ của thượng tế (1 lần): 18,23.
11) Môn đệ Đức Giê-su yêu mến (2 lần): 19,35; 21,24.
+ 2 điều làm chứng cho Đức Giê-su:
1) Kinh Thánh (1 lần): 5,39.
2) Những việc Đức Giê-su làm (2 lần): 5,36; 10,25.
***
Bài viết liên quan:
1- “Lời chứng” (marturia) và “làm chứng” (martureô) trong Tin Mừng Gio-an.
2- “Lời chứng” và “làm chứng” của Gio-an Tẩy Giả trong Tin Mừng Gio-an.
3- Ga 21,20-25. Vận mệnh, bút tích và lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.
4- Ga 19,35; 21,24. Lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng Gio-an.
5- Lời chứng của Đức Giêsu và của Chúa Cha trong Tin Mừng Gioan.