Ga 14,15-24: Đặc Ân Dành Cho Ai Yêu Mến Đức Giê-Su Và Giữ Các Điều Răn Của Người

0
793


Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.

 

DẪN NHẬP

Trong đoạn văn Ga 14,15-24, Đức Giê-su cho các môn đệ biết là họ sẽ được cả ba Đấng (Đấng Pa-rác-lê, Chúa Cha và Đức Giê-su) đến và ở lại nơi họ, với điều kiện là họ “yêu mến Đức Giê-su” (14,15.21.23.24); “giữ các điều răn của Người” (14,15.21) và “giữ lời của Người” (14,23.24). Bài viết này sẽ phân tích đoạn văn 14,15-24 để hiểu mặc khải của Đức Giê-su liên quan đến hai đề tài: (I) Sự hiện diện của ba Đấng nơi các môn đệ và (II) Tương quan giữa “yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của Người”.

I. SỰ Ở LẠI CỦA BA ĐẤNG NƠI CÁC MÔN ĐỆ

Trong đoạn văn 14,15-24, Đức Giê-su mặc khải về sự ở lại của ba Đấng (Đấng Pa-rác-lê, Đức Giê-su và Chúa Cha) nơi người yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người. Đoạn văn này cấu trúc xoay quanh đề tài “yêu mến” và “tuân giữ” qua ba tiểu đoạn với những hiệu quả thiết thực kèm theo:

Đoạn văn 14,15-24 gồm nhiều đề tài, nhưng phần này chỉ giới hạn phân tích đề tài “ở lại” của ba Đấng qua ba mục: (1) Đấng Pa-rác-lê ở với các môn đệ (14,15-17), (2) Đức Giê-su và các môn đệ ở lại trong nhau (14,18-20), (3) Chúa Cha và Đức Giê-su ở lại nơi các môn đệ (14,21-24).

1. Đấng Pa-rác-lê ở với các môn đệ (14,15-17)

Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,15-17: “15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy; 16 và chính Thầy sẽ can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Pa-rác-lê khác để Người ở với anh em mãi mãi. 17 Thần Khí sự thật Đấng thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Người. Còn anh em, anh em biết Người, vì Người ở lại giữa anh em và Người sẽ ở trong anh em.”

“Đấng Pa-rác-lê” ở 14,16 là chuyển âm từ tiếng Hy-lạp: “paraklêtos” (xem bài viết: Đấng Pa-rác-lê là ai?) Chuyển âm chứ không dịch, bởi vì nếu dịch từ “paraklêtos” sang ngôn ngữ khác sẽ không diễn tả hết vai trò và hoạt động của Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng Gio-an. Nhiều bản dịch đề nghị giữ nguyên ngữ từ “paraklêtos”: “Paracletus” (VUL, 1983); “Le Paraclet” (TOB, 1998; BJ, 2000; OSTY, 1973), vì thế chúng tôi tạm phiên âm tiếng Việt: “Đấng Pa-rác-lê”. Trong Tin Mừng Gio-an, Đấng này là “Thần Khí sự thật”, là “Thánh Thần”. Vai trò và sứ vụ của Đấng Pa-rác-lê được trình bày trong năm đoạn văn (14,15-17; 14,25-26; 15,26-27; 16,7-11; 16,12-15) ở ba chương: Ga 14, 15, 16. Đề tài “ở lại” của Đấng Pa-rác-lê được nói đến trong đoạn văn thứ nhất (14,15-17).

Ga 14,15 nói rõ điều kiện để Đấng Pa-rác-lê đến và ở lại nơi các môn đệ là “yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của Người” (14,15). Đức Giê-su dùng câu điều kiện để nói với các môn đệ ở 14,15: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy…” Một trong các hoạt động của Đấng Pa-rác-lê là ở lại với các môn đệ. Đề tài này được nhấn mạnh với các kiểu nói: “ở với”, “ở giữa” và “ở trong” các môn đệ (14,16-17). Đức Giê-su dùng ba giới từ: “mata” (với), “para” (giữa), “en” (trong) kèm theo hai động từ: “eimi” (thì, là, ở) và “menô” (ở lại) để trình bày đề tài “ở lại”. Người nói với các môn đệ ở 14,17b: “Còn anh em, anh em biết Người [Thần Khí sự thật], vì Người ở lại giữa anh em và Người sẽ ở trong anh em.” Lối nói nhấn mạnh như trên cho thấy sự quan trọng của đề tài đối với độc giả Tin Mừng. Hình như cộng đoàn Gio-an đã không xác tín về sự hiện diện của Đấng Pa-rác-lê trong cộng đoàn và giữa cộng đoàn. Đặc điểm của sự “ở lại” này là “mãi mãi” như Đức Giê-su đã nói: “Để Người [Đấng Pa-rác-lê] ở với anh em [các môn đệ] mãi mãi” (14,16b).

Đây là sự ở lại của “Đấng Pa-rác-lê khác” (14,16), hiểu ngầm Đức Giê-su cũng giữ vai trò của một Đấng Pa-rác-lê. Trong Tin Mừng Gio-an, “Đấng Pa-rác-lê khác” ở 14,16 chính là “Đấng Pa-rác-lê (ho paraklêtos)” (14,26a; 15,26a; 16,7), Đấng này được đồng hoá với “Thánh Thần (to pneuma to hagion)” (14,26b) và “Thần Khí sự thật (to pneuma tês alêtheias)” (15,26b; 16,13b). Sau khi nói đến sự ở lại của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ (14,16-17), tiểu đoạn tiếp theo (14,18-20) nói về sự ở lại trong nhau giữa Đức Giê-su và các môn đệ của Người.

2. Đức Giê-su và các môn đệ ở lại trong nhau (14,18-20)

Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,18-20: “18 Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em. 19 Một ít nữa, thế gian không còn thấy Thầy. Nhưng anh em, anh em thấy Thầy, vì chính Thầy sống và chính anh em sẽ sống. 20 Trong ngày đó, anh em sẽ biết rằng: Thầy trong Cha Thầy, anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.”

Đọc thoáng qua câu nói của Đức Giê-su: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (14,18a) có thể hiểu theo nghĩa Đức Giê-su không để các môn đệ mồ côi là vì Đấng Pa-rác-lê sẽ đến với các môn đệ (14,16-17). Tuy nhiên, mạch văn 14,15-24 không cho phép hiểu việc Đấng Pa-rác-lê ở với các môn đệ sẽ thay thế sự hiện diện của Đức Giê-su nơi họ, nghĩa là Đức Giê-su tiếp tục hiện diện nơi các môn đệ qua Đấng Pa-rác-lê. Cách hiểu này không có cơ sở trong đoạn văn 14,15-24 và không phù hợp với thần học Gio-an. Lý do là vì Đức Giê-su xác định rõ ở 14,18b: “Thầy đến với anh em”. Chính Đức Giê-su sẽ đến và ở lại với các môn đệ. Cấu trúc đoạn văn trên đây cho biết tiểu đoạn thứ nhất (14,15-17) nói về sự ở lại của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ, còn tiểu đoạn thứ hai (14,18-20) mô tả sự ở lại của Đức Giê-su trong các môn đệ qua ba bước: (a) “Đến” (erkhomai), (b) “Thấy” (theôreô) và (c) “Ở trong” (en) các môn đệ.

a) Đức Giê-su sẽ đến với các môn đệ (14,18b)

Bước thứ nhất diễn tả bằng động từ “đến” (erkhomai). Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,18: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em.” Ý tưởng “mồ côi” và hành động “đến” hàm ẩn rằng Đức Giê-su sẽ “ra đi” như Người đã nói ở 14,12b: “Thầy đi về với Cha.” Biến cố Thương Khó sắp xảy ra là lúc Đức Giê-su đi về với Cha của Người. Đức Giê-su sẽ ra đi và các môn đệ sẽ rơi vào tình trạng lo buồn và khủng hoảng. Người báo trước điều này với các môn đệ ở 16,20a.32: “A-men, a-men, Thầy nói cho anh em: Anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng” (16,20a); “Này đến giờ – và đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người về nhà mình và bỏ lại Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình, vì Cha ở với Thầy” (16,32). Trong các ch. 13–17, ý tưởng “ra đi” sau đó lại “đến” nói về Giờ của Đức Giê-su, Giờ xảy ra biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Sau biến cố này Đức Giê-su đến gặp các môn đệ như người thuật chuyện kể ở 20,19-20: “19 Chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ những người Do-thái, Đức Giê-su đến, Người đứng giữa các ông và nói với các ông: ‘Bình an cho anh em.’ 20 Nói xong điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn của Người. Các môn đệ vui mừng thấy Chúa.”

Trong thực tế, việc các môn đệ thấy lại Đức Giê-su sau Phục Sinh không kéo dài. Cuối Tin Mừng, Đức Giê-su đề cao cái phúc của những người không thấy mà tin vào Người (20,29). Người thuật chuyện kể lại đối thoại giữa Đức Giê-su và Tô-ma ở 20,27-29: “27 Rồi Người [Đức Giê-su Phục Sinh] nói với Tô-ma: ‘Đưa ngón tay của anh vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay của anh ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng trở thành người không tin, nhưng là người tin.’ 28 Tô-ma trả lời và nói với Người: ‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.’ 29 Đức Giê-su nói với ông ấy: ‘Vì đã thấy Thầy, nên anh tin? Phúc cho những người không thấy mà những người tin.’” Trong viễn cảnh này, đề tài Đức Giê-su “lại đến” với các môn đệ, “lại thấy” họ, không chỉ giới hạn trong việc gặp gỡ thể lý, mà còn có nghĩa thần học, đó là “đến” và “thấy” tâm linh, diễn tả sự hiện diện và hiệp thông giữa Đức Giê-su với các môn đệ theo nghĩa Đức Giê-su sẽ “đến” và “ở lại mãi mãi” với các môn đệ. Phân tích sau đây về đề tài “thấy” và “ở trong” sẽ xác nhận sự hiện diện tâm linh của Đức Giê-su nơi các môn đệ.

b) Các môn đệ sẽ thấy Đức Giê-su (14,19b)

Động từ “thấy” (theôreô) là bước thứ hai diễn tả gặp gỡ giữa Đức Giê-su và các môn đệ. Đức Giê-su nói với họ ở 14,19: “Một ít nữa, thế gian không còn thấy Thầy. Nhưng anh em, anh em thấy Thầy, vì chính Thầy sống và chính anh em sẽ sống.” Trong Tin Mừng Gio-an, động từ “theôreô” (thấy) vừa diễn tả “thấy” thần học (thấy với con mắt đức tin), vừa mô tả hành động “thấy” thể lý. Đức Giê-su nói về “thấy” hàm ẩn lòng tin với đám đông ở 6,40a: “Thật vậy, đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy (theôrôn) Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời.” Trong câu này “thấy” thực sự trùng khớp với “tin” vào Đức Giê-su. Ở 14,19, động từ “thấy” nối kết với động từ “đến” ở câu trước (14,18b). Hai động từ này có hai chủ từ khác nhau: Về phía Đức Giê-su, Người “đến” với các môn đệ (14,18b); về phía các môn đệ, họ “thấy” Đức Giê-su (14,19b). Trong mạch văn 14,15-24, các động từ “đến” và “thấy” diễn tả tương quan tình yêu và sự hiệp nhất giữa Đức Giê-su và các môn đệ.

Thực vậy, việc “thấy lại Đức Giê-su” sẽ làm nảy sinh “niềm vui không ai lấy mất được” như Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 16,22: “Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ lại thấy anh em, và lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy khỏi anh em được.” Đây là niềm vui sâu xa, kéo dài và bền bỉ trong mọi hoàn cảnh. Hơn nữa, hành động “thấy đích thực” làm cho các môn đệ được sống (zaô). Đức Giê-su khẳng định điều này ở 14,19b: “Nhưng anh em, anh em thấy Thầy, vì chính Thầy sống và chính anh em sẽ sống.” Ở đây Đức Giê-su khẳng định sự sống của chính Người: “chính Thầy sống” và sự sống của các môn đệ: “chính anh em sẽ sống.” Như thế, “thấy lại Đức Giê-su” (14,19) là bằng chứng của “sự sống” theo nghĩa thần học của động từ “theôreô” (thấy) này trong Tin Mừng Gio-an.

Niềm vui không ai lấy mất được (16,22) và sự sống của các môn đệ (14,19b) là kết quả của việc “thấy” Đức Giê-su. Điểm thần học của đề tài “thấy Đức Giê-su” là sự hiện diện tâm linh trong sự vắng mặt thể lý của Đức Giê-su trong cộng đoàn người tin sau biến cố Phục Sinh. Câu hỏi đặt ra cho cộng đoàn Gio-an và cho độc giả qua mọi thời đại là họ có nhận ra và xác tín sự hiện diện của Đức Giê-su hay không? Vấn đề là người tin có khả năng “thấy Đức Giê-su” bằng con mắt đức tin để đón nhận “niềm vui không ai lấy mất được” (16,22) và “sự sống đích thực” (14,19b) mà Đấng Phục Sinh ban tặng hay không? Cách hiểu về “thấy tâm linh” này sẽ được củng cố trong bước thứ ba là phần trình bày về sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giê-su và các môn đệ (14,20).

c) Đức Giê-su ở trong các môn đệ (14,20b)

Bước thứ ba diễn tả tương quan hiệp thông giữa Đức Giê-su và các môn đệ bằng hình ảnh “ở lại trong nhau.” Đức Giê-su nói với họ ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em sẽ biết rằng: Thầy trong Cha Thầy (egô en tô patri mou), anh em trong Thầy (kai humeis en emoi) và Thầy trong anh em (kagô en humin). Kiểu nói “trong ngày đó” (14,20; x. 16,23.26) gợi đến thời gian sau biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Đối với độc giả Tin Mừng sau biến cố Phục Sinh, “ngày đó” đã xảy ra trong quá khứ. Cộng đoàn Gio-an và người tin qua mọi thời đang sống lời hứa của Đức Giê-su: Người ở trong Chúa Cha, các môn đệ ở trong Người và Người ở trong các môn đệ (14,20). Với lời hứa “trong ngày đó”, biến cố Thương Khó – Phục Sinh đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử cứu độ. Từ nay, mọi người tin (người môn đệ) được hiệp thông sâu xa với Đức Giê-su và với Chúa Cha. Đó là sự ở lại trong nhau giữa: “Chúa Cha – Đức Giê-su – các môn đệ.”

Trong viễn cảnh này, lời Đức Giê-su khẳng định ở 14,20b: “Anh em trong Thầy và Thầy trong anh em” là lời động viên lớn lao cho các môn đệ cũng như cho độc giả qua mọi thời đại. Đây là lời mặc khải quan trọng, bởi vì “sự ở lại trong nhau” (l’inhabitation réciproque) giữa Đức Giê-su và các môn đệ được diễn tả cùng cách thức như “sự ở lại trong nhau” giữa Đức Giê-su và Cha của Người. Đức Giê-su nói về tương quan giữa Người và Chúa Cha với các môn đệ ở 14,10.11: “Thầy trong Cha và Cha trong Thầy” (x. 10,38; 17,21). Trong ch. 14, Đức Giê-su mặc khải cho các môn đệ biết tương quan giữa Người với Chúa Cha hai lần (14,10.11), trước khi đưa các môn đệ vào trong cùng một tương quan đó với Người ở 14,20b.

Trong 14,20b, đề tài “ở lại trong nhau” giữa Đức Giê-su và Chúa Cha, giữa Đức Giê-su và các môn đệ được diễn tả bằng giới từ “en” (trong), không có động từ, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy trong Cha Thầy (egô en tô patri mou), anh em trong Thầy (kai humeis en emoi) và Thầy trong anh em (kagô en humin).” Câu văn không có động từ này diễn tả sự hiệp thông sâu xa giữa Đức Giê-su và Chúa Cha; cũng như sự hiệp thông sâu xa giữa Đức Giê-su và các môn đệ theo cả hai chiều: Các môn đệ trong Đức Giê-su và Đức Giê-su trong các môn đệ (14,20b). Cấu trúc câu không có động từ đề cao sự “ở lại trong nhau.” Đó là một chân lý vượt ra ngoài, vượt lên trên không gian và thời gian, nên câu văn không cần có động từ để diễn tả  yếu tố thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai. Thực tại “các môn đệ trong Đức Giê-su” và “Đức Giê-su trong các môn đệ” luôn có giá trị vĩnh viễn.

Tóm lại, lời Đức Giê-su ở 14,20b là mặc khải quan trọng về tương quan và sự hiện diện của Đức Giê-su nơi các môn đệ. Sự “ở lại trong nhau” theo cả hai chiều: “Anh em trong Thầy và Thầy trong anh em” (14,20b) không hiểu theo luật vật lý, không thể nói cùng lúc A ở trong B và B ở trong A được. Lời mặc khải ở 14,20b được hiểu theo luật tương quan tình yêu, diễn tả sự hiệp thông và sự hiện diện tâm linh giữa những người yêu thương nhau. Từ nay, các môn đệ mọi nơi mọi thời thừa hưởng sự hiện diện thường xuyên của Đấng Phục Sinh ở nơi mình. Đề tài “ở lại” còn được triển khai cách mạnh mẽ ở 14,23, vì không chỉ Đấng Pa-rác-lê (14,16-17) và Đức Giê-su (14,18-20) ở lại nơi các môn đệ mà cả Chúa Cha nữa, Người đến và ở lại nơi họ (14,21-24).

3. Đức Giê-su và Cha “ở lại” nơi các môn đệ (14,21-24)

Người thuật chuyện kể ở 14,21-24: “21 Ai có các điều răn của Thầy [Đức Giê-su] và giữ chúng, người ấy là người yêu mến Thầy; mà ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, chính Thầy sẽ yêu mến người ấy và Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy. 22 Giu-đa, không phải Ít-ca-ri-ốt, nói với Người [Đức Giê-su]: ‘Thưa Thầy, tại sao lại xảy ra là Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con mà không cho thế gian?’ 23 Đức Giê-su trả lời và nói với ông ấy: ‘Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời của Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Tôi sẽ đến với người ấy và sẽ làm chỗ ở nơi người ấy. 24 Ai không yêu mến Thầy thì không giữ những lời của Thầy; và lời mà anh em nghe không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy.’”

Sự ở lại của “Chúng Tôi” (Chúa Cha và Đức Giê-su) nơi người yêu mến Đức Giê-su (14,23) được nhấn mạnh bằng hai cụm từ: “đến với người ấy” và “làm chỗ ở nơi người ấy” (14,23c). Kiểu nói: “Làm chỗ ở nơi…” có nghĩa là “làm chỗ ở để sống với.” Như thế, “người yêu mến Đức Giê-su” sẽ được Chúa Cha và Đức Giê-su “đến với”, “ở với” và “sống với” người ấy. Hai Đấng hiện diện nơi người ấy là vì tình yêu, bởi vì ai yêu mến Đức Giê-su thì được Chúa Cha và Đức Giê-su yêu mến (14,21.23).

Tiếng Hy lạp của danh từ “chỗ ở” trong cụm từ: “Làm chỗ ở (monên) nơi người ấy” (14,23c) là “monê”. Trong toàn bộ Tân Ước, danh từ “monê” (chỗ ở) chỉ xuất hiện 2 lần ở Ga 14,2.23 và hai lần này có liên hệ với nhau. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,2-3: “2 Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở (monai); nếu không, Thầy đã chẳng nói với anh em là ‘Thầy đi dọn chỗ cho anh em’. 3 Và nếu Thầy đi và dọn chỗ cho anh em, Thầy sẽ lại đến và đem anh em theo với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” Nếu tách 14,2-3 ra khỏi bối cảnh ch. 14, người ta có thể hiểu là Đức Giê-su đi về với Cha để chuẩn bị chỗ ở cho các môn đệ trong nhà Cha; và sau khi chết, các môn đệ sẽ về ở trong nhà Cha. Tuy nhiên, cách hiểu này không phù hợp với mạch văn ch. 14; bởi vì ở 14,23 Đức Giê-su nói đến hướng ngược lại: Chính Chúa Cha và Đức Giê-su sẽ đến và làm chỗ ở, làm nhà để ở nơi người yêu mến Đức Giê-su, đó là những người tin đang sống ở trần gian. Như thế, ngay bây giờ, ngay trong cuộc sống trần thế, “người yêu mến Đức Giê-su” đã được ở với Chúa Cha và với Đức Giê-su rồi, không cần chờ lúc chết mới được ở trong nhà Cha.

Mạch văn ch. 14 cho phép nối kết 2 lần danh từ “monê” (chỗ ở) xuất hiện ở 14,2.23 lại với nhau. Câu Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,3b: “Thầy lại đến và đem anh em theo với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”, không chỉ áp dụng cho các môn đệ sau khi họ chết, mà còn áp dụng cho thời kỳ sau biến cố Phục Sinh. Trong Tin Mừng Gio-an, biến cố Vượt Qua được trình bày qua hai giai đoạn nối tiếp nhau: (1) Đức Giê-su đi về với Cha trong biến cố Thương Khó và (2) Người lại đến với các môn đệ sau biến cố Phục Sinh. Hai đoạn này tóm tắt trong lời Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,28a: “Anh em đã nghe chính Thầy đã nói với anh em: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em.’” Ở 14,18 Đức Giê-su báo trước việc Người trở lại: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em.” Người sẽ gặp lại các môn đệ sau khi Người Phục Sinh. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và các môn đệ thế hệ đầu tiên bảo đảm sự hiện diện tâm linh của Đấng Phục Sinh nơi tất cả các môn đệ ở các thế hệ tiếp theo sau biến cố Phục Sinh.

Trong viễn cảnh này, lời Đức Giê-su khẳng định ở 14,2: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở (monai)” cần được hiểu chung với lời Đức Giê-su nói ở 14,23b: “Chúng Tôi [Chúa Cha và Đức Giê-su] sẽ đến với người ấy và sẽ làm chỗ ở (monên) nơi người ấy.” Trong hai câu trên, “nhiều chỗ ở” trong nhà Cha (14,2) song song với “làm chỗ ở” nơi người yêu mến Đức Giê-su (14,23b). Cả hai nơi (14,2.23) đều dùng danh từ “monê” (chỗ ở) với bổ ngữ khác nhau: “Chỗ ở trong nhà Cha” và “chỗ ở nơi ai yêu mến Đức Giê-su ở trần gian”. Như thế, khẳng định ở 14,23 cho phép hiểu lời Đức Giê-su hứa ở 14,3b: “Thầy sẽ lại đến và đem anh em theo với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” được thực hiện sau khi Người Phục Sinh, chứ không phải chờ đến khi các môn đệ chết.

Cách hiểu trên cho phép nối kết với lời Đức Giê-su nói với đám đông ở 12,32: “Phần Tôi, một khi được giương cao khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” Với biến cố Đức Giê-su được giương cao, được tôn vinh trên thập giá, Người đã kéo tất cả người tin lên với Người, nghĩa là các môn đệ đã được ở với Đức Giê-su trong nhà Cha của Người (14,2-3). Đồng thời, chính Chúa Cha và Đức Giê-su đến và làm chỗ ở nơi các môn đệ, là những người đang sống trong thế gian này (14,23b). Như thế đề tài “chỗ ở” trong ch. 14 được trình bày cách lạ lùng: các môn đệ có chỗ ở trong nhà Cha, ngược lại Chúa Cha và Đức Giê-su làm chỗ ở nơi các môn đệ. Cách trình bày trên diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn, và sự ở lại trong nhau giữa “Chúa Cha – Đức Giê-su – các môn đệ” ngay sau biến cố Phục Sinh. Mặc khải này là sự động viên và khích lệ lớn lao cho cộng đoàn Gio-an và cho người tin qua mọi thời đại.

II. YÊU MẾN ĐỨC GIÊSU VÀ GIỮ CÁC ĐIỀU RĂN CỦA NGƯỜI

Trong đoạn văn 14,15-24, đề tài “ở lại” không thể tách khỏi hai động từ: “yêu mến” (agapaô) và “giữ” (têreô). Điều Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,21a: “Ai có các điều răn của Thầy và giữ chúng, người ấy là người yêu mến Thầy” là nhắc lại điều Đức Giê-su đã nói ở 14,15: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.” Hai yếu tố mới trong tiểu đoạn 14,21-24 so với đoạn văn trước đó (14,15-20): (1) Tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Đức Giê-su dành cho người yêu mến và giữ các điều răn của Đức Giê-su, (2) Sự ở lại của Đức Giê-su và Chúa Cha nơi người ấy.  Để thấy liên hệ giữa “yêu mến”, “giữ các điều răn”, “giữ lời” và “ở lại”, phần sau sẽ trình bày các yếu tố song song trong bốn câu: 14,15.21.23.24 qua hai bảng: (1) Liên hệ giữa “yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của Người” (14,15 // 14,21); (2) Liên hệ giữa “yêu mến Đức Giê-su” và “giữ lời của Người” (14,23 // 14,24). Sau đây là bảng thứ nhất:

Hai câu song song: 14,15 // 14,21 cho thấy tương quan giữa (1) Yêu mến – giữ các điều răn(2) Giữ các điều răn – yêu mến, theo cấu trúc đồng tâm (A, B, B’, A’) với yếu tố C ở cuối. Trong cấu trúc này, A song song với A’, nói về “yêu mến Đức Giê-su”; B song song với B’, nói về “giữ các điều răn của Đức Giê-su”. Yếu tố C (14,21c) liệt kê các đặc ân dành cho ai yêu mến Đức Giê-su: người này được Chúa Cha và Đức Giê-su yêu mến và được Đức Giê-su tỏ mình ra cho. Bảng 2 sau đây trình bày tương quan giữa “yêu mến” và “giữ lời” ở 14,23-24:

Tương quan giữa “yêu mến” và “giữ lời” trong hai câu song song (14,23 // 14,24) được trình bày theo cấu trúc song song (A, B, C, A’, B’). Trong đó các yếu tố song song đối lập nhau: Yếu tố A: “Yêu mến Đức Giê-su” tương phản với A’: “Không yêu mến Đức Giê-su.” Yếu tố B: “Giữ lời (số ít) Đức Giê-su”, tương phản với B’: “Không giữ những lời (số nhiều) Đức Giê-su.” Yếu tố trọng tâm C (14,23c) lặp lại ý tưởng “được Chúa Cha yêu mến” đã nói ở 14,21c. Ý tưởng mới ở 14,23c là sự ở lại của “Chúng Tôi” (Chúa Cha và Đức Giê-su) nơi người yêu mến Đức Giê-su.

Trong ch. 14, động từ “agapaô” (yêu mến) xuất hiện 10 lần (14,15.21a.21b.21c.21d.23a.23b.24.28.31) và tập trung vào đoạn văn: 14,15-31 (nửa cuối ch. 14). Trong bốn câu (14,15.21.23.24) xuất hiện 8 lần động từ “agapaô” (yêu mến): 14,15  (1 lần);  21  (4 lần);  23  (2 lần);  24  (1 lần). Trong đó, 5 lần nói đến tình yêu dành cho Đức Giê-su (14,15a.21b.21c.23a.24a); 2 lần là tình yêu của Chúa Cha dành cho người yêu mến Đức Giê-su (14,21c.23c); và 1 lần nói về tình yêu của Đức Giê-su dành cho ai yêu mến Người (14,21c). (Xem cách dùng động từ “agapaô” (yêu mến) trong bài viết: “Đề Tài “Tình Yêu” Và “Tình Bạn” Trong Tin Mừng Gioan”).

Hai bảng trên làm rõ liên hệ chặt chẽ giữa hai động từ “yêu mến” (agapaô) và “tuân giữ” (têreô). Ở 14,21a, “giữ các điều răn của Đức Giê-su” chứng tỏ là “yêu mến Người” (14,21b). Trong khi, 14,15.23.24 trình bày theo hướng ngược lại: “Người yêu mến Đức Giê-su” (14,15a.23a) là “người giữ các điều răn của Người” (14,15b), “giữ lời (ton logon) của Người” (14,23b). Ý tưởng này được nhấn mạnh qua câu phủ định ở 14,24a: “Không yêu mến Đức Giê-su” thì “không giữ các lời (tous logous) của Người”. Lối trình bày đảo ngược hai động từ: “Yêu mến” thì “tuân giữ” (14,15.23.24) và “tuân giữ” thì “yêu mến” (14,21a) làm cho hai động từ này liên hệ chặt chẽ với nhau. Hai hành động này không thể tách rời nhau và bao hàm lẫn nhau, nghĩa là “yêu mến Đức Giê-su” đã hàm ẩn việc “giữ các điều răn” và “giữ lời của Người”. Ngược lại, việc “giữ các điều răn” và “giữ lời Đức Giê-su” đã hàm chứa tình yêu dành cho Người. Như thế, theo thần học Tin Mừng Gio-an, “giữ các điều răn” và “giữ lời” là do “yêu mến”. Đó là cách thức bày tỏ “tình yêu”, chứ không phải vì bắt buộc phải “giữ” hay vì trách nhiệm phải làm.

Tóm lại, hai câu 14,21 và 14,23, cho biết người “yêu mến Đức Giê-su” được thừa hưởng bốn đặc ân: (1) Được Chúa Cha yêu mến (14,21b.23b), (2) Được Đức Giê-su yêu mến (14,21c), (3) Được Đức Giê-su tỏ mình ra cho (14,21d), (4) Được Chúa Cha và Đức Giê-su đến và ở lại nơi mình (14,23c).

KẾT LUẬN

Sự “ở lại” của ba Đấng (Đấng Pa-rác-lê, Đức Giê-su và Chúa Cha) trình bày trong đoạn văn 14,15-24 là câu trả lời mạnh mẽ cho lời Đức Giê-su hứa với các môn đệ ở 14,18a: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi.” Không chỉ có Đức Giê-su đến với các môn đệ: “Thầy đến với anh em” (14,18b), mà Đấng Pa-rác-lê (Thần Khí sự thật), và Chúa Cha cũng đến và ở lại với các môn đệ. Đề tài “ở lại” của Ba Đấng, được trình bày cách độc đáo và có thể tóm kết qua ba nhận định sau:

(1) Đấng Pa-rác-lê ở lại trong các môn đệ mãi mãi (14,15-17). Sự “ở lại” này được nhấn mạnh bằng ba giới từ và hai động từ. Về giới từ, Đấng Pa-rác-lê “ở với” (metha), “ở giữa” (para) và “ở trong” (en) những ai yêu mến Đức Giê-su. Về động từ, Đức Giê-su dùng hai động từ: “ở” (eimi) và “ở lại” (menô) ở 14,16-17.. Đặc điểm của sự “ở lại” của Đấng Pa-rác-lê là “mãi mãi (aiôn)” (14,16b), vì thế sự “ở lại” này có ý nghĩa sống còn đối với cộng đoàn Gio-an và đối với người tin.

(2) Sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giê-su và các môn đệ được diễn tả qua lời mặc khải của Đức Giê-su cho các môn đệ ở 14,20b: “Anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.” Tương quan “Đức Giê-su – các môn đệ” giống với tương quan “Đức Giê-su – Cha”, vì Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,11b: “Thầy trong Cha và Cha trong Thầy.” Điều này cho thấy các môn đệ được hiệp thông sâu xa với Đức Giê-su theo cả hai chiều: Đức Giê-su ở trong các môn đệ và các môn đệ ở trong Đức Giê-su, đồng thời họ được tham dự vào tương quan mật thiết giữa Đức Giê-su với Cha của Người.

(3) Ai yêu mến Đức Giê-su thì được Đức Giê-su yếu mến, Chúa Cha yêu mến, và chính Chúa Cha và Đức Giê-su đến và làm chỗ ở nơi người ấy (14,21.23). Theo thần học Tin Mừng Gio-an, sau biến cố Phục Sinh, các môn đệ đã được Đức Giê-su kéo lên với Người (12,32) trong nhà Cha (14,2-3), đàng khác Chúa Cha và Đức Giê-su đến và ở lại nơi các môn đệ (14,23c), với điều kiện là họ yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người. Bản văn (14,2-3.23) trình bày cách nghịch lý như trên nhằm diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn và tương quan mật thiết giữa Chúa Cha, Đức Giê-su và các môn đệ, cũng như sự hiện diện liên lỷ của ba Đấng (Chúa Cha, Đức Giê-su và Đấng Pa-rác-lê) nơi người tin.

Đề tài “ở lại” của Đấng Pa-rác-lê, Đức Giê-su và Chúa Cha nơi các môn đệ như trên thực sự là mặc khải có ý nghĩa lớn lao. Sự ở lại trong nhau này (l’inhabitation réciproque) là nguồn động viên cho các môn đệ và củng cố niềm tin của họ. Từ nay, các môn đệ đã được hiệp thông, được ở với và sống với ba Đấng, vì thế không khó khăn nào có thể làm họ vấp ngã. Về phía các môn đệ, “một điều” cần thực hiện là “yêu mến Đức Giê-su”, “giữ các điều răn của Người” và “giữ lời của Người.” Nói là “một điều” vì theo cách trình bày của đoạn văn 14,15-24, hai động từ “yêu mến” (agapaô) và “tuân giữ” (têreô) liên kết chặt chẽ với nhau: “yêu mến” thì “tuân giữ” và ngược lại. Nói cách khác, “yêu mến” bao hàm “tuân giữ” và ngược lại. Vì thế các môn đệ chỉ cần “thực sự yêu mến Đức Giê-su” hay “thực sự tuân giữ giáo huấn của Người.” Làm như thế, các môn đệ (mọi người tin) sẽ trở thành người được Chúa Cha và Đức Giê-su yêu mến, và được hưởng đặc ân là có Chúa Cha, Đức Giê-su và Đấng Pa-rác-lê ở lại với họ./.

***

MỤC TỪ NGỮ

– agapaô, đt., yêu mến

– agapê, -ês, hê, dt., tình yêu

– phileô, đt., yêu thương

– philos, -ou, ho, dt., bạn hữu

1. agapaô, đt., yêu mến (37 lần)

* Động từ “agapaô” xuất hiện 37 lần, trong đó:

+ Ga 1–12: 7 lần với nghĩa tích cực (5 lần:3,16.35; 8,42; 10,17; 11,5) và nghĩa tiêu cực (2 lần: 3,19; 12,43).

+ Ga 13–17: 25 lần, trong đó:

   – Ch. 13: 6 lần: 13,1a.1b; 13,23; 13,34a.34b.34c.

   – Ch. 14: 10 lần trong 14,15-31:

                   14,15.21a.21b.21c.21d.23a.23b.24.28.31.

   – Ch. 15: 5 lần, trong 15,9-17: 15,9a.9b.12a.12b.17.

   – Ch. 16: động từ này không xuất hiện.

   – Ch. 17: 4 lần trong 17,23-26: 17,23a.23b.24.26.

+ Ga 18–21: 5 lần, 3 lần nói về môn đệ Đức Giê-su yêu mến (19,26; 21,7.20); 2 lần Đức Giê-su hỏi Phê-rô: “Anh có yêu mến Thầy không?” (21,15.16).

2. agapê, -ês, hê, dt., tình yêu (7 lần)

Danh từ “agapê” xuất hiện 7 lần ở Ga 5,42; 13,35; 15,9.10a.10b.13; 17,26.

Trong phần đầu Tin Mừng (Ga 1–12), chỉ có 1 lần danh từ “agapê” ở 5,42. Còn 6 lần khác ở trong Ga 13–17. Danh từ “agapê” xuất hiện lần thứ hai ở 13,35. Đoạn văn 15,9-13 có 4 lần từ “agapê” ở 15,9.10a.10b.13. Trong đó, 3 lần trong kiểu nói “ở lại trong tình yêu” (15,9.10a.10b).

Tóm lại, danh từ “agapê” và động từ “agapaô” xuất hiện chủ yếu trong Ga 13–17 và tập trung vào 4 đoạn văn:

– 13,34-35:     3 lần “agapaô”, 1 lần “agapê”.

– 14,15-31:     10 lần “agapaô”.

– 15,9-17:       5 lần “agapaô”, 4 lần “agapê”.

– 17,23-26:     4 lần “agapaô”,  1 lần “agapê”.

3. phileô, đt., thương mến (13 lần)

Động từ “phileô” xuất hiện 13 lần. Trong đó,

– 11 lần có nghĩa tích cực: Ga 5,20; 11,3.36; 16,27a.27b; 20,2; 21,15.16.17a.17b.17c (5 lần trong đoạn văn 21,15-17).

– 2 lần có nghĩa tiêu cực: 12,25 (yêu mạng sống mình) và 15,19 (thế gian yêu thích cái thuộc về nó).

Cùng gốc với danh từ “philos” (bạn hữu), động từ “phileô” có nghĩa: “thương”, “thương mến” trong tình bằng hữu (aimer d’amitié). Tùy theo văn mạch và âm điệu câu văn, động từ “phileô” có thể dịch sang tiếng Việt: “thương mến” (11,3), “thương”(11,36), “yêu” (12,25) hay “yêu thích” (15,19).

4. philos, -ou, ho, dt., bạn hữu (6 lần)

Danh từ “philosxuất hiện 6 lần trong Tin Mừng Gio-an:

– 3,29: Gio-an Tẩy Giả là bạn của chú rể.

– 11,11: La-da-rô bạn của Đức Giê-su và các môn đệ.

– 15,13.14.15: Các môn đệ là bạn hữu của Đức Giê-su.

– 19,12: Bạn của Xê-da.

***

Các Bài viết về đề tài tình yêu:

1Đề Tài “Tình Yêu” Và “Tình Bạn” Trong Tin Mừng Gioan.

2Ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh.

3- Ga 15,9-13: Dòng chảy tình yêu giữa Chúa Cha, Đức Giê-su và các môn đệ.

4- Ga 14,15-24: Đặc Ân Dành Cho Ai Yêu Mến Đức Giê-Su Và Giữ Các Điều Răn Của Người

.