Ga 1,1-18: Ngôi Lời Đã Làm Người

0
6476


Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

Bản Văn Tin Mừng: Ga 1,1-18 [1]

1  Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.

    Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,

    và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

2  Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.

3  Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,

     và không có Người,

     thì chẳng có gì được tạo thành.

     Điều đã được tạo thành

4  ở nơi Người là sự sống,

     và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.

5  Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,

     và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.

6  Có một người được Thiên Chúa sai đến,

     tên là Gio-an.

7  Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,

     để mọi người nhờ ông mà tin.

8  Ông không phải là ánh sáng,

     nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.

9  Ngôi Lời là ánh sáng thật,

     ánh sáng đến thế gian

     và chiếu soi mọi người.

10 Người ở giữa thế gian,

     và thế gian đã nhờ Người mà có,

     nhưng lại không nhận biết Người.

11 Người đã đến nhà mình,

     nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,

     thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.

13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,

     cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,

     hoặc do ước muốn của người đàn ông,

     nhưng do bởi Thiên Chúa.

14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm

     và cư ngụ giữa chúng ta.

     Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,

     vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,

     là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.

15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố:

     “Đây là Đấng mà tôi đã nói:

     Người đến sau tôi,

     nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”.

16 Từ nguồn sung mãn của Người,

     tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.

17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,

     còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.

18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;

     nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa

     và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,

     chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

***

 

1.- Ngữ cảnh

Mười tám câu đầu tiên của Tin Mừng thứ IV được nhiều học giả coi như là một Lời Tựa long trọng của tác phẩm: giọng văn của phân đoạn này cũng như các đề tài chính của Tin Mừng được hàm chứa trong đó biện minh cho nhận định này.

Đối với những tác giả khác, Lời Tựa là như phần Mở của Tin Mừng, theo nghĩa là một vở nhạc kịch có một phần mở: các đề tài chính sẽ được nhắc lại trong phần thân của Tin Mừng (sự sống, ánh sáng, sự thật, vinh quang, Con, tin, làm con Thiên Chúa, thế gian, bóng tối, v.v…).

Lại có những tác giả khác cho rằng Lời Tựa là một bản văn theo đúng quy luật viết văn thời Thượng Cổ Hy Lạp và Latin nhằm giúp độc giả hiểu các mục tiêu của bài tường thuật đến sau, nghĩa là cung cấp cho độc giả các phương tiện giúp họ biết được đối tượng và diễn tiến của bài tường thuật (Zumstein).

Cuối cùng, có một số tác giả cho rằng các câu 1-18 còn hơn là một lời tựa hay một phần mở nữa; các câu ấy chính là Tin Mừng trong một cái nhìn tổng hợp và sâu sắc, tất cả phần còn lại chỉ lấy lại sứ điệp mà diễn tả chi tiết bằng những câu truyện, qua đó ta thấy Ngôi Lời đã đến trong thế gian này và chia loài người thành hai khối trước mặt Người cách nhiệm mầu.

Tuy nhiên, cũng có những khác biệt quan trọng giữa Lời Tựa và Tin Mừng. Thể thơ trong các câu 1-5.9-12.14-18 chỉ có ở trong Lời Tựa. Dung mạo trung tâm của Lời Tựa là “Lời” (Logos) sẽ không bao giờ được nhắc đến nữa trong phần còn lại của Tin Mừng. Một số từ ngữ quan trọng tập trung trong các câu 14-18, chẳng hạn: “ân sủng” (charis), “sung mãn” (pléroma)“ở trong lều (= cư ngụ)” (skénoun) không thấy xuất hiện ở chỗ nào khác ngoài Lời Tựa…

Những điểm tương đồng và dị biệt giữa Lời Tựa và Tin Mừng đã khiến các nhà chú giải đi đến ba kiểu nhận định về cách soạn thảo Lời Tựa:

– Bởi vì có nhiều điểm tương đồng, một số vị cho rằng cùng một tác giả đã soạn Lời Tựa và Tin Mừng.

– Do có những khác biệt, những vị khác nghĩ rằng Lời Tựa không phải là công trình nguyên thủy của tác giả, nhưng là một bài thơ hay là một bài thánh ca có sẵn đã được cải biên để mở đầu Tin Mừng. Tuy nhiên, lập trường này không thể giải thích được vì sao trong bài thơ gốc ấy lại có quá nhiều từ ngữ chuyên biệt của Tin Mừng thứ IV như vậy (ví dụ: sự sống, ánh sáng, bóng tối, làm chứng, thế gian, vinh quang,…).

– Một số vị cho rằng, Lời Tựa là một thánh ca Kitô học truyền thống, có lẽ đã được sáng tác ra trong cộng đoàn Gioan, và đã được tác giả Tin Mừng đặc biệt cải biên thành một phần mở của Tin Mừng. Ý kiến này được hỗ trợ bởi các điểm tương đồng về từ vựng và đề tài giữa Lời Tựa và phần còn lại của Tin Mừng cũng như bởi các thánh ca Kitô học trong một số thư Phaolô (x. Pl 2,6-11; Cl 1,15-20; 1Tm 3,16).[2]

Dù thế nào đi nữa, hiện nay Lời Tựa có đó như một dẫn nhập tuyệt vời vào Tin Mừng thứ IV. Hầu như chắc chắn là Lời Tựa, cũng như phần Kết của Tin Mừng, đã được thêm vào sau khi quyển Tin Mừng đã được viết xong. Như thế, Lời Tựa có thể được coi như một suy tư vừa để nghiền ngẫm vừa để đánh giá Tin Mừng, do tác giả và cộng đoàn ngài đã ghi lại trong quyển Tin Mừng vừa mới hoàn tất, đặc biệt về lời công bố của quyển Tin Mừng là bản thân Đức Giêsu là Đấng Messiah và Con Thiên Chúa. Lời Tựa có thể được coi như “lời chú giải có uy tín và chính lục” cổ nhất về quyển Tin Mừng thứ IV. Nó cũng cung cấp chìa khóa để chú giải Tin Mừng thứ IV (Collins). Và như vậy, Lời Tựa chỉ “hoàn toàn hiểu được” đối với người nào “biết trọn quyển Tin Mừng” (Bultmann). Chúng ta có thể tóm tất cả các quan điểm trên đây bằng nhận định của Zumstein: “Lời tựa xác định quy chế thần học của truyện Đức Giêsu trần thế. Truyện này phải được hiểu như là truyện về cuộc nhập thể của Lời Thiên Chúa, như hành vi yêu thương của Thiên Chúa, cho Logos của Ngài nhập thể để cống hiến cho loài người sự sống viên mãn. Truyện Đức Giêsu trần thế phải được hiểu như là cử chỉ mạc khải tuyệt hảo”.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

     1) Ngôi Lời Thiên Chúa là Sự Sống và Ánh sáng (1,1-13):

          a) Lời ban sự sống (1,1-5),

          b) Gioan là chứng nhân (1,6-8 [15]),

          c) Ngôi Lời là ánh sáng thật (1,9-13);

     2) Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng và sự thật (1,14.16-18).

3.- Vài điểm chú giải

– Lúc khởi đầu (1): Đây là những từ đầu tiên của sách Sáng Thế, nhắm tới không phải là khởi đầu thời gian của thế giới, nhưng là khởi đầu tuyệt đối (x. St 1,1).[3] Dĩ nhiên, tác giả không thể biết được điều gì ở “lúc khởi đầu”, vì chưa có gì cả, kể cả loài người. Thật ra Lời Tựa là một lời tuyên xưng niềm tin, được gửi đến các độc giả để mong chia sẻ.

– Có (1): Động từ “én” (was, était) ở thì vị-hoàn (imperfect) diễn tả sự kéo dài: Lời luôn hiện hữu cách siêu vời và vĩnh cửu.

– Lời (1): Đối với người Semite, “lời” không phải chỉ là một âm thanh của tiếng nói, sẽ tan biến đi theo nhịp độ ta phát ra. Theo họ, một khi lời con người đã được nói ra, thì tồn tại như một sức mạnh huyền nhiệm, luôn luôn làm việc để tạo ra cái mà lời ấy diễn tả, về mặt tốt hay xấu. Trong Tân Ước, Đức Giêsu không bao giờ tự xưng là “Lời” và cũng chưa bao giờ được gọi như thế ngoài những bản văn Gioan. Nhưng trong các bản văn Cựu Ước và Tân Ước, có những chuẩn bị cho giáo lý của Tin Mừng thứ IV về Ngôi Lời. Chẳng hạn, có ba trào lưu tư tưởng nhắm nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan, Lề Luật và Lời Thiên Chúa (Cn 8,22t; Hc 24,22t; Is 55,10t; Kn 18,14t),[4] cũng như có khuynh hướng đồng hóa sự Khôn Ngoan với Lời Thiên Chúa, thậm chí đồng hóa Lề Luật với Lời (Hc 24,1.3.22t).[5] Đàng khác, trong các bản văn đầu tiên của Tân Ước, Lời có nghĩa là sứ điệp cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô, và thánh Phaolô đã trình bày Đức Kitô như là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và gán cho Lời những phẩm tính tương tự các phẩm tính của Đức Giêsu Kitô (Cv 8,4; 19,20; 1 Cr 1,24; Pl 2,16).[6]

– Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa (2): Giới từ “pros” cho thấy một sự hướng chiều về một người nào. Tách khỏi Cha được gọi là Thiên Chúa, Ngôi Lời cũng ở trong một sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa Cha.

– Nhờ Người, vạn vật được tạo thành (3): Dịch sát là “nhờ Người, mọi sự đã trở thành (egeneto)”. Động từ “egeneto” cũng được Bản Kinh Thánh Hy Lạp LXX sử dụng trong St 1,3,[7] diễn tả rất rõ việc tạo thành mọi sự “từ không có gì” (a nihilo) (x. Ga 17,24).[8] Thiên Chúa nhờ trung gian của Ngôi Lời mà tạo thành vạn vật. Cựu Ước đã gán công cuộc tạo dựng thế giới cho Lời Thiên Chúa (Tv 33,6.9; 147,15-18; Is 40,26; 48,3; Kn 9,1; x. St 1,3) [9] hoặc cho Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa (Cn 8,27-30; Kn 7,12; 8,4; 9,9).[10]

– Không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành lại đã được tạo thành (3): Chỗ cắt giữa câu 3 và câu 4 là một vấn đề được tranh luận rất nhiều. Bởi vì cả truyền thống thủ bản lẫn ngữ pháp không cho phép vĩnh viễn giải quyết cuộc tranh luận, thì phải giải quyết bằng chú giải. Nếu ghép câu 3c với câu 4a, có thể đọc câu 3 theo nhiều cách:

+ Những gì đã được tạo thành thì là sự sống nơi Người;

+ Những gì đã được tạo thành, trong những cái đó (tức trong thế gian) có sự sống;

+ Những gì đã được tạo thành, trong những cái đó, “Logos” là sự sống;

+ Những gì đã được tạo thành nơi Người, đó là sự sống.

Tất cả các cách dịch và giải thích đó, vì gán cho từ ngữ “sự sống” ý nghĩa là sự sống tự nhiên, chung cho mọi sinh vật, đều vấp phải một vấn nạn căn bản như nhau, đó là chưa nói đến những khó khăn riêng của mỗi kiểu dịch. Quả thế, cho dù không có kèm theo tính từ “đời đời/vĩnh cửu”, “sự sống” thường được nói đến trong Tin Mừng thứ IV luôn luôn là sự sống đời đời mà Đức Kitô mang đến cho loài người: loài người nhận được sự sống đó chính là được cứu độ. Đàng khác, ngữ cảnh gần lại cho thấy: mệnh đề kết hợp (coordinate) tiếp đó lấy lại từ “sự sống” với quán từ:[11] Tin Mừng bảo chúng ta rằng, sự sống vừa nói đó là “ánh sáng cho nhân loại”. Do đó, chắc chắn sự sống đó phải là sự sống thần linh, lúc đầu có từ muôn đời trong Ngôi Lời, rồi được Người thông ban cho loài người.

Câu 3 là câu thơ ở thể biền ngẫu đối nghĩa, nhằm nêu bật rằng, Ngôi Lời đóng vai trò trung gian tuyệt đối trong công trình tạo dựng.

– Ngôi Lời là ánh sáng thật (9): Đây là một biểu tượng quan trọng của Tin Mừng thứ IV để nói về vai trò của Ngôi Lời. Tác giả sẽ dùng công thức “ánh sáng cho trần gian” như một dấu hiệu ở ngay đầu sách, để giúp độc giả nhạy cảm với cặp biểu tượng ánh sáng/bóng tối mỗi khi nó xuất hiện: khi nghe Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian” (Ga 8,12), độc giả sẽ hiểu chiều kích biểu tượng của việc chữa cho người mù bẩm sinh thấy, là tin vào Đức Kitô (x. Chương 9). Rồi độc giả cũng sẽ hiểu tại sao Judas bỏ Đức Giêsu ban đêm (Ga 13,30), tại sao Maria Magdalena đến mộ khi trời còn tối (Ga 20,1), hoặc tại sao các môn đệ ở Chương 21 đã đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì cho tới khi gặp Đấng Phục Sinh vào buổi sáng.

– Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người (12): Tin vào ai có nghĩa là hoàn toàn gắn bó với người ấy, đặt mọi sự dựa vào người ấy, tin tưởng hoàn toàn vào người ấy. Đây là thái độ căn bản của con người đối với Đức Giêsu. Có 33 lần, tác giả nói đến “tin vào Đức Giêsu”, chỉ 1 lần “tin vào Thiên Chúa” (Ga 14,1). “Tin vào danh” là một công thức hiếm hơn (Ga 1,12; 2,23; 3,18; 1Ga 5,13) [12] và luôn luôn quy về Đức Giêsu; công thức này có nghĩa là đặt tất cả sự tin tưởng vào tư cách của con người được nêu tên.

– Ngôi Lời đã trở nên người phàm (14): Dịch sát là “đã trở thành xác thịt/xác phàm”. Từ ngữ “xác thịt” (sarx) trong Kinh Thánh không nhắm đến một phần của con người, hoặc thậm chí thân xác của người ấy, mà là con người toàn vẹn, nhưng yếu đuối và mỏng giòn mong manh, một hữu thể phải chịu đau đớn và phải chết.

– Chúng tôi (14.16; x. Ga 21,24): “Chúng tôi” đây là ai? Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi “chúng tôi” ở bên cạnh các đại từ chỉ ngôi khác, chẳng hạn 1Ga 1,1-4 (1Ga 4,2 đưa đến Ga 1,14).[13] Đàng khác, “chúng tôi” được dùng với sắc thái làm chứng: Ga 21,24 đưa về 19,35 [14] và đưa đến cả 3Ga 1,12.[15] Phải chăng đại từ “anh em” (you) của Ga 15,26-27 [16] là nguồn của từ “chúng tôi” kia? Dường như tất cả những ai đã nhận được lệnh làm chứng về Chúa Kitô trong Ga 15,26-27 không phải là những người xuất hiện trong Tin Mừng thứ IV và trong các Thư với đại từ “chúng tôi”. Cuối cùng, sau khi đã khảo sát, chúng ta nhận ra ba khả thể:

+ 1) “Chúng tôi” đây là loài người nói chung;

+ 2) là các tín hữu hay các thành viên của cộng đoàn;

+ 3) Các chứng nhân đứng đầu cộng đoàn, chịu trách nhiệm ít nhiều về việc soạn thảo Tin Mừng và các Thư.

Thật ra trong mỗi “chúng tôi”, đều có một cái “tôi” nổi bật, được một nhóm người đi theo. “Chúng tôi” không phải là “tôi” được nhân lên, nhưng là “tôi” như phát ngôn nhân của nhóm (pluralis modestiae). “Chúng tôi” bao gồm (inclusive) thì tương đương với “tôi” + “anh em” = dịch là “chúng ta”. “Chúng tôi” loại trừ (exclusive) thì tương đương với “tôi” + “họ” = “chúng tôi”. Trong ngôn ngữ Hy Lạp của Tân Ước, và nói chung, Kinh Thánh ngôn ngữ Hy Lạp, không có “chúng tôi cung kính” (pluralis maiestatis). Rất có thể “chúng tôi” đây là những vị hữu trách của cộng đoàn.

– Chúa Cha (14.18): Tin Mừng thứ IV dùng từ “Cha” để gọi Thiên Chúa 122 lần trong tương quan với Đức Giêsu; chỉ có 3 lần là “Cha của loài người” (Ga 8,41-42 [2x]; 20,17 [1x]).[17] Cũng trong Tin Mừng này, chỉ Đức Giêsu được gọi là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa riêng, trên một bình diện bình đẳng và đồng phân với Thiên Chúa; loài người không được gọi là “con”, mà là “tạo thành” của Thiên Chúa.

– Ân sủng và sự thật (17): Luật thế đôi (hendiadys) để nói là “ân sủng sự thật” hoặc “sự thật là ân sủng”. Sự song đối giữa câu 17a và 17b không phải là một sự đối lập, nhưng là một đỉnh điểm (climax). Hai vế này có mục đích giải thích cụm từ “hết ơn này đến ơn khác” (charin anti charitos) của câu 16. Cả Luật Moses lẫn mạc khải của Đức Giêsu đều là quà tặng do lòng quảng đại của Thiên Chúa. Cả hai hình thái mạc khải này đều phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất: Logos Thiên Chúa, Đấng đã soi sáng cho Moses.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Mỗi tác giả Tin Mừng bắt đầu theo cách của mình. Tác giả Matthew liên kết với lịch sử cứu độ: ngài tức khắc giới thiệu Đức Giêsu Kitô như là con cháu vua David và con cháu tổ phụ Abraham (Mt 1,1-17).[18] Tác giả Marco quy chiếu về công việc rao giảng Tin Mừng hiện tại: Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1-15).[19] Tác giả Luca bắt đầu tác phẩm theo cách các sử gia cổ thời, với một lời tựa, cho biết ngài tiến hành có lớp lang (Lc 1,3): ở Lc 1,31, ngài giới thiệu tên Đức Giêsu lần đầu và ở Lc 2,11, ngài cho biết địa vị của Đức Giêsu.[20] Còn tác giả Gioan, trước khi gọi tên Đức Giêsu Kitô ở Ga 1,17, thì ở 1,1-13, đã nêu lên những đặc điểm của Đức Giêsu và ở Ga 1,14-18, mô tả hình thức, các nội dung và những điểm liên can đến biến cố Đức Giêsu đến trần gian.

* Ngôi Lời Thiên Chúa là Sự Sống và Ánh sáng (1-13)

Đối với tác giả Tin Mừng thứ IV, Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời. Bằng danh xưng này, ngài muốn diễn tả ra thực tại thâm sâu nhất của Đức Giêsu, sự kiện Người nhiệm xuất từ Thiên Chúa và tầm quan trọng của Người đối với loài người chúng ta. Dân Israel nhận biết vị Thiên Chúa của riêng mình như là Đấng nói với họ: không phải như vị Thiên Chúa khép kín mình lại và giam mình trong cõi thinh lặng, vị Thiên Chúa vô danh, xa cách và gây ra sợ hãi, nhưng như vị Thiên Chúa ngỏ lời với họ và cho họ biết các ý định và ý muốn của Ngài. Ngài đã nói với Abraham, đã gọi ông và đã ban cho ông lời hứa là muôn dân được chúc phúc (x. St 12,1-3).[21] Qua trung gian Moses, Ngài đã giải phóng dân Ngài khỏi kiếp nô lệ và đã cho biết ý muốn của Ngài đặc biệt trong “Thập Điều”. Nhờ các ngôn sứ, Ngài đã can thiệp vào trong các tình cảnh khác nhau của lịch sử dân Ngài. Ngài đã ngỏ lời với họ, để cho họ truyền đạt như là lời khuyên nhủ, lời khuyến cáo, lời hứa và lời động viên. Lời Thiên Chúa ở tại khởi đầu của toàn thể lịch sử. Bằng Lời tạo dựng quyền năng, Thiên Chúa đã gọi mọi sự ra hiện hữu. Nhờ Lời này, Thiên Chúa giao tiếp với các tạo thành của Ngài, tự mạc khải ra cho họ, cho họ được thông dự vào tất cả dự phóng và ý muốn của Ngài về họ. Lời Thiên Chúa đã ban sự hiện hữu và sự sống. Lời này ngỏ với chúng ta, và kêu gọi chúng ta dấn thân. Lời này vừa là yêu cầu vừa là lời hứa. Lời này đến từ Thiên Chúa, làm nền tảng và xác định tương quan giữa Thiên Chúa và loài người.

Đức Giêsu Kitô không chỉ truyền đạt Lời Chúa như một ngôn sứ, nhưng Người chính là Lời này, Lời đầu tiên và Lời cuối cùng của Thiên Chúa. Nơi Người, Thiên Chúa tự mạc khải ra vĩnh viễn và chan hòa, Thiên Chúa nói với chúng ta và cho ta được biết Người. Khi Người ngỏ lời với chúng ta, thì cũng luôn luôn có một yêu cầu, một đòi hỏi phải trả lẽ. Các đặc điểm của Lời Thiên Chúa này là thế nào, Người đến từ những chiều sâu nào, Người có tương quan thế nào với toàn thể tạo thành, tương quan với Người thì đưa lại điều gì cho loài người chúng ta, tất cả những điểm này đều được tác giả Gioan đã mô tả trong Ga 1,1-13.

Lời đang ở nơi Đức Giêsu Kitô đã được chuyển đến cho loài người chúng ta không phải để vang lên rồi tắt mất, nhưng Lời ấy vĩnh cửu và trường tồn như Thiên Chúa: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa” (Ga 1,1-2). Tương quan của Ngôi Lời Thiên Chúa với chính Thiên Chúa được xác định ở đây với ba ý: Ngôi Lời thì vĩnh cửu và vô tạo như Thiên Chúa; Người sống trong sự hợp nhất trường tồn với Thiên Chúa; Người là Thiên Chúa theo cùng một cách như Thiên Chúa là Thiên Chúa. Ba điểm này được tóm trong câu 2, được nhắc lại và khẳng định như là bất biến. Chúng nêu lên bản chất sâu xa nhất, đặc tính chính yếu và tư cách của Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa: Tin Mừng thứ IV nói với chúng ta về hành trình, các lời nói và các hành động của Người trên mặt đất. Trong tất cả những gì Đức Giêsu làm, ta thấy được điều này: Người không phải là người mang các lời của Thiên Chúa, mà là chính Lời Thiên Chúa, Lời vững chắc và đáng tin như chính Thiên Chúa trong thần tính sâu xa và cao cả của Ngài.

Kinh Thánh mở ra với khẳng định: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Ngược lại, Tin Mừng thứ IV không mở đầu bằng lời khẳng định: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo Lời”, nhưng bằng lời khẳng định: “Lúc khởi đầu đã có [Ngôi] Lời”. Giống như Thiên Chúa, Ngôi Lời không được tạo thành, nhưng hiện hữu từ muôn đời, sống trước cuộc tạo dựng, không có khởi đầu và không có kết thúc, vĩnh cửu và không ai trổi vượt hơn. Ngôi Lời vĩnh cửu này ở bên Thiên Chúa từ muôn đời. Người là một đối tác hằng sống của Thiên Chúa và liên kết với Thiên Chúa bằng một sự hợp nhất vĩnh cửu và không có trung gian. Sự hợp nhất này xảy ra ngay trên bình diện Thiên Chúa; các đối tác bình đẳng với nhau. Ở đây không phải là tương quan giữa Đấng Tạo Hóa và tạo thành. Ngôi Lời có bản tính Thiên Chúa, phẩm cách Thiên Chúa, Người có cùng bình diện hiện sinh của Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa, Thiên Chúa thế nào thì Người cũng là như thế. Chỉ khởi đi từ tương quan của Người với Thiên Chúa, ta mới có thể hiểu được tầm quan trọng và giá trị, quyền năng và sự viên mãn của Ngôi Lời.

Từ muôn thuở muôn đời và vô biên trước tương quan Tạo Hóa – tạo thành, có tương quan Thiên Chúa – Lời Thiên Chúa. Bây giờ tương quan của Ngôi Lời với tạo thành mới được nói đến: “Nhờ [Ngôi] Lời, vạn vật được tạo thành”. Khẳng định này lại được nhắc lại và nhấn mạnh: “Và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3). Toàn thể tạo thành nhờ Lời Thiên Chúa mà có (x. 1 Cr 8,6; Cl 1,16; Dt 1,2),[22] lệ thuộc vào Người mà hiện hữu. Ngôi Lời sống trong sự hợp nhất vĩnh cửu với Thiên Chúa. Người gắn bó với tạo thành ngay từ thuở ban đầu, nhưng trong bản tính, Người là Lời Thiên Chúa. Do đó, khi đến trần gian, Người không thiết lập một tương quan mới với tạo thành, Người không đi vào một xứ sở xa lạ, nhưng Người đến nhà của Người, đến với sản nghiệp của Người (Ga 1,9-11). Khởi đi từ những tương quan căn bản của Người, Người nhắm tới việc thông truyền và liên kết, Người là Lời Thiên Chúa quay hướng về tạo thành của Người.

Tương quan đặc biệt của Ngôi Lời với loài người được diễn tả bằng sự sống và ánh sáng. Trong Cựu Ước, có lời khẳng định: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105) và: “Lạy Chúa, thân con bị muôn phần khổ nhục, theo lời Ngài, xin cho con được sống” (Tv 119,107). Đặc tính căn bản của Ngôi Lời chắc chắn là sự sống vô cùng viên mãn, tức không có chút gì là bóng tối sự chết và giới hạn nơi Người. Như thế, Ngôi Lời có đặc điểm như Thiên Chúa, với lại Người là Thiên Chúa hằng sống (x. Ga 5,26).[23] Nhờ sự sống viên mãn không hề cạn kiệt của Người, Ngôi Lời trở thành ánh sáng cho loài người đang sống trong bóng tối và tiến về sự chết. Ngôi Lời là ánh sáng chiếu soi, ánh sáng làm cho mọi sự nên rõ ràng và làm cho ta có thể sống và định hướng đời mình.

Nhưng đến đây, lần đầu tiên, tác giả cho thấy công trình của Ngôi Lời gặp một sức mạnh đối nghịch. Bóng tối ngăn cản loài người nhận được ảnh hưởng của ánh sáng. Toàn thể Tin Mừng thứ IV nói đến cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng ánh sáng vẫn tỏa rạng và thắng vượt. Cuối cùng, có lời loan báo chiến thắng, tiên báo kết quả của trận đấu: “Bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1,5). Ánh sáng mạnh mẽ và mang sự sống tiếp tục chiếu soi loài người.

Sau khi nhìn lần đầu tiên đến chứng nhân Gioan, tác giả giải thích lần cuối cùng biến cố Ngôi Lời đến trong thế gian (Ga 1,9-13). Người đến như là ánh sáng thật soi chiếu mọi người. Tuy nhiên, cách thức đón tiếp khác nhau. Hai lần tác giả nói rằng Ngôi Lời bị xua trừ. Người đã ở trong thế gian, nhưng thế gian, tuy vẫn nhờ Người mà hiện hữu, lại không nhận biết Người; tạo thành bị mù lòa và cứ muốn ở trong tình trạng mù lòa khi ở trước Đấng Tạo nên mình. Từ ngữ “người nhà” một lần nữa cho thấy thế giới con người là sở hữu của Đấng tạo thành nó, hoặc Israel là dân của Thiên Chúa (x. Tv 135,4).[24] Người nhà của Người đã muốn đẩy Người ra cửa, chứ không muốn có Người ở với họ. Thế mà không những Người đã tạo thành họ, Người còn xuống để đi tìm họ trong thế giới của họ.

Nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa cũng có được tiếp đón. Người ta tiếp đón Người bằng đức tin, nhờ đó họ trở thành con Thiên Chúa. Tin là một quyết định cá nhân, một thái độ của ý chí con người. Đối với Tin Mừng thứ IV, “tin vào/tin vào danh” là thái độ căn bản mà con người phải có đối với Đức Giêsu. Theo Ga 3,18 (x. 1Ga 5,13),[25] danh của Ngôi Lời là “Con Một Thiên Chúa” (x. Ga 1,14.18). Như thế, chúng ta đón tiếp Ngôi Lời khi nhận biết Người là Con Một của Thiên Chúa và hoàn toàn tín thác vào Người.

Tất cả những ai tin vào Ngôi Lời Thiên Chúa thì được ban cho quyền trở nên con Thiên Chúa. Tương quan của một người cha với các con có đặc điểm là người cha truyền thông sự sống cho các con và họ sống một dây liên kết riêng tư thân tình. Các con của Thiên Chúa là những người có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa và có thể sống hợp nhất với Ngài. Sự sống này hoàn toàn khác với sự sống trần gian: trong sự sống này, loại trừ một loạt những nhân tố cho thấy nguồn gốc của sự sống trần gian tự nhiên (Ga 1,13). Được sinh ra lần nữa bởi Thiên Chúa (x. Ga 3,3),[26] chúng ta trở thành con của Ngài, chúng ta có sự sống đời đời, được thông dự vào chính sự sống của Ngài. Sự tái sinh này tùy thuộc niềm tin đặt nơi Con Một Thiên Chúa.

* Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng và sự thật (14.16-18)

Ngoại trừ tên của chứng nhân Gioan (Ga 1,6), trong phần thứ nhất của Lời Tựa, chúng ta không gặp bất cứ tên người nào. Sau khi tác giả đã nói nhiều điều về Ngôi Lời Thiên Chúa, phát sinh các câu hỏi: Người ở trong thế gian như thế nào? Ta tìm ra Người ở đâu? Ai đã gặp Người? Người có gì mà thông ban cho chúng ta?

Trong phần thứ hai (Ga 1,14-18), các tên người được gom lại với nhau: một nhóm đi vào sân khấu, với tên gọi “chúng ta/chúng tôi” (Ga 1,14.16). Các khẳng định đan quyện vào nhau. Trước khi khẳng định rằng, Ngôi Lời đã làm người (= đã thành xác phàm) có đầy ân sủng chân lý (Ga 1,14), tác giả nói rằng: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1,14). Và trước khi nói rằng: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”, tác giả nêu bật chứng tá của Gioan [Tẩy Giả] (Ga 1,15). Chứng tá có tầm quan trọng đặc biệt cho khả năng thấy của nhóm “chúng ta/chúng tôi” (x. Ga 1,29.30.36).[27] Tác giả Tin Mừng hẳn là đang nhắm đến một kinh nghiệm phi thường khiến ngài như nghẹt thở, và dường như ngài diễn tả điều này khi nêu lên chuỗi các khẳng định đan quyện nhau. Kinh nghiệm lớn lao duy nhất, cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời làm người, hẳn là tác giả muốn diễn tả tất cả ngay trong một lần, trong khi kinh nghiệm ấy chỉ có thể thông tri dần dà, từng phần một.

Ngôi Lời như là ánh sáng thế gian đã đến (Ga 1,9), điều này được thể hiện trong việc Người “thành xác phàm”, trong việc Người “làm người”. “Trở thành xác phàm” có nghĩa là Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành một con người thật sự, mỏng giòn và phải chết, và bằng cách đó Người đã đến hiện diện trong thế gian như là ánh sáng cho loài người. Ngôi Lời vô tạo, luôn ở trong một tương quan vĩnh cửu và sống động với Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa, nay vẫn không thôi là Lời Thiên Chúa ấy, lại đồng thời trở thành một con người tất tử.

Trước khi nêu tên của con người ấy, cũng là Lời Thiên Chúa, là người thật và là Thiên Chúa thật, tác giả Tin Mừng thứ IV phác ra các đặc điểm của sự hiện diện thường trực của Người với loài người. Ngôi Lời không chỉ đến phớt qua rồi biến mất ngay, nhưng đã sống lâu dài trong và với cộng đồng loài người: Người đã cư ngụ giữa họ. Tác giả cũng mô tả cuộc gặp gỡ lạ lùng ngài đã có với Đấng ấy: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1,14). Không phải là một con người đơn lẻ, nhưng là một nhóm đã được gặp Ngôi Lời đã trở thành xác phàm. Bởi vì ngài nói đến “chúng ta/chúng tôi”, tác giả Tin Mừng coi mình thuộc về nhóm này. Đây là nhóm các môn đệ; họ đã được sống hiệp thông trực tiếp với Đức Giêsu và hiểu thực tại đích thật của Người (x. Ga 2,11; 20,30).[28] Họ đã được thấy “vinh quang của Con Một Chúa Cha” (Ga 1,14). Cựu Ước đã nói đến “vinh quang của Thiên Chúa” vào dịp các cuộc tỏ mình của Thiên Chúa (x. Xh 24,16-17; Ed 1,28).[29] “Vinh quang” này không phải là bất cứ thứ huy hoàng lộng lẫy nào, nhưng là nguồn sáng chói lọi trong đó ta trải nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên Chúa, nay hiện diện như là con người phải chết và ẩn giấu, trở thành thấy được cho các môn đệ trong thực tại đích thực của Người. Các môn đệ đã được sống cuộc tỏ mình cho thấy bản thân thâm sâu của Ngôi Lời, khiến họ nhạn được ánh sáng (Ga 1,4.9) và hết sức vui mừng (x. 1Ga 1,4).[30]

Đến đây đã rõ là Ngôi Lời chính là Con duy nhất và vô song của Thiên Chúa, mà Chúa Cha đã cử đến trần gian. Tác giả diễn tả tương quan có một không hai này nhiều cách: Thiên Chúa hầu như chỉ là “Cha” của Đức Giêsu, và chỉ Đức Giêsu mới là “Con” của Thiên Chúa.

Ngôi Lời làm người, Chúa Con được Chúa Cha sai phái đến thế gian, là Đấng “đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Công thức này cho biết điều gì đã được ban cho loài người nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời, điều gì các môn đệ đã nhận được khi hiểu rõ ràng bản thân Ngôi Lời (Ga 1,16). Nhờ Đức Giêsu, là chính Sự Thật của/về Thiên Chúa, đã được ban xuống cho chúng ta như “quà tặng” (= ân sủng), ân sủng sự thật đã có đó (Ga 1,17; x. Ga 14,6).[31] “Ân sủng sự thật” chính là mạc khải về một thực tại cho đến nay vẫn còn ẩn giấu, nay được ban như một quà tặng, được ban “nhưng không”. Vì Người là “sự thật”, Người cho chúng ta được biết một phương diện hoàn toàn mới của Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Trong thân phận là Con, Người mạc khải về Thiên Chúa như là Cha: ta không thể biết Đức Giêsu như Con Thiên Chúa mà không đồng thời biết Thiên Chúa như là Cha của Đức Giêsu. Được biết rõ như thế về Thiên Chúa là một ân sủng, là một sự chiếu cố nhân ái của Thiên Chúa đối với loài người.

Để cho thấy đây là một điều mới mẻ, tác giả so sánh với Cựu Ước. Nhờ trung gian Moses, Lề Luật đã được ban cho dân Chúa. Lề Luật này là lời Thiên Chúa, dấu chỉ lòng ân cần của Thiên Chúa, cũng mạc khải ý muốn của Thiên Chúa, xuyên qua các điều răn và các lời hứa của Thiên Chúa; Lề Luật loan báo điều mà chính Thiên Chúa muốn làm, điều Ngài sẽ ban cho dân Ngài (x. Ga 1,45; 5,46),[32] đồng thời cho biết điều mà dân Chúa phải làm, để sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ngay các điều răn của Thiên Chúa cũng được nhận biết như là những dấu chỉ về ân sủng của Ngài: xuyên qua các điều răn này, Israel có thể biết điều gì Thiên Chúa muốn (x. Tv 19; 119).

Nhưng điều Thiên Chúa chuyển đến cho loài người nhờ trung gian Đức Giêsu còn vượt quá ân ban trên. Đức Giêsu Kitô không phải là một trung gian theo kiểu Moses, là người chỉ truyền đạt điều đã nhận. Nhờ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian, ân ban là sự thật, là mạc khải về điều cho đến nay còn bị giấu kín, đã được ban cho ta: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (Ga 1,18). Không một ai, kể cả Moses, đã được cho gặp trực tiếp và biết đầy đủ về Thiên Chúa. Nay “Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Nhiệm vụ chính của Đức Giêsu là loan báo cho chúng ta sự hiểu biết này. Chính ba tư cách được nêu vừa rồi cho phép Đức Giêsu làm công việc mạc khải về Chúa Cha.

Trong ba tư cách này, tác giả nhắc lại những gì Lời Tựa đã nói về ngôi Lời: Đức Giêsu là Con Một (x. Ga 1,14), Người có một tương quan hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa (x. Ga 1,1c). Đây là tương quan giữa những nhân vật ngang hàng nhau, có cùng một bản tính và đặc điểm như nhau. Tương quan này được sống trong sự hợp nhất thân tình, tin tưởng (x. Ga 13,23).[33] Cựu Ước đã biết đến vị Thiên Chúa Tạo Hóa, hoàn toàn cách biệt với các thọ tạo; khi đó, người ta nhận biết Thiên Chúa chỉ có một, “nhất khối”. Nhờ Đức Giêsu, ngay tại bình diện Thiên Chúa, có sự hiệp thông, có tương quan tình yêu âu yếm và tin tưởng giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu mang đến một sứ điệp về Thiên Chúa, mà thật ra Người chính là sứ điệp đó. Người mang đến sứ điệp này, để những ai tin vào Người như là Con thì được thông dự vào tương quan của Người với Thiên Chúa, và trở thành con Thiên Chúa (Ga 1,12). Đây là điều mới mẻ tuyệt đối mà Đức Giêsu cho chúng ta biết. Cho đến nay thì đúng là “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (Ga 1,18); nhưng bây giờ, “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9).

Lời Tựa có ghi ba tên: Gioan, Moses và Giêsu. Như thế, các lời khẳng định của Lời Tựa được liên kết với ba nhân vật lịch sử. Gioan đã đến như chứng nhân của ánh sáng (Ga 1,7). Nhờ trung gian Moses, Lề Luật đã được ban cho dân (Ga 1,17). Với Đức Giêsu, ân ban sự thật đã đến trong thế gian. Đây là con người lịch sử mang tên là Giêsu Nazareth. Khi tác giả nói tên Người ra (Ga 1,17), thì ngài đã nói tất cả những gì làm cho rõ về bản thân Đức Giêsu và ý nghĩa của tên này. Nhưng tất cả những gì ngài trình bày không phải là hoa trái của suy diễn, nhưng rút ra từ việc chiêm ngắm và gặp gỡ con người lịch sử này ngày càng sâu sắc hơn. Lời Tựa tóm tắt những gì đã được ban cho các môn đệ khi họ được nhìn xem vinh quang của con người ấy.

Chỉ Đức Giêsu mới có một danh hiệu: Người được gọi là “Kitô”. Như thế, Người được tuyên xưng như là vị vua cuối cùng đã được Thiên Chúa ban cho dân Israel, Người là “ân sủng sự thạt”. Đến cuối Tin Mừng, chính Đức Giêsu sẽ tóm tắt địa vị và nhiệm vụ của Người trước mặt Pontius Pīlātus: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Nhiệm vụ thiên sai và vương giả của Đức Giêsu là mang sự thật đến, là mạc khải vị Thiên Chúa ẩn mình ra trong thực tại của Ngài là Cha.

+ Kết luận

Ngôi Lời có tương quan mật thiết với Chúa Cha, nhưng cũng rất gắn bó với loài người, được sai phái đến trần gian là để làm cho chúng ta có thể thông dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ chúng ta tin. Đây là chân trời từ đó bung mở tất cả truyện Giêsu.

Tác giả Tin Mừng thứ IV đã chiêm ngắm công trình và tầm quan trọng của Đức Giêsu theo cách quy thần. Ngôi Lời mang đến sứ điệp về Thiên Chúa, một sứ điệp cũng chính là bản thân Người. Tất cả những gì tác giả khẳng định về Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm, với các từ “ánh sáng, sự sống, vinh quang, ân sủng, sự thật”, đều trở nên rõ nghĩa trong sứ điệp về Thiên Chúa. Chúa Con, Đấng mạc khải Thiên Chúa như là Cha và sự hiệp thông trong Thiên Chúa, vẫn đang soi sáng thế gian, Người xán lạn vinh quang, Người chính là mạc khải về Thiên Chúa và sự quan tâm đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa và Người ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Thiên Chúa nói với chúng ta về tình yêu của Người bằng cách gửi Lời Ngài đến với chúng ta. Lời Thiên Chúa đã trở thành người phàm giống như chúng ta; Người đã nói một ngôn ngữ nhân loại, và đã kể cho chúng ta về Cha của Người, nói về cách Người nghĩ về chúng ta, và các chương trình Người lập ra cho chúng ta. Để biết Chúa Cha, tất cả những gì chúng ta phải làm là nhìn Chúa Kitô, xem những gì Người làm, lắng nghe những gì Người nói và dạy, nhìn xem những con người mà Người quan hệ với, nơi và những người mà Người đến chia sẻ bữa cơm với, những người mà Người chọn để cộng tác với Người.

2. Khi chiêm ngắm Lời Thiên Chúa, Đấng diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa và mạc khải chính Thiên Chúa ra cho loài người, để họ tin và được cứu độ, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại và lượng định kinh nghiệm của chúng ta về khả năng “nói” của loài người (như là thông giao, diễn tả sự tin tưởng, khuyến khích, trân trọng, v.v…) và về “sự thinh lặng” (do cần thiết, do bị câm, do thiếu quan tâm, do hiềm khích v.v…).

3. Các Kitô hữu cũng được thúc bách nhìn lại: chúng ta có chăng khả năng nhận ra được là nhiều lần chúng ta bị bóng tối vây hãm. Chúng ta phải tự hỏi: Điều gì ngăn cách giữa tôi và Đấng tạo thành tôi, điều gì đang che phủ Ngài, khiến tôi không nhận ra Ngài và ngăn cản tôi đi vào thông hiệp sống động với Ngài? Dường như chúng ta còn đang bị cám dỗ thấy có nhiều điều đáng quan tâm hơn, quan trọng hơn, thuyết phục hơn và hứa hẹn hơn là việc đón tiếp Thiên Chúa, Đấng tự hiến ban chính mình! Đàng khác, nếu Chúa Cha yêu thương chúng ta đến như thế, tại sao chúng ta lại không yêu thương nhau?

4. Ở 1Ga 2,23, chúng ta đọc: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha”. Chúng ta phải hiểu tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha có ý nghĩa gì cho chúng ta? Dường như cho đến hôm nay, sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa vẫn ở tầm mức Cựu Ước hơn là Tân Ước?

5. Làm thế nào liên kết những gì tác giả Tin Mừng thứ IV đã nói về Lời Thiên Chúa với Đức Giêsu Nazareth lịch sử? Hoặc là chúng ta nghĩ đến Lời Thiên Chúa như một nhân vật siêu vời hoàn toàn không dính dáng gì đến thế giới chúng ta, hoặc chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như một con người chìm trong những thực tại trần thế đến mức không còn gì là siêu phàm nữa. Dường như hiện nay đang có một xu hướng kéo Đức Giêsu “là người thật” xuống trần gian đến mức không còn là “Thiên Chúa thật” nữa!

 

 

 

 


[1] Bản Kinh Thánh Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh

[2] x. Pl 2,6-11: 6 Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, 7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. 8 Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. 9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. 10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; 11 và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”.

x. Cl 1,15-20: 15 Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, 16 vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. 17 Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. 18 Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. 19 Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, 20 cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.

x. 1Tm 3,16: 16 Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển.

[3] x. St 1,1: 1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.

[4] Cn 8,22t: 22 “ĐỨC CHÚA đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất.

Hc 24,22t: 22 Ai nghe lời Ta sẽ không phải thẹn thùng, ai hoạt động trong Ta sẽ không hề phạm tội.

Is 55,10t: 10 Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,

Kn 18,14t: 14 Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm canh ba,

[5] Hc 24,1.3.22t: 1 Đức Khôn Ngoan tự biểu dương và hãnh diện ở giữa dân mình. 3 “Ta phát xuất từ miệng Đấng Tối Cao và như mây mù, Ta bao phủ cõi đất. 22 Ai nghe lời Ta sẽ không phải thẹn thùng, ai hoạt động trong Ta sẽ không hề phạm tội.

[6] Cv 8,4; 19,20: 4 Vậy những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa. 19 20 Như vậy, nhờ uy lực của Chúa, lời Chúa cứ lan tràn và thêm vững mạnh.

1Cr 1,24: 24 Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Pl 2,16: 16 là làm sáng tỏ Lời ban sự sống, để tôi được hiên ngang hãnh diện trong ngày Đức Ki-tô quang lâm, vì tôi đã không chạy uổng công và đã không lao nhọc vô ích.

[7] St 1,3: 3 Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng”. Liền có ánh sáng.

[8] x. Ga 17,24: 24 Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.

[9] Tv 33,6.9; 147,15-18: 6 Một lời CHÚA phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú. 9 Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên. 147 15 Người tống đạt lệnh truyền xuống đất, lời phán ra, hoả tốc chạy đi. 16 Tuyết tựa lông chiên, Chúa trải dài, sương giá như tro, Người rải rắc. 17 Làm mưa đá, Chúa tung từng miếng nhỏ, chịu nổi làm sao giá lạnh của Người! 18 Chúa phán một lời là băng giải tuyết tan, thổi gió lên nước liền tuôn chảy.

Is 40,26; 48,3: 26 Hãy đưa mắt lên cao mà nhìn: Ai đã sáng tạo những vật đó? Đấng tung ra toàn bộ đạo binh các tinh tú, Người gọi đích danh từng ngôi một, khiến không thiếu vắng một ngôi nào. 48 3 Những chuyện cũ, Ta đã báo từ xưa, đã cho phát xuất từ miệng Ta, và đã cho nghe biết; thình lình Ta đã ra tay, và chúng đã ập tới.

Kn 9,1: 1 “Lạy Thượng Đế của bậc tổ tiên, lạy Đức Chúa từ bi lân tuất, Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật,

[10] Cn 8,27-30: 27 Đã có ta hiện diện khi Người thiết lập cõi trời, khi Người vạch một vòng tròn trên mặt vực thẳm, 28 khi Người làm cho mây tụ lại ở trên cao và cho các mạch nước vọt lên từ vực thẳm, 29 khi Người định ranh giới cho biển, để nước khỏi tràn bờ, khi Người đặt nền móng cho đất. 30 Ta hiện diện bên Người như tay thợ cả. Ngày ngày ta là niềm vui của Người, trước mặt Người, ta không ngớt vui chơi.

Kn 7,12; 8,4; 9,9: 12 Tôi vui hưởng mọi sự tốt lành ấy, vì chính Đức Khôn Ngoan đem chúng đến với tôi; thế mà tôi lại không biết rằng Đức Khôn Ngoan là mẹ sinh ra chúng. 8 4 Đức Khôn Ngoan đã được truyền thụ những hiểu biết về Thiên Chúa, và chính Đức Khôn Ngoan quyết định về những công trình của Người. 9 9 Đức Khôn Ngoan ở kề bên Chúa, biết những việc Chúa làm, hiện diện khi Ngài tạo thành vũ trụ, biết rõ những gì đẹp mắt Chúa và phù hợp với huấn lệnh của Ngài.

[11]article.

[12] Ga 1,12; 2,23; 3,18: 12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 2 23 Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. 3 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.

1Ga 5,13: 13 Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.

[13] 1Ga 1,1-4: 1 Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. 2 Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. 3 Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người. 4 Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.

1Ga 4,2: 2 Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa.

Ga 1,14: 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.

[14] Ga 21,24: 24 Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.

Ga 19,35: 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin.

[15] 3Ga 1,12: 12 Mọi người đều làm chứng tốt cho anh Đê-mết-ri-ô, và chính sự thật cũng làm chứng như vậy. Cả chúng tôi nữa, chúng tôi cũng làm chứng cho anh ấy, và anh biết rằng lời chứng của chúng tôi là xác thực.

[16] Ga 15,26-27: 26 Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. 27 Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.

[17] Ga 8,41-42 [2x]; 20,17 [1x]: 41 Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm”. Họ mới nói: “Chúng tôi đâu phải là con hoang. Chúng tôi chỉ có một Cha: đó là Thiên Chúa!” 42 Đức Giê-su bảo họ: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi. 20 17 Đức Giê-su bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’”.

[18] Mt 1,1-17: 1 Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham: 2 Ông Áp-ra-ham sinh I-xa-ác; I-xa-ác sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em ông này; 3 Giu-đa ăn ở với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác; Pe-rét sinh Khét-xơ-ron; Khét-xơ-ron sinh A-ram; 4 A-ram sinh Am-mi-na-đáp; Am-mi-na-đáp sinh Nác-son; Nác-son sinh Xan-môn; 5 Xan-môn lấy Ra-kháp sinh Bô-át; Bô-át lấy Rút sinh Ô-vết; Ô-vết sinh Gie-sê; 6 ông Gie-sê sinh Đa-vít. Vua Đa-vít lấy vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn; 7 Sa-lô-môn sinh Rơ-kháp-am; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia; A-vi-gia sinh A-xa; 8 A-xa sinh Giơ-hô-sa-phát; Giơ-hô-sa-phát sinh Giô-ram; Giô-ram sinh Út-di-gia; 9 Út-di-gia sinh Gio-tham; Gio-tham sinh A-khát; A-khát sinh Khít-ki-gia; 10 Khít-ki-gia sinh Mơ-na-se; Mơ-na-se sinh A-môn; A-môn sinh Giô-si-gia; 11 Giô-si-gia sinh Giơ-khon-gia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon. 12 Sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven; 13 Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do; 14 A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút; 15 Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp; 16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô. 17 Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.

[19] Mc 1,1-15: 1 Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa: 2 Trong sách ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. 3 Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. 4 Đúng theo lời đó, ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. 5 Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. 6 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. 7 Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. 8 Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”. 9 Hồi ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan. 10 Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. 11 Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. 12 Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. 13 Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người. 14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. 15 Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

[20] Lc 1,3: 3 Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài.

Lc 1,31: 31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.

Lc 2,11: 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.

[21] x. St 12,1-3: 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. 3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”.

[22] x. 1Cr 8,6: 6 nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu.

Cl 1,16: 16 vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người.

Dt 1,2: 2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.

[23] x. Ga 5,26: 26 Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy.

[24] x. Tv 135,4: 4 Vì CHÚA đã chọn nhà Gia-cóp, dành Ít-ra-en làm sản nghiệp riêng.

[25] Ga 3,18: 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.

x. 1Ga 5,13: 13 Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.

[26] x. Ga 3,3: 3 Đức Giê-su trả lời: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”.

[27] x. Ga 1,29.30.36: 29 Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. 30 Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. 36 Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.

[28] x. Ga 2,11; 20,30: 11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. 20 30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này.

[29] x. Xh 24,16-17: 16 Vinh quang ĐỨC CHÚA ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê. 17 Vinh quang ĐỨC CHÚA xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu, trước mắt con cái Ít-ra-en.

Ed 1,28: 28 Như hình cầu vồng xuất hiện trên mây một ngày mưa thế nào, thì ánh sáng chiếu toả chung quanh cũng như vậy. Đó là một cái gì trông tựa vinh quang của ĐỨC CHÚA. Vừa thấy thế, tôi liền sấp mặt xuống, và tôi nghe có tiếng đang nói.

[30] x. 1Ga 1,4: 4 Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.

[31] x. Ga 14,6: 6 Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

[32] x. Ga 1,45; 5,46: 45 Ông Phi-líp-phê gặp ông Na-tha-na-en và nói: “Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét”. 5 46 Vì nếu các ông tin ông Mô-sê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi.

[33] x. Ga 13,23: 23 Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giê-su thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giê-su.