TSTH
Trích Thời sự Thần học, Số 89 (tháng 8 – 2020)
Về tương quan của Đức Maria đối với Giáo hội, Thời sự thần học đã có một bài của linh mục Salvatore Perella “Thánh mẫu học từ Vaticanô II đến nay” (số 65, tháng 8 năm 2014, trang 123-150). Lần này, chúng tôi chỉ muốn bổ túc thêm với bài huấn giáo của ĐTC Gioan Phaolô II, giải thích ý nghĩa của tước hiệu “Đức Maria Mẹ Hội thánh”, và kèm theo sắc lệnh của Bộ Phụng tự về việc cử hành tước hiệu trong lịch phụng vụ.
I. Huấn giáo của ĐTC Gioan Phaolô II về Đức Maria Mẹ của Hội thánh
Từ ngày 7/9/1995 đến ngày 13/11/năm 1997, ĐTC Gioan Phaolô đã dành một loạt bài huấn giáo các ngày thứ tư hàng tuần để trình bày đạo lý của Giáo hội về Đức Maria. Ta có thể chia 70 bài này thành ba phần: 1/ Sự hiện diện của Đức Maria trong lịch sử Giáo hội (9 bài). 2/ Đức tin của Giáo hội về Đức Maria (46 bài). 3/ Vai trò của Đức Maria trong Giáo hội (7 bài).
Trong phần thứ ba, sau khi lần lượt giới thiệu Đức Maria như một phần tử ưu việt của Hội thánh (bài 57), và là mẫu gương cho Hội thánh về các nhân đức và sự thánh thiện (bài 58-62), Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa của tước hiệu “Đức Maria là Mẹ của Hội thánh” (bài 63), ôn lại lịch sử của thuật ngữ này, được ĐTC Phaolô VI tuyên bố vào lúc bế mạc giai đoạn Ba của công đồng Vaticanô II. Bài 64 tiếp theo đào sâu đề tài “Đức Maria là Mẹ của chúng ta trong hệ trật ân sủng”.
Sau đây là nội dung của hai bài 63 và 64. Chữ viết tắt: HT = Hiến chế tín lý về Hội thánh (Lumen gentium).
A. MẸ CỦA HỘI THÁNH (bài 63)
1. Công đồng Vaticanô II, sau khi đã tuyên dương Đức Maria là “phần tử ưu việt”, “điển hình” và “mẫu gương” của Hội thánh, đã khẳng định như sau: “Hội thánh Công giáo, được Chúa Thánh Thần dìu dắt, với tâm tình hiếu thảo tôn kính Người như là người mẹ rất đáng mến yêu”[1] (HT 53).
Nói cho đúng, bản văn Công đồng đã không minh nhiên gán cho Đức Trinh nữ Maria tước hiệu “Mẹ của Hội thánh”, nhưng đã phát biểu nội dung đó một cách rõ ràng, khi lấy lại tuyên ngôn của Đức Bênêđictô XIV cách đó hai thế kỷ về trước, vào năm 1748 (Bullarium Romanum, ser.2, t.2, n. 61, p. 428).
Trong văn kiện đó, vị tiền nhiệm của tôi, khi mô tả những tâm tình hiếu thảo của Hội thánh nhìn nhận nơi Đức Maria là người mẹ rất đáng mến yêu, đã gián tiếp tuyên dương Người là Mẹ của Hội thánh.
2. Việc sử dụng danh hiệu này thực ra hơi họa hiếm trong quá khứ, nhưng gần đây đã trở thành phổ thông trong Huấn quyền của Hội thánh và trong lòng đạo đức của Dân Chúa. Các tín hữu đã kêu cầu Đức Maria dưới các tước hiệu là: “Đức Mẹ Chúa Trời”, “Mẹ của các tín hữu” hay là” Mẹ của chúng con”, để nêu bật mối tương quan bản thân Mẹ với từng con cái.
Dần dần, nhờ sự chú ý đến mầu nhiệm Hội thánh và đến những mối tương quan của Đức Maria với Hội thánh, người ta bắt đầu kêu cầu cách thường xuyên Đức Trinh nữ Maria như là “Mẹ của Hội thánh”.
Trước Công đồng Vaticanô II, thành ngữ này đã được xuất hiện trong Huấn quyền của ĐGH Lêô XIII, khi khẳng định rằng Đức Maria “thật đích đáng làm mẹ của Hội thánh” (Acta Leonis XIII, 15, 302). Kế đó danh xưng này được nhiều lần sử dụng trong các giáo huấn của Đức Gioan XXIII và PhaolôVI.
3. Tuy được áp dụng cho Đức Maria khá muộn, nhưng tước hiệu “Mẹ của Hội thánh” diễn tả mối liên hệ mẹ con của Đức Trinh nữ đối với Hội thánh, đã được một vài bản văn Tân ước nhắc tới.
Ngay từ lúc Truyền tin, Đức Maria đã được yêu cầu hãy dâng sự thỏa thuận cho việc thực hiện Vương quyền của Đấng Mêsia, một Vương quyền sẽ được hoàn tất với sự hình thành của Hội thánh.
Tại Cana khi yêu cầu Đức Giêsu thi hành quyền của Đấng Mêsia, Mẹ Maria đã bày tỏ cho thấy đức tin đã đâm rễ đức tin trong cộng đoàn các môn đệ tiên khởi, và cộng tác vào việc thiết lập Vương quyền Thiên Chúa, một vương quyền đã “mang mầm mống” và “khởi đầu” trong Hội thánh (xc. HT 5).
Trên núi Calvariô, khi kết hiệp với hy lễ của Con mình, Đức Maria đã mang lại sự đóng góp của người mẹ vào công trình Cứu chuôc, dưới hình thức của một cuộc sinh hạ đau đớn, sinh ra nhân loại mới.
Khi hướng tới Đức Maria với những lời: “Hỡi người Nữ, đây là con của bà”, Chúa Cứu chuộc đã tuyên dương Đức Maria không những là Mẹ của tông đồ Gioan mà còn là Mẹ của tất cả các môn đệ. Chính tác giả Tin mừng đã khẳng định rằng Đức Giêsu đã phải chết để “quy tụ tất cả con của Chúa đang tản mác” (Ga 11, 52), như thế ông đã ám chỉ rằng sự khai sinh của Hội thánh là hoa trái của hy lễ Cứu chuộc , mà Đức Maria đã được kết nạp như là người mẹ.
Thánh sử Luca đã nói tới sự hiện diện của Thân mẫu Chúa Giêsu ở giữa lòng cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem” (Cv 1, 14). Như vậy ông đã nhấn mạnh tới vai trò của Đức Trinh nữ Maria như là bà mẹ đối với Hội thánh mới khai sinh, tương tự như vai trò của Người vào lúc Chúa Cứu thế giáng sinh. Chiều kích làm mẹ trở thành một yếu tố căn bản của mối liên lạc giữa Đức Maria đối với dân tộc mới của những người được cứu chuộc.
4. Theo gót Thánh Kinh, các Giáo phụ đã nhìn nhận thiên chức làm mẹ của Đức Maria đối với công trình của Đức Kitô, và do đó đối với Hội thánh, tuy dù không phải với những từ ngữ chính xác.
Theo Thánh Irênêô, Đức Maria “trở thành nguyên nhân cứu rỗi cho nhân loại” (Adversus Haereses 3,22,4) và cung lòng thanh sạch của Đức Trinh nữ đã “tái sinh loài người cho Thiên Chúa” (Adv. Haer. 4,33,11). Thánh Ambrosiô cũng vọng lên tư tưởng đó khi khẳng định rằng: “Một Trinh nữ đã sinh ra ơn cứu rỗi cho nhân loại, một Trinh nữ đã ban sự sống cho hết mọi loài” (Ep. 66,33), và nhiều Giáo phụ khác đã gọi Đức Maria là “Mẹ của ơn cứu rỗi” (Severiano Gabala, Oratio 6 de mundi creatione, 10; Fausto Riez, Max. Bibl. Patrum VI, 620-621) .
Vào thời Trung cổ, thánh Anselmô đã khẩn cầu Đức Maria với những lời như sau: “Người là mẹ của sự công chính và của những người được công chính hóa, mẹ của sự hòa giải và của những người được hòa giải, mẹ của ơn cứu rỗi và của những người được ơn cứu rỗi” (Oratio 52,8), trong khi đó nhiều tác giả khác đã gán cho Đức Maria tước hiệu là “Mẹ của ơn thánh” và “Mẹ của sự sống”.
5. Vì thế, tước hiệu “Mẹ của Hội thánh” phản ánh niềm thâm tín sâu xa của các Kitô hữu, nhìn thấy nơi Đức Maria không những là bà mẹ của bản thân Đức Kitô mà còn là mẹ của tín hữu nữa. Đấng đã được nhìn nhận như là mẹ của ơn cứu rỗi, của sự sống và của ơn thánh, mẹ của những người được cứu rỗi và những người được sống, quả là đúng lý để được tuyên dương là Mẹ của Hội thánh.
Đức Phaolô VI đã ước ao cho công đồng Vaticanô II tuyên bố Đức Maria là “Mẹ của Hội thánh, nghĩa là của toàn thể Dân Chúa, của các tín hữu cũng như của các mục tử”. Chính Đức thánh cha đã tuyên bố như vậy trong diễn văn bế mạc khóa họp thứ ba của Công đồng (ngày 21 tháng 11 năm1964), và đồng thời yêu cầu rằng “từ nay trở đi, ước chi toàn thể Dân Kitô giáo sẽ cung kính và khẩn cầu Đức Trinh nữ với tước hiệu êm đẹp đó”.
Như vậy, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi đã phát biểu minh thị đạo lý đã được chứa đựng trong chương thứ VIII của Hiến chế tín lý về Hội thánh, và mong mỏi rằng tước hiệu Đức Maria, Mẹ của Hội thánh, càng ngày càng chiếm một địa vị quan trọng hơn trong phụng vụ và lòng đạo đức của Dân Kitô giáo.
B. ĐỨC MARIA MẸ CỦA CHÚNG TA TRONG HỆ TRẬT ÂN SỦNG (bài 64)
1. Đức Maria là mẹ của nhân loại trong hệ trật ân sủng. Công đồng Vaticanô II đã nêu bật vai trò này của Đức Maria khi móc nối với sự hợp tác của Người vào công trình cứu chuộc của Đức Kitô.
“Do sự xếp đặt của Chúa Quan phòng, trên trần gian này, Đức Maria đã trở nên Mẹ cao trọng của Chúa Cứu chuộc, cộng sự viên quảng đại một cách đặc biệt và là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa” (HT 61).
Qua những lời khẳng định đó, Hiến chế tín lý về Hội thánh muốn nêu bật sự kiện là Đức Trinh nữ Maria đã được kết nạp chặt chẽ vào công trình cứu chuộc của Đức Kitô, trở nên một cộng sự viên “quảng đại” và “cách đặc biệt” của Chúa Cứu thế.
Qua những cử chỉ của mọi người mẹ, từ những cử chỉ đơn sơ cho đến những cử chỉ quan trọng, Đức Maria đã tình nguyện hợp tác với công trình cứu chuộc nhân loại, hòa nhịp sâu xa và bền chặt với Con mình.
2. Công đồng cũng nêu bật rằng sự hợp tác của Đức Maria đã được thôi thúc bởi những nhân đức Tin mừng: vâng lời, tin, cậy và mến, và được thực hiện dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Ngoài ra, Công đồng cũng nhắc lại rằng chính từ sự kết hiệp ấy mà Đức Maria đã nhận được chức làm mẹ tinh thần của hết mọi người. Được liên kết với Đức Kitô trong công trình cứu chuộc, bao hàm việc tái sinh nhân loại về đường thiêng liêng, Người đã trở thành mẹ của những người được tái sinh vào đời sống mới.
Khi khẳng định rằng Đức Maria là “mẹ của chúng ta trong hệ ân sủng”, Công đồng đã nêu bật rằng tình mẹ thiêng liêng của Người không chỉ giới hạn vào các môn đệ, theo như lối giải thích chật hẹp câu nói của Chúa Giêsu trên núi Calvariô: “Hỡi người Nữ, đây là con của bà” (Ga 19, 26). Thực vậy, qua những lời đó, Đức Giêsu trên thập giá đã thiết lập mối tương quan thân mật giữa Đức Maria và người môn đê yêu dấu, hình ảnh tiên trưng mang tầm kích phổ quát; Chúa có ý định muốn hiến bà mẹ của mình làm mẹ cho hết mọi người.
Mặt khác, hiệu quả phổ quát của hy lễ cứu chuộc và sự hợp tác có ý thức của Đức Maria vào hy lễ cứu chuộc của Đức Kitô, không thể nào chấp nhận một giới hạn cho tình hiền mẫu của Người được.
Sứ vụ làm mẹ hết mọi người của Đức Maria được thực thi trong khung cảnh của mối tương quan đặc biệt của Người đối với Hội thánh. Với lòng ân cần đối với mỗi Kitô hữu, thậm chí đối với mỗi thụ tạo, Đức Maria hướng dẫn đức tin của Hội thánh tới chỗ càng ngày càng đón nhận Lời của Chúa sâu xa hơn, qua việc nâng đỡ đức trông cậy, thôi thúc đức bác ái và sự thông hiệp huynh đệ cũng như thúc đẩy nhiệt tình họat động tông đồ.
3. Trong cuộc đời dương thế, Đức Maria đã thực hiện chức làm mẹ tinh thaafn đối với Hội thánh trong một thời gian ngắn ngủi. Tuy nhiên chức phận này vẫn giữ giá trị sau khi Người về trời, và sẽ còn kéo dài trải qua dòng thời gian cho đến tận thế.
Công đồng đã quả quyết minh thị như sau: “Đức Maria thực hiện chức vụ làm mẹ trong hệ ân sủng từ lúc Người đã tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền tin và duy trì không chút do dự dưới chân Thập giá, sẽ còn kéo dài cho tới khi tất cả mọi người được tuyển chọn được cứu rỗi” (HT 62).
Khi được vào Nước vĩnh cửu của Chúa Cha, gần gũi hơn với Chúa Con và do đó gần gũi hơn với tất cả mọi người chúng ta, Đức Maria có thể thực hiện hữu hiệu hơn trong Chúa Thánh Thần vai trò chuyển cầu từ mẫu mà Chúa Quan phòng đã ủy thác.
4. Bên cạnh Đức Kitô và hiệp thông với Đức Kitô, Đấng “có thể cứu thoát tất cả những ai nhờ Người tới cùng Thiên Chúa, xét rằng Người luôn sống động để chuyển cầu cho họ” (Hr 7,25), Chúa Cha trên trời đã muốn đặt Đức Maria: bên cạnh lời chuyển cầu tư tế của Chúa Cứu thế, Chúa Cha đã muốn kết hiệp lời chuyển cầu từ mẫu của Trinh nữ Maria. Đây là một chức phận mà Người thi hành nhằm sinh lợi cho những kẻ đang gặp nguy khốn và đang cần những ơn ích đời này, và nhất là ơn cứu rỗi đời đời: “Trong tình thương mẹ hiền, Người chăm lo tới những em của Con mình còn đang lữ hành trên dương thế, và đang gặp bao nhiêu đau khổ thử thách cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. Vì thế Đức Trinh nữ đã được kêu cầu trong Hội thánh qua các tước hiệu là Trạng sư, Bảo trợ, Phù hộ và Trung gian”[2] (HT 62).
Những danh xưng này, phát xuất từ niềm tin của các Kitô hữu, giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của sự can thiệp của Đức Mẹ Chúa Trời vào cuộc sống của Hội thánh và của từng tín hữu.
5. Danh hiệu “Trạng sư” bắt nguồn từ thánh Irênê. Khi bàn tới sự bất tuân của bà Evà và sự tuân phục của Đức Maria, ông nói rằng vào lúc Truyền tin: “Đức Trinh nữ Maria trở nên trạng sư của bà Evà” (Adv. Haer. 5,19,1) Thực vậy, do tiếng “xin vâng”, Đức Maria đã bào chữa và cứu thoát bà tổ khỏi những hậu quả của sự bất tuân, trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho bà cũng như cho toàn thể nhân loại.
Đức Maria thực thi vai trò “trạng sư” bằng cách hợp tác với Chúa Thánh Linh cũng như với Đấng mà trên Thập giá đã bào chữa cho những kẻ bách hại mình (x. Lc 23, 34), và Đấng mà thánh Gioan đã gọi là “trạng sư của chúng ta trước Chúa Cha”(1 Ga 2, 1). Như một bà mẹ, Đức Maria bênh vực con cái của mình và che chở họ khỏi những thiêt hại do tội lỗi gây ra.
Các Kitô hữu kêu cầu Đức Maria như là “ Đấng Bảo trợ”, bởi vì họ nhận biết rằng tình yêu hiền mẫu của Người thấy những sự cần thiết của con cái, và sẵn sàng mau mắn can thiệp để giúp đỡ họ, nhất là khi liên quan tới phần rỗi đời đời của họ.
Niềm xác tín rằng Đức Maria gần gũi những kẻ đau khổ và gặp phải cơn gian nan nguy hiểm đã gợi cho các tín hữu kêu cầu Đức Maria như là “Đấng phù hộ”. Niềm xác tín này đã được phát biểu qua một kinh nguyện cổ điển với những lời sau đây: “Lạy Đức Mẹ Chúa Trời, Ngài xiết bao thánh thiện, này chúng con chạy đến tìm nương ẩn nơi Ngài. Lúc sa vòng gian khổ, khi gặp cảnh phong trần, lời con cái nài van, xin mẹ đừng chê bỏ, nhưng xin hằng giải thoát khỏi ngàn nỗi hiểm nguy, ôi vinh diệu ai bì, Trinh nữ đầy ơn phước!” (Giờ Kinh Phụng vu)
Với tư cách là “Trung gian”, Đức Maria trình bày cho Đức Kitô những ước muốn và lời khẩn nguyện của chúng ta, và chuyển lại cho chúng ta những ơn huệ của Chúa; Người luôn luôn chuyển cầu giúp đỡ chúng ta[3].
II. Đức Trinh nữ Maria Mẹ Hội thánh trong phụng vụ
Ngày 11 tháng 2 năm 2018, tuân theo chỉ thị của ĐTC Phanxicô, Bộ Phụng tự đã ban hành sắc lệnh truyền kính nhớ “Đức Trinh nữ Maria là Mẹ Hội thánh” hàng năm vào ngày thứ hai sau lễ Hiện xuống, với cấp bậc “lễ nhớ bắt buộc”. Trong văn thư này, đức Hồng y Robert Sarah giải thích lý do, cũng như ghi lại vắn tắt những bản văn phụng vụ liên quan đến tước hiệu này từ sau công đồng Vaticanô II. Tại vài quốc gia, Hội đồng giám mục hoặc dòng tu đã xin phép cử hành lễ này tại địa phương, nhưng từ nay, việc cử hành được mở rộng đến toàn thể Giáo hội.
SẮC LỆNH
Trong Hội thánh hiện nay, việc hân hoan dâng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa, dưới ánh sáng của những suy tư về mầu nhiệm Chúa Kitô và về bản tính của chính Hội thánh, luôn phải nhắc đến hình ảnh của một người nữ (x. Gl 4,4): Đức Trinh nữ Maria, Đấng vừa là Mẹ của Chúa Kitô vừa là Mẹ của Hội thánh.
Điều này đã được khơi lên trong suy tư của Hội thánh từ những gợi ý của thánh Augustinô và thánh Lêô Cả. Theo thánh Augustinô, Đức Maria là mẹ của các chi thể Chúa Kitô, vì Mẹ đã yêu thương cộng tác vào việc tái sinh các tín hữu trong Hội thánh; theo thánh Lêô, khi Đầu được sinh ra thì toàn thân thể cũng được sinh ra, vì thế Đức Maria vừa là mẹ của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, vừa là mẹ của các chi thể trong nhiệm thể Người chính là Hội thánh. Đây là những khẳng định liên quan đến tư cách Thánh Mẫu của Đức Maria và sự kết hợp mật thiết của Mẹ với công trình của Đấng Cứu thế, đạt đến cao điểm trong giờ hy tế thập giá.
Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Đức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu.
Như một người hướng dẫn tận tâm của Hội thánh vừa được thiết lập, Đức Maria bắt đầu sứ mạng làm mẹ khi hiện diện với các Tông đồ nơi phòng Tiệc ly, cùng cầu nguyện đợi chờ Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14). Trong tâm tình đó, suốt bao thế kỷ, nền đạo đức Kitô giáo đã tôn vinh Đức Maria với những tước hiệu khác nhau, mang ý nghĩa tương tự nhau, chẳng hạn Mẹ các môn đệ, Mẹ các giáo hữu, Mẹ các tín hữu, Mẹ của tất cả những kẻ được tái sinh trong Chúa Kitô, và “Mẹ của Hội thánh”, tước hiệu này đã xuất hiện trong những tác phẩm của các tác giả tu đức cũng như trong các văn kiện Huấn quyền của Đức Bênêđictô XIV và Lêô XIII.
Vào ngày 21 tháng 9 năm 1964, khi bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vaticanô II, Đức chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã dựa vào những yếu tố nói trên như cơ sở nền tảng để công bố Đức Trinh Nữ Maria là “Mẹ của Hội thánh, nghĩa là Mẹ của toàn thể các Kitô hữu, giáo dân cũng như mục tử, những người vẫn gọi Mẹ là Mẹ vô cùng nhân ái”, và Đức Giáo hoàng xác lập việc “toàn thể đoàn dân Kitô giáo từ nay phải luôn gia tăng lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa dưới tước hiệu vô cùng dịu ngọt ấy”.
Trong Năm Thánh Hòa giải 1975, Tòa Thánh đã biên soạn và đưa vào Sách Lễ Rôma bản văn lễ ngoại lịch kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Hội thánh; tước hiệu này cũng được thêm vào Kinh cầu Đức Mẹ (1980), một số bản văn khác cũng được phổ biến trong tập sách các lễ kính Đức Trinh Nữ Maria (1986). Theo ý thỉnh nguyện, lễ này đã được phép ghi vào lịch riêng của một số quốc gia, giáo phận và hội dòng.
ĐGH Phanxicô, sau khi thận trọng cân nhắc hiệu quả của việc sùng kính này có thể giúp nâng cao cảm thức làm mẹ của Hội thánh, đồng thời cũng gia tăng lòng tôn kính Đức Mẹ nơi các mục tử, tu sĩ và các tín hữu, đã quyết định đưa vào lịch chung của Hội thánh, lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội thánh, được cử hành hằng năm vào ngày thứ Hai sau lễ Hiện xuống.
Việc cử hành lễ này sẽ giúp chúng ta nhớ rằng, sự tăng trưởng của đời sống Kitô hữu phải luôn gắn kết với mầu nhiệm Thánh Giá, với hy tế của Chúa Kitô nơi bàn tiệc Thánh Thể cũng như với tâm tình hiến dâng của Đức Trinh Nữ, Mẹ của Đấng Cứu thế và của những người được cứu chuộc.
Lễ nhớ này phải được ghi trong lịch và sách phụng vụ để cử hành Thánh lễ và Phụng vụ Giờ kinh. Bản văn phụng vụ liên quan được phổ biến cùng với sắc lệnh này, và các bản dịch sẽ được công bố sau khi đã được các Hội Đồng Giám Mục phê duyệt và Bộ Phụng Tự chuẩn nhận.
Tại những nơi đã được phép đặc biệt để cử hành lễ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội thánh, vào một ngày khác và với bậc lễ cao hơn, vẫn có thể tiếp tục cử hành như thế.
Bất chấp mọi điều trái nghịch.
Ban hành từ trụ sở Bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích, ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Đức Mẹ Lộ Đức.
Hồng y Robert Sarah, Tổng trưởng
Tổng Giám mục Arthur Roche, Thư ký
————————————
[1] “Catholica Ecclesia, a Spiritu Sancto edocta, filialis pietatis affectu tamquam matrem amantissimam prosequitur”.
[2] “Propterea B. Virgo in Ecclesia, titulis Advocatae, Auxiliatricis, Adiutricis, Mediatricis invocatur”.
[3] Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo đề cập chủ đề “Đức Maria Mẹ Hội thánh” ở các số 963-972.