Battista Mondin
Trích Thời sự thần học, số 101 (tháng 8/2023), trang 62-85
Tác giả, nguyên là khoa trưởng đại học Urbaniana Rôma, nêu bật đặc trưng của thánh Tôma trong khảo luận về Kitô học là, sau khi đã nghiên cứu thân thế của Đức Kitô, đã trình bày cuộc đời của Người như là mẫu gương cho chúng ta. Đối với thánh Tôma, thần học tín lý gắn liền với thần học tâm linh. Cách trình bày “các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu” đã được tiếp nhận vào Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo.
Nhập đề. Kitô học trong các tác phẩm của thánh Tôma
I. Các mầu nhiệm cuộc đời Đức Kitô trong sách Tổng Luận Kitô học
II. Tấm gương của Đức Kitô trong cuộc đời công khai
III. Tấm gương của Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt qua
Kết luận. Đức Kitô là “Đường”, “Thầy dạy”, với các hệ luận: “Bắt chước Chúa Kitô” – “Đi theo Chúa Kitô”
Viết theo: Battista Mondin, La cristologia di san Tommaso d’Aquino, Urbaniana University Press, Roma 1997.
—————————–
Nhập đề
Tựa đề của bài viết có thể gây hiểu lầm, ra như thánh Tôma đã bàn đến Đức Kitô trong các tác phẩm chuyên biệt viết về linh đạo (quen gọi là “Sách thiêng liêng”). Không phải thế; thánh Tôma không phân chia thần học thành các ngành thánh kinh, tín lý, luân lý, tu đức như thời nay. Ngài đã viết nhiều cuốn chú giải Kinh Thánh. Các bộ sách tổng hợp thần học bao gồm nhiều đoạn chú giải Kinh Thánh và các giáo phụ; đặc biệt là bộ Summa Theologiae bao gồm cả phần tín lý và luân lý, và quan điểm thần học của ngài về luân lý không dựa trên thập giới nhưng dựa trên các nhân đức nhằm hướng dẫn con người đạt tới hạnh phúc tuyệt đối là được kết hợp với Thiên Chúa.
Trong bài này, khi bàn đến Đức Kitô trong linh đạo thánh Tôma, chúng tôi muốn nêu bật một đặc điểm của thần học thánh Tôma, đó là Đức Kitô không chỉ được tuyên xưng như là Con Thiên Chúa và con người, hai bản tính kết hợp trong một ngôi vị (quen gọi là Kitô học tín lý), mà còn là Đường dẫn con người về với Thiên Chúa, và là Thầy dạy về Thiên Chúa (Kitô học tâm linh). Vì thế, sau khi đã giới thiệu những tác phẩm của thánh Tôma về Kitô học, chúng tôi sẽ mô tả khái quát nội dung Kitô học trong sách Tổng luận thần học (phần I), và phân tích những bài học tâm linh mà Đức Kitô để lại từ cuộc đời của ngài (phần II), cách riêng là nơi mầu nhiệm Vượt qua (phần III).
Trước hết, chúng ta hãy điểm qua những tác phẩm của thánh Tôma bàn về Kitô học. Các tác phẩm này được biên soạn từ khi mới bắt đầu dạy học cho đến lúc cuối đời, thuộc nhiều thể loại khác nhau: tổng hợp thần học, chú giải Kinh Thánh, các cuộc tranh luận, các tác phẩm huấn giáo.
1/ Chú giải Sententiae của Petrus Lombardus. Lib.III, distinctiones 1-22.
2/ Summa Contra Gentiles. Lib. IV, cc. 27-55.
3/ Summa Theologiae. Pars III, qq.1-59. Đây là tác phẩm đầy đủ và hệ thống nhất về Kitô học, đối tượng chính của bài nghiên cứu này.
4/ Compendium Theologiae. cc. 185-246
5/ Chú giải Kinh Tin kính. Mục 2-6 mistero.
6/ Quaestio disputata de unione Verbi ỉncarnati.
7/ Quaestiones disputatae de veritate. Qu. XX (De scientia animae Christi); qu. XXIX (De gratia Christi).
8/ Những bản chú giải Kinh Thánh: Catena aurea in quattuor Evangelia; Super Evangelium S. Johannis Lectura; Lectura in Epistulas Pauli; Expositio in Isaiam.
Sau khi giới thiệu tổng quát các tác phẩm của thánh Tôma, sau đây chúng tôi sẽ nghiên cứu cách riêng sách Summa Theologiae. Trong phần thứ nhất, chúng tôi sẽ xét đến Kitô học trong toàn thể tác phẩm, và trong phần thứ hai, chúng tôi sẽ chú ý đến những đoạn bàn về cuộc đời của Đức Giêsu Kitô
I. Kitô học trong Summa Theologiae
Đây là tác phẩm tổng hợp thần học đầy đủ nhất của thánh Tôma. Như đã nói trên đây, tác giả không phân biệt thần học tín lý và luân lý, nhưng dựa trên một cấu trúc bàn về mối tương quan năng động giữa Thiên Chúa và con người.
Tác phẩm gồm ba phần.
– Phần I bàn về Thiên Chúa như là nguyên ủy vạn vật: tất cả mọi vật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Có thể phát biểu cách khác: Thiên Chúa, nguồn sự thiện vô biên, đã ban sự sống cho vạn vật, đã thông đạt Tình yêu cho các vật thụ tạo, cách riêng là cho lòai người.
– Phần II bàn về Thiên Chúa như là cứu cánh của vạn vật: tất cả mọi vật, đặc biệt là con người, quay trở về với Thiên Chúa, bởi vì chỉ nơi Ngài con người mới tìm thấy hạnh phúc đích thực. Con người là hình ảnh Thiên Chúa và được mời gọi thông hiệp bản tính Thiên Chúa. Hơn thế nữa, không những là con người muốn vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã thu hút chúng về với mình, qua các nhân đức phú bẩm, ân sủng, và các hồng ân Thánh Linh, cốt yếu của Luật mới (Lex nova).
– Phần III bàn về Đức Kitô như là Đường dẫn về với Thiên Chúa. Đức Kitô là Đường, Sự thật, Sự sống: Người đã nhập thể, cứu chuộc chúng ta, và tiếp tục nâng đỡ chúng ta nhờ các bí tích, trên hành trình tiến về hạnh phúc vĩnh cửu.
Theo các học giả gần đây, bộ Summa được thiết kế theo một mô hình năng động: mọi vật bắt nguồn từ Thiên Chúa (exitus) và quay về với Thiên Chúa (reditus). Đức Kitô là con đường (via) dẫn về Thiên Chúa, nhưng đồng thời Người cũng là đường đưa Thiên Chúa đến với con người, bởi vì Người là Lời dạy cho ta biết Thiên Chúa. Kitô học chủ yếu được bàn ở trong phần III, tuy rằng phần này còn mở rộng sang các bí tích nữa.
Sau đây là bố cục của khảo luận về Đức Kitô, có thể được chia làm hai mục chính.
Mục I. Ngôi Lời nhập thể (q. 1-26)
Đoạn 1: Chính sự Nhập thể: -1/ Sự thích hợp của việc Nhập thể (q. 1). – 2/ Bản chất của việc Nhập thể: sự kết hợp (q. 2); ngôi vị nhận lãnh (q. 3); bản tính được nhận lãnh (q. 4-6). – 3/ Những gì được nhận lãnh: những sự hoàn thiện (q. 7-13); những khuyết điểm (q. 14-15)
Đoạn 2: Những hậu quả của việc Nhập thể: đối với chính Đức Kitô (q. 16-19); trong tương quan với Chúa Cha (q. 20-24); trong tương quan với chúng ta (q. 25-26).
Mục II. Những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Kitô (q. 27-59)
Đoạn 1. Đi vào trần thế (ingressus in mundum): 1/ Đầu thai (q. 27-34); 2/ Sinh ra (q. 35-36); 3/ Cắt bì (q. 37); 4/ Chịu phép rửa (q. 38-39)
Đoạn 2. Ở trong trần thế (progressus in hoc mundo): 1/ Lối sống (q. 40). 2/ Cám dỗ (q. 41); 3/ Giảng dạy (q. 42); 4/ Các phép lạ (q. 43-45)
Đoạn 3. Ra khỏi trần thế (exitus ab hoc mundo): 1/ Khổ nạn (q. 46-49); 2/ Sự chết (q. 50); 3/ An táng (q. 51); 4/ Xuống âm ti (q. 52)
Đoạn 4. Tôn vinh (exaltatio post hanc vitam): 1/ Phục sinh (q. 53-56); 2/ Lên trời (q. 57); 3/ Ngự bên hữu Chúa Cha (q. 58); 5/ Quyền phán xử (q. 59).
Chúng ta có thể nhận xét như sau. Khảo luận Kitô học được chia làm hai mục: Mục thứ nhất nghiên cứu về thân thế (Đức Kitô là ai?) với 26 quaestiones; mục thứ hai nghiên cứu về sự nghiệp của Người (Đức Kitô đã làm gì?), với 32 quaestiones. Hai mục này cũng được các học giả gọi bằng nhiều tên khác: “Mầu nhiệm nhập thể / Mầu nhiệm cứu chuộc”; hoặc: “Kitô học hữu thể / Kitô học lịch sử”. Có điều là trong các lớp thần học, người ta thường chú trọng đến mầu nhiệm Nhập thể và mầu nhiệm Cứu độ dưới khía cạnh tín lý, còn khía cạnh tâm linh ít được để ý đến.
Một nét độc đáo của thánh Tôma là ngài không chỉ chú trọng đến khía cạnh tín lý của mầu nhiệm Nhập thể và Cứu chuộc, mà còn suy gẫm về cuộc đời Chúa Giêsu, nhìn dưới tư cách là Vị hướng dẫn nhân loại trên đường về với Thiên Chúa: Người là vị thầy dẫn đường và Người cũng chính là con đường, như chúng ta đọc thấy trong Tin mừng Gioan: “Thầy là Đường, là Sự thật, là Sự sống” (Ga 14,6). Tư tưởng về “Đức Kitô là Đường” được thánh Tôma phát biểu ở đầu sách Summa Theologiae khi giới thiệu bố cục tác phẩm (“Chúng tôi sẽ bàn về Đức Kitô như là con đường dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa”: ST I, q. 2, Prol), và được lặp lại trong lời mở đầu phần thứ ba (ST III, Prol.). Dù sao chúng ta nên hiểu con đường (đạo) theo hai chiều: con đường đưa con người về với Thiên Chúa, và con đường đưa Thiên Chúa đến với con người. Chúng ta đặt tên cho con đường từ con người đến Thiên Chúa là “gương mẫu”, còn con đường từ Thiên Chúa đến với con người là “thầy dạy”. Thực ra sự phân biệt hai chiều không lúc nào cũng rõ rệt, xét vì Đức Kitô dạy không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống. Như vậy, đối với thánh Tôma, thần học tín lý dẫn đến thần học tâm linh: việc suy gẫm các chân lý đức tin mang kèm theo những yêu sách thực hành trong đời sống.
Mặc dù khía cạnh “gương mẫu” được nêu bật hơn ở trong mục thứ hai, nhưng cũng được gặp thấy ở trong mục thứ nhất nữa. Nói cho đúng, ở trong cả hai mục, tác giả áp dụng cùng một phương pháp như nhau, đó là “fides quaerens intellectum” (đức tin tìm kiếm sự hiểu biết). Tác giả khởi đầu bằng việc trình bày chân lý đức tin, sau đó, tìm cách tìm hiểu lý do, không phải bằng cách chứng minh nguyên nhân tất yếu của nó, nhưng đưa ra những lý lẽ thích hợp. Thật vậy, một đàng, chúng ta không thể nào có tham vọng hiểu biết được lý do tại sao Thiên Chúa lại hành động như vậy; nhưng đàng khác, chúng ta tin rằng Thiên Chúa không làm điều gì phi lý. Từ đó, chúng ta mạo muội thử đưa ra vài “lý do thích hợp” (ratio convenientiae), không phải hoàn toàn dựa trên những suy tư cá nhân, nhưng dựa trên các lời Kinh Thánh.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ ngay từ những trang đầu tiên của mục thứ nhất (quaestio 1, articulus 2), bàn về lý do của cuộc Nhập thể: Tại sao Thiên Chúa làm người? Hẳn nhiên đây là một quyết định tự do của Thiên Chúa, nhưng dựa trên Kinh Thánh, nhưng tác giả dám đưa ra 10 lý do “thích đáng”, phân làm hai nhóm, mỗi nhóm có 5 lý do: thứ nhất để giúp con người tiến trong điều thiện, thứ hai để giúp con người tránh xa điều dữ. Nên ghi nhận là những lý do tích cực được đặt trước các lý do tiêu cực.
1) Trước hết, về những lý do giúp con người tiến triển trong đường lành, thánh Tôma kể ra 5 điểm: bốn điểm liên quan đến các nhân đức tin, hy vọng, yêu mến, thực hành các nhân đức; điểm thứ năm liên quan đến hạnh phúc.
– Thứ nhất, về đức tin, giúp cho đức tin thêm vững chắc bởi vì biết chắc rằng chính Thiên Chúa là chân lý đã phán dạy (x. Hr 1,1).
– Thứ hai, về đức trông cậy, khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa chứng tỏ lòng yêu thương chúng ta qua việc ngài kết hợp với bản tính loài người.
– Thứ ba, về đức mến, bởi vì Thiên Chúa đã chứng tỏ tình thương chúng ta khi chết vì chúng ta lúc chúng ta còn là tội nhân (Rm 5,8).
– Thứ bốn, trong việc thực hành điều tốt, bởi Ngài đã cho chúng ta thấy một mẫu gương khi trở thành con người ở giữa chúng ta (Mt 11,29: Hãy học với Tôi, vì Tôi hiền hậu khiêm tốn).
– Thứ năm, sự Nhập thể cho phép chúng ta tham dự vào Thiên tính đã kết hợp với nhân tính của đức Kitô, như thánh Augustinô đã viết: Thiên Chúa đã làm người ngõ hầu con người được làm Thiên Chúa (sermo 128: PL 39,1997).
2) Trong nhóm thứ hai, thánh Tôma cũng kể ra năm lý do mà cuộc Nhập thể giúp chúng ta tránh xa điều xấu.
– Thứ nhất, việc Nhập thể giúp chúng ta đừng sợ ma quỷ, là kẻ thường xúi chúng ta phạm tội, bởi vì Thiên Chúa đã trở nên con người có thân thể, khiến chúng ta đừng coi ma quỷ cao cấp hơn chúng ta bởi vì là loài thần thiêng.
– Thứ hai, việc Nhập thể cho thấy phẩm giá cao quý của con người: nếu Thiên Chúa đã đoái thương chấp nhận bản tính con người thì chúng ta phải tránh bất cứ điều gì làm hạ thấp phẩm giá ấy, như thánh Lêô Cả đã nhắc nhở trong bài giảng lễ Giáng sinh.
– Thứ ba, việc Nhập thể xóa bỏ tính tự phụ của con người, khi nghĩ rằng có thể tự mình cứu độ nhờ sức lực của mình; bởi vì Đức Kitô đã đề cao ơn thánh Chúa không tùy thuộc vào công trạng con người, như thánh Augustinô đã nói.
– Thứ bốn, việc nhập thể chữa lành vết thương kiêu căng của chúng ta khi cho thấy đức khiêm tốn của Thiên Chúa, như thánh Phaolô viết: “Anh em đã luôn tâm niệm rằng Đức Giêsu Kitô đã tự khiêm tự hạ, Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, giống như người trần thế (Pl 2,5-7).
– Thứ năm, để giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ tội lỗi nhờ Đức Giêsu đã đền bù tội lỗi chúng ta: con người không thể nào đền bù tội lỗi của mình, Thiên Chúa cũng không thể đền bù tội lỗi của con người; duy có Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, mới có thể hoàn thành việc đó. (X. Thánh Lêo Cả, bài giảng lễ Giáng sinh).
Mặc dù đề tài gương mẫu được nhắc đến trong toàn thể khảo luận về Đức Kitô[1], nhưng do giới hạn của một bài báo, chúng tôi chỉ dừng lại ở mục thứ hai.
II. Tấm gương của Đức Kitô trong cuộc đời trần thế
Thánh Tôma đã chia các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Cứu thế thành bốn chặng: 1/ Vào đời; 2/ Ở trong đời; 3/ Ra khỏi đời; 4/ Tôn vinh, tương ứng hơn kém với cuộc đời thơ ấu, cuộc đời công khai, cuộc tử nạn, cuộc khải hoàn. Trong phần này, chúng tôi chỉ trình bày chặng thứ hai, còn chặng thứ ba được dành cho phần kế tiếp.
Như đã nói trên đây, trong chặng thứ hai (Đức Giêsu sống giữa trần thế), thánh Tôma trình bày bốn điểm: 1/ Lối sống (q. 40). 2/ Cám dỗ (q. 41); 3/ Giảng dạy (q. 42); 4/ Các phép lạ (q. 43-45). Chúng ta hãy khảo sát các điểm ấy.
A. Lối sống của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu đã chọn một lối sống giữa dân chúng, thay vì rút lui ở ẩn, bởi vì nó phù hợp với lý do mà Người đã nhập thể, đó là: 1/ Mặc khải chân lý (Ga 18,37), vì thế Người phải rao giảng nơi công cộng. 2/ Giải thoát loài người khỏi tội lỗi (1 Tm 1,15), vì thế Người cư xử như mục tử đi tìm con chiên lạc, hoặc như y sĩ đi tìm người bệnh. 3/ Dẫn đưa loài người đến cùng Thiên Chúa (Rm 5,2), vì thế Người sống thân mật với loài người để gây cho họ niềm tin tưởng đến với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Người cũng dạy các tông đồ và các nhà giảng thuyết đừng lúc nào cũng xuất hiện công khai, vì thế thỉnh thoảng Người cũng rút lui khỏi đám đông để nghỉ ngơi đối chút (Mc 6,31), để cầu nguyện sâu đậm hơn (Lc 6,12), để tránh tìm hư danh và sự tán thưởng của dư luận (Ga 6,15).
Người sống giữa dân chúng, chia sẻ những vui buồn của họ, “trở nên tất cả cho mọi người ngõ hầu cứu vớt mọi người” (1 Cr 9,22). Tuy không sống khắc khổ như ông Gioan Tẩy giả, nhưng Người cũng đã chọn một lối sống nghèo, vì bốn lý do: 1/ Những người rao giảng Lời Chúa cần dấn thân cho sứ vụ và thanh thoát khỏi những bận rộn trần tục (xc. Mt 10,9). 2/ Người đã muốn trở nên khó nghèo về thể xác để làm cho chúng ta được phong phú về tinh thần (2 Cr 8,9). 3/ Để người đời đừng nghĩ rằng Người giảng thuyết không phải vì phần rỗi các linh hồn mà vì tham lam của cải (T. Giêronimô). 4/ Để biểu lộ quyền năng Thiên Chúa có khả năng biến đổi những gì người đời cho là tầm thường (công đồng Ephêsô).
B. Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ
1/ Thánh Tôma đưa ra ba lý do vì sao Chúa Giêsu muốn để cho ma quỷ cám dỗ:
a) Để lập công, ngõ hầu giúp đỡ chúng ta chống lại các cơn cám dỗ.
b) Để đừng có ai, dù thánh thiện đến mấy, nghĩ rằng mình đã an toàn và không bị cám dỗ.
c) Để dạy chúng ta cách thức chiến thắng các cơn cám dỗ.
d) Để cho chúng ta tin tưởng vào lòng Chúa xót thương khi bị cám dỗ (Hr 4,15).
2/ Thánh Tôma cũng đưa ra nhận xét như sau về thứ tự các cơn cám dỗ, đi từ nhẹ đến nặng: a) cám dỗ về thể xác (mê ăn); b) cám dỗ về tinh thần (tìm kiếm danh vọng); c) thờ ngẫu tượng để đổi lại tiền bạc và công danh.
C. Chúa Giêsu giảng dạy
Quaestio 42 bàn về việc giảng dạy của Đức Kitô, gồm 4 articuli: tại sao Người chỉ giảng cho cho người Do thái mà không giảng cho dân ngoại? Lời lẽ của Người có gây đụng chạm với ai không? Người giảng kín đáo hay công khai? Tại sao Người không viết sách? Sau đây là câu trả lời.
1/ Đức Giêsu dành ưu tiên sứ vụ của mình cho dân Do thái vì muốn trung thành với lời hứa cùng các tổ phụ. Sau khi phục sinh, Người sai các môn đệ đến muôn dân khi mà mặc khải đã được hoàn tất với việc mặc khải thiên tính của Người cùng với việc ban Chúa Thánh Linh.
2/ Chúa Giêsu có nói những lời xúc phạm đến các người Do thái không?
Khi giảng dạy, Chúa Giêsu không tìm cách chiều lòng các thính giả, nhưng tìm ơn cứu độ của họ. Cũng như các ngôn sứ, Người rao giảng sự thật, dù biết rằng nói thật thì mất lòng.
3/ Chúa Giêsu giảng dạy công khai hay kín đáo?
Đối lại với những khuynh hướng mật giáo hay bi truyền đề cao các mặc khải tư, thánh Tôma nói rằng Chúa Giêsu giảng công khai chứ không bí mật. Tuy có khi Người dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời bởi vì các thính giả không đủ khả năng lĩnh hội, nhưng sau đó, Người lại giải thích cho các môn đệ để họ hiểu.
4/ Tại sao Chúa Giêsu giảng dạy chứ không viết sách?
Thánh Tôma đưa ra ba lý do thích hợp. Thứ nhất, bởi vì Người muốn in sâu đạo lý vào con tim của thính giả hơn là trên sách vở. Điều này, các thầy giáo ngoại đạo như Pythagoras và Socrates đã từng làm. Thứ hai, bởi vì đạo lý cao siêu phong phú không thể nào chứa được trong một cuốn sách. Thứ ba, Người muốn đi theo một thứ tự trong việc rao giảng: trước tiên, Người muốn dạy cho các môn đệ để rồi đến lượt các ông sẽ truyền bá đạo lý cho hậu thế bằng sách và thư. Người muốn cho các tông đồ cũng được tham gia vào sứ mệnh rao giảng ơn cứu độ. Người đã kêu gọi các môn đệ để họ sống với Người, thấm nhuần đạo lý của Người. Họ phải từ bỏ tất cả để gắn bó với Người. Họ phải rao giảng nhờ quyền năng của ơn thánh chứ không phải do tài năng cá nhân.
D. Các phép lạ
Thánh Tôma dành 3 quaestiones (43-45) cho đề tài này: thứ nhất là các phép lạ nói chung; thứ hai là phân loại các phép lạ; thứ ba về việc hiển dung.
1/ Bàn về các phép lạ nói chung, tác giả nêu bật hai lý do vì sao Thiên Chúa ban cho con người quyền được làm phép lạ: a) để chứng thực điều giảng dạy là bởi Thiên Chúa (x. Ga 10,38); b) để cho thấy Thiên Chúa hiện diện nơi Người giảng (x. Ga 5,36).
2/ Các phép lạ được phân làm bốn loại: a) phép lạ trên các thiên thần và ma quỷ (trừ tà); b) trên các hiện tượng thiên nhiên; c) dành cho con người (chữa bệnh, cho kẻ chết sống lại); d) trên các loài vô tri giác (chẳng hạn biến đổi nước thành rượu; mẻ cá lạ; hóa bánh) nhằm đến ích lợi cho con người.
3/ Cuộc hiển dung cũng được xếp vào các phép lạ, được thực hiện ngay trên chính bản thân của Đức Giêsu. Mục đích là nhằm củng cố đức tin cho các môn đệ, để họ biết rằng Đức Kitô phải trải qua đau khổ trước khi đi vào vinh quang (x. Lc 24,26; Cv 14,21). Ngoài ra, Người cũng muốn cho các môn đệ thấy trước vinh quang của thân xác mà họ sẽ được biến đổi giống như Người (Pl 3,21).
III. Tấm gương của Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt qua
Thánh Tôma dành ra 7 quaestiones (từ 46 đến 52, với 48 articuli) cho việc Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chết trên thập giá. Bên cạnh khía cạnh tín lý liên quan đến công cuộc cứu độ (tựa như đền tội, hy tế, cứu chuộc, hòa giải, vv), tác giả đã chú ý đặc biệt đến khía cạnh gương mẫu để lại cho chúng ta, cả từ cuộc khổ nạn thập giá cũng như từ cuộc phụ sinh.
A. Gương mẫu từ cuộc khổ nạn
Dĩ nhiên, Thiên Chúa có thể ban ơn cứu độ cho loài người bằng nhiều cách thức khác, nhưng sở dĩ Ngài chọn con đường Thập giá là vì thấy xứng hợp, xét từ ba phía: 1/ Về phía loài người, bởi vì chúng ta được giải thoát nhờ tin vào Thập giá (x. Ga 3,14-15). 2/ Về phía Đức Kitô, vì Người được tôn vinh sau khi đã hạ mình (Lc 24,26). 3/ Về phía Thiên Chúa, bởi vì cuộc khổ nạn của Đức Giêsu biểu lộ đức công bình và lân tuất của Ngài (Rm 3,24-25; Ep 2,4-5).
Cách riêng, tác giả đã liệt kê rất nhiều lý do cho thấy sự thích hợp của cuộc khổ nạn của Đức Kitô (q. 46, art. 3):
1/ Qua cuộc khổ nạn của Đức Kitô, con người biết được Thiên Chúa yêu thương ta đến mức nào, và nhờ vậy họ được thúc đẩy kính mến Chúa, và sự hoàn hảo của ơn cứu độ nằm ở đây. Vì thế thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa bày tỏ lòng yêu thương đối với chúng ta ở chỗ là khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết cho chúng ta” (Rm 5,8).
2/ Nhờ cuộc khổ nạn, Đức Kitô để lại cho chúng ta mẫu gương về vâng phục, khiêm tốn, nhẫn nại, công bình và những nhân đức khác cần thiết cho ơn cứu độ. Vì thế thánh Phêrô nói: “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì chúng ta, để lại một tấm gương để chúng ta đi theo Người” (1 Pr 2,21).
3/ Nhờ cuộc khổ nạn, Đức Kitô không chỉ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi mà còn lập công nghiệp và vinh quang hạnh phúc, như sẽ thấy sau.
4/ Với cuộc khổ nạn của Đức Kitô, con người cảm thấy nghĩa vụ giữ gìn mình khỏi tội lỗi, như thánh Tông đồ đã nói: “Anh em đã được mua bằng giá đắt; hãy tôn vinh Thiên Chúa và mang Ngài trong thân thể của mình” (1 Cr 6,20).
5/ Với cuộc khổ nạn của Đức Kitô, phẩm giá của con người được nâng cao; bởi vì cũng như một người đã bị ma quỷ lừa gạt và thắng, thì cũng xứng hợp để cho một người khác thắng ma quỷ; cũng tương tự như một người đáng tội phải chết, thì một người khác nhờ cái chết mà vượt thắng cái chết. Vì thế thánh Phaolô nói rằng: Tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Kitô” (1 Cr 15,57).
Ngoài ra, tác giả còn nêu lên 7 lý do cho thấy sự thích hợp của việc Đức Giêsu chết trên thập giá (art. 4):
1/ Để cho chúng ta một mẫu gương về đức can đảm. Như thánh Augustinô đã viết: “có những người không sợ chết, nhưng ghê tởm một vài hình thức nào đó của cái chết. Để cho không hình thức nào của cái chết khiến cho người sống đức hạnh phải lo sợ, thì ta có trước mắt tấm gương của thập giá Đức Kitô, là hình thức kinh tởm nhất của cái chết.
2/ Bởi vì là cách thức xứng hợp nhất để sửa chữa tội của người đầu tiên, đó là giơ tay hái trái cấm từ một cây. Vì thế, Đức Kitô là hoa trái của sự sống, muốn cho mình chịu đóng đinh vào cây thập giá, ra như muốn bồi thường điều mà ông Ađam đã lấy đi (Tv 69,5).
3/ Bởi vì cũng như Đức Kitô đã chết trên một cây cao chứ không phải dưới mái nhà hầu thánh hóa bầu khí cũng thánh hóa bản tính của không khí (thánh Gioan Kim Khẩu).
4/ Bởi vì bước lên thập giá, Đức Kitô chuẩn bị cho chúng ta lên trời (thánh Gioan Kim Khẩu). Vì thế chính Đức Kitô đã nói: “Chừng nào tôi được nâng lên khỏi trái đất, tôi sẽ kéo tất cả lên với tôi” (Ga 12,32).
5/ Bởi vì hình ảnh thập giá, từ trung tâm độc nhất của nó, chiếu tỏa ra bốn hướng, ra như cho thấy kẻ chết trên đó mang lại ơn ích cho tất cả thế giới (thánh Grêgoriô Nyssa).
6/ Bởi vì thập giá là biểu tượng cho nhiều nhân đức cao quý theo chiều dài, chiều rộng, chiều cao và chiều sâu của nó (x. Ep 3,18). Thánh Augustinô nhìn thấy chiều rộng nơi thanh ngang như là biểu tượng của các việc lành, bởi trên đó hai cánh tay dang ra; chiều dài là thanh dọc ở trên mặt đất tượng trưng cho đức kiên nhẫn và quảng đại; còn thanh dọc phía ở trên đầu tượng trưng cho đức hy vọng nhìn lên trời; còn chiều sâu là phần thanh dọc được chôn ở dưới đất tượng trưng cho sự sâu thẳm của ân sủng ban không.
7/ Cây gỗ của thập giá đáp ứng với nhiều hình ảnh Kinh Thánh, như tàu ông Noe làm bằng gỗ, nhờ đó những người ưu tuyển được cứu vớt; như cây gậy của ông Mosê, nhờ đó ông rẽ nước Biển Đỏ để cho dân Israel đi qua và được giải thoát khỏi quyền lực vua Pharao; cũng cây gậy của ông Môse cắm xuống nước mặn để biến nó thành nước ngọt; và cũng với cây gậy, ông Mosê đập vào đá khiến cho nước chảy ra để dân Israel được giải khát cũng như từ cạnh sườn Đức Kitô trào ra nước hằng sống; Hòm bia giao ước bằng gỗ chứa đựng manna và luật Thiên Chúa. Đó là những hình bóng nói lên hiệu quả của cây thập giá mang lại cho chúng ta sự sống.
Để tóm lại các mẫu gương từ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, chúng ta hãy nghe lại bài giảng của thánh Tôma ở Napoli vào mùa Chay năm 1273 khi chú giải Kinh Tin kính liên quan đến “Đức Kitô chịu chết vì chúng ta”[2].
Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đủ để dạy cho chúng ta một mẫu gương trong hết mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Thật vậy, bất cứ ai muốn sống trọn lành thì chỉ cần khinh chê những gì Đức Giêsu đã khinh chê trên Thánh Giá và ao ước những gì Người đã ước ao. Không có một nhân đức nào mà chúng ta không tìm thấy mẫu gương trên cây Thánh Giá.
1) Đức ái
Bạn tìm một mẫu gương về đức ái ư? Thánh Gioan đã chỉ cho thấy (15,13): “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình,” và Đức Giêsu đã thực hiện điều này trên cây Thánh Giá. Nếu Người đã ban mạng sống của mình vì chúng ta, thì chẳng có gì là gian khổ khi chúng ta phải chịu đựng bất cứ một sự dữ vì Người. Vịnh gia đã hát (115,12): “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho?”
2) Đức kiên nhẫn
Bạn tìm một mẫu gương về đức kiên nhẫn ư? Bạn sẽ tìm thấy một mẫu gương hoàn hảo nhất nơi Thánh Giá. Vì đức kiên nhẫn được chứng tỏ cách cao vời bằng hai cách: hoặc bằng cách kiên trì chịu đựng những điều dữ dằn hoặc bằng cách chịu đựng những cái có thể tránh được nhưng lại không tránh.
Thế nhưng trên Thánh giá, Đức Giêsu đã chịu đựng những đau khổ dữ dằn, vì thế có thể áp dụng lời của ông Giêrêmia trong sách Ai Ca (1,12) “Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem, có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ của Đức Chúa giáng xuống trên tôi.”, và Người đã chịu đựng một cách kiên nhẫn bởi vì: “Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe” (1 Pr 2,23). “Như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng.” (Is 53,7)
Ngoài ra, Người đã có thể tránh những đau khổ nhưng lại không tránh, như chính Người đã nói với ông Phêrô trong vườn Cây Dầu (Mt 26,53): “Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy và lập tức Cha sẽ cấp cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần sao?” Do đó, sự chịu đựng của Đức Kitô trên cây Thập Giá thật là vĩ đại: “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục.” (Dt 12,1-2)
3) Đức khiêm nhường
Bạn tìm kiếm mẫu gương về đức khiêm nhường ư? Hãy nhìn lên Đấng chết treo trên cây Thánh Giá. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã chịu để cho Phong-xi-ô Phi-la-tô xét xử và chịu chết. Chúng ta có thể nói về Người: “Vụ án của người đã bị xét xử như vụ án của kẻ tội phạm.” (x. G 36,17). Thật giống như vụ án của kẻ tội phạm bởi vì những kẻ thù của Người có thể nói (Kn 2,20): “chúng ta hãy kết án cho Nó chết nhục nhã.” Ông Chủ đã muốn chết vì tôi tớ của Mình và sự sống của các Thiên Thần đã chịu sát tế vì con người. Thánh Phaolô đã viết (Pl 2,8): “Đức Kitô Giêsu đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên Thánh giá.”
4) Đức vâng lời
Bạn muốn tìm kiếm mẫu gương về đức vâng lời ư? Hãy đi theo Đức Kitô, Đấng đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết. Thánh Tông đồ viết cho các tín hữu Rôma (5,19): “Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.”
5) Khinh chê của cải trần gian
Bạn muốn tìm mẫu gương về sự khinh chê của cải trần gian ư? Hãy đi theo Đấng là Vua các Vua và Chúa các Chúa, nơi Người có tất cả mọi kho tàng sự khôn ngoan (Cl 2,3), thế mà trên Thánh Giá, Người bị trần truồng, nhạo báng, đánh đòn, đội mão gai, uống giấm chua và mật đắng, và cuối cùng chịu chết. Do đó, đừng quan tâm tới y phục hoặc của cải của bạn, vì “quân lính đã chia áo của tôi” (Tv 21,19), cũng đừng quan tâm tới danh dự, bởi vì “chính Tôi phải chịu cười nhạo và bị đập đánh”; cũng đừng quan tâm đến chức vị, bởi vì chúng kết một vòng gai và đội lên đầu tôi; cũng đừng quan tâm tới khoái lạc, vì “lúc con khát nước, chúng lại cho uống giấm chua.” (Tv 68,22). Vì thế, khi chú giải thư Do-thái đoạn 12 câu 2 (Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục) thánh Âu-tinh nói rằng: “Con người Giêsu Kitô đã khinh chê mọi của cải trần gian để dạy cho biết những gì phải khinh chê”.
B. Từ cuộc phục sinh
Ngay từ trong Tân ước, chúng ta nghe được rất nhiều huấn dụ tâm linh chung quanh Thập giá. Tuy nhiên, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không thể tách rời thập giá với cuộc phục sinh. Thánh Phaolô đã từng tuyên bố: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng (1 Cr 15,14). Thánh Tôma không quên điều này. Trong bài giảng về kinh Tin kính, khi chú giải biến cố Đức Kitô Phục sinh, tác giả đặt câu hỏi: “Sự phục sinh của Đức Kitô dạy chúng ta điều gì?”, và ngài kể ra bốn hệ luận như sau:
1. Thứ nhất, chúng ta phải cố gắng sống lại cách thiêng liêng ra khỏi sự chết của linh hồn do tội lỗi gây ra, và cố gắng tiến tới đời sống công chính mà chúng ta có thể đạt được nhờ việc sám hối. Vì thế, thánh Phaolô nói (Ep 5,14): “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!”. Đây là cuộc phục sinh thứ nhất mà sách Khải huyền đã nói (20,6): “Hạnh phúc thay… kẻ được dự phần vào cuộc phục sinh thứ nhất này”.
2. Thứ hai, chúng ta đừng chờ đến lúc chết mới lo tính việc sống lại khỏi tội lỗi, nhưng phải nhanh chóng trở về với đời sống ân sủng, bởi vì Đức Kitô đã sống lại vào ngày thứ ba. Có lời trong sách Huấn ca (5,8) rằng: “Đừng trì hoãn, hãy trở về với Đức Chúa đi, đừng lần lữa hết ngày này quan ngày khác”. Thật vậy, làm thế nào bạn nghĩ đến ơn cứu độ vào lúc bị đè nặng bởi sự yếu đau? Đàng khác, khi bạn trì trệ trong tội lỗi, bạn đánh mất sự chia sẻ những việc tốt lành được thực hiện trong Giáo hội, và có nguy cơ mắc thêm nhiều sự dữ. Hơn nữa, như thánh Bêđa đã nói, ma quỷ càng chiếm hữu ai lâu năm thì càng khó buông thả họ ra.
3. Thứ ba, sự sống lại khỏi tội lỗi phải nhằm sống cuộc đời bất diệt, nghĩa là để không còn mất sự sống ân sủng nữa. Thật vậy, khi sống lại chúng ta phải quyết tâm sẽ không phạm tội nữa. Thánh Phaolô viết (Rm 6,9.11-13): “Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người…Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu. Vậy tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa, khiến anh em phải nghe theo những dục vọng của thân xác. Anh em đừng dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa”.
4. Thứ bốn, sự sống lại khỏi tội lỗi phải là sự sống lại vào cuộc sống mới và vinh hiển, bằng cách tránh những gì vốn là cơ hội hoặc nguyên nhân dẫn đến tội lỗi và sự chết. Thánh Phaolô nói (Rm 6,4): “Cũng như Đức Kitô đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới”. Đời sống mới này là đời sống công chính, đời sống ấy sẽ tái tạo linh hồn chúng ta và dẫn đưa chúng ta vào đời sống vinh quang. Amen.[3]
Kết luận
Chúng tôi xin bổ túc ba điểm.
1/ Mầu nhiệm cuộc đời Đức Kitô
Bài này nghiên cứu khía cạnh tâm linh của Kitô học đặc biệt trong mục thứ hai (cuộc đời Đức Kitô). Nhiều tác giả đã viết sách mang tựa đề “Bắt chước Chúa Giêsu” (De imitatione Christi) nổi tiếng nhất là quyển “Gương phúc” (gán cho Thomas de Kempis). Một chủ đề tương đương được phổ biến từ sau công đồng Vaticanô II giữa hàng tu sĩ là “Đi theo Chúa Kitô” (Sequela Christi), nhưng có lẽ chỉ chú trọng một vài khía cạnh của cuộc đời chứ không bao trùm toàn thể cuộc đời của Chúa Cứu thể, như thánh Tôma. Dù sao cũng nên biết là chủ đề “Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Kitô” đã được đưa vào Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo như một đề tài chính cho việc huấn giáo (số 512-570). Mặt khác, các mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là đề tài học hỏi nhưng còn là chủ đề cho các buổi cử hành phụng vụ, cách riêng là Năm phụng vụ (số 1115). Phụng vụ không chỉ “tưởng nhớ” một biến cố cuộc đời của Đức Giêsu trong quá khứ, nhưng làm “hiện thực” trong buổi cử hành, “hôm nay” nhờ tác động của Thánh Linh (số 1009-1109). Nhờ đó, đời sống tâm linh không chỉ là những tâm tình ướt át, nhưng dựa trên các chân lý đức tin và dẫn chúng ta đến sự hiệp thông với Đức Kitô, và nhờ Người đến với Chúa Cha trong sự hiệp nhất của Thánh Linh.
2/ Đức Kitô là Thầy và Mẫu gương
Dưới khía cạnh thần học tâm linh, Đức Kitô được trình bày như là “Đường”: Người là Đường dẫn con người về với Thiên Chúa và cũng là Đường đưa Thiên Chúa đến với con người. Đức Kitô là “Thầy” của chúng ta: Người dạy không chỉ bằng lời giảng mà còn bằng đời sống nữa. Người làm gương cho chúng ta noi theo (x. Ga 13,12-15).
Tuy nhiên, khi nói đến gương mẫu, cha Jean-Pierre Torrell O.P. đề nghị phân biệt hai cấp độ, được đặt tên là “tấm gương luân lý” (moral exemplarity: bắt chước các hành động của Người) và “tấm gương hữu thể” (ontological exemplarity: bắt chước chức phận làm con Thiên Chúa)[4]. Bắt chước luân lý là bắt các việc lành mà Đức Kitô đã làm; tất cả các hành động của Người đều đáng được bắt chước. Bắt chước Đức Kitô là đi theo con đường mà Người đã đi. Mặt khác, Đức Kitô không chỉ là một con người thánh thiện đã để lại mẫu gương nhân đức mà thôi, nhưng Đức Kitô còn là Thiên Chúa làm người. Thực vậy, con người cần phải bắt chước Thiên Chúa như là nguồn gốc và cứu cánh hạnh phúc của mình; thế nhưng làm thế nào con người có thể bắt chước Thiên Chúa vì là điều quá khả năng của mình? May thay, thánh Tôma cho thấy rằng bởi vì là nghĩa tử của Thiên Chúa chúng ta có thể bắt chước Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, con người là hình ảnh của Thiên Chúa, và phải trở nên giống Thiên Chúa. Để thực hiện ơn gọi, con người cần một mẫu gương từ chính Thiên Chúa, con người cần Thiên Chúa mặc khải chính mình, ngõ hầu có thể biết được Thiên Chúa và kết hiệp với Ngài. Đó là lý do của sự cần thiết của Ngôi Lời nhập thể. Con người không chỉ cần đến tấm gương của một thầy dạy luân lý các nhân đức, nhưng còn cần đến tấm gương của chính Lời Thiên Chúa để bắt chước.
Theo thánh Tôma, có ba cách thức bắt chước Lời của Thiên Chúa. Thứ nhất, các thụ tạo có thể bắt chước Ngôi Lời tùy theo hình thái của mình. Tất cả mọi loài thụ tạo có thể bắt chước Ngôi Lời bởi vì muôn loài được tạo dựng nhờ Ngôi Lời. Thứ hai, loài người có thể bắt chước Ngôi Lời theo hình thái có lý trí của mình. Thứ ba, nhờ ân sủng và đức mến, chúng ta bắt chước Lời của Thiên Chúa dựa theo việc Người hợp nhất với Chúa Cha. Đức Kitô là Con Thiên Chúa do bản tính; chúng ta trở nên con Thiên Chúa nhờ ơn làm nghĩa từ do Thánh Linh ban tặng (III, q. 23, a. 4, ad 2).
Đến đây, sự bắt chước hàm ngụ một sự biến đổi bản thể: từ loài thụ tạo chúng ta được biến đổi nên con cái Thiên Chúa. Điều này hàm ngụ một ơn huệ từ trên ban xuống chứ không phải do khả năng tự nhiên của con người.
——————————–
Thư tịch
Các tác phẩm về Kitô học theo thánh Tôma rất dồi dào. Ở đây chúng tôi chỉ ghi lại vài tựa đề bàn về “linh đạo”
Barron, R., Thomas Aquinas Spiritual Master, Word on Fire, Park Ridge, 2022
Biffi, I., “I misteri della vita di Cristo nei commenti biblici di San Tommaso d’Aquino”, in: Divus Thomas, 53 (1976), 217-254.
Id., I misteri di Cristo in Tommaso d’Aquino. La costruzione della Teologia, vol. 1. Jaca Book, Milano,1994.
Murray, P., Aquinas at Prayer: The Bible, Mysticism, and Poetry, Bloomsbury, London: 2013.
Torrell, J.P., Le Christ en ses mystères. La vie et l’œuvre de Jésus selon saint Thomas d’Aquin, Cerf, Paris, 2 vol.,1999.
Id., Christ and Spirituality in Thomas Aquinas, The Catholic University of America Press, Washington D.C. 2011.
Id., St Thomas d’Aquin, Maitre Spirituel, nouvelle édition, Cerf, Paris 2017.
——————————–
[1] Theo thánh Tôma, “bất cứ hành động nào trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng đều mang tính cách gương mẫu như vậy (q. 40, a. 2 ad 2). Người đã mặc lấy một thân thể có thể chịu đau khổ để cho chúng ta tấm gương nhẫn nhục biết can đảm chịu đựng những đau khổ và hạn chế của mình (q. 14, a. 1); Người cầu nguyện để dạy chúng ta biết thường xuyên cầu nguyện với lòng tín thác (q. 21, a. 3).
[2] Hồ Vĩnh Thịnh (biên dịch), Kinh Tin kính theo chú giải của thánh Tôma Aquino, Học viện Đaminh 2015, trang 69-72.
[3] Sách đã dẫn trang 85-87
[4] Jean-Pierre Torrell, O.P., Saint Thomas Aquinas Spiritual Master, The Catholic University of America Press, Washington D.C., 2003, p. 115-116.