Chúa Nhật IV, Phục Sinh, Năm C – Chúa Nhật Chúa Chiên Lành

0
1793

Anthony Đinh Minh Tiên, OP.

Bài đọc: Cv 13,14.43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30.

1/ Bài đọc I: 14 Còn hai ông thì rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a. Ngày sa-bát, hai ông vào hội đường ngồi tham dự.

43Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa. 44 Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa.

45 Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông.

46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại.

47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.” 48 Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.

50 Nhưng người Do-thái sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.

2/ Bài đọc II: 9 Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế.

Vị ấy bảo tôi: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.

15 Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn.

16 Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. 17 Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.”

3/ Phúc Âm: 27 Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.

28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.

30 Tôi và Chúa Cha là một.”

——————————————–

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: ĐỨC KITÔ LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH DUY NHẤT

Thiên Chúa dựng nên con người với địa vị ngang hàng như nhau; nhưng nhiều người tự cho mình hơn người khác vì những đặc quyền họ sở hữu như: giầu có, danh vọng, uy quyền, sức khoẻ, sắc đẹp. Nhiều kẻ làm thuê đã nhân danh Mục Tử để tước đoạt lông chiên, thịt chiên; chứ không quan tâm đến tình trạng của những con chiên mà Thiên Chúa đã trao cho họ.

Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật vai trò quan trọng của Đức Kitô; Ngài là Mục Tử Nhân Lành được Thiên Chúa sai đến để chăm sóc đoàn chiên của Thiên Chúa: Ngài sẽ mang về những con chiên lạc, băng bó chiên bị thương, vỗ béo chiên gầy còm, dắt chiên đến đồng cỏ phì nhiêu và suối nước trong lành; nhất là Ngài cho chiên được hưởng cuộc sống đời đời. Trong bài đọc I, những người Do-thái ghen tức với Phaolô và Barnaba, vì đã làm cho đoàn chiên của họ bỏ họ và chạy theo hai ông; nên họ đã cấu kết với những phụ nữ quyền quí và những người có thế giá để trục xuất hai ông khỏi thành. Trong bài đọc II, những tín hữu nào đã trung thành đi theo để giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu của Con Chiên, sẽ không bao giờ phải chịu đói khát hay đau khổ nữa, vì Con Chiên là Mục Tử Nhân Lành sẽ luôn chăm sóc và an ủi họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu là Mục Tử Tốt Lành. Ai qua Người mà vào là kẻ chăn chiên thật, và tất cả những con chiên nào đi theo Người sẽ không bao giờ bị đói khát và đau buồn nữa, vì Ngài sẽ chăm sóc, bảo vệ, và cho hưởng cuộc sống đời đời.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Người Do-thái sinh lòng ghen tức và phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông

1.1/ Dấu hiệu của những người chăn chiên thật: Một số những dấu hiệu giúp các tín hữu nhận ra những người chăn chiên thật:

(1) Luôn tìm cách đưa các chiên về cho Thiên Chúa bằng việc rao giảng sự thật: Tiểu Á ngày xưa (Thỗ Nhĩ Kỳ ngày nay) là địa bàn truyền giáo của Phaolô và Barnaba. Đây là địa bàn quan trọng vì nó nối kết Châu Á và Châu Âu. Phaolô và Barnabas biết con người luôn tìm kiếm sự thật, đó là lý do mà vào hội đường của những người Do-thái mỗi ngày sabbath để rao giảng cho mọi người biết sự thật về Đức Kitô để họ tin vào Ngài. Lần đầu nghe, một số người đã nhận ra sự thật; họ mời hai ông trở lại để rao giảng lần sau. Tuần sau, họ kêu gọi gia đình và bạn bè đến nghe hai ông giảng; trình thuật kể “ngày sabbath sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa.” Qua hai tuần rao giảng, Phaolô và Barnaba làm cho nhiều người Do-thái và Dân Ngoại tại Antiochia miền Pisidia tin vào Đức Kitô.

(2) Chỉ cho dân đường tới Thiên Chúa: Người chăn chiên thật không hướng chiên vào mình; nhưng luôn chỉ đường cho chiên đến với Thiên Chúa. Đối với những người đã tin vào Thiên Chúa, Phaolô và Barnaba “khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.” Đối với Dân Ngoại, hai ông chỉ cho họ thấy đích điểm của đời người là cuộc sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Nhiều dân ngoại đã nhận ra và tin theo những gì hai ông nói và Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.

(3) Không chán nản khi bị bách hại: Các tông đồ đã được Chúa Giêsu dạy: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” Và, “Nếu họ bắt bớ anh em ở thành này, hãy trốn sang thành khác.” Khi bị những người Do-thái và nhà cầm quyền phản đối, Phaolô và Barnaba liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Iconium lòng tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.

1.2/ Dấu hiệu của những người chăn chiên giả.

(1) Họ ghen tức khi đương đầu với sự thật: Ngôn sứ Ezekiel diễn tả rất hay về hạng mục tử này như sau: “chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú vì thiếu mục tử, bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta” (Ed 34,8). Họ ghen tức với Phaolô và Barnabas, vì những người Do-thái của họ và nhiều Dân Ngọai tin theo những gì hai ông rao giảng về Đức Kitô, không phải vì họ sợ đàn chiên của họ bị nhiễm những đạo lý sai lầm; nhưng họ sợ đàn chiên sẽ bỏ họ mà chạy theo Phaolô và Barnaba và họ sẽ mất những lợi nhuận vật chất mà đàn chiên mang lại. Đây cũng chính là lý do mà những người trong Thượng Hội Đồng thủ tiêu Chúa Giêsu.

(2) Tìm cách tiêu diệt sự thật: Trình thuật kể, khi thấy những đám đông như vậy đến nghe hai ông giảng, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Thay vì tranh luận với hai ông để tìm ra sự thật, họ “sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Barnaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.”

2/ Bài đọc II: Con Chiên sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh

2.1/ Các tín hữu phải giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên: Trong đoạn văn này, tác giả Sách Khải Huyền mô tả các tín hữu được về hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa sau cuộc sống gian khổ trên dương thế. Một số biểu tượng chúng ta cần hiểu:

+ Ngai: tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa Cha.

+ Con Chiên: là Đức Kitô. Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Ga 1,29).

+ Áo trắng: tượng trưng cho sự trong sạch và chiến thắng.

+ Nhành thiên tuế: tượng trưng cho chiến thắng.

Các tín hữu này là những người đã trải qua mọi gian khổ trên dương gian mà vẫn giữ được niềm tin yêu trung thành với Đức Kitô; vì thế, họ xứng đáng được Đức Kitô dẫn tới trước ngai Thiên Chúa, để xin Chúa Cha cho được hưởng hạnh phúc với Ngài muôn đời.

2.2/ Phần thưởng đạt được cho những tín hữu trung thành.

+ Được ở mãi bên Thiên Chúa và Con Chiên: Mục đích của đời người là ơn phúc kiến: được chiêm ngắm Thiên Chúa và thờ phượng Ngài muôn đời. Những người tín hữu đã chiến thắng được hưởng ơn phúc kiến này: “Họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn.”

+ Không phải đói khát: cả phần hồn cũng như phần xác.

+ Không bị đau khổ hành hạ: Người tín hữu sẽ không phải chịu bất cứ một đau khổ phần hồn cũng như phần xác nào nữa.

+ Được Thiên Chúa lau sạch nước mắt: Người tín hữu sẽ không bao giờ bị than khóc vì chia ly hay phải cách biệt những người thân. Họ sẽ sống bên nhau muôn đời.

3/ Phúc Âm: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi

3.1/ Mối liên hệ giữa Mục Tử và đoàn chiên: là mối liên hệ hai chiều.

(1) Mục Tử phải biết chiên của mình: Động từ “biết” trong tiếng Hy-lạp mang một ý nghĩa thâm sâu, chứ không phải chỉ biết các hời hợt bên ngoài. Mục tử biết tình trạng phần hồn cũng như phần xác của từng con chiên thì mới có thể giúp đỡ và săn sóc chúng được. Lời của ngôn sứ Ezekiel tiên báo về sứ vụ của Mục Tử Nhân Lành giúp chúng ta hiểu phần nào về sứ vụ Mục Tử của Đức Kitô: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.” Một người chăn chiên mà không biết tình trạng chiên của mình, làm sao ông có thể hướng dẫn và giúp đỡ chiên được?

(2) Chiên phải nghe tiếng của Mục Tử: Chăn chiên trên đất Palestine là công việc rất khó khăn, vì ngoài việc phải lo tìm đồng cỏ xanh tươi và giòng suối trong, người mục tử còn phải bảo vệ chiên khỏi rơi xuống vực thẳm, khỏi tay của chó sói và của những người trộm cướp luôn đe dọa đàn chiên. Mục Tử luôn phải đi trước để nhận diện nguy hiểm trước khi hướng dẫn chiên tiến lên. Để được bảo vệ an toàn, đàn chiên phải tuyệt đối vâng lời làm theo những gì mục tử muốn; nếu không, chiên sẽ dễ dàng rơi xuống vực thẳm hay vào tay trộm cướp.

Trên phương diện phần hồn cũng thế, đàn chiên non dại không biết những nguy hiểm phần hồn đang đe dọa mình; người mục tử phải hướng dẫn chiên bằng lời sự thật của Đức Kitô, nuôi dưỡng bằng các bí tích để giúp chiên luôn vững mạnh, và luôn tỉnh thức để nhận ra những nguy hiểm đang đe dọa đàn chiên của mình và tìm các vượt qua. Đổi lại, đàn chiên phải biết vâng lời và làm theo những gì mục tử hướng dẫn; nếu không, chiên sẽ rơi vào bẫy của kẻ thù cho dù mục tử đã làm hết cách để bảo vệ chiên của mình.

Đức Kitô tuyên bố: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.” Đây là một lời bảo hiểm vững chắc cho tất cả những chiên nào tin tưởng và vâng lời làm theo những chỉ dạy của Đức Kitô, Mục Tử Nhân Lành. Ngài hướng dẫn chiên không chỉ bằng những chăm sóc bên ngoài; nhưng bằng hướng dẫn yêu thương trong tâm hồn để chiên nhận ra những nguy hiểm, đồng thời Ngài cũng ban sức mạnh cần thiết để chiên vượt qua những nguy hiểm đó.

3.2/ Liên hệ giữa Chúa Cha và đòan chiên: Chúa Giêsu tiếp tục tuyên bố: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.”

Đây là một mặc khải quan trọng của Đức Kitô cho con người. Trên phương diện thần học, lời này nói lên thiên tính của Đức Kitô: Ngài là Thiên Chúa và có uy quyền ngang hàng với Chúa Cha. Về phương diện mục vụ, lời tuyên xưng cho chúng ta thấy sự liên hiệp giữa Chúa Cha và Chúa Con trong việc bảo vệ con người. Người tín hữu là tài sản chung của cả Chúa Cha và Chúa Con: Chúa Cha đã ban người tín hữu cho Chúa Con, và Chúa Con đã làm hết cách để bảo vệ các tín hữu như đàn chiên của mình. Nếu địch thù không kéo chiên ra khỏi sự bảo vệ của Đức Kitô, chúng sẽ càng không kéo chiên khỏi sự bảo vệ của Ba Ngôi Thiên Chúa, vì chỗ nào có Con, cũng có Cha và Thánh Thần.

Chúa Giêsu đã mặc khải sự bảo vệ này trong diễn từ về bí tích Thánh Thể: “Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,39-40).

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chỉ có Đức Kitô là Mục Tử Nhân Lành duy nhất. Cha mẹ và các cha chỉ là những người chăn chiên cho Thiên Chúa.

– Người chăn chiên thật phải đưa các chiên của mình tới Thiên Chúa; chứ không phải hướng vào mình hay tìm lợi ích cho mình.

– Bổn phận của đoàn chiên là phải lắng nghe để nhận ra và đi theo tiếng của người Mục Tử Nhân Lành; để đừng bao giờ bị rơi vào bẫy của những người chăn chiên giả và trộm cướp.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here