Lm. Giuse Nguyễn Văn Hiển, OP.
Dẫn vào
Công đồng Vatican II, trong Hiến chế về Phụng đã khẳng định:
«Trong Năm Phụng vụ, Giáo hội tưởng nhớ tất cả các mầu nhiệm của Đức Kitô, từ biến cố nhập thể cho đến ngày Hiện Xuống, và cho đến ngày trở lại của Thiên Chúa. (…) Năm phụng vụ, trong một ý nghĩa chung, mở ra cho chúng ta những sự phong phú của Mầu Nhiệm Đức Kitô. Những mầu nhiệm này trong một phương diện nào đó trở nên hiện tại trong tất cả chiều dài của thời gian; các tín hữu được đặt để liên hệ với các mầu nhiệm này và được làm cho viên mãn nhờ ân sủng của ơn cứu độ » (HCPV, số 102).
Trong phần này, chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa đặc biệt của Mùa phụng vụ Phục Sinh. Chu kỳ mùa Phục Sinh bao gồm:
– Khởi đầu với ngày thứ Tư lễ Tro, kéo dài trong 40 ngày chay tịnh và cầu nguyện.
– Đây cũng được xem như là thời gian chuẩn bị (cho đến Chúa nhật Lễ Lá).
– Tuần thánh được hoàn thiện bằng Tam nhật vượt qua (từ tối ngày thứ Năm Tuần Thánh cho đến kinh chiều ngày Chúa nhật Phục Sinh).
– Tuần Bát nhật Phục Sinh.
– Mùa Phục Sinh gồm cả lễ Chúa Thăng Thiên và kết thúc bởi lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (50 ngày sau lễ Phục Sinh).
1.- Thứ tư lễ Tro
Để hiểu rõ ý nghĩa của Mùa Chay, chúng ta không thể quên ý nghĩa chính của nó được bày tỏ cách rõ ràng trong Tam nhật vượt qua: cuộc Thương Khó, chết và Phục Sinh của Con Thiên Chúa, là trung tâm và cao điểm của năm phụng vụ. Việc cử hành mầu nhiệm vượt qua này đã mang mặc một tầm quan trọng đặc biệt đối với các tín hữu đầu tiên, những người đã có một thời gian dài chuẩn bị, cầu nguyện và đền tội được ghi nhận trong 40 ngày, từ thế kỷ thứ 4. Con số 40 nhằm nói đến thời gian của dân Do thái đã trải qua 40 năm trong sa mạc, sau khi ra khỏi Ai cập. Môsê (Xh 24,18), và chính Đức Giêsu, đã trải qua 40 ngày đêm trong sa mạc (chay tịnh và cầu nguyện) trước khi xuất hiện trước dân chúng để rao giảng Tin mừng. Đó là lý do tại sao Mùa Chay được được giới thiệu như là thời gian đi vào sa mạc, như một kinh nghiệm của việc loại bỏ tất cả những vướng bận, nhờ đó giúp chúng ta trở về với yếu tố căn bản của đời sống chúng ta, trung tâm của niềm tin của chúng ta.
2.- Hai ý nghĩa chính của phụng vụ Mùa Chay
Trước hết đây là thời gian có liên hệ đặc biệt đến các dự tòng. Đây là thời gian chuẩn bị cuối cùng để các dự tòng lãnh nhận bí tích rửa tội vào đêm vọng Phục Sinh. Những dự tòng sống thời gian «bốn mươi ngày» này giống như một thời gian tĩnh tâm lớn có giá trị đặc biệt quan trọng qua việc cầu nguyện và học tập sống kinh nghiệm cộng đoàn một cách sâu sắc. Toàn thể cộng đoàn kitô hữu được mời gọi liên kết chặt chẽ với họ bằng việc nâng đỡi họ bằng lời cầu nguyện cho đến đêm Phục Sinh, cho đến khi những dự tòng này nhận lãnh các bí tích khai tâm Kitô giáo (Rửa tội, Thêm Sức và Thánh Thể). Đây cũng là thời gian của sự đào sâu, của tĩnh tâm cho tất cả các tín hữu, những người trong khi tháp tùng những anh chị em dự tòng, tự chuẩn bị để tuyên xưng lại niềm tin của bí tích rửa tội mà mỗi người đã lãnh nhận. Thời gian Mùa Chay bắt đầu vào ngày thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào tối ngày thứ năm tuần thánh. Các Chúa nhật không được tính vào giống như những ngày đền tội : bởi vì chúng thuộc về những ngày cử hành sự Phục Sinh của Đức Kitô và một cách nào đó giúp chúng ta không quên mục đích của Mùa Chay là: niềm vui Phục Sinh.
Phụng vụ Mùa Chay làm cho chúng ta đi vào viễn tượng của cuộc chiến, nhưng không phải bất kỳ cuộc chiến nào đó: lời điệp khúc của phần giáo đầu Kinh Phụng Vụ từ ngày thứ Tư Lễ Tro hát rằng: «Những ánh mắt hướng nhìn về Đức Kitô, chúng ta đi vào trong cuộc chiến của Thiên Chúa».
Điểm kế tiếp của ý nghĩa Mùa Chay là mời gọi hoán cải và tin tưởng vào Thiên Chúa. Những phương tiện được đề nghị là lời cầu nguyện, là việc đền tội (bằng những nỗ lực cá nhân) và làm việc thiện. Kinh nghiệm về ăn chay, sống tình yêu huynh đệ nhắc nhở chúng ta rằng, điều căn bản nhất sự đói khát đó là đói khát chính Thiên Chúa. Lời cầu nguyện và việc chia sẻ huynh đệ hướng sự tập trung của chúng ta về hai điều căn bản này của tình yêu : tình yêu với Thiên Chúa và tình yêu với anh em mình.
3.- Chúa nhật Lễ Lá và cuộc Thương khó của Thiên Chúa
Với ngày lễ này, Tuần thánh được bắt đầu. Chúa nhật Lễ Lá cho chúng ta một sự tóm gọn ý nghĩa về mầu nhiệm vượt qua. Phụng vụ thánh thể của ngày này đặt song song hai khía cạnh mà trong sâu thẳm chỉ là một : Vinh Quang và Thập Giá. Cuộc rước lá mở ra cuộc cử hành, nó nhắc nhở chúng ta việc đi vào cách trọng thể của Đức Giêsu vào thành Giêrusalem. Ngày hôm nay vẫn vậy, Giáo hội công bố vương quốc của Đức Kitô: «Chúc tụng Đấng đến nhân danh Chúa! Hosana (hoan hô) Chúa trên các tầng trời». Sau phần tung hô vui sướng đó, cộng đoàn tiến bước trong reo hò, bước vào «trong những đau thương của cuộc Thương Khó». Bề ngoài, chúng ta thấy một sự thay đổi đầy nhiệt huyết, nhưng điều này dẫn chúng ta đi vào cùng tận của sự giằng co của ơn cứu độ: Đấng mà chúng ta công bố và nhận biết như Đấng Cứu Độ của chúng ta cũng là Đấng đã chịu đau khổ vì chúng ta ; Đấng mà chúng ta đi theo đến đồi Sọ cũng là Đấng sẽ đi ra trong chiến thắng từ ngôi mộ vào buổi sáng Phục Sinh. Nếu truyền thống mời gọi chúng ta cầm trong tay cành lá (thiên tuế) được chúc lành và dùng nó trang hoàng cho cây thập giá trong gia đình của chúng ta, là vì để chúng tuyên xưng rằng, Thập Giá là dấu chỉ của vinh quang, vinh quang của Đức Giêsu Phục Sinh.
Tất cả đời sống kitô hữu của chúng ta được tóm kết trong Tam nhật vượt qua, nơi mà chúng ta bước theo từng bước với Đức Kitô trong cái chết và sự Phục Sinh của Người.
4.- Thứ Năm Tuần thánh và sự khai mở của Tam nhật Vượt Qua
Vào cuối thế kỷ thứ 4, thánh Ambroise đã nói về «Triduum sacrum» (ba ngày thánh), ý nói thời gian mà Đức Kitô «đã chịu đau khổ, được đặt trong mồ và Phục Sinh». Nếu tất cả ngày thứ năm vẫn còn thuộc về Mùa Chay, Tam nhật Vượt Qua được mở ra với thánh lễ ban tối (Bữa ăn cuối của Chúa), nơi mà Giáo hội tưởng nhớ việc Chúa thiết lập Bí tích Thánh Thể. Trong bữa ăn, Đức Kitô đẵ dùng với các môn đệ của Người, Người đã tiên liệu một cách tự do về cái chết của Người cùng với việc hiến dâng cho họ chính xác thịt và máu Người dưới những hình bánh và rượu.
Thánh Thể chỉ được cử hành một lần vào ngày hôm đó và thực sự là một bữa tiệc : một đại lễ. Chính trong thánh lễ này, chúng ta hát kinh Vinh Danh (Gloria), tiếng chuông nhà thờ rung vang và màu trắng được chọn cho màu sắc phụng vụ của ngày lễ. Tuy nhiên, vào cuối của cuộc cử hành, lại mang rất nhiều nỗi buồn. Tất cả cộng đoàn bước theo với lời cầu nguyện trong thinh lặng và tôn thờ Đức Kitô-Thánh Thể.
5.- Ngày thứ Sáu
Ngày này được ghi nhận một cách hoàn toàn là sự đau thương, bởi đó là Cuộc Thương Khó, là cái chết của Chúa. Chúng ta được mời gọi tham dự vào ngày này bằng việc ăn chay và kinh nguyện. Theo một truyền thống rất cổ xưa (và kéo dài cho đến ngày hôm nay), Giáo hội không cử hành Thánh Thể vào ngày này: Con của Thiên Chúa đã bị liệt vào hạng kẻ cùng cực nghèo hèn, nhưng cũng chính vì vậy mà Người cứu độ thế giới.
Phụng vụ của ngày hôm nay bao gồm 3 phần lớn:
– Suy niệm về Lời Chúa (với bài đọc Thương Khó theo thánh Gioan)
– Nghi thức tôn vinh cây thập giá.
– Rước lễ
6.- Ngày thứ Bảy
Đây là một ngày nghỉ (hay còn gọi là ngày tĩnh lặng đặc biệt) : cũng như thiên Chúa đã nghỉ ngơi sau sáu ngày Tạo Dựng, Đức Kitô đang yên nghỉ trong ngôi mộ sau cuộc Thương Khó của Người : một mầm sống mới của tạo dựng mới.
Các nhà thờ trở nên vắng trống sự hiện diện của Thiên Chúa, cửa các nhà tạm được mở bung. Nhưng chúng ta sống ngày này trong sự đón nhận và đợi chờ, với Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đang đợi chờ trong niềm tin ; với tất cả Giáo hội đang đợi chờ trong hy vọng, gần bên ngôi mộ của Đấng Hôn Quân của mình.
7.- Phục Sinh và thời gian vượt qua: “Đức Kitô đã Phục Sinh”
a.- Canh thức vượt qua
Với đêm canh thức vọng Phục Sinh rất thánh mà thánh Augustin đã gọi là « Mẹ của tất cả các đêm canh thức thánh », khởi đầu cho một cử hành trang trọng của (mầu nhiệm) Phục Sinh. Đây là thời gian thật trang trọng, thích hợp để nhận lãnh các bí tích khai tâm kitô giáo. Đêm thánh vượt qua này là đỉnh điểm của năm phụng vụ. Nó diễn ra với nhiều phần phụng vụ :
a.1.- Phụng vụ ánh sáng (hay còn gọi là nghi thức làm phép lửa và rước Nến Phục Sinh) :
Các tín hữu cầm nến sáng trong tay tiến vào trong nhà thờ theo sau cây Nến Phục Sinh. Giống như dân của Giao Ước đầu tiên bước đi trong sa mạc, được hướng dẫn bởi cột lửa, các môn đệ của Đức Kitô Phục Sinh được hướng dẫn đi theo Người : « Những ai đi theo ta, sẽ không bước đi trong bóng tối tội lỗi » (Ga 18,12).
a.2.- Phụng vụ Lời Chúa :
Tất cả cùng được hướng dẫn bởi Lời Thiên Chúa. Có nhiều bài đọc gợi nhắc lại các biến cố lớn của ơn cứu độ và giúp cho các tín hữu hiểu biết về mầu nhiệm Phục Sinh ; đồng thời phụng vụ Lời Chúa cũng hướng đến các dự tòng như là phần giáo lý cuối cùng về bí tích rửa tội và bước vào đời sống kitô hữu.
a.3.- Phụng vụ bí tích rửa tội và tuyên xứng đức tin :
Sau bài đọc Tin mừng về sự Phục Sinh và bài giảng, các dự tòng tuyên xưng niềm tin và nhận lãnh các bí tích khai tâm kitô giáo. Các tín hữu cũng tuyên xưng niềm tin của họ và việc rảy nước thánh như một dấu chỉ của bí tích thanh tẩy. Tất cả cộng đoàn cùng hát và cầu xin « nguồn nước sống của ơn cứu độ chảy trào ra sự sống mới » trong họ.
b.- Phụng vụ Thánh Thể : việc cử hành Thánh Thể ngày hôm nay diễn ra cách trọng thể nhất
8. Bát nhật Phục Sinh
Niềm vui vượt qua được kéo dài trong một tuần lễ tiếp theo. Lời chúc tụng cuối cùng của các Giờ Kinh Phụng Vụ được đánh dấu bởi hai lần hát « alleluia » và theo truyền thống, thời gian này được dành cho việc bổ túc các bài học giáo lý cho các tân tòng.
9.- Mùa Phục Sinh
Bằng việc cử hành Chúa nhật lễ Phục Sinh, đã mở ra một giai đoạn gồm 50 ngày, được gọi một cách căn bản là Pentecôte (Hiện Xuống), mà sau này được gọi là thời gian Phục Sinh, khi hạn từ Pentecôte được giành riêng cho ngày thứ 50, ngày Hiện Xuống[1].
Chuỗi «năm mươi ngày Phục Sinh » được sống như một « Chúa nhật lớn » của niềm vui và sự tán tụng, bắt đầu từ ngày Phục Sinh và được kéo dài trong 8 Chúa nhật (cho đến lễ Hiện Xuống). Tertullien đã khẳng định rằng, mọi ngày trong toàn thể năm mươi ngày này cần phải được cử hành cùng với một « niềm vui tuyệt đối »[2], vì theo Irénée, mỗi ngày trong năm mươi ngày có cùng một giá trị như ngày Chúa nhật[3]. Thật vâỵ, có rất nhiều yếu tố riêng cho mùa này mà điểm nhấn chính của nó là chiều kích lễ hội. Màu sắc phụng vụ là màu trắng, nó nhắc nhở hình ảnh các thiên thần áo trắng vào buổi sáng Phục Sinh và ngày lễ Lên Trời. Bài ca Alleluia không ngừng được xướng lên, giúp chúng ta tham dự vào bài tụng ca của tất cả những ai « đã được mua về bằng máu của Con Chiên ». Sự hiện diện của cây Nến Phục Sinh đang cháy sáng ở giữa cung thánh nhà thờ mời gọi chúng ta đón nhận và chia sẻ niềm vui ấy.
Trong mùa này, hai cuốn sách Kinh Thánh được đọc lên nhiều : sách Công vụ các Tông đồ mà mỗi ngày đọc một trích đoạn. Nó cũng thay thế các bài đọc Cựu ước : sau Phục Sinh, tất cả trở nên mới, những lời hứa được thực hiện một cách đầy đủ. Các bài đọc Tin mừng theo thánh Gioan giúp chúng ta suy niệm về quà tặng của đời sống mới trong Đức Kitô.
Cũng cần nhắc thêm rằng, vào ngày 30 tháng 4 năm 2000, Đức cố giáo hoàng Giao-Phaolo II, đã công bố Chúa nhật thứ hai của mùa Phục Sinh là « Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa ». Bài Tin mừng của Chúa nhật này đề cập đến việc Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra cùng thánh Tôma tông đồ và chỉ cho ngài thấy cũng như cho chúng ta « những dấu đinh vinh quang, và trái tim của Người, vốn là nguồn suối ánh sáng và chân lý không bao giờ cạn, của tình yêu và sự tha thứ ».
10.- Hướng đến lễ Hiện Xuống: Thánh Thần được hứa ban
Trong phụng vụ của những thế kỷ đầu tiên, lễ Lên Trời và Hiện Xuống không được phân biệt với lễ Phục Sinh của Đức Kitô : sự kiện Phục Sinh đã bao trùm sự lên trời của Đức Giêsu trong vinh quang Chúa Cha và quà tặng của Thánh Thần. Tuy nhiên, dần dần, con số « năm mươi ngày » được xác định rõ (vào từ thế kỷ 2e-3e) khi dựa vào những tương ứng mà Thánh Luca cho thấy trong sách Công vụ các tông đồ, những cử hành đặc biệt này được ghi nhận như là chu kỳ 40 ngày và 50 ngày[4].
a.- Lễ Chúa lên Trời hay còn gọi là lễ Thăng Thiên
« Trong thời gian 40 ngày, Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ và nói cho họ về Vương Quốc của Thiên Chúa » (Cv 3). « Chúa Giêsu, sau khi đã nói với họ, được đưa lên trên các tầng trời và ngự bên hữu Thiên Chúa » (Mc 16).
Mặc dù có một sự « biến mất » của Đức Kitô, phụng vụ về ngày lễ Chúa Lên Trời thật là một ngày lễ hội, tràn đầy những lời ca chúc tụng. Tại sao vậy ? Bởi vì, ngày lễ Chúa Lên Trời đánh dấu sự hoàn tất sứ mạng tràn gian của Đức Giêsu : Đức Kitôi đã bị hạ xuống nay được nâng lên trong vinh quang Chúa Cha. Người đã khởi đi từ điểm thấp nhất : bóng tối của ngôi mộ, sự chết… để đạt đến điểm cao nhất : vinh quang của Thiên Chúa.
Bởi vì, lễ Chúa lên trời loan báo vinh quang riêng của chúng ta : trong việc được « đưa lên » của Người, Đức Giêsu đã dạy cho chúng ta biết, Người sẽ đưa chúng ta lên theo, về với Chúa Cha : Cha của Người và cũng là Cha của chúng ta. Nhờ cuộc hiến tế tình yêu của Người, Người đã cứu chúng ta và trở nên « người anh cả của chúng ta trong Vương Quốc và ngự trị trong ngai báu vinh quang. Giống như một Mục Tử Tốt Lành trong dụ ngôn, cuối cùng đã tìm thấy con chiên lạc (đó là bản tính con người chúng ta), Người đã mang vác nó trên vai, đem nó về với Chúa Cha : lễ Thăng Thiên của Đức Kitô, trong niềm hy vọng, là vinh quang của chính chúng ta.
Bởi vì ngày lễ này làm cho chúng ta nhớ lại lời của Đức Giêsu : « Và ta, ta sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế » (Mt 28,20). « Và ta, ta sẽ gởi đến với các ngươi điều mà Chúa Cha đã hứa » (Lc 24,49).
b.- Lễ Chúa Hiện Xuống: kết thúc Mùa Phục Sinh
Khoảng cách mười ngày giữa lễ Thăng Thiên và lễ Chúa Hiện Xuống giống như một thời gian tĩnh tâm dài.
Theo gương Đức Maria và các môn đệ, chúng ta canh thức trong cầu nguyện, đợi chờ quà tặng của Thánh Thần đã hứa bởi Đức Giêsu. Trong mỗi giờ Kinh chiều, Giáo hội cầu xin : « Hãy đến, lạy Thánh Thần Sáng Tạo, hãy đến thăm viếng chúng tôi ; hãy đến, chiếu sáng tâm hôn các con cái ngài… ».
Lễ Hiện Xuống đã thực trở thành một phần của niên lịch các lễ hội Do thái và được tưởng nhớ đặc biệt đến quà tặng là Luật mà Thiên Chúa đã ban cho dân : năm mươi ngày sau khi ra khỏi Ai-cập (cuộc Vượt Qua thứ nhất), họ đã nhận từ Thiên Chúa bởi vị trung gian là Môsê, những giới điều trên núi Sinai.
Một cách rõ ràng, trong ngày lễ Hiện Xuống, Thiên Chúa ban tặng quà là Luật mới : Thánh Thần của Người. Quà tặng của Thần Khí được nối kết cách khăng khít với công trình cứu độ được hoàn thành bởi Đức Kitô. Vì thế, lễ Hiện Xuống không chỉ là thuộc về Mùa Phục Sinh, nhưng nó còn là một triều thiên, một sự hoàn thành.
Chúa nhật lễ Chúa Hiện Xuống có hai lễ phân biệt : một thánh lễ được gọi là canh thức (vào chiều tối hôm trước) và một lễ khác vào chính ngày. Trong lễ vọng, Phụng vụ Lời Chúa được dựa trên kiểu mẫu của phụng vụ Canh thức đêm Phục Sinh. Một vài bản văn lớn của Cựu Ước được nhắc lại, nhằm loan báo « sự đến » của Thần Khí.
Vào tối ngày lễ Hiện Xuống, cây Nến Phục Sinh được tắt đi và di chuyển khỏi cung thánh, để bắt đầu mùa Thường Niên. Nến Phục Sinh này chỉ dùng lại trong những cử hành bí tích rửa tội và trong các cử hành thánh lễ v à nghi thức an táng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở lại trong hành vi tạ ơn vì tình yêu của Thiên Chúa đã đổ tràn trong tâm hồn chúng ta bởi Thần Khí, Đấng ngự trong chúng ta.
————————————
Viết theo :
1. Concile oeucuménique Vatican II, Const. Sacrosanctum concilium, Paris, Editons du Centurion, 1967.
2. Dom Jean Gaillard, La liturgie pascale. Semaine sainte te Pâques, Paris, Cerf, 1988.
3. Casel Odon, La fête de Pâques dans l’Eglise des Pères, Paris, Cerf, coll. « Lex orandi » 37, 1963.
4. Gaillard Jean (Dom), La liturgie pascale. Semaine sainte te Pâques, Paris, Cerf, 1988.
5. La Maison-Dieu, 232, 2002 : « Le mystère pascal ».
6. Martimort A.G., L’Eglise en prière, vol 4, édition nouvelle, Paris, Desclée, 1983.
7. Robert Amiet, La veillée pascale dans l’Eglise latine, vol 1 : le rite romain, Paris, Cerf, coll. « Liturgie » 11, 1999.
8. Vogel Cyrille, Introduction aux sources de l’histoire du culte chrétien au Moyen Âge, Spoleto, 1966.
[1] Xem Cabié R., La pentecôte, Tournai, Desclée, 1965.
[2] Tertullien, De ieiunio, 14, 2, CCL 2, tr. 1273.
[3] Xem Cabié R., La pentecôte, Tournai, Desclée, 1965, tr. 37.
[4] Martimort A. G., L’Eglise en prière, vol 4, édition nouvelle, Paris, Désclée, 1983, tr. 69-77.