Bữa Tiệc Ly Của Chúa Diễn Ra Lúc Nào?

0
3034


Vỵ Hương

 

LTS: Chúng ta biết rằng sau khi bị bắt tại vườn Cây Dầu, Đức Giêsu bị điệu tới nhà thượng tế Hanna nơi diễn ra cuộc thẩm vấn lần thứ nhất (x. Ga 18,19-23), rồi Người lại bị dẫn đến nhà thượng tế Caipha (x. Ga 18,24), nơi họp Thượng Hội Đồng. Sau đó Đức Giêsu còn bị sỉ nhục, khạc nhổ, chế nhạo và đánh đập (x. Mc 14,65). Rạng sáng hôm sau, Thượng Hội Đồng tái nhóm (x. Mc 15,1) và quyết định xử tử Đức Giêsu. Sau phiên tòa tôn giáo, người ta lại điệu Đức Giêsu tới tổng trấn Philatô (x. Lc 23,1). Phiên tòa nơi tổng trấn Philatô chắc chắn phải kéo dài vì phải qua nhiều thủ tục. Sau đó Philatô chuyển Chúa Giêsu đến Hêrôđê Antipa (x. Lc 23,7). Cuộc thẩm vấn này hẳn cũng đòi nhiều thời gian bởi vì Tin mừng thuật lại rằng “nhà vua đã hỏi Người nhiều điều” (Lc 23,9). Cuối cùng Hêrôđê lại trả Đức Giêsu về cho Philatô… (x. Lc 23,11). Một tiến trình xử án quy mô và rắc rối như vậy, lẽ nào lại chỉ diễn ra một cách chóng vánh trong khoảng mười mấy tiếng đồng hồ (từ tối thứ năm đến 3 giờ chiều thứ sáu)? Hơn nữa sách luật Mishna quy định rằng: Không được kết án tử hình bất kỳ ai trước 24 tiếng kể từ lúc bị bắt. Vậy Chúa Giêsu bị bắt vào tối ngày thứ mấy và Ngài dùng bữa tiệc chia tay với các môn đệ vào lúc nào? Tưởng cũng phải tìm hiểu cho ra ngọn nguồn!

***

Hằng năm vào Thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta cử hành thánh lễ Tiệc Ly để tưởng niệm việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể, rửa chân cho các môn đệ và trối lại cho chúng ta giới luật yêu thương.

 

 The Washing of Feet and the Supper,

from the Maesta by Duccio, 1308-1311

Thực ra, Đức Giêsu đã dùng bữa tối cuối cùng với các môn đệ vào lúc nào? Để hiểu rõ vấn đề tưởng cũng nên nói đến niên lịch của người Do thái. Trong khi ngày mới của chúng ta bắt đầu vào lúc nửa đêm thì người Do thái lại bắt đầu ngày mới vào khoảng 5 giờ chiều hôm trước. Dấu tích của tập tục này còn lưu lại trong phụng vụ kitô giáo ngày nay (Kinh Chiều I, lễ vọng các đại lễ).

Theo tin mừng Gioan thì Lễ Vượt Qua năm ấy rơi vào ngày thứ Bảy (x. Ga 19,31) và vì thế người ta ăn Chiên Vượt Qua vào chiều hôm trước, tức là thứ Sáu.

Vẫn theo Gioan, vì Đức Giêsu sẽ chịu chết vào chiều thứ Sáu, và không thể ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ vào đúng ngày được, nên Người đã cử hành sớm hơn một ngày, vào chiều thứ Năm. Vì thế Gioan đã viết rằng Đức Giêsu đã dùng bữa tối với các môn đệ “trước Lễ Vượt Qua” (Ga 13,1), và theo truyền thống này, chúng ta vẫn cử hành thánh lễ Tiệc Ly vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh.

Tuy đồng thuận với Gioan về biến cố Đức Giêsu chịu chết vào chiều thứ Sáu (x. Mt 27,62; Mc 15,42; Lc 23,54) nhưng các tác giả Nhất Lãm lại khẳng định rằng Đức Giêsu đã dùng bữa tối cuối cùng với các môn đệ khi Lễ Vượt Qua đã đến.

Tin Mừng Nhất Lãm nói gì?

Thật vậy, cả Marcô và Mátthêu đều tường thuật rằng Đức Giêsu và các môn đệ đã dùng bữa tiệc ly vào “ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế Chiên Vượt Qua” (Mc 14,12; x. Mt 26,17). Và Luca còn nói rõ hơn về thời điểm của bữa tiệc ly, từ các sự kiện trước đó như “Lễ Bánh Không Men, cũng gọi là Lễ Vượt Qua đã đến gần” (Lc 22,1), cho đến khâu chuẩn bị như “Đã đến ngày Lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế Chiên Vượt Qua, Đức Giêsu sai ông Phêrô với ông Gioan đi” dọn bữa tiệc ly (Lc 22,7), rồi cả về thời khắc dùng bữa: “Khi giờ đã đến, Đức Giêsu vào bàn cùng với các tông đồ” (Lc 22,14).

Như vậy, theo các tác giả Nhất Lãm, Đức Giêsu đã dùng bữa tối cuối cùng khi đã là Lễ Vượt Qua, sau đó Người bị bắt, chịu đóng đinh và chết vào chính ngày đại lễ.

Giải Pháp Qumrân

Communion of the Apostles, by Fra Angelico, OP.

with donor portrait, 1440–41

Trải qua nhiều thế kỷ, các học giả tìm cách dung hòa sự khác biệt giữa quan điểm của các tác giả Nhất Lãm cho rằng Đức Giêsu đã dùng bữa tối cuối cùng vào chính ngày Lễ Vượt Qua (ở đây hiểu là thứ Sáu), với quan điểm của Gioan cho rằng vào ngày hôm trước (thứ Năm), nhưng xem ra không có giải pháp nào hoàn toàn thuyết phục.

Mãi cho đến năm 1947, các văn bản Qumrân được khám phá và mang lại một giải pháp mới cho vấn đề. Người có công đầu trong việc này là nữ học giả người Pháp Annie Jaubert[1].

Tưởng cũng nên nói qua xem các văn bản Qumrân là gì. Đó là các bản chép tay thuộc về một thư viện cổ hồi thế kỷ I trước Công nguyên của một cộng đoàn Do thái giáo gọi là Nhóm Esseni. Trong các tài liệu tìm thấy, Sách Các Năm Toàn Xá, Sách Hênóc và Tài Liệu Đamascô cho thấy rằng vào thời Đức Giêsu, người ta sử dụng không phải chỉ một mà là hai loại niên lịch khác nhau. Loại thứ nhất là dương lịch dựa vào chu kỳ chuyển động của mặt trời, theo đó một năm có 364 ngày, đúng 52 tuần và các tháng được phân chia sao cho các đại lễ đều rơi vào thứ Tư. Vì thế, lễ mừng Năm Mới (Rosh Hashana) cũng như Lễ Lều (Sukkoth) và Lễ Vượt Qua (Peshah) đều rơi vào thứ Tư.

Nhưng tại sao loại lịch này lại đặt ngày đầu Năm Mới vào thứ Tư? Thưa bởi vì theo sách Sáng Thế, khi Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, thì vào ngày thứ Tư, Người đã dựng nên mặt trời, mặt trăng và các tinh tú mà khởi đi từ đó dòng thời gian đã bắt đầu.

Thay đổi niên lịch

Loại dương lịch nói trên đã được người Do thái sử dụng qua nhiều thế kỷ. Thực vậy, trong Cựu Ước, nếu căn cứ vào các ngày tháng biên niên sử, chúng ta có thể nhận thấy rằng Lễ Vượt Qua cũng như các đại lễ khác đều rơi vào ngày thứ Tư.

Depictions of the Last Supper in Christian art

have been undertaken

by artistic masters for centuries,

Leonardo da Vinci”s late 1490s mural painting in Milan, Italy

Vào khoảng năm 200 trước Công nguyên, các tư tế tại Giêrusalem đã quyết định thay đổi niên lịch và đưa vào sử dụng một loại lịch mới dựa trên sự kết hợp giữa 2 chu kỳ chuyển động của mặt trời và mặt trăng, gọi là Nhật–Nguyệt lịch. Loại lịch này chuẩn xác hơn lịch cũ, theo đó một năm có 365 ngày và các đại lễ có thể rơi vào bất kỳ ngày nào trong tuần.

Loại lịch mới này dần dần đi vào đời sống thường nhật của người Do thái, tuy nhiên để thay thế hoàn toàn loại lịch cũ thì cần phải trải qua một thời gian dài. Điều này giải thích tại sao sau đó cả 2 thế kỷ, vào thời Đức Giêsu, mà một phần lớn dân chúng vẫn còn sử dụng lịch cũ và cử hành các đại lễ theo những ngày tháng cũ. Nhóm Esseni tại Qumrân thuộc vào những người từ chối sử dụng lịch mới vì cho rằng như thế là phạm đến tính bất di bất dịch của Luật Môsê.

Nhóm Esseni vẫn tuân giữ nghiêm nhặt lịch cũ, như thấy ghi lại trong Kỷ Luật Cộng Đoàn (Manual of Discipline): “Đừng đi trệch những gì Lời Thiên Chúa đã dạy về các thời khắc. Đừng dời các ngày tháng sớm lên và dịch chuyển các ngày lễ”.

Cả hai đều có lý

Vào thời Đức Giêsu cả hai loại lịch cùng lưu hành: Lịch cũ thì phổ biến nơi dân chúng, theo đó thì bữa tiệc Vượt Qua luôn rơi vào thứ Tư (tức là chiều thứ Ba của chúng ta ngày nay); còn lịch mới thì được giới tư tế chính thức và giới thượng lưu sử dụng, theo đó Lễ Vượt Qua có thể rơi vào bất kỳ ngày nào trong tuần. Lễ Vượt Qua của năm mà Đức Giêsu chịu chết rơi vào đúng ngày thứ Bảy.

Như vậy, nếu Đức Giêsu đã ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ theo lịch cũ, tức là vào chiều thứ Ba là ngày mà dân chúng bắt đầu cử hành Lễ Vượt Qua thì sự dị biệt giữa các sách Tin mừng về vấn đề này coi như được giải quyết xong. Thật thế, nếu Đức Giêsu đã ăn bữa tối cuối cùng vào chiều thứ Ba thì Tin mừng Nhất Lãm có quyền khẳng định rằng Người đã cử hành bữa Tiệc Ly “vào chính ngày Lễ Vượt Qua” theo như lịch cũ. Trái lại, Gioan lại nói rằng Đức Giêsu đã cử hành bữa Tiệc Ly “trước Lễ Vượt Qua” theo niên lịch chính thức. Như thế cả hai đều có lý.

Tòa án Do Thái bất hợp lệ?

Giả thuyết mới nêu trên đã được hầu hết các học giả chấp nhận mà theo đó Đức Giêsu đã chịu chết vào thứ Sáu như các sách Tin mừng đã xác nhận, nhưng trước đó Người đã ăn bữa tối cuối cùng vào chiều thứ Ba. Giả thuyết này không chỉ giải thích sự dị biệt trong các tường thuật về bữa Tiệc Ly mà còn giải quyết cả những vấn đề khác nữa.

Vấn đề thứ nhất là khoảng thời gian của cuộc thương khó xem ra quá ngắn. Thật vậy, nếu bữa Tiệc Ly diễn ra vào thứ Năm và cuộc đóng đinh vào trưa thứ Sáu thì tất cả các sự kiện của cuộc thương khó chỉ diễn ra trong vòng 18 giờ.

Chúng ta biết rằng sau khi bị bắt tại vườn Cây Dầu, Đức Giêsu bị điệu tới nhà thượng tế Hanna nơi diễn ra cuộc thẩm vấn lần thứ nhất (x. Ga 18,19-23), rồi Người lại bị dẫn đến nhà thượng tế Caipha (x. Ga 18,24), nơi họp Thượng Hội Đồng, một thứ tòa thượng thẩm, quy tụ tất cả các thượng tế, kỳ mục và luật sỹ (x. Mc 14,53). Trong phiên xử khuya khoắt này người ta cố tìm các chứng cớ buộc tội Đức Giêsu, nhưng sự việc xem ra không đơn giản bởi vì các chứng cớ lại không ăn khớp với nhau (x. Mc 14,55-59). Sau đó Đức Giêsu còn bị sỉ nhục, khạc nhổ, chế nhạo và đánh đập (x. Mc 14,65). Rạng sáng hôm sau, Thượng Hội Đồng tái nhóm với 71 thành viên (x. Mc 15,1) và quyết định xử tử Đức Giêsu.

Người La Mã xét xử

Nhưng vấn đề chưa kết thúc tại tòa án Do thái. Sau phiên tòa tôn giáo, người ta lại điệu Đức Giêsu tới tổng trấn Philatô (x. Lc 23,1). Tiến trình này chắc chắn phải kéo dài. Trước hết phải có cuộc họp giữa các thủ lãnh Do thái với quan tổng trấn để đệ trình các cáo buộc. Tiếp đến là cuộc thẩm vấn riêng giữa Philatô và Đức Giêsu, rồi ông này tuyên bố Đức Giêsu vô tội, rồi người Do thái lại nêu ra những chứng cứ mới tố cáo Đức Giêsu.

Để phủi tay trong vụ án Giêsu, người mà Philatô cho là vô tội, ông đã giao nộp Người cho nhà cầm quyền xứ Galilêa là Hêrôđê Antipa vì Đức Giêsu là người Galilêa nên thuộc thẩm quyền của vua này (x. Lc 23,7). Cuộc thẩm vấn này hẳn cũng đòi nhiều thời gian bởi vì Tin mừng thuật lại rằng “nhà vua đã hỏi Người nhiều điều” (Lc 23,9). Cuối cùng Hêrôđê lại trả Đức Giêsu về cho Philatô (x. Lc 23,11).

Philatô lại triệu tập các thượng tế, quan tòa và dân chúng. Sau khi đối thoại với Đức Giêsu một lần nữa, ông quyết định trao số phận của Người vào tay dân Do thái khi cho họ cái quyền lựa chọn tha Barabba hay tha Giêsu. Thêm vào đó, vợ quan Philatô còn sai người đến nói với ông rằng đừng kết án Đức Giêsu vì đêm hôm đó, trong chiêm bao, bà đã bị ám ảnh khổ sở vì cuộc xét xử này. Trước áp lực của dân chúng, Philatô đã tha Barabba (x. Mt 27,11-26). Các sự kiện tiếp theo là đánh đòn, đội mão gai, nỗ lực cuối cùng của Philatô nhằm giải cứu Đức Giêsu, và cuối cùng là bản án và hành trình nhọc nhằn tới Núi Sọ (x. Mt 27,27-31).

Tất cả chỉ diễn ra từ đêm thứ Năm đến trưa thứ Sáu (?).

Một thời biểu khác

Tất cả các sự kiện liên quan đến cuộc khổ nạn của Đức Giêsu không thể diễn ra chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như thế được. Trái lại, sẽ hợp lý hơn khi mà thời điểm diễn ra bữa tối cuối cùng được dời lên sớm hơn:

– Thứ Ba: Đức Giêsu ăn tiệc Vượt Qua vào buổi chiều, rồi Người bị bắt và điệu đến nhà thượng tế.

– Thứ Tư: ban sáng, Thượng Hội Đồng nhóm họp để nghe các cáo buộc. Đức Giêsu bị giam qua đêm.

– Thứ Năm: vào buổi sáng, Thượng Hội Đồng lại nghị án và quyết định tử hình Đức Giêsu, rồi điệu Người tới Philatô. Philatô thẩm vấn rồi giao nộp Đức Giêsu cho Hêrôđê. Đức Giêsu lại bị giam qua đêm.

– Thứ Sáu: Philatô thẩm vấn lần thứ hai, cho đánh đòn, đội mão gai, tuyên án và cho dẫn đi đóng đinh vào thập giá. Khoảng 3 giờ chiều, Đức Giêsu chết trên thập giá.

Án lệ do luật định

Giả thuyết mới nói trên đã mang lại bước tiến đáng kể trong việc giải thích các sự kiện. Theo sách Mishna, một thứ sách thánh của người Do thái, thu thập các chú giải Luật Cựu Ước, chúng ta có thể biết về những điều vi luật nếu có trong vụ án Đức Giêsu:

“Với các tội danh không dẫn tới án tử hình, việc xét xử diễn ra ban ngày, và việc tuyên án có thể vào ban đêm; còn với các tội danh đưa tới án tử hình, việc xét xử diễn ra ban ngày, và việc tuyên án cũng phải vào ban ngày. Với các tội danh không dẫn tới án tử hình, việc tha bổng hay kết án có thể diễn ra trong cùng một ngày; với các tội danh đưa tới án tử hình, việc tuyên bố trắng án có thể diễn ra cùng ngày hôm ấy, nhưng việc kết án thì không thể diễn ra trước ngày hôm sau. Vì lẽ ấy, các phiên tòa không thể diễn ra vào ngày áp ngày Sabát hay áp một ngày lễ” (Mishna, Sanhedrin 4,1)

Như vậy, luật Do thái quy định rằng mọi cuộc xét xử đều phải tiến hành ban ngày. Vậy nếu Đức Giêsu dùng bữa tiệc ly vào chiều thứ Năm thì Thượng Hội Đồng phải nhóm họp vào ban đêm, điều này sai luật. Đàng khác, các thành viên Thượng Hội Đồng và các nhân chứng không thể nhóm họp ban đêm chỉ là để bàn bạc trong khi chưa chắc rằng Đức Giêsu đã bị bắt hay chưa. Trái lại, nếu bữa tiệc ly diễn ra vào chiều thứ Ba thì chúng ta có thể nói rằng phiên tòa đã diễn ra vào thứ Tư và sáng thứ Năm.

Như trên, sách Mishna còn cấm kết án tử hình vào ngày áp ngày Sabát và đại lễ. Nếu cứ tính theo thời biểu truyền thống, thì Đức Giêsu đã bị Thượng Hội Đồng Do thái kết án tử hình vào thứ Sáu, ngày áp ngày Sabát cũng là ngày áp Lễ Vượt Qua năm ấy! Trái lại nếu theo giả thuyết mới đã nêu, thì Đức Giêsu bị kết án vào sáng thứ Năm, tức là còn hơn một ngày nữa mới đến ngày Sabát và Lễ Vượt Qua.

Để tránh các quyết định nóng vội và cảm tính, Luật còn quy định rằng không được kết án tử hình bất kỳ ai trước 24 tiếng kể từ lúc bị bắt. Theo lịch trình cũ (ngắn) thì Đức Giêsu đã bị kết án tử hình chỉ vài giờ sau khi bị bắt. Còn theo thời biểu mới (dài) thì Người bị bắt vào chiều tối thứ Ba và bị kết án vào sáng thứ Năm theo đúng quy định của Luật.

Nếu người Do thái đã kết án Đức Giêsu vì cho rằng Người vi phạm Lề Luật thì không có lý gì họ lại xét xử một cách vi luật trầm trọng như thế!

Sự im lặng lên tiếng

Một số chi tiết khác trong Tin mừng cũng rõ ràng ủng hộ giả thuyết cho rằng Đức Giêsu đã dùng bữa tiệc ly vào chiều thứ Ba và chịu chết vào thứ Sáu. Các Tin mừng đều tuần tự kể lại những ngày cuối cùng của Đức Giêsu, nhưng lại không hề nói gì về hai ngày thứ Tư và thứ Năm! Sự im lặng khó hiểu này đã khiến người ta nghĩ rằng trong hai ngày đó, Đức Giêsu đã lánh riêng ra một nơi để ở cùng các môn đệ. Nhưng bây giờ chúng ta biết rằng, hai ngày ấy, Người bị tạm giam theo đúng tiến trình của cuộc thương khó.

Truyền thống cũng ủng hộ

Giả thuyết mới nói trên còn nhận được sự ủng hộ mặc nhiên của Truyền Thống. Thật vậy, chúng ta biết rằng các tín hữu thời Giáo hội sơ khai đã giữ chay vào thứ Tư và thứ Sáu. Rất có thể, tập tục này đã khởi đi từ một truyền thống cho rằng Đức Giêsu bị bắt vào thứ Tư và chịu chết vào thứ Sáu, mà việc ăn chay là nhằm tưởng niệm hai biến cố này.

Sách Didascalia Apostolorum còn cho biết thêm rằng: “Sau khi ăn tiệc Vượt Qua vào chiều thứ Ba, chúng tôi (các tông đồ) đi đến núi Cây Dầu và vào ban đêm người ta đã bắt Chúa Giêsu. Ngày hôm sau, thứ Tư, Người bị giam giữ tại nhà Thượng Tế Caipha; cùng ngày hôm ấy, các trưởng tế nhóm họp và nghị án. Thứ Năm, họ điệu Người đến tổng trấn Philatô và đêm hôm ấy Người bị giam tại dinh tổng trấn. Sáng thứ Sáu, họ tố cáo Người trước Philatô, nhưng không đưa ra được chứng cớ nào xác thực. Họ đã làm chứng gian buộc tội Người và đòi Philatô xử tử Người. Cũng vào thứ Sáu, Người chịu đóng đinh”(cap. XXI).

Thánh Victorino Pettau ở Stiria (†304) thì viết: “Chúa Kitô đã bị bắt vào ngày thứ Tư. Để tưởng niệm Người bị giam cầm, chúng tôi giữ chay ngày thứ Tư. Để tưởng niệm Người chịu chết, chúng tôi giữ chay ngày thứ Sáu”.

Thánh Êpiphanio, giám mục Salamina (†403) cũng viết rằng: “Khi ngày thứ Tư bắt đầu, Chúa đã bị bắt và Người chịu đóng đinh vào thứ Sáu”.

Như vậy, đã tồn tại một truyền thống cổ vào khoảng thế kỷ III ủng hộ giả thuyết cho rằng Đức Giêsu đã dùng bữa tối cuối cùng của Người vào chiều thứ Ba.

Kiên trung đến cùng

Theo truyền thống Gioan, Hội thánh vẫn luôn tưởng niệm biến cố Tiệc Ly vào chiều thứ Năm Tuần Thánh.

Một khi chấp nhận lối giải thích mới, phải chăng Hội thánh cần thay đổi việc cử hành phụng vụ Tuần Thánh? Hẳn nhiên là không!

Trong đời sống Hội thánh, phụng vụ nhằm mục đích giáo huấn chứ không phải lịch sử. Cũng như chúng ta vẫn cử hành lễ Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12, dù biết rằng đó không phải là ngày tháng lịch sử chính xác của sự kiện, thì chúng ta cũng vẫn cử hành biến cố Tiệc Ly vào chiều thứ Năm Tuần Thánh.

Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu thực tế đã diễn ra trong khoảng thời gian khá dài, mấy ngày chứ không phải chỉ mấy giờ ngắn ngủi. Điều này khẳng định rằng cái chết của Người không phải là một kết cuộc bất ngờ, do một đám đông bị kích động, nóng vội quyết định một số phận, nhưng là cả một tiến trình được sắp đặt hẳn hòi và được chuẩn nhận bởi giới lãnh đạo Do thái, nhà cầm quyền La Mã và cả dân chúng nữa.

Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu thực ra bi thảm và hãi hùng hơn những gì chúng ta thường suy niệm. Điều này cho thấy ý chí kiên quyết của Người đi đến cùng cuộc khổ nạn, cho dù người ta đã ra sức hành hạ Người trong suốt bốn ngày ròng rã hòng đánh gục sức chịu đựng của Người.

Là môn đệ của Thầy Giêsu, chẳng lẽ chúng ta lại tự hài lòng vì một vài chốc lát mình đã tín trung?

 


[1] Xc. Annie Jaubert, La Date de La Cne, Gabalda, Paris 1957; Jsus et le calendrier de Qumrn, New Testament Studies, Oct. 1960.