Mt 21, 33-43: Dụ Ngôn Những Tá Điền Sát Nhân

0
4734


 Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

1.- Ngữ cảnh

Tác giả Mátthêu đặt bài dụ ngôn này giữa dụ ngôn Hai người con (Mt 21,28-32) và dụ ngôn Bữa tiệc hoàng gia (Mt 22,1-14), trong ngữ cảnh lịch sử và văn chương là các xung đột ngày càng trầm trọng giữa Đức Giêsu và các thủ lãnh dân Israel (x. các chương Mt 21, 22 và 23). Sau khi đã nhấn mạnh rằng những người thu thuế và các cô gái điếm, giống như người con bướng bỉnh rồi ngoan ngoãn trong bài dụ ngôn, đã đón tiếp ý muốn của Chúa Cha được biểu lộ trong lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu (trong khi những người Pharisêu và các thủ lãnh của dân đã từ khước), Đức Giêsu xác định trong một dụ ngôn thứ hai thế nào là tiếp đón Người Con. Người lấy lại đề tài “nói” và “làm” (cc. 28-31) và đề tài cây vả không ra trái (cc. 19-20) để kêu gọi các thủ lãnh thêm một lần nữa, bằng cách làm cho họ hiểu rằng giờ phút cung cấp hoa trái (cc. 34 và 41) đã đến, giờ phút quyết liệt khi mà Thiên Chúa yêu cầu cây nho của Ngài tính sổ.

2.- Bố cục

Bài này có thể chia làm hai phần:

1) Dụ ngôn những tá điền sát nhân: Hành động của dân Chúa (21,33-41):
          – Giới thiệu hoàn cảnh: Vườn nho của ông chủ (c. 33),
          – Các tá điền sát nhân (cc. 34-39):
               . Giết các đầy tớ (cc. 34-36),
               . Giết người con (cc. 37-39).
          – Cách xử sự của ông chủ (cc. 40-41);

2) Kết luận từ dụ ngôn: Hành động của Thiên Chúa (21,42-43):
          – Đối với Đức Kitô (c. 42),
          – Đối với dân Chúa (c. 43).
 
3.- Vài điểm chú giải

– Chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho (33): Ở đây cũng như trong Is 5, tác giả liệt kê ra những công việc ông chủ làm cho vườn nho nhằm nêu bật tình yêu cũng như quyền tuyệt đối của ông trên vườn nho. Nó thuộc về ông bởi vì ông đã tạo ra nó từ đầu. Tháp canh là để bảo vệ nó, nhất là vào mùa hái trái. Bồn đạp nho là để trích chất cốt của nho. Các chi tiết nêu rõ sự tương phản giữa tình yêu của ông chủ đối với vườn nho của ông và sự độc ác của các tá điền không cho ông hưởng hoa trái của công sức chăm sóc của ông.

Gần đến mùa hái nho (34): Mùa hái nho có lẽ gợi đến thời điểm quyết liệt, lúc mà Thiên Chúa yêu cầu dân Ngài phải tính sổ. Nếu dịch sát câu này là “Khi mùa hái nho đã đến gần”, chúng ta gặp lại cùng một động từ như Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu đã dùng (x. 3,2 và 4,17). Vậy dường như Mt muốn ám chỉ rằng thời điểm tính sổ trùng vào thời điểm Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu xuất hiện. Do lời rao giảng của hai vị sứ giả đó của Thiên Chúa, bây giờ Israel phải “sinh hoa quả xứng với lòng sám hối” (3,8).

Bọn tá điền … đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ (35): Có một sự tiệm tiến trong cách sử dụng các động từ: quan hệ giữa ông chủ và các tá điền các lúc càng trở nên xấu hơn. Việc ném đá các ngôn sứ là một đề tài truyền thống trong Do Thái giáo và Kitô giáo tiên khởi (x. 2 Sb 24,21; Dt 11,37; nhất là Mt 23,37; Lc 13,34).

Ông lại sai (36): Nếu tác giả Mt nói đến lần sai phái thứ hai này có lẽ vì ông muốn ám chỉ đến việc truyền thống Do Thái phân chia các ngôn sứ ra các ngôn sứ trước và các ngôn sứ sau.

Sau cùng (37): Công thức này có ý nói rằng đối với các tá điền, đây là cơ hội cuối cùng để họ có thể hoán cải.

Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi (38): Theo ba Tin Mừng Nhất Lãm, các tá điền tức khắc nhận ra người thừa tự (Dt 1,2; Rm 8,17). Tội ác của họ không phải là hậu quả của một sự lầm lẫn bi đát, hoặc của một tình trạng thiếu lòng tin nơi Vị sứ giả: Họ hành động với ý thức hoàn toàn về mức độ trầm trọng của hoàn cảnh. Họ đã từ khước Thiên Chúa nơi bản thân Đấng Ngài sai đến.

Quẳng ra bên ngoài vườn nho (39): Chi tiết này ám chỉ đến việc Đức Giêsu bị giết chết bên ngoài tường thành Giêrusalem.

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên … (42): “Loại bỏ” (apodokimazô) là một động từ chuyên môn để nói về việc một người có thẩm quyền tuyên bố một đồng bạc là vô giá trị vì bị coi là giả mạo. “Lại trở nên” là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Thiên Chúa đã làm cho lại trở nên”. Đây là một hành vi tuyệt vời của Thiên Chúa toàn năng.

Một dân (43): Từ ngữ này ở số đơn nên không thể có nghĩa là “các dân nước” tức là “các dân ngoại”, nhưng có nghĩa là một tập thể đang được thành lập và phát triển: ta có thể nghĩ đến “Dân thánh” trong Xh 19,6. Dân thánh được tạo thành bởi tất cả những ai mang hoa trái của Nước Trời, nghĩa là những người đón tiếp Người Con và làm thành dân mới của Thiên Chúa quanh Người Con ấy (x. Rm 9,25; 1 Pr 2,10). 

4.- Ý nghĩa của bản văn

Đức Giêsu kể cho các đối thủ của Người một câu truyện khác.

* Dụ ngôn những tá điền sát nhân: Hành động của dân Chúa (33-41)

Trong một bài ca với giọng cảm động, ngôn sứ Isaia đã ví dân Israel với một vườn nho được Thiên Chúa chăm sóc, bảo vệ. Ngài hy vọng sẽ nhận được hoa quả ngon ngọt: “Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại. Vậy bây giờ, dân Giêrusalem và người Giuđa hỡi, xin phân xử đôi đàng giữ tôi với vườn nho, có làm gì hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?… Vậy bây giờ tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi: hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo” (Is 5,2b.3.4a.5). Rào giậu (x. Tv 80,13-14) là để bảo vệ vườn nho khỏi bị thú hoang và trộm phá hoại. Bồn đạp nho thường được đục khoét vào đá, gồm có hai chậu, một chậu chứa các chùm nho để nghiền, chậu kia hứng nước cốt nho chảy ra. Tháp canh là để đuổi chim và trộm cướp. Chủ vườn nho đã làm tất cả những gì cần cho vườn nho.

Các câu đầu của bài dụ ngôn Đức Giêsu kể được trực tiếp vay mượn từ bản văn trên. Nhưng bài ca của Isaia chỉ là một khởi điểm mà thôi, câu truyện được kể trong dụ ngôn được triển khai theo một chiều hướng khác. Ý tưởng căn bản vẫn còn đó: Israel không sinh hoa trái nên đã đáng bị kết án. Nhưng nay bài dụ ngôn đi sang một chiều hướng mới do chi tiết vườn nho được giao cho các tá điền canh tác: Đức Giêsu kể một truyện mới về “vườn nho cũ”. Trong bài ca Isaia, người chủ vườn nho (Thiên Chúa) và vườn nho (Israel) liên kết mật thiết với nhau: Thiên Chúa trồng vườn nho, Ngài thất vọng về kết quả nên đe dọa phá hủy. Trong bài dụ ngôn, vườn nho không phải là Israel mà là Nước Thiên Chúa (c. 43). Hình ảnh vườn nho-Nước Thiên Chúa đã được Thiên Chúa cưu mang trong quá khứ của Israel, nghĩa là Thiên Chúa đã muốn giao phó Nước Thiên Chúa (= kế hoạch cứu độ và ân sủng của Ngài được tượng trưng bằng giao ước) cho Israel lịch sử, nhưng Israel đã thất trung với chương trình cứu độ này khi vi phạm giao ước đã được các ngôn sứ thay nhau đến nhắc lại.

Dân Israel đã không nghe các sứ giả của Thiên Chúa, họ đã cứng lòng lại (x. Gr 7,24-26). Sau này, Đức Giêsu cũng nối tiếp chuỗi những lời kể ra sự bất phục tùng của dân Thiên Chúa (x. Mt 23,34-36). Và nếu họ đã không nghe các ngôn sứ, họ cũng sẽ chẳng nghe Con Thiên Chúa. Ngược lại, họ đối xử với Người Con còn độc ác hơn nữa, bởi vì họ không chỉ bắt Người Con ấy mà giết đi như đã giết các đầy tớ, họ còn quẳng Người ra bên ngoài vườn nho để xử Người cách ô nhục nhất: họ đã đóng đinh Người.   

Vườn nho đã được giao cho các tá điền để họ mang lại hoa trái. Các hoa trái của vườn nho trong dụ ngôn là những hoa trái của Nước Thiên Chúa trong thực tế. Các tá điền là “dân Thiên Chúa”. Dân đầu đã thất bại, họ đã không mang lại hoa trái, họ đã làm cho ông chủ hoàn toàn thất vọng. Một dân khác sẽ được nhận lấy vườn nho, nghĩa là Nước Thiên Chúa; dân này sẽ không làm cho ông chủ phải thất vọng, họ sẽ mang lại hoa trái mà dâng cho Thiên Chúa. Các hoa trái ấy là sự công chính vượt xa sự công chính của các kinh sư và Pharisêu (Mt 5,20).  

Câu 40 bắt đầu với một quy chiếu về thời gian. Ông chủ trở về; chúng ta sắp được thấy chuyện gì xảy ra. Tác giả lại dùng Isaia (5,3-4) mà thách thức các thính giả bằng một câu hỏi để phán đoán. Câu trả thật rõ ràng: “Ông sẽ tru diệt bọn chúng” (c. 41). Vườn nho sẽ được giao cho những tá điền khác. Các nhà lãnh đạo Israel vừa tuyên bố chính án quyết trên mình.

* Kết luận từ dụ ngôn: Hành động của Thiên Chúa (42-43)

Sự từ khước của dân cũ đã tới cao điểm khi họ giết Người Con; còn dân mới sẽ được thiết lập trong máu Đức Giêsu, máu Giao ước (26,28). Đức Giêsu hỏi bằng giọng châm biếm: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này sao?” (c. 42). Dĩ nhiên các đối thủ của Người phải biết nhờ Kinh Thánh. Nhưng nay Kinh Thánh trở thành một tòa án phúc thẩm trong cuộc tranh luận với các nhà lãnh đạo Do Thái. Các Kitô hữu xác tín rằng Kinh Thánh làm chứng về Đức Kitô. Câu trích kia lấy từ Tv 117,22-23 theo Bản LXX nói một cách bóng bảy về một tảng đá: tảng đá bị loại vì vô giá trị lại trở thành đá tảng góc tường nâng đỡ cả tòa nhà. Giáo Hội thấy đây là hình ảnh báo trước điều huyền diệu Thiên Chúa thực hiện: Đấng Mêsia bị loại trừ đã trở nên Đức Chúa khi sống lại từ trong kẻ chết (Cv 4,11; 1 Pr 2,7).

Trên cái nền đen tối này với việc kết án Israel, lời Thiên Chúa hứa vẫn nổi lên rạng rỡ:kế hoạch Thiên Chúa muốn là nhân loại mang hoa trái không hề bị vĩnh viễn thất bại với sự suy thoái của Israel. Một dân mới sẽ được thành lập, họ sẽ được giao phó Nước Thiên Chúa cho và họ sẽ mang hoa trái. Nhưng các hoa trái này sẽ không phải là kết quả của nỗ lực con người, mà sẽ là “hoa quả của Thần Khí” (Gl 5,22).

+ Kết luận

Dụ ngôn Những tá điền sát nhân này đã có trong TM Mc, trong đó vườn nho là biểu tượng truyền thống để gọi Israel, nên câu truyện có ý nghĩa biểu tượng (Mc 12,1-12; Mt 21,33-43; x. Is 5,1-10). Tác giả Mt đã nêu bật khía cạnh lịch sử cứu độ của câu truyện này. Thời kairos, thời phán xét, đã gần kề (21,34.40). Các nhà lãnh đạo Do Thái hiểu rõ là Đức Giêsu nói về họ.

Dụ ngôn này cho chúng ta hiểu rõ cách tác giả giải thích sự chống đối đang nhắm vào Đức Giêsu. Sự loại trừ Người phải chịu ở trong cùng chiều hướng với tình cảnh của các ngôn sứ. Bởi vì Đức Giêsu là sứ giả cuối cùng và cao quý nhất của Thiên Chúa, vì là Con Thiên Chúa, hậu quả của việc loại trừ Người sẽ rất tàn khốc. Đối với tác giả, xác tín này đã được xác nhận trong những cuộc tàn phá Giêrusalem vào năm 70. Ngài cũng thấy được các dấu vết của chương trình cứu độ của Thiên Chúa ngay giữa lòng bi kịch: Nếu Israel đã bỏ mất cơ hội trả lời lại sứ điệp của Thiên Chúa mời gọi hoán cải để được cứu độ, Dân ngoại sẽ đáp trả. Vì thế vai trò ưu tuyển của các tá điền sẽ được chuyển cho những người khác, những người này sẽ làm sản sinh hoa trái dồi dào.

Vị trí của các Kitô hữu là ở đó. Sứ điệp của Thiên Chúa hôm nay đang được gửi đến cho họ, và Thiên Chúa cũng đang chờ đợi họ đáp lại.
 
5.- Gợi ý suy niệm

1. Thiên Chúa đã tạo dựng loài người với tình yêu thương âu yếm sâu xa. Trong nhân loại này, Ngài đã chọn ra một nhóm người mang những lời Ngài hứa, họ có nhiệm vụ làm cho Ngài hiện diện giữa nhân loại. Ngài đã ân cần nuôi dưỡng, chăm sóc họ, và sai họ đi làm chứng về tình thương của Ngài. Đáng tiếc, thay vì sản sinh những hoa quả ngon ngọt của lòng trung thành và của sự bình an, họ đã tạo ra sự hận thù, ghen ghét, bạo lực.

2. Thiên Chúa tiếp tục phái các sứ giả đến: Ngài ân cần và kiên trì tìm cách cứu lấy dân Ngài. “Dân” đây cũng có thể là một tập thể như giáo xứ, gia đình hay những cá nhân (mỗi người trong chúng ta). Trong thực tế, Thiên Chúa chỉ dừng lại khi cái chết đến đóng ấn trên một cuộc đời vĩnh viễn từ khước tình yêu của Ngài.

3. Tội nặng nhất của các tá điền là từ chối đón tiếp các ngôn sứ và Người Con mà Chúa Cha sai phái đến. Tuy nhiên, Đức Giêsu cho biết tội ấy bắt nguồn từ chỗ họ muốn chiếm lấy vườn nho. Mỗi lần chúng ta muốn coi Nước Thiên Chúa là chuyện riêng của chúng ta, mỗi lần chúng ta nhắm một thành công tưởng như là để phụng sự Thiên Chúa nhưng thật ra là để thỏa mãn nhu cầu chúng ta là tỏ ra mình quan trọng, là tạo một ảnh hưởng, khi đó chúng ta đang chiếm hữu vườn nho của Thiên Chúa, bởi vì thật ra chúng ta đang phục vụ chính mình dưới cái vỏ bề ngoài là sự tận tụy và sự đạo đức.

4. Không có gì có thể ngăn chặn hành động uy quyền của Thiên Chúa trong thế giới. Bởi vì Thiên Chúa đủ quyền năng để đưa mọi chuyện (kể cả điều ác) vào việc thực hiện các kế hoạch của Ngài. Trong đời sống chúng ta, nếu chúng ta sẵn sàng dâng cho Thiên Chúa tất cả những gì làm nên con người chúng ta, tất cả những gì chúng ta có, Thiên Chúa sẽ có thể làm những điều kỳ diệu xuyên qua chúng ta. Trong lịch sử các thánh, Thiên Chúa đã tỏ ra thích dùng những giới hạn của con người để thực hiện những chương trình vĩ đại trong Giáo Hội.