Mt 14,13-21: Đức Giêsu Chữa Bệnh Và Nuôi Đám Đông Dân Chúng

0
937


Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

 
1.- Ngữ cảnh

Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:

1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13–17 này: “Tiến tới việc loan báo Giáo Hội” hoặc “Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời” hoặc “Hành trình đức tin trong Giáo Hội”, bởi vì qua các chương này, Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.

2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).

3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:

– Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một  lời than: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin …” (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Ngài cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).

– Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một  mình tác giả Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.

Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một  hành trình và như một  nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin. 

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia làm ba phần:

1) Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (14,13-14):
           a) Hoàn cảnh (c. 13),
           b) Đức Giêsu chữa bệnh (c. 14);
2) Đức Giêsu nuôi đám đông (14,15-21):
           a) Đức Giêsu đối thoại với các môn đệ (cc. 15-18),
           b) Đức Giêsu nuôi đám đông nhờ trung gian các môn đệ (c. 19-20a);
3) Kết luận: Ghi nhận về bánh hóa nhiều (cc. 20b-21).

3.- Vài điểm chú giải

nơi hoang vắng (13): dịch sát là nơi “sa mạc”. Phép lạ hóa bánh ra nhiều tại sa mạc này khiến chúng ta nhớ đến Môsê đã xin Chúa ban man-na cho đoàn dân trong thời gian họ tiến đi trong sa mạc để về Đất Hứa (x. Xh 16; Ds 11).

chạnh lòng thương (14): dịch sát là “đau đớn quặn thắt trong ruột”. Nhiều lần Mt ghi nhận là Đức Giêsu “động lòng thương” (esplanchnisthê: 9,36; 15,52) và bày tỏ lòng thương bằng những hành vi cứu chữa.

chiều đến (15): Ghi nhận là bài tường thuật Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể cũng bắt đầu với công thức chỉ thời gian này (26,20).

– năm cái bánh và hai con cá (17): Bánh và cá muối hoặc ngâm dấm là những món thuộc về bữa ăn thông thường của dân chúng.

ngả mình trên cỏ (19): Chi tiết này cho hiểu đây là thời gian trong mùa xuân, tức ám chỉ đến lễ Vượt Qua. Anaklithênai, “ngả mình”, là động từ gợi ý đến một  bữa tiệc, bởi vì khi ăn, các thực khách Do Thái “ngả mình” trên những chiếc bàn thấp (đi-văng). Bài tường thuật bí tích Thánh Thể cũng dùng một  động từ tương tự (“Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc” = ngả mình [anekeito] trên giường tiệc; Mt 26,20).

cầm lấy … dâng lời chúc tụng … bẻ ra … trao cho (19): Đây là chuỗi động từ được dùng trong bài tường thuật về bí tích Thánh Thể (so sánh: Mt 14,19 // Mt 26,26: “cầm lấy”: labôn/labôn; “bánh”: artous/arton; “dâng lời chúc tụng”: eulogêsen/kai eulogêsas; “bẻ ra”: klasas/eklasen; “trao cho các môn đệ”: edôken tois mathêtais/dous tois mathêtais) . Việc bẻ bánh luôn luôn là một nghi thức được thực hiện trong bữa tiệc. 

… trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng (19): Các môn đệ là trung gian giữa Đức Giêsu và đám đông. Mt dùng một động từ duy nhất (didômi, “cho, trao cho”) để nói về hành động của Đức Giêsu và của các môn đệ. Trong khi trong Mc (6,41) và Lc (9,16), các tông đồ “mang; phân phát” (Mc: paratithôsin; Lc: paratheinai) bánh cho đám đông, trong Mt, các ông có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của dân chúng bằng cách tiếp nối công việc của chính Đức Giêsu. 

những mẩu bánh còn thừa (20): Trong các bữa tiệc Do Thái, có việc bẻ bánh trao cho nhau như một  nghi thức. Những mẩu bánh thừa khiến nhớ lại “nghi lễ bẻ bánh”, tức bí tích Thánh Thể, mà các tông đồ và môn đệ cử hành sau khi Đức Giêsu đã về trời (x. Cv 2,42; 20,7).

năm ngàn đàn ông (21): Không chắc đây là con số chính xác (làm sao đếm xuể?). Có lẽ Mt muốn so sánh Đức Giêsu với ngôn sứ Êlisa và cho thấy Đức Giêsu vượt xa ngôn sứ này: Trong sách 2 V 4,42-44, Êlisa đã hóa hai mươi cái bánh lúa mạch ra nhiều để nuôi 100 người (từ 1 thành 5). Ở đây Đức Giêsu đã hóa năm cái bánh ra nhiều để nuôi 5000 người (từ 1 thành 1000). Vậy Đức Giêsu cũng là một  ngôn sứ có khả năng làm phép lạ, nhưng cao trọng hơn Êlisa nhiều.

– giỏ (20): Cái giỏ (kophinos) để đựng các đồ vật cũng là một  đồ dùng để đo thể tích (khoảng 10 lít).

4.- Ý nghĩa của bản văn

Câu truyện Đức Giêsu nuôi đám đông hôm nay có thể khiến chúng ta nhớ đến giai thoại man-na trong hoang địa (Xh 16,11-36; Ds 11), Êlisa nuôi đám đông (2 V 4,32-44), câu truyện tiệc cưới Cana (Ga 2,1-12), cũng như các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với những người khác. Dù thế, hẳn là có thật một  hoàn cảnh ngặt nghèo, đói khát.

* Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (13-14)

Hoàn cảnh lúc đó là một  lần nữa, Đức Giêsu lại muốn lánh đi về một  nơi hoang vắng riêng biệt vì bị giới lãnh đạo đe dọa (x. 12,15). Tuy nhiên, đám đông dân chúng biết tin liền đi theo Người. Đây không phải là lần đầu tiên Mt cho thấy Đức Giêsu có đám đông đi theo (x. 8,1; 12,15). Vẫn chính là Người hướng dẫn cộng đồng những kẻ lưu đày về quê hương. Lần này, đám đông thậm chí còn đi trước Người, đưa theo những người bệnh, và hẳn là cả các niềm hy vọng của họ (c. 14). Đức Giêsu không bực bội nóng giận vì dân chúng làm mất sự yên tĩnh, cũng không tỏ ra lãnh đạm với đoàn dân; Người thương cảm họ sâu xa (esplanchnisthê), hẳn cũng vì một  lý do như ở 9,36 (x. 15,32; 20,34; đọc thêm: vì “thương xót” [eleeô]: 9,27; 15,22; 17,15; 20,30-31): “vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”. Thế là Người lại hòa mình vào giữa đám đông để chữa bệnh cho họ. Hành vi đầu tiên Người làm lúc này là chữa bệnh: các sự dữ không chỉ được khoan nhượng, mà còn bị loại trừ. Sau những ca chữa bệnh “cụ thể”, khó mà nói rằng việc nuôi đám đông chỉ có tính biểu tượng hoặc bí tích; hẳn đây cũng là một  phép lạ “cụ thể”.

* Đức Giêsu nuôi đám đông (15-21)

Khi chiều đến, các môn đệ là những người thực tế, đánh giá tình hình khách quan, đã đến đề nghị Đức Giêsu giải tán đám đông, để họ có thể tùy nghi vào các làng mạc mà mua lương thực. Chi tiết này cho thấy họ không nhất thiết là những người “khố rách áo ôm”. Chẳng những không đồng ý, Đức Giêsu còn yêu cầu các ông cho đám đông ăn. Đây là một  yêu cầu rất thiếu thực tế, mà chính Đức Giêsu biết. Tác giả phác họa ra Người như một  bề trên, Chúa tể tối cao ra lệnh cho các môn đệ làm một  việc dường như không thể làm nổi, nhưng người thì biết chính xác Người sẽ làm gì. Người chỉ muốn các môn đệ cộng tác với Người để làm công việc cung cấp lương thực cho dân chúng. Khi các môn đệ tỏ ra ngại ngùng, vì chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá (c. 17), Người không trả lời họ; Người bảo mang cá và bánh lại cho Người (c. 18).

Với một  lệnh một  lần nữa gợi ra uy quyền tối thượng của Đức Giêsu, tác giả đưa vào truyện phép lạ. Ngài không ghi lại chi tiết phân thành các nhóm một  trăm và năm mươi như Mc 6,40. Đức Giêsu cầm lấy bánh và cá, ngước mắt lên trời (không phải là cử chỉ thông thường của người Do Thái khi cầu nguyện, dù có thể làm), dâng lời chúc tụng Thiên Chúa (chứ không phải là làm phép bánh và cá), rồi bẻ ra, trao cho các môn đệ; các môn đệ phân phát cho dân chúng. Với những công thức này, một  độc giả Kitô hữu gốc Do Thái nhớ tới những bữa ăn trong gia đình, tại nhà thờ và Bữa Tối của Chúa. Họ hiểu rằng bài tường thuật trước tiên kể lại một  phép lạ, nhưng cũng nhắc họ nhớ đến bữa tiệc Thánh Thể. Quả thật tác giả nhắc lại những công thức của bài tường thuật về bí tích Thánh Thể nhằm nhắc lại và cũng giới thiệu trước bài tường thuật về việc thiết lập bí tích Thánh Thể.

Biến cố này là một  hình ảnh về Giáo Hội, nên cũng cần được giải thích theo hướng đó. Đức Giêsu ở tại trung tâm, Người là nguồn mạch ban phát mọi ân huệ, Người ban Lời và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ các môn đệ bao quanh Người. Họ ở sát bên Người, họ chuyển thông các ân huệ của Người, họ như là cánh tay Người nối dài ra. Đám đông được Đức Giêsu quy tụ lại thì ngồi xung quanh các ngài: họ vui sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời khi đọc lời chúc tụng. Người làm những việc “Chúa Cha giao cho Người hoàn thành” (x. Ga 5,36). Người không còn chỉ là vị trung gian như Môsê, hay chỉ là một  ngôn sứ nhỏ như Êlisa ngày xưa. Nay Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn sự sống. Tương quan giữa hai mươi cái bánh của Êlisa với một trăm người được ăn no (1thành 5) và năm chiếc bánh của Đức Giêsu với năm ngàn người được no nê (1 thành 1000) nêu bật sự trổi vượt của phép lạ thứ hai. Đức Giêsu là một ngôn sứ và một Đấng làm phép lạ, nhưng cao cả hơn Êlisa nhiều.

* Kết luận: ghi nhận về bánh hóa nhiều (20b-21)

Chi tiết “mười hai giỏ đầy” (c. 20) những mẩu bánh thừa không có điểm tựa nào khác trong bài để độc giả có thể nói rằng chi tiết này quy về mười hai môn đệ hay mười hai chi tộc Israel. Chúng ta chỉ có thể nói: như vậy đám đông đã được ăn no.

Bản văn hẳn cũng song song với truyện phép lạ man-na, cũng xảy ra trong hoang địa trước đám đông dân chúng (x. Xh 16; Ds 11). Bánh và cá hôm nay thay thế cho man-na và chim cút ngày xưa. Với những dấu lạ này, Đức Giêsu xuất hiện như nhà giải phóng của thời cuối cùng. Nhờ năm chiếc bánh, tượng trưng năm quyển sách của Torah mới (Ortensio da Spinetoli), Đức Giêsu nuôi đoàn  dân Thiên Chúa đang tiến về đất hứa. Những chi tiết này đặt sánh đôi Đức Kitô với Môsê, Hội Thánh với cộng đoàn Xuất Hành. Hôm nay, nhà giải phóng đích thực, vị mục tử, nhà lãnh đạo dân Thiên Chúa, dẫn dắt một đoàn dân bị bỏ rơi và đang tiến đi trong sa mạc trần gian này, là một mình Đức Giêsu. 

Trong nền văn chương kinh sư, bữa tiệc là biểu tượng của cộng đoàn cánh chung (hiệp thông đời sống: St 31,54; Xh 18,12; 1 Sm 9,12; Am 2,8; Hs 8,13; và niềm hạnh phúc thời thiên sai: Is 48,21; 49,9-10; 55,1; 65,13; Dc 5,1; Is 25,6; Tv 23,1-5). Việc Đức Giêsu quy tụ các môn đệ và dân chúng ở bờ hồ như thế trở thành nghi thức khai mạc thời đại mới. Sa mạc, nơi đầy những thử thách và gai góc, đã trở thành một  khuvườn.

+ Kết luận

Đức Giêsu quả là Đấng có quyền trên bệnh tật và sự đói khát. Một  lần nữa, dân chúng trải nghiệm về quyền lực và sự quan tâm của Đấng Mêsia.

Biến cố được kể trong bản văn này là một hình ảnh về Hội Thánh. Đức Giêsu ở ngay trung tâm, Người là nguồn mạch từ đó phát xuất mọi ân huệ, Người chữa lành, ban Lời và bánh. Kế đó là nhóm nhỏ các môn đệ. Các ông ở ngay bên Đức Giêsu, các ông chuyển giao các ân huệ Người ban, các ông là như cánh tay nối dài của Người. Dân chúng được quy tụ lại thì ngồi chung quanh Người; họ sung sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời mà đọc lời chúc tụng. Người hướng về Thiên Chúa là Cha của Người, là Đấng mà Người luôn tìm biết ý muốn để chu toàn (x. Mt 11,25-27). Bây giờ Đức Giêsu không chỉ còn là một trung gian như Môsê xưa kia nữa; Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn mạch từ đó phát xuất ra sự sống.    

5.- Gợi ý suy niệm

1. Các môn đệ cần quan tâm học hỏi cách xử sự của Đức Giêsu: cứu chữa. Nhưng họ chỉ có thể học được bài học này, nếu họ có trái tim của Đức Giêsu: thương cảm sâu sắc trước tình cảnh của người anh em chị em, tức là biết quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh chị em mình, với trái tim đầy tình yêu thương.

2. Phép lạ đặc biệt nhắm đến các môn đệ. Có thể họ còn yếu đức tin, nhưng họ đã trải nghiệm quyền năng từ bi của Chúa họ. Họ sẽ còn trải nghiệm về điều này lần nữa (x. 15,32-39). Qua những kinh nghiệm đó, họ sẽ hiểu (16,5-12). Đàng sau các môn đệ là Hội Thánh: trong cuộc sống chia sẻ với Đức Chúa Phục Sinh, qua những bữa ăn, và trong mỗi Thánh Lễ, Bữa tiệc của Chúa, Hội Thánh lại sống biến cố hóa bánh ra nhiều tại bờ hồ hôm ấy.   

3. Không được quá đề cao cơm bánh vật chất (x. Mt 6,25-26), nhưng cũng không được quên cơm bánh vât chất (6,11). Phải nghĩ đến việc nuôi dưỡng bản thân (6,11), nhưng cũng phải quan tâm đến việc nuôi sống người khác. Người Kitô hữu không được ăn uống một mình, vì luôn ở giữa một đoàn anh chị em đang chờ đợi thức ăn họ thiếu. Họ phải đi ra khỏi tình trạng cô lập mà sống trong cộng đoàn và trong sự hiệp thông với mọi người. Bài học hôm nay cho hiểu rằng họ chỉ việc dâng cho Đức Giêsu chút tài nguyên ít ỏi của mình, rồi làm theo sự hướng dẫn của Người.

4. Trong khi trong bản văn Ga 6, các tông đồ không có sáng kiến nào, trong các TMNL, chính các ông lưu ý Đức Giêsu, trao đổi về cách cung cấp các nhu yếu phẩm cho đám đông, cuối cùng nhận được nhiệm vụ phân phát bánh và thu gom các mảnh vụn còn dư. Các môn đệ nhận lệnh đưa bánh và cá, chuẩn bị và phục vụ bữa ăn. Công việc của các ông nối dài công việc của Đức Giêsu. Hôm nay, các mục tử cũng không thể bỏ mặc đoàn chiên thiếu lương thực thiêng liêng và nhất là lương thực Thánh Thể.

5. Mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu sống một  biến cố mang tính Giáo Hội: họ vây quanh Đức Giêsu, họ chia sẻ chính Mình Máu Người. Sau đó, họ được mời gọi ra đi (Ite, missa est: “Lễ đã xong, anh chị em hãy ra đi [loan báo Tin Mừng]”) để, cũng như Đức Giêsu, họ trở thành “tấm bánh” nuôi dưỡng nhân loại và kiến tạo một  thế giới mới.