SATAN TRONG PHỤNG VỤ

0
4802

                                       Phan Tấn Thành

Trong một số báo dành cho phụng vụ sau công đồng Vaticanô II, đề tài về Satan có thể chỉ giới hạn vào việc phân tích “Nghi thức trừ tà” được duyệt lại và phát hành năm 1998. Tuy nhiên, chúng tôi muốn lợi dụng cơ hội này để trình bày một đề tài thần học rộng lớn hơn, đó là: phụng vụ như một chứng tích của đức tin Hội thánh về sự hiện hữu của Satan. Thật vậy, sau công đồng Vaticanô II, một cuộc tranh luận đã nổi lên giữa các nhà chú giải Kinh thánh và thần học về bản tính của Satan: Satan có phải là một thực thể, hay chỉ là một biểu tượng của sự Ác?[1] Để bênh vực sự hiện hữu của Satan, ngoài những chứng cớ dựa trên Kinh thánh và các giáo phụ, người ta còn trưng dẫn phụng vụ như một luận cứ (locus theologicus). Thật vậy, phụng vụ đề cập đến Satan ở nhiều nơi, chứ không chỉ riêng trong nghi thức trừ tà. Khỏi nói ai cũng đoán được, sở dĩ có nghi thức trừ quỷ là bởi vì có quỷ; nếu không thì chẳng lẽ đấm không khí hay sao? Tuy nhiên cũng cần thêm rằng nhiều khi chúng ta cũng gán cho quỷ những việc mà hắn không chịu trách nhiệm. Bài viết này gồm ba phần: 1/ Satan theo Thánh kinh và Thánh truyền (đức tin công giáo nói gì về Satan?) 2/ Satan trong phụng vụ (phụng vụ nói gì về Satan?) 3/ Những vấn đề phức tạp.

I. SATAN THEO THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN

Trước khi vào đề, thiết tưởng cần lưu ý về từ ngữ. Chúng tôi tránh dùng từ “ma quỷ”, bởi vì có lẽ từ này không diễn tả được ý nghĩa của đạo lý Kitô giáo. Trong văn chương cổ truyền cũng như trong các tín ngưỡng dân gian, “ma” và “quỷ” được hiểu theo nhiều nghĩa: ma có thể chỉ là hồn người chết (đám ma, hồn ma, thây ma); hoặc là phép mầu (ma thuật, ma lực); nó mang nghĩa xấu khi được phiên âm từ “ma la” tiếng Phạn (ma chướng); quỷ có thể là dối trá (quỷ quyệt, quỷ kế). Ma quỷ có thể hiểu về loài ma dữ (đi làm hại người), nhưng đôi khi chỉ là kẻ nghịch ngợm thôi: “nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Trò “quỷ thuật” chẳng có gì xấu cả.

Dù sao, trong Kinh thánh, ý nghĩa của các từ ngữ cũng không thống nhất, đặc biệt khi được chuyển nghĩa từ tiếng Híp-ri (Cựu ước) sang tiếng Hy-lạp (Tân ước) và La-tinh (các giáo phụ). Satan (tiếng Hip-ri) được dùng 26 lần trong Cựu ước, satanas (chuyển âm từ Hip-ri sang Hy-lạp) xuất hiện 34 lần trong Tân ước, daimonion (tiếng Hy-lạp) được dùng 63 lần, diabolos (tiếng Hy-lạp) 37 lần. Ngoài ra, Kinh thánh còn đặt nhiều tên khác để ám chỉ “ác thần”, như sẽ thấy. Ở đây chúng tôi chỉ phân tích từ ngữ.

Satan tiếng Hipri có nghĩa là “kẻ thù” (theo nghĩa chính trị hoặc quân sự: 1 Sm 29,4; 2 Sm 19,3; 1 V 5,18; 11,14.23.25), “kẻ tố cáo” (Tv 109,6), “đối thủ” (Hc 21,27), “kẻ lường gạt”. Danh từ này được sử dụng trong cuộc sống xã hội (một nhân vật hay một chức vụ), chứ không nhất thiết hiểu về loại quỷ ma.

Satan được dịch sang tiếng Hy lạp là diabolos (đối thủ, kẻ thù, kẻ tố cáo) và bắt đầu mang nghĩa tiêu cực nghĩa xấu khi nó được tán tự là “chia rẽ, lường gạt” (tách rời chúng ta ra khỏi Thiên Chúa), gồm bởi dia-ballein (dia: xuyên qua; ballein: ném, quăng). Sau đó diabolos được chuyển sang tiếng La-tinh là diabolus, tiếng Pháp là diable và tiếng Anh là devil (rất dễ lẫn với evil: sự xấu, nhưng cũng có tính từ diabolic).

Daimonion. Trong nguyên ngữ Hy-lạp cổ điển, daimones được hiểu về các thần linh (chứ không phải là quỷ dữ)[2]. Sau này daimonion được chuyển sang tiếng La-tinh là demonium (nghĩa xấu), rồi démon trong tiếng Pháp (tiếng Anh cũng dịch là devil tuy có tính từ demonic).

A. Cựu ước

So sánh với văn chương của các dân tộc láng giềng, Kinh thánh ít khi đả động đến ác thần, có lẽ vì muốn bảo vệ đức tin độc thần (chống lại các tôn giáo nhị nguyên, chủ trương có thần Thiện và thần Ác)[3]. Vì thế, tác giả Kinh thánh không ngần ngại quy gán các tai ương cho Thiên Chúa: chính Ngài đã gây ra chúng để trừng phạt tội lỗi loài người (x. Ds 11,1; 21,6). Chính Thiên Chúa sai “thiên sứ tàn sát” để giáng các tai hoạ xuống dân Ai-cập (Xh 12,23); Thiên Chúa gửi “thần khí bất hoà” để gây chia rẽ giữa vua Abimelech và dân (Tl 9,23), hoặc “thần khí lường gạt” để đánh lừa vua Akhab (1V 22,23)[4]. Ở sách các Vua, quyển 1, chương 16, chúng ta đọc thấy ở câu 14: “thần khí của Giavê rút khỏi Saul, và một thần khí xấu của Giavê hành hạ ông cách kinh khủng” (lưu ý: thần khí xấu là của Giavê, xc. các câu 15.16 và ở chương 18,10; 19,9).

Để giải thích nguồn gốc của sự dữ, Cựu ước đưa ra hai thuyết:

1/ Ý muốn tự do của con người, đã chống lại các mệnh lệnh của Chúa. Đây là nguyên nhân của tội lỗi nơi nguyên tổ cũng như nơi mọi thế hệ.

2/ Có một yếu tố nào đó ở bên ngoài con người: con rắn (St 3,1.2.4.13.14). Có lẽ tác giả sách Sáng thế coi con rắn như một biểu tượng, nhưng về sau này, tác giá sách Khôn ngoan (viết bằng tiếng Hy-lạp) giải thích nó là một diabolos (Kn 2,24).

Lần đầu tiên Satan được nói đến trong Cựu ước là sách Dân số (22,22-32), khi một sứ giả của Chúa chặn đường con lừa của ông Balaam. Nên lưu ý ở chỗ này, Satan chưa có nghĩa tiêu cực; việc hình dung vai trò của nó sẽ tiến triển theo thời gian[5].

– Vào lúc đầu Satan giữ một vai trò tích cực, đó là bảo vệ công lý của Thiên Chúa. Ta có thể so sánh với vai trò viên công tố ở pháp đình, vạch ra tội phạm (mà có lẽ đã bị quên lãng), chẳng hạn như Hađát và Rơson được Chúa gửi đến để phản kháng tội lỗi của vua Salomon (1V 11,14.23).

– Sau thời lưu đày, kể từ sách Giob (thế kỷ V) và sách Dacaria (520-518), vai trò của Satan trở nên tiêu cực: nó không chỉ đặt nghi vấn về sự trong sạch của con người mà còn muốn gây hại cho con người (Dcr 3,1-2). Điều này càng nổi bật hơn nữa nơi sách Giob (1,6-12; 2,17): Satan xin Chúa hãy thử thách ông Giob. Nên lưu ý Satan là đối thủ của con người chứ không phải đối thủ của Thiên Chúa; hắn làm trinh thám cho Chúa mà.

– Trong sách Biên niên sử (viết khoảng thế kỷ IV-III trước CN), Satan trở thành kẻ xấu; hắn xúi giục Đavit phạm tội (1Sbn 21,1).

B. Tân ước

Satan ít được nói đến trong Cựu ước, nhưng sang Tân ước thì tình hình thay đổi hẳn, tuy rằng mỗi tác giả nhấn mạnh một khía cạnh. Chúng tôi chia thành bốn nhóm để phân tích: Tin mừng nhất lãm; Thánh Phaolô, thánh Gioan, các tác giả khác.

1/ Tin mừng nhất lãm

Trong các sách Tin mừng nhất lãm, Satan (satanas, diabolos, daimonion, ho poneros: kẻ ác) không chỉ là đối thủ của loài người như trong Cựu ước, nhưng nhất là đối thủ của Đức Giêsu, chống đối công việc của Người. Đối lại, Đức Giêsu được trình bày như là kẻ chiến đấu với Satan khi Người thiết lập vương triều của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy các trình thuật trong những bối cảnh chính sau đây:

a) Cuộc cám dỗ (Mc 1,12-13; Mt 4,1-11; Lc 4,1-13). Đã có nhiều ý kiến được đặt ra chung quanh sử tính của trình thuật này[6]: có người cho rằng đây là một câu chuyện do cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi tạo ra; có người nghĩ rằng câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể lại cho các môn đệ, nhưng Hội thánh tiên khởi đã viết lại dựa trên những trình thuật về cuộc thử thách Israel trên sa mạc (x. sách Xuất hành và Đệ nhị luật). Dù nói gì đi nữa, Satan và Đức Giêsu trở thành hai đối thủ. – Chúng ta cũng có thể đặt trong bối cảnh này lời Đức Giêsu quở trách ông Phêrô là satan khi ông can ngăn Người đừng đi theo con đường khổ nạn: Acút đi, Satan, bởi vì con đường mà anh nghĩ không phải là con đường của Thiên Chúa” (Mc 8,31-33; Mt 16,21-23); ở đây có thể là satan núp đàng sau lưng ông Phêrô, nhưng ta cũng có thể hiểu satan theo nghĩa bóng (kẻ cám dỗ). Ông Phêrô còn được nghe nhắc đến satan một lần nữa, nhưng không theo nghĩa biểu tượng: “Simon, Simon, anh phải biết rằng satan đã xin được sàng anh như sàng gạo; nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,31).

b) Dụ ngôn người gieo giống (Mc 4,15; Mt 13,19; Lk 8,12). Kẻ tìm cách phá huỷ công trình của Đức Kitô trên thế giới được gọi là “satanas@ (Mc), “kẻ ác” (Mt), “diabolos” (Lk).

c) Mặt khác, Chúa Giêsu không ở trong vị trí thế thủ, nhưng Người tấn công Satan bằng nhiều cách.

(i) qua những việc trừ tà, thí dụ người bị quỷ ám ở Gêrasa (Mc 5,1-20; Mt 8,28-34; Lc 8,26-39)[7]; người động kinh bị quỷ ám (Mc 9,14-29; Mt 17,14-21; Lc 9,37-43); người bị quỷ ám ở Capharnaum (bị ám bởi “thần khí ô uế”: Mc 1,21-28; Lc 4,33-37); con gái của người phụ nữ Phênixi (“thần khí ô uế”: Mc 7,24-30; Mt 15,21-20); người câm bị quỷ ám (Mt 9,32-34; Lc 11,14). Việc trừ tà trở thành hoạt động thường xuyên của Đức Giêsu, đến nỗi các tác giả có thể tóm lược thành một nhận xét tổng quát: “Chiều hôm ấy, khi mặt trời lặn, người ta mang đến cho Người hết mọi người bệnh tật và những người bị quỷ ám, và Người đã chữa lành những kẻ bị khổ sở vì các chứng bệnh; Người cũng xua đuổi nhiều daimonia” (Mc 1,32-34 và song song); “các thần khí ô uế, khi thấy Người thì sụp lạy và la lên: Ngài là Con của Thiên Chúa” (Mc 3,11 và song song; Xem thêm Cv 10,38). Chúng ta thấy những trường hợp “bệnh tật” và “quỷ ám” thường được gắn liền với nhau: rất có thể nhiều trường hợp chỉ là bệnh tật theo quan điểm y học thời nay (thí dụ động kinh) nhưng vào thời xưa bị coi là quỷ ám; hoặc bà Mađalêna được chữa khỏi bảy quỷ (Mc 16,9; Lc 8,2) nhưng có thể chỉ là một bệnh. Tuy nhiên, không thể nào phủ nhận tuyệt đối sự hiện hữu của việc quỷ ám, xét vì cách đối xử khác biệt của Đức Giêsu khi đối diện với người bệnh và với Satan.

(ii) Trong cuộc tranh luận với người Pharisêu và các kinh sư về việc trừ tà, họ nói rằng Người đã dùng quyền năng Beelzebul[8], tướng của các daimonia (Mc 3,22). Lợi dụng cơ hội này, Đức Giêsu giải thích rằng Satan không thể nào chống lại chính mình được; do đó quyền năng của Người đến từ một thế lực cao hơn: “Nhưng nếu do Thần khí Thiên Chúa mà tôi xua đuổi daimonia, thì chắc hẳn là vương quốc Thiên Chúa đã đến giữa các ông”  (Mt 12,28; Lc 11,20). (Nên biết là ông Gioan Tẩy giả cũng bị tố cáo là có một daimonion bởi vì ông không ăn không uống: Mt 11,16-18; Lc 7,31-35).

(iii) Đức Giêsu báo cho các môn đệ biết rằng sự sụp đổ của các thần ô uế nhờ quyền năng mà Người trao cho các ông (Mc 6,7; Mt 10,1; Lc 9,1). Quyền trừ quỷ đã được Người trao cho các môn đệ như một dấu hiệu kèm theo việc loan báo Tin mừng (Mc 16,17). Tuy nhiên, Người cũng cảnh báo cho các ông biết rằng vào ngày chung thẩm, quyền năng trừ tà chẳng mang ích lợi gì nếu họ không thực hành các điều Chúa truyền: “Trong ngày ấy, nhiều kẻ sẽ thưa với tôi rằng: Lạy Chúa, chúng con đã chẳng nói tiên tri nhân danh Thầy, đã chẳng xua đuổi quỷ nhân danh Thầy, đã chẳng làm việc lạ nhân danh Thầy đấy ư?” (Mt 7,22). Mặt khác, Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy cầu nguyện: “Lạy Cha, đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng hãy cứu chúng con khỏi kẻ ác” (Mt 6,13; x. 22,40.46: “Hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”).

2/ Thánh Phaolô

Thánh Tông đồ sử dụng những từ ngữ cổ truyền, chẳng hạn như Satanas (10 lần), daimonion (5 lần); ngoài ra, Người còn thêm những từ ngữ mới: “những quyền lực”, “những yếu tố của thế gian” (Gl và Cl). Chúng ta hãy xem các bản văn.

a) Những từ ngữ chung với các tác giả Tân ước

Satan chính là kẻ đã ngăn cản hành trình của thánh Phaolô đến thăm cộng đoàn Têxalonica (1 Tx 2,18). Satan là kẻ hành hạ thân xác của ông (2Cr 12,7). Satan cũng sẽ hành hạ những tội nhân cần phải hoán cải (1 Cr 5,5; 7,5; 1 Tm 1,20; 5,15). Satan là kẻ ngăn cản chúng ta tha thứ (2 Cr 2,11); kẻ trá hình làm sứ giả của ánh sáng (2 Cr 11,14). Nói khác đi, Satan là kẻ mưu toan làm hại người khác, là công cụ của Phản-Kitô, kẻ phản loạn (2 Tx 2,9). Tuy nhiên, thánh Phaolô cho biết rằng Thiên Chúa bình an sắp đè bẹp Satan (Rm 16,20). “Mầu nhiệm của sự gian ác” (mysterium iniquitatis) sẽ bị Đức Chúa huỷ diệt trong ngày quang lâm (2 Tx 2,7).

Diabolos có nghĩa tương tự như ma quỷ trong sách Tin mừng (Ep 4,27; 6,11). Nhưng trong các thư mục tử, từ ngữ này được dùng để ám chỉ những con người nói hành, vô luân (1Tm 3,6.7.11; 2Tm 2,26; 3,3; Tt 2,3). Những từ ngữ tương đương: “Kẻ ác” (ho poneros: Ep 6,16; 2 Tx 3,3); “kẻ cám dỗ” (ho peirazon: 1 Tx 3,5), “Chúa của thế gian này” (2 Cr 4,4).

Mặc dù thánh Phaolô biết ảnh hưởng của sự dữ trong thế gian này (Rm 5,12) nhưng ông không nói đến những con người bị quỷ ám. (Sách Công vụ cho biết là ông đã gặp những người ấy trên đường truyền giáo (Cv 13,10; 16,16-18; 19,15).

b) Những thuật ngữ riêng của thánh Phaolô

Beliar đối thủ của Đức Kitô được nhắc đến 1 lần (2Cr 6,15) trong toàn thể Tân ước, và người ta không rõ ý nghĩa. Trong Cựu ước, belial (đi kèm với cụm từ “con cái của”) ám chỉ người dữ (Đnl 13,14; Tl 19,22; 1 Sm 1,16; 2,13).

– Trong hai lá thư gửi Colosê và Ephêsô, chúng ta gặp những thuật ngữ đặc biệt “các quyền năng dũng lực ” (Cl 1,16; 2,10.15; Ep 1,21; 3,10; 6,12), được mô tả với nhiều từ ngữ tương đương: Archai (thủ lãnh, nguyên thủ, nguồn gốc); Exousia (quyền năng, quyền lực hành động); Dynameis (khả năng, năng lực). Kyriotetes (chủ tể, chủ lực, uy quyền); Thronoi (ngai tòa, ngôi)[9]. Những từ ngữ này lấy từ thể văn khải huyền của người Do thái, có thể ám chỉ các quyền lực thiêng liêng dù tốt hay xấu, tuy rằng chúng không hẳn là vô hình nhưng có thể biểu hiện qua các định chế xã hội. Nơi thánh Phaolô, các quyền lực này được nhân- cách-hoá như là những quyền lực trên trời có thể gây tác hại đến các lực lượng của vũ trụ hay với quyền bính nhân loại (x. Ep 6,12: “những kẻ thống trị thế giới”; 1Cr 2,6.8: “những thủ lãnh của thế gian này”). Vào lúc đầu, chúng được dựng nên nhờ và vì Đức Kitô , do đó chúng không xấu. Nhưng sau đó, chúng từ chối không nhìn nhận quyền tối thượng của Đức Kitô và trở nên xấu. Thánh Phaolô lo ngại rằng các tín hữu ở Colosê và Êphêsô thờ lạy các quyền lực ấy để khỏi bị chúng quấy phá. Thánh Phaolô không phủ nhận sự hiện hữu của chúng (như trong trường hợp các ngẫu tượng nói ở 1Cr 8,4; 10,19), nhưng ông khẳng định rằng những quyền lực ấy không thể làm hại ta bởi vì chúng đã bị Đức Kitô đánh bại rồi.

3/ Các văn phẩm của thánh Gioan

Có thể phân làm hai nhóm: một bên là sách Tin mừng và các thư; bên kia là sách Khải huyền.

a) Trong sách Tin mừng và các thư, diabolos được nhìn dưới ba khía cạnh:

(i) Nguồn gốc của tội lỗi (tội phản bội của Giuđa Iscariot: Ga 6,70; 13,2.27), cũng như tội không tin của người Do thái (Ga 8,45). Đề tài này được khai triển nơi 1Ga 3,8, khi đồng hóa kẻ phạm tội với kẻ thuộc về diabolos bởi vì nó đã phạm tội ngay từ thuở đầu. Con Thiên Chúa đã đến để phá hủy công việc của nó. Tác giả của thư thứ nhất vạch ra sự đối kháng giữa con cái Thiên Chúa và con cái ma quỷ, giữa việc làm của Thiên Chúa với việc làm của ma quỷ (3,12: 5,18-19). Các con cái của Thiên Chúa đã thắng Kẻ Ác (2,13.15).

(ii) Đức Giêsu bị tố cáo là bị quỷ ám vào ba dịp: sau khi đã chữa bệnh vào ngày Sabat (Ga 7,20); trong cuộc tranh luận lời qua tiếng lại với người Do thái (8,48); khi phản ứng lại Đức Giêsu tự xưng là Mục tử nhân lành (10,19).

(iii) Danh hiệu “Nguyên thủ của thế giới” (arkhon tou kosmou: 12,31; 14,30; 16,11). Khác với diabolos xâm nhập vào Giuđa hoặc xúi giục dân Do thái, “nguyên thủ của thế giới” là kẻ đương đầu với Đức Giêsu. Tuy nhiên, kể từ nay, hắn đã bị tống khứ, nghĩa là mất hêt quyền hành trên các tín hữu rồi (12,31). Hắn vẫn cứ đến, nhưng chẳng có quyền hành với Đức Giêsu (14,30). Hắn đã bị xét xử rồi (16,11).

Các thuật ngữ “diabolos, nguyên thủ thế giới, kẻ ác” là biểu tượng, hay ám chỉ một nhân vật đối lập với đức Kitô?

b) Trong sách Khải huyền,[10] cách riêng từ chương 12 trở đi, chúng ta đọc thấy một cuộc giao tranh giữa Mãng xà (biểu tượng của quỷ dữ) và người Phụ nữ (biểu tượng cho Dân Thiên Chúa): mãng xà là con rắn gìa, quỷ và Satan (Kh 12,9), đầu mối của những cuộc bách hại (2,9; 3,9), ngẫu tượng (2,13; 9,20), lạc giáo (2,24). Nó chiếm giữ quyền năng siêu đẳng, tự đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa và bắt người ta thờ lạy (13,4), làm những việc lạ thường. Mặc dù nó gây ra nhiều tàn phá tai hại, nhưng cuối cùng hắn bị tống ra khỏi trời, và quẳng xuống đất. Con mãng xá là ai? Phải chăng đó là tượng trưng của Đế quốc Rôma, hay là của tất cả mọi lực lượng tội ác trong dòng lịch sử? Dù sao, sau bao nhiêu cuộc giao tranh, cuối cùng Satan bị quăng vào hồ lửa và chịu khổ đời đời kiếp kiếp (20,10).

4/ Các thư phổ quát: 2 Phêrô và Giuđa

2Pr 2,4: “Thiên Chúa không dung thứ cho các thiên thần có tội, nhưng đã đẩy họ vào hồ Địa ngục tối tăm, giữ họ để chờ cuộc phán xét”. Gđ 6: “Những thiên thần đã không giữ địa vị của mình, nhưng rời bỏ nơi mình ở, thì Người dùng xiềng xích mà giam giữ họ đời đời trong nơi tối tăm, để chờ phán xét trong Ngày trọng đại”.

Xem ra hai đoạn này giải thích nguồn gốc của ma quỷ, nghĩa là những thiên thần sa ngã. Tuy nhiên, theo các học giả, có lẽ mục tiêu của chúng nằm ở chỗ khác. Hai tác giả khuyên các tín hữu đừng bỏ Chúa Kitô mà chạy theo các tiên tri giả (2 Pr 2,1; Gđ 4). Các ngài nhắc nhở họ về các hình phạt dành cho các tội ác trải qua lịch sử, tựa như: các thiên sứ, thành Sođôma, đại lụt (Pr), hoặc sa mạc. Các tác giả sử dụng những chất liệu đã có sẵn trong tay chứ không khẳng định về sử tính của chúng (chẳng hạn như cuộc giằng co giữa Micae và Satan về thi hài của ông Mosê – 2 Pr 11; Gđ 9 – lấy từ tác phẩm “Sự lên trời của ông Mosê”). “Tội của các thiên thần” là một dữ liệu lấy từ truyền kỳ bình dân (x. St 6,1-4, Sách Enoch), theo đó các thiên sứ – những “con trai Thiên Chúa” – đã phạm tội dâm ô với  “con gái loài người”, từ đó đẻ ra các Khổng lồ (nephilim).

Dù sao, trong 1Pr (5,8-9), chúng ta gặp thấy một đoạn văn được đọc trong giờ Kinh Tối từ bao thế kỷ qua: “Anh em hãy tỉnh thức, vì ma quỷ – diabolos– thù địch của anh em đang rình rập tìm mối cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự”.

Tóm lại, Satan là một thực tại phức tạp, được ám chỉ trong Kinh thánh bằng nhiều thuật ngữ (satan, diabolos, daimon, kẻ ác, thủ lãnh thế gian, địch thủ, kẻ cám dỗ…). Phải chăng đó là những nhân vật khác nhau, hay chỉ là một nhân vật dưới nhiều tên gọi? Kinh thánh nhấn mạnh đến tự do và trách nhiệm của con người trong việc chọn điều tốt hay điều xấu. Đồng thời, Kinh thánh cũng nhìn nhận sự hiện hữu của một quyền lực sự xấu, mà con người phải kháng cự và có thể thắng được nhờ quyền năng của Chúa Kitô. Tân ước nói đến Satan như là kẻ chống đối Đức Kitô, một kẻ bị Người xua đuổi khỏi những người bị ám hại, một kẻ tuyên xưng thiên tính của Người. Người tỏ lòng nhân từ đối với những kẻ tội lỗi, nhưng lại quở trách nặng nề Satan. Như vậy ắt hẳn Satan phải là một thực thể chứ không phải chỉ là một biểu tượng.

B. Truyền thống

Chúng ta hãy theo dõi sự tiến triển thần học về Satan trong lịch sử, từ các giáo phụ cho đến ngày nay.

1/ Các giáo phụ

Nói chung, các giáo phụ thích bàn về các thiên thần nhiều hơn là về ma quỷ. Ma quỷ được nhắc đến khi các ngài khuyên các tín hữu hãy tránh xa các lạc giáo là cạm bẫy của ma quỷ (x. thánh Inhaxiô Antiôkia; Mục tử Hermas). Các tông phụ nhìn nhận sự hiện hữu của ma quỷ và tác dụng tai hại đối với các tín hữu; các ngài nhấn mạnh rằng chúng không thể thắng được họ.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của sách Enoch và Jubilaeum, các giáo phụ hộ giáo bắt đầu bàn luận về bản tính và nguồn gốc của ma quỷ; tựa như nguồn gốc ma quỷ là sự giao hợp với phụ nữ[11]. Câu chuyện này được tiếp tục ở thế kỷ III. Các giáo phụ đồng ý rằng Thiên Chúa đã tạo nên các thiên thần, chứ không dựng nên ma quỷ[12]; ma quỷ là những thiên thần sa ngã. Vì tội gì? Nhiều giải thích đã được đề ra: họ đã tiết lộ bí mật thiên đình cho các phụ nữ (Clementê Alexandria, Stromata V, 1,10); họ đã phạm tội dâm ô với phụ nữ và tiết lộ các bí mật thiên nhiên (Tertullianô, De virginibus velandis 7; De cultu feminarum 1,2-4); họ đã phạm tội kiêu ngạo, vì muốn bằng Thiên Chúa (Origène, In Joan. 1,17).

Nói chung, nhiều giáo phụ nghiêng về giải thuyết tội dâm dục (Cyprianô, De habitu virginis 14; Ambrosiô, Apologia prophetae David 1,4). Tuy nhiên, kể từ khi sách Enoch bị xếp vào lại nguỵ thư (thế kỷ IV), các giáo phụ nghiêng về giả thuyết khác, đó là: kiêu ngạo, phản loạn chống lại Thiên Chúa (Eusebiô Cêsarea, Basiliô, Gregoriô Nazianzô, Gioan Kim khẩu, Cyrilô Alexandria bên Đông; Hilariô, Hiêronimô và Augustinô bên Tây). Sau khi phạm tội, ma quỷ bị trục xuất khỏi thiên đình. Họ sống trên không trung cho đến tận thế. Duy chỉ có ông Origen mới chấp nhận cho ma quỷ trở lại vào thời cuối cùng.

Mặt khác, một tác giả đội tên Đionysiô Areopagita đã vinh thăng các “quyền lực” nói trong thư của thánh Phaolô lên “phẩm thiên thần”, và từ đó họ được Kinh Tiền tụng sát nhập vào ca đoàn thiên quốc “các Dũng thần và các Quyền thần” không ngừng chúc tụng Chúa.

2/ Huấn quyền

Chúng ta có thể lần lượt rảo qua các giai đoạn chính từ công đồng Latêranô IV (1215) đến nay.

a) Trước Latêranô IV

Chỉ có vài tuyên ngôn của các công đồng hoặc công nghị địa phương, chẳng hạn như  Constantinopolis (năm 543) chống lại thuyết của nhóm Origène (Đức Kitô cũng chịu đóng đinh cho ma quỷ, và chúng sẽ hoán cải: Denzinger Strometzer 409; 411); Braga ở Bồ đào nhau (năm 561) chống lại nhóm Manikê và Priscilla (ma quỷ không do Thiên Chúa tạo dựng; chúng tự phát từ hỗn mang và tối tăm; chúng không do ai tạo nên nhưng lại là nguồn gốc của mọi sự dữ (Denz-Sch 457-458.462-463).

b) Công đồng Lateranô IV (năm 1215) đã đưa ra định tín De fide catholica chống lại nhóm Albigeois và Cathari (DS 800):

Chúng tôi tin vững vàng và tuyên xưng khẳng khái rằng chỉ có một Thiên Chúa thật … Cha, Con và Thánh Thần; ba ngôi vị trong một bản tính… Một nguyên uỷ của vũ trụ, Đấng dựng nên tất cả mọi vật, hữu hình và vô hình, thiêng liêng và vật thể, nghĩa các loài thiên thần và thể chất (…) và loài người ra như chia sẻ cả hai loài ấy, bởi vì gồm bởi linh hồn và thể xác. Satan (diabolus) và các ma quỷ (alii daemones) đã được Thiên Chúa tạo dựng theo bản tính tốt lành, nhưng chúng trở nên xấu cho chính mình. Còn con người phạm tội do Satan xúi giục.

Công đồng chỉ giới hạn vào những điểm cốt yếu của đức tin: (i) Thiên Chúa đã Đấng Tạo dựng mọi loài hiện hữu, hữu hình và vô hình; (ii) ma quỷ do Thiên Chúa tạo dựng như là thiên thần nhưng trở thành xấu do tội của mình. Công đồng không đi vào những chi tiết khác (họ đã phạm tội gì? Có bao nhiều vị đã sa ngã?).

c) Sau công đồng Lateranô IV

Không có định tín nào quan trọng, nhưng chỉ có vài phi bác những lầm lạc

– chống lại Wycliff chủ trương Thiên Chúa cũng phải vâng theo ma quỷ  (Công đồng  Constance năm 1415: Denz-Sch 1156).

– chống lại Miguel de Molinos về sức ép của ma quỷ trên thân thể của vài người đạo đức để thúc đẩy phạm tội (Bộ Thánh vụ năm 1687: Denz-Sch 2241).

Công đồng Firenze tuyên bố rằng không có người nào sinh ra mà được thoát khỏi sự  thống trị của ma quỷ nếu không nhờ đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người … Nhờ bí tích thánh tẩy, các nhi đồng được lôi kéo khỏi sự thống trị của ma quỷ và trở nên con cái Thiên Chúa (Decretum pro Jacobitis 1442: Denz-Sch 1347.1349). Do đó, ơn cứu chuộc được giải thích như là việc giải thoát khỏi sự thống trị của ma quỷ.

Công đồng Trentô tuyên bố rằng những kẻ phạm tội thì làm nô lệ cho ma quỷ (x . Decretum de peccato originali, năm 1546: Denz-Sch 1511; Decretum de sảcramento paenitentiae, năm 1551: Denz-Sch 1668). Công đồng Vaticanô I (năm 1870) lặp lại giáo huấn của Lateranô II là các thiên thần do Thiên Chúa dựng nên (Const. Dei Filius: Denz-Sch 3002).

d) Công đồng Vaticanô II

Ma quỷ được nhắc đến 18 lần, rải rắc trong nhiều văn kiện và dưới nhiều danh xưng[13]. Ma quỷ được bàn trong bối cảnh lịch sử cứu độ (GS 37) và lịch sử của mỗi người (LG 16: GS 13a). Ma quỷ là kẻ dụ dỗ, xúi giục con người khước từ Thiên Chúa. Hai lần tham chiếu khi bàn đến Đức Maria là Eva mới (LG 55.63). Nhiều tham chiếu khi nói đến Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng sự dữ (GS 2b), giải thoát con người khỏi quyền lực Satan, khỏi thủ lãnh của thế gian (SC 6; AG 3; GS 22; GS 13b). Việc xua đuổi ma quỷ là dấu hiệu của Nước Chúa đang đến (LG 15; AG 14 chú thích). Trong bối cảnh truyền giáo, công đồng nói đến hoạt động của Hội thánh chống lại ma quỷ (LG 17; AG 9b. 14b; DH 11b). Sau cùng, các Kitô hữu được mời gọi hãy chiến đấu chống lại hoạt động của tối tăm, chống lại các thần khí xấu (LG 35a), với những khí giới của Thiên Chúa (LG 48d).

Sau công đồng Vaticanô II, vì có những trào lưu phủ nhận sự hiện hữu của ma quỷ, cho nên Huấn Quyền đã phải can thiệp[14]:

– ĐGH Phaolô VI: Kinh Tin kính của Dân Thiên Chúa (1968). Bài giảng lễ ngày 29/6/1972. Những bài huấn từ nhân các buổi tiếp kiến chung vào ngày 15/11/1972 và 23/2/1977.

– Bộ Giáo lý đức tin là cho phát hành văn kiện nguyên bản tiếng Pháp Foi chrétienne et démonologie đăng trên báo L’Osservatore Romano ngày 26/6/1975. Đây không phải là một văn kiện chính thức, nhưng là một bài nghiên cứu do Bộ uỷ thác cho một chuyên viên ẩn danh. Văn kiện không được đăng trong công báo Acta Apostolicae Sedis nhưng có thể đọc trên mạng internet[15]. Sự hiện hữu của ma quỷ được khẳng định dựa trên các bản văn Kinh thánh, các giáo phụ, huấn quyền. Phụng vụ cũng được trưng dẫn như là luận cứ của đức tin Kitô hữu về sự hiện hữu của ma quỷ[16]. Tuy nhiên, văn kịên cũng nhìn nhận rằng trong quá khứ trong hiện đại, nhiều khi người ta đã phóng đại nhiều chuyện về ma quỷ, kích thích óc tưởng, sự sợ hãi. Sứ điệp Kitô giáo không phải là sợ hãi ma quỷ hoặc hoả ngục, nhưng là sứ điệp của tín thác và hân hoan vào sự chiến thắnc của Chúa Phục sinh. Ma quỷ có thể khêu gợi, dụ dỗ, nhưng không thể cưỡng bách ý chí của chúng ta. Chúng ta có thể thắng được ma quỷ, cách riêng nhờ sự cầu nguyện.

– ĐGH Gioan Phaolô II đã dành một loạt bài huấn từ để trình bày về ma quỷ khi giải thích kinh Tin kính trong những buổi tiếp kiến chung ngày 13 và 20/8/1986.

– Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo bàn đến Satan và ma quỷ ở nhiều bối cảnh khác nhau: sự sa ngã các thiên thần (số 391-395), sự sa ngã của nguyên tổ (số 397) và hậu quả của nó (số 407), được tóm lại ở các số 413-415. Cuộc đời của Đức Giêsu: cuộc cám dỗ (số 538-539), việc trừ quỷ và thiết lập Nước Thiên Chúa (số 550); công cuộc cứu chuộc bao hàm sự chiến thắng ma quỷ (số 635 và 1086). Sứ mạng của Hôi thánh tiếp nối sự chiến đấu ma quỷ (số 856). Satan được nhắc đến trong bí tích Thánh Tẩy (số 1237), trong một vài tội thuộc phần luân lý (số 2538), và lời nguyện cuối cùng của kinh Lạy Cha (số 2851-2853). Ở số 2851, sách Giáo lý nhấn mạnh rằng ở đây chúng ta không chỉ cầu xin được cứu thoát khởi “sự dữ” (trừu tượng) nhưng là “Kẻ Dữ, kẻ Ác” (một ngôi vị).

Tóm lại, những điều cốt yếu của đức tin công giáo về các ma quỷ không nhiều:

1/ Sự hiện hữu của ma quỷ: đó là một thực thể, chứ không chỉ là biểu tượng của sự dữ trên thế giới.

2/ Các ma quỷ là thụ tạo, chứ không phải là tự hữu (chống lại thuyết nhị nguyên).

3/ Ma quỷ được dựng nên như là thiên thần, nhưng trở thành quỷ do tội mà họ đã phạm. Tuy nhiên, đạo lý không nói họ phạm tội như thế nào[17], và đã bao nhiêu vị sa ngã. Vì thế, cần phải phân biệt hai lãnh vực: đức tin và thần học.

4/ Do sự phản nghịch, ma quỷ phải luận phạt trong hoả ngục (x. Mt 25,41). Theo sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (số 393), tội của họ không được tha thứ không phải vì Chúa không tỏ lòng khoan nhân, nhưng là do quyết định bất khả kháng của họ. Thánh Tôma giải thích là loài thiên thần hiểu biết trực tiếp (chứ không lý luận như loài người) cho nên cũng quyết định như đinh đóng cột, không rút lại nữa. Một lần nữa, cần phân biệt đức tin và giải thích thần học.

5/ Chúng ta nên phân biệt hai ý niệm “ma quỷ” và “sự dữ”: hai ý niệm rất dễ bị lẫn lộn (tiếng Anh devil / evil). Cho dù ma quỷ bị gán là đầu mối của mọi sự dữ, nhưng không phải mọi sự dữ đều bởi ma quỷ, đến nỗi đồng hoá hai khái niệm với nhau. Khi tôi phạm tội thì tôi đã làm sự dữ (chứ không phải là ma quỷ). Mặt khác, việc nhìn nhận sự hiện hữu của ma quỷ không có nghĩa là ma quỷ hiện diện khắp nơi. Ma quỷ hoạt động trong thế giới do một ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, tuy nhiên chúng không thể tự do tung hoành: ma quỷ là thụ tạo chứ không phải là Thiên Chúa[18].

6/ Ma quỷ có thể ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào? Dựa theo Sách nghi thức (proenotanda sẽ nói dưới đây, số 9-10) có thể phân biệt hay dạng thức chính: thông thường và khác thường.

a) Hoạt động thông thường của ma quỷ là cám dỗ, nghĩa là dụ dỗ chúng ta phạm tội. Tuy nhiên, chúng ta đừng quy tất cả các cơn cám dỗ cho ma quỷ, và cũng đừng nói rằng Thiên Chúa cám dỗ chúng ta (x. Gc 1,14)! Nguồn gốc các cơn cám dỗ có thể là từ bản tính của chúng ta, tính khí, chịu ảnh hưởng của môi trường xã hội, giáo dục. Chúng ta cần phải tỉnh thức và cầu nguyện cho khỏi sa chước cám dỗ. Mặt khác, chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa không để chúng ta phải thử thách quá sức, và Ngài ban ơn trợ lực cho chúng ta chiến thắng (1Cr 10,13). Hơn thế nữa, Đức Kitô đã thắng quyền lực sự dữ; nhờ Người, chúng ta cũng nắm chắc phần thắng rồi (Ga 16,33; 1Ga 2,14).

b) Hoạt động khác thường (có nghĩa là không thường xuyên), thường được các tác giả nói đến dưới hiện tượng “quỷ nhập” (infestatio) gây ảnh hưởng và tác dụng trên đồ vật (nhà cửa, thú vật) hay thân thể con người, hoặc “quỷ ám” (possessio) tác dụng trên quan năng tâm lý của con người. Một cách cụ thể hơn nữa các tác giả còn kể ra đến 6 hình thức[19]:

– Hành hạ thân thể, như chúng ta đọc thấy trong cuộc đời các vị thánh Phaolô Thánh giá, Piô Pietralcina.

– Chiếm hữu (possessio diabolica, quen gọi là “quỷ ám”): ma quỷ xâm nhập thập thân thể, bắt buộc nó phải nói năng hay hành động theo như nó muốn. Nạn nhân không thể cưỡng lại được, và do đó cũng không chịu trách nhiệm. Nên biết là ma quỷ chỉ chiếm hữu thân xác, chứ không thể chiếm ngự linh hồn.

– Quấy rối (vexatio): gây ra những bệnh tật thể lý (tựa như người phụ nữ bị còng lưng, hoặc người câm điếc được sách Tin mừng nói đến). Trường hợp này nhẹ hơn là sự “chiếm hữu”.

– Ám ảnh (obsessio): nạn nhân bị khống chế bởi những ý tưởng kinh dị, đâm ra thất vọng chán nản, muốn quyên sinh.

– Xâm nhập (infestatio) vào đồ vật (nhà cửa, cây cối) hoặc động vật.

– Thần phục (subjectio): chính nạn nhân tự ý thần phục ma quỷ để đạt được cái gì đó (qua hợp đồng).

Nghi thức trừ tà liên quan đến trường hợp “quỷ ám” (possessio)

II. SATAN TRONG PHỤNG VỤ

Trọng tâm của Kitô giáo là Tin mừng của Đức Giêsu Kitô, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Ma quỷ chỉ được nói đến cách gián tiếp, khi các tín hữu được cảnh báo về những kẻ phá vỡ kế hoạch yêu thương ấy.

Một cách tương tự như vậy, trọng tâm của phụng vụ là chúc tụng công trình mà  Thiên Chúa đã thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, khi giải thoát chúng ta khỏi quyền lực sự dữ và đưa chúng ta vào chia sẻ tình thân với ngài. Ma quỷ chỉ được nhắc tới ở bên lề.

Văn kiện của Bộ Giáo lý năm 1975 trưng dẫn phụng vụ như là một chứng tích của lòng tin Hội thánh về sự hiện hữu của ma quỷ. Trước công đồng Vaticanô II, ma quỷ được nhắc đến ở nhiều chỗ, chẳng hạn như trong nghi thức phó thác linh hồn người lâm tử. Sau công đồng, các sách phụng vụ mới được duyệt lại tuy nói ít hơn nhưng không phải là hoàn toàn thinh lặng. Trong Thánh lễ, nhiều bài đọc Kinh thánh vẫn còn nhắc đến, chẳng hạn vào chúa nhật mùa Chay. Nghi thức các bí tích khai tâm cũng nói đến ma quỷ qua những kinh trừ tà (exorcismus) cũng như việc từ bỏ ma quỷ. Nghi thức xức dầu bệnh nhân cũng có những lời nguyện xin cứu thoát khỏi mọi sự dữ và mọi chước cám dỗ.

Ai muốn nghiên cứu sâu xa hơn đề tài này có thể tìm thấy tài liệu trong tác phẩm của cha Cipriano Vagaggini, Il senso teologico della liturgia, dành hẳn một chương cho đề tài này[20]. Tác giả lần lượt bàn đến 5 điểm: 1/ việc chiến đấu chống lại ma quỷ trong Tân ước; 2/ việc chống lại ma quỷ trong truyền thống; 3/ phân biệt những yếu tố thuộc đức tin và những yếu tố không thuộc đức tin; 4/ việc chiến đấu ma quỷ trong phụng vụ khai tâm; 5/ việc chiến đấu trong Satan trong các bí tích khác (thống hối, xức dầu, truyền chức- với chức trừ tà nay đã bãi bỏ, hôn phối); 6/ cuộc chiến đấu chống lại Satan trong các á-bí-tích gắn liền với các bí tích (nước thánh, cung hiến trinh nữ, khấn dòng, an táng); 5/ phụng vụ các mùa và các thánh.

Trong khuôn khổ của bài này, chúng tôi chỉ giới hạn vào đề mục nghi thức trừ tà, với ba điểm chính: 1/ Khái niệm về trừ tà: 2/ Lịch sử về việc thực hành trừ tà trong Hội thánh. 3/ Nghi thức trừ tà năm 1998

A. Khái niệm về “trừ tà”

Cũng như đối với nhiều từ ngữ khác, nguy cơ hiểu lầm rất dễ xảy ra. Trên đây, chúng tôi đã nói đến “ma quỷ”: từ này có thể mang một ý nghĩa trong tâm thức bình dân khác với ý nghĩa của “Satan” trong Kinh thánh. Khi nói đến “trừ tà” cũng vậy; nó có thể bị hiểu lầm là giống như phù phép trong các tôn giáo khác.

Trong ngôn ngữ của Kitô giáo, trừ tà là exorcismus, gốc từ tiếng Hy lạp exorcismos,  (thuật ngữ chỉ lưu hành trong Giáo hội), do động từ exorkizo. Trong Kinh thánh, động từ này có ba nghĩa: a) bắt phải thề (St 24,3); b) van nài (1V 22,16; Mt 26,63); c) giải thoát khỏi quyền lực ác thần (Cv 19,13). Việc trừ tà theo nghĩa chuyên môn được hiểu theo nghĩa thứ ba, nghĩa là lời truyền khiến nhân danh Thiên Chúa bắt buộc ma quỷ phải ngưng việc tác quái trên sự vật hay trên một người nào đó.

Việc trừ tà được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo xếp vào hạng các á-bí-tích[21], và giải thích như sau: “Khi Hội thánh, một cách công khai và với thẩm quyền, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, cầu xin để một người hay một đồ vật được Thiên Chúa bảo vệ khỏi Ác thần và giải thoát khỏi ách thống trị của nó, thì người ta gọi đó trừ tà (exorcismus). Chúa Giêsu đã thực hiện điều đó, và chính bởi Người, Hội thánh có quyền và có nhịêm vụ trừ tà. Với hình thức đơn giản, việc trừ tà đã có trong nghi thức cử hành bí tích Rửa tội, Còn việc trừ tà long trọng, gọi là trừ tà “đại thể”, chỉ được thực hiện bởi một linh mục, với sự cho phép của Giám mục. Trong việc này, phải tiến hành cách khôn ngoan, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Hội thánh: Việc trừ tà nhằm trục xuất ma quỷ, hoặc giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền bính thiêng liêng Chúa Giêsu đã uỷ thác cho Hội thánh của Người. Trường hợp bệnh tật, nhất là các bệnh tâm thần thì khác hẳn, việc chữa trị các bệnh này là công việc của y khoa. Vì vậy, điều hết sức quan trọng là, trước khi cử hành nghi thức trừ tà, phải rất chắc chắn rằng đây là trường hợp quỷ ám chứ không phải là một bệnh tật nào đó” (số 1673).

Nên ghi nhận vài điểm:

– Đặc trưng của việc trừ tà Kitô giáo là nhân danh Chúa Kitô để xin cho một người được giải thoát khỏi ác thần.

– Có hai hình thức: a) đơn giản, được thực hành lúc cử hành bí tích rửa tội; b) long trọng do một linh mục được giáo quyền đề cử . Từ sự phân biệt này, gần đây người ta còn phân biệt giữa “lời cầu nguyện giải thoát khỏi ác thần” và “lời truyền trục xuất ma quỷ”.

– Việc trừ tà thuộc lãnh vực tôn giáo, khác với việc chữa bệnh tâm thần.

Sự phân biệt hai hình thức trừ tà có nhiều hệ luận thực hành về nhiều phương diện:

a) Việc trừ tà “long trọng” chỉ được thực hiện do một linh mục được đức giám mục phê chuẩn (chiếu theo điều 1172 của Bộ giáo luật), và giả thiết là nạn nhân bị “quỷ ám” (possessio diabolica). Công thức trừ tà mang tính “truyền lệnh” (exorcismus imprecativus).

b) Việc trừ tà “đơn giản” có thể được thực hịên bởi những người khác, và không giả thiết là nạn nhân bị “quỷ ám”. Công thức trừ tà mang tính “khẩn nài” (exorcismus deprecativus). Chúng ta có thể lấy một thí dụ trong nghi thức rửa tội cho nhi đồng:

Lạy Thiên Cúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian, để trục xuất quyền lực của các ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của nước Chúa, chúng con nài xin Chúa làm cho (những) em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong (các) em. Nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.

Ở đây chúng tôi muốn tìm hiểu việc trừ trà “long trọng”.

B. Lịch sử nghi thức trừ tà

Trong ba thế kỷ đầu của Kitô giáo, không có công thức và cách thức trừ tà chính xác, một phần có lẽ vào thời đó, đặc sủng trừ tà được ban cho nhiều tín hữu. Đến khi đặc sủng này giảm đi, Giáo hội mới nghĩ đến việc trao quyền năng cho một vài người đặc biệt. Chức vụ trừ tà (exorcista) cũng được thiết lập như một phẩm trật[22], tuy rằng việc trừ tà chỉ được uỷ thác cho vài linh mục đặc biệt.

Chứng tích đầu tiên về một thủ bản dành cho người trừ tà được thấy trong bộ sưu tập pháp luật Statuta Ecclesia latinae được gán cho thánh Césaire giám mục Arles thế kỷ VI.

Dần dần, bên cạnh những công thức chính thức của Hội thánh, nhiều tác phẩm của tư nhân cũng ra đời, với cao điểm hồi thế kỷ XVI-XVII. Trong số đó, những cuốn nổi tiếng là Malleus maleficarum (J. Sprengerus – H. Institoris, 1494), Flagellum daemonum (G. Menghi, 1580), Compendio dell’arte esorcistica (G. Menghi, 1580), Iugum ferreum Luciferi (D. Gomez, 1676), Manuale exorcistarum (1720), Gran dizionario infernale (F. Pique, 1871), Le livre secret des grands exorcismes et bénédictions (Paris 1950).

Sách Nghi thức phụng vụ chính thức được biên soạn sau công đồng Trentô và được phát hành năm 1614, dưới thời đức thánh cha Phaolô V. Ấn bản cuối cùng trong thế kỷ XX là Rituale Romanum ở thiên chót (Titulus XII, De exorcizandis obsessis a daemonio), gồm ba chương: 1/ Chương Một là phần quy tắc (Normae observandae circa exorcizandos a daemonio) trình bày những quy tắc và gợi ý về việc trừ tà,, sự thận trọng trong việc sử dụng, những gợi ý về sự phân định những người bị quỷ ám thực sự (chứ không phải chỉ là bệnh hoạn), về thời gian, nơi chốn, thể thức thi hành. 2/ Chương Hai là chính nghi thức trừ quỷ; cấu trúc này đã có từ cuối thế kỷ VIII (do ông Alcuinô du nhập). 3/ Chương Ba mới được thêm từ đức thánh cha Lêô XIII, về việc trừ tà trên các đồ vật bị quỷ ám.

C. Nghi thức trừ tà 1998

Nghi thức trừ tà là một trong những sách phụng vụ ra đời muộn nhất, hơn kém 35 năm sau khi ban hành Hiến chế về phụng vụ của công đồng Vaticanô II. Nghị định ban hành của Tổng trưởng Bộ Phụng vụ và Kỷ luật các bí tích đề ngày 22/11/ 1998 và cuốn sách được giới thiệu với báo chí ngày 28/1/1999, mang tựa đề De exorcismis et supplicationibus quibusdam. Đức Hồng y Jorge Medina Estevez cho biết là công việc duyệt lại nghi thức đã mất 10 năm, vừa để nghiên cứu vừa để tham khảo ý kiến các Hội đồng giám mục. Nên biết là trong khoảng thời gian này (năm 1985), Bộ Giáo lý đức tin đã ra một Huấn thị lưu ý về việc thận trọng đừng lẫn lộn giữa việc trừ quỷ và việc cầu nguyện cho các bệnh nhân[23]. Có lẽ văn kiện này đã du nhập một sự phân biệt trong nghi thức giữa việc trừ quỷ theo nghĩa chặt (exorcismus) và việc cầu nguyện xin giải thoát (supplicationes).

Cấu trúc của sách Nghi thức gồm bốn phần: trước hết là phần dẫn nhập; kế đó là hính phần nghi thức; phần thứ ba giới thiệu những bài đọc và kinh nguyện tuỳ nghi lựa chọn; sau cùng là phụ lục

(1) Phần Dẫn nhập gồm Nhập đề và những Chỉ dẫn tổng quảt

Nhập đề (prooemium) nhắc vắn tắt ba điểm. 1/ Sự hiện hữu của ma quỷ là một chân lý thuộc đức tin (trích từ sách Giáo lý Hội thánh Công giáo), tham chiếu về công đồng Latêranô IV (năm 1215), Kinh Lạy Cha. 2/ Đức tin không chỉ nói đến sự hiện hữu của ma quỷ mà còn nói đến việc chúng chống đối sứ mạng cứu độ của Đức Kitô. 3/ Hội thánh biết rằng Đức Kitô đã chiến thắng ma quỷ, nhưng cuộc chiến đấu với ma quỷ vẫn tiếp tục, bởi vì chúng vẫn gây nhiều tác hại trên thế giới (GS 22;37). Hội thánh cầu xin để các tín hữu được giải thoát khỏi quyền lực sự dữ.

Mục Chỉ dẫn tổng quát (proenotanda) đi sâu hơn vào những vấn đề thần học và mục vụ, qua 6 điểm chính:

1/ Sự chiến thắng của Đức Kitô và quyền năng của Hội thánh trên các ma quỷ (số 1-7). Công trình cứu độ của Đức Kitô là giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự dữ, trong đó bao hàm việc trừ tà; Người đã ban cho Hội thánh quyền năng tiếp tục sứ mạng ấy.

2/ Các cuộc trừ tà trong sứ mạng thánh hóa của Hội thánh (số 8-12).

3/ Tác viên và những điều kiện của trừ tà trọng thể (số 13-19)

Như đã nói, tác viên phải là một linh mục được giáo quyền chỉ định. Điều quan trọng hơn là khi nào xác định được là trường hợp quỷ ám. Số 16 nhắc lại vài dấu chỉ cổ điển (bởi vì đã được đề cập trong sách Rituale Romanum năm 1564): a) nói trôi chảy những ngôn ngữ lạ hoặc hiểu những ngôn ngữ ấy; b) biết rõ những sự kiện kín đáo hoặc xa xôi; c) biểu lộ sức mạnh vượt quá tuổi tác hoặc điều kiện thể lý; tuy nhiền đó chỉ là vài dấu chỉ (và không hẳn là của ma quỷ); d) ngoài ra cần lưu ý đến những dấu chỉ khác có tính luân lý hoặc tôn giáo, chẳng hạn như tỏ ra sự kinh tởm đối với Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, các thánh, Hội thánh, Lời Chúa, đồ vật thánh (các bí tích, ảnh tượng); tình trạng luân lý đạo đức của nạn nhân. Số 19 cũng nhắc nhở rằng nghi thức phụng vụ là một buổi cầu nguyện, cần diễn ra trong bầu khí đức tin, tránh sử dụng những phương tiện truyền thông mang tính trình diễn.

4/ Mô tả nghi thức (số 20-30). Chúng tôi sẽ trở lại dưới đây.

5/ Những thích nghi dành cho tác viên (số 31-36).

6/ Những thích nghi thuộc thẩm quyền của Hội đồng giám mục (số 37-38).

(2) Phần chính là nghi thức trừ tà trọng thể

Nghi thức bao gồm những lời kinh và những hành động cử chỉ (dấu thánh giá, đặt tay, thở hơi, rảy nước thánh, quỳ gối, đứng thẳng).

1/ Nghi thức mở đầu bằng việc rảy nước thánh, nhớ lại sự thanh tẩy đã lãnh nhận trong bí tích rửa tội.

2/ Kinh cầu các thánh. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh, xin Chúa thương xót người tín hữu đang bị ma quỷ hành hạ.

3/ Đọc một hay nhiều thánh vịnh để xin Thiên Chúa che chở và tán dương sự chiến thắng của Đức Kitô. Các thánh vịnh có thể đọc liên tục hoặc dưới hình thức đáp ca.

4/ Công bố Tin mừng, dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa Kitô, Đấng đến để gặp gỡ những nỗi đau khổ của con người. Đoạn Tin mừng được đề nghị là: Ga 1,1-14 (tuy cũng có thể thay thế bằng các đoạn khác: Mt 4, 1-11; Mc 16,15-18; Mc 1,21b-28; Lc 10,17-20; Lc 11,14-24).

5/ Tác viên đặt tay lên người tín hữu, để khẩn nài sức mạnh của Thánh Linh ngõ hầu ma qủy ra khỏi kẻ đã được trở nên đền thờ của Thiên Chúa nhờ bí tích Thánh Tẩy. Tác viên cũng có thể thở hơi trên mặt của người tín hữu. (Những cử chỉ này kèm theo những lời nguyện khẩn nài)

6/ Đọc kinh Tin kính, hoặc lặp lại những lời hứa lúc lãnh bí tích Thánh Tẩy. Đọc kinh Lạy Cha để xin “cứu thoát chúng con khỏi Kẻ ác”

7/ Linh mục trỏ cho người tín hữu cây thập giá của Chúa Kitô, nguồn mạch của mọi ơn phúc, và làm dấu thánh giá trên toàn thân để ám chỉ quyền năng của Người trên ma quỷ.

8/ Đọc công thức trừ quỷ dưới hai dạng thức: a) khẩn nài Thiên Chúa (invocativa); b) truyền khiến (imperativa) nhân danh Chúa Kitô buộc ma quỷ phải ra khỏi người tín hữu. Có thể dùng dạng khẩn nài mà không cần dạng truyền khiến; nhưng không thể chỉ dùng dạng truyền khiến mà không có dạng khẩn nài. Những công thức này có thể lặp lại trong cùng một buổi cử hành, hoặc nhiều lần cách nhau.

Sau đây là mẫu của một công thức khẩn nài: Lạy Cha là Đấng thánh, xin hãy lắng nghe lời kêu van của Hội thánh đang cầu nguyện: xin đừng để cho người con cái của Cha bị chiếm hữu bởi người cha của dối trá; xin đừng để người tôi tớ được máu đức Kitô cứu chuộc phải làm tôi tớ của ma quỷ; xin đừng để đền thờ của thần khí của Cha trở nên nơi trú của thần khí ô uế.

Công thức truyền khiến: Satan, thủ lãnh trần gian, ta truyền cho ngươi: hãy nhận biết quyền năng vô địch của đức Giêsu Kitô, kẻ đã khuất phục ngươi trên sa mạc, kẻ đã thắng ngươi trong vườn cây dầu, kể là tước khí giới của ngươi trên thập giá, kẻ đã mang những chiến công của ngươi vào vương quốc ánh sáng. Hãy ra khỏi người này, ra khỏi T. mà Chúa Cứu thế khi hạ sinh làm người đã nhận làm em và khi chết trên thập giá đã cứu chuộc bằng bửu huyết… Satan, hãy cút đi, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Hãy cút đi, vì đức tin và lời cầu của Hội thánh, Hãy trốn đi nhờ dấu thánh giá của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen

9/ Nghi thức kết thúc với một bài ca tạ ơn, lời nguyện và phép lành.

(3) Các bản văn tuỳ chọn

Các thánh vịnh (3; 10; 12; 21; 30; 34; 53; 67; 69; 90) với đáp ca và lời nguyện. Những đoạn Tin mừng (Ga 1,1-14; Mc 1,21b-28; Lc 11,14-22; Mt 4,1-11; Mc 16,15-18; Lc 10,17-20). Các công thức trừ tà.

(4) Phụ lục

1/ Những lời nguyện và trừ tà trong những hoàn cảnh đặc biệt.

Công thức trừ tà nói trên đây áp dụng cho những người bị quỷ ám. Trong phần phụ lục, sách Nghi thức thêm những công thức dành cho trường hợp những đồ vật bị quỷ nhập.

2/ Các kinh dành cho các tín hữu đọc riêng: các lời nguyện; những lời khẩn cầu Chúa Ba Ngôi; những lời khẩn cầu Chúa Kitô; những lời khẩn cầu Đức Mẹ; những lời khẩn cầu thánh Micae; các kinh cầu. Những kinh này các tín hữu đọc cho bản thân mình, chứ không đọc cho người khác.

III. NHỮNG VẤN ĐỀ PHỨC TẠP

Chúng tôi đã mô tả sơ lược nội dung của sách Nghi thức trừ tà. Nhiều vấn đề chắc chắn sẽ được đặt lên chung quanh vấn đề „quỷ ám“, vượt quá giới hạn của các sách phụng vụ. Chúng tôi chỉ nêu lên vài vấn đề cần được nghiên cứu thêm.

  1. Làm thế nào phân định hiện tượng quỷ ám?

Dựa theo kinh nghiệm cổ truyền, sách nghi thức đưa ra bốn dấu hiệu (Proenotanda số 16 nói trên đây)[24]. Tuy nhiên, các hiện tượng này có thể chỉ là bệnh tâm thần, hoặc do những tài năng phi thường. Việc hội ý với các nhà chuyên môn thật là cần thiết. Dĩ nhiên, „nhà chuyên môn“ được hiểu không những là các khoa học gia (đặc biệt là chuyên viên về y khoa và bệnh tâm thần) nhưng cũng cần có hiểu biết về lãnh vực tôn giáo (Praenotanda số 17). Sự xác định không đơn giản: khi nào là bệnh động kinh, khi nào là bị quỷ ám? Khi nào là khả năng „cận-tâm-lý-học“ (parapsychology) khi nào là sự can thiệp của ma quỷ? Nếu không chắc chắn là nạn nhân bị quỷ ám thì không sử dụng nghi thức „trừ tà trọng thể“ nhưng có thể dùng các công thức cầu nguyện xin giải thoát nói trong phụ lục.

  1. Nguyên nhân của hiện tượng quỷ ám

Việc quỷ ám nằm trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Như đã nói trên đây, ma quỷ không thể tự do tung hoành theo như ý muốn. Đôi khi một người sống trong ơn nghĩa với Chúa mà cũng bị quỷ ám, do một chương trình bí nhiệm nào đó của Thiên Chúa; nhưng phần lớn những trường hợp quỷ ám là vì đương sự đã có liên lạc gì đó với ma quỷ, chẳng hạn như tham dự vào những việc gọi hồn, đã ký kết hợp đồng với ma quỷ, đã sử dụng ma thuật để làm hại người khác.     

  1. Quỷ tìm người hay người tìm quỷ?

Tại Âu Mỹ ngày nay, xem ra số người đi nhà thờ ít đi, và từ đó kết luận rằng con người của thời đại công nghệ đã trở thành „tục hóa“, „duy vật“, chẳng tin Chúa cũng chẳng tin tưởng quỷ thần nào hết. Sự thực không phải như vậy. Các nhà khảo cứu xã hội học tôn giáo cho biết rằng sự giảm sút những người đi nhà thờ kèm theo sự tăng gia số những người tin theo bùa phép, ma thuật, bói toán, đó là chưa kể tục bùa ngải còn thịnh hành ở nhiều nơi. Những tục này được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo nhắc đến ở số 2117[25]. Hơn thế nữa, có người lại tôn thờ Satan. Đây là một hiện tượng đáng lo ngại, được đặt tên là Satanism. Dĩ nhiên, phàm ai phạm tội trọng thì ra như đã nộp mạng làm tôi sự dữ (thay vì làm tôi Thiên Chúa); tuy nhiên, theo một nghĩa chặt chẽ hơn, có những „tín ngưỡng“ được thành lập trong đó Satan được tôn thờ thay cho Thiên Chúa, và được đăng ký hẳn hoi. Nên biết là các phong trào này không thịnh hành ở những nơi dân trí thấp kém nhưng tại những quốc gia tiền tiến về kỹ thuật và khoa học.

Vài nhóm thờ satan điển hình:

– Ordo Templi Orientis, được thành lập bởi Theodor Reuss và Karl Kellner năm 1904. Các lãnh đạo kế tiếp: Aleister Crowley (1923-1947), Carl Germer (1947-1962), với nhiều chi phái

– The Church of Satan ở San Francisco, được thành lập bởi Anton Szandor LaVey (30/4/1966), tác giả các cuốn sách “The Satanic Bible” (New York 1969), “The Satanic Rituals” (New York 1972)

– The Temple of Set, được thành lập bởi Michael A. Aquino năm 1975, một nhóm ly khai khỏi Lavey.

– The Church of Satanic Liberation, thành lập tại Connecticut năm 1986 bởi Paul Dougls Valentine.

Thật khó xác định là Satan có thực sự hiện ra với các tín đồ như họ vẫn rêu rao, hay chỉ là ảo giác, hoặc bình phong để thực hiện các hành vi của bản năng thú tính của con người.[26]

KẾT LUẬN

Sau khi đã tìm hiểu nghi thức trừ tà được ban hành vào năm 1998, nhiều câu hỏi đã được đặt lên. Đã có bao nhiêu người sử dụng nghi thức này? Nghi thức ấy đã được sử dụng đúng mức hay chưa: có bao nhiều trường hợp thực sự là quỷ ám hay chỉ là tâm bệnh? Những câu hỏi này khó trả lời. Khi viết về ma quỷ, Clive Staples Lewis (1898-1963) nhận xét rằng cần phải tránh hai thái cực vừa sai lầm vừa tai hại: hoặc là phủ nhận sự hiện hữu của nó (nhóm duy vật), hoặc bí ám ảnh bởi quyền lực của hắn (ma thuật). Chúng ta tin có ma quỷ nhưng không tin vào ma quỷ đến nỗi làm nô lệ cho hắn (x. The Screwtape writer).

Dù sao, ngay cả đối với những người bị quỷ ám (và hành hạ), phương pháp trị lịêu của Giáo Hội không chỉ là dùng nghi thức trừ tà nhưng còn khuyến khích nhiều biện pháp mục khác, được Hội đồng giám mục Ý thêm vào ở phần giới thiệu sách Nghi thức như sau.

– Nhắc nhở các tín hữu đừng thích đi tìm những chuyện giật gân, cũng đừng nhẹ dạ vội tin vào sự hiện diện của ma quỷ khi gặp khó khăn. Đồng thời cũng tránh thái độ duy lý, loại trừ hoạt động của ma quỷ trên thế giới.

– Cảnh giác các tín hữu về việc theo dõi các sách báo, phim ảnh, khêu gợi tò mò vào các hiện tượng thiếu lành mạnh.

– Khuyến khích các tín hữu đừng bao giờ tin theo những người tự khoe là có tài ma thuật, hoặc có sức lực huyền bí, thông thương với thế giới bên kia.

– Giúp cho các tín hữu có sự hiểu biết đúng đắn về sư hiện diện và hoạt động của ma quỷ trong thế giới, dựa trên Thánh Kinh và Thánh truyền.

– Nhắc nhở, qua việc huấn giáo và giảng thuyết, rằng mê tín, ma thuật là điều trái nghịch với phẩm giá con người, và trái ngược với đức tin vào Thiên Chúa là Cha toàn năng và vào Chúa Giêsu Kitô.

– Đời sống Kitô hữu chân chính là tin tưởng phó thác cho tình yêu của Thiên Chúa là cha quan phòng (Lc 12,22-31), vâng theo ý Cha (Mt 6,10). Đời sống Kitô hữu dựa trên bí tích rửa tội, được nuôi dưỡng nhờ việc đọc Lời Chúa và tham dự Thánh Thể, được phục hồi nhờ bí tích Hoà giả, được nâng đỡ nhờ các bí tích khác và các á-bí-tích, để ca ngợi Thiên Chúa và kêu cầu Chúa che chở trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.

————————

Thư tịch

AA.VV. Angeli e demoni. II Dramma della storia tra il bene e il male. (Corso di Teologia sistematica 11), EDB, Bologna,1991.

Agnese Cini Tassinario, Il diavolo secondo l’insegnamento recente della Chiesa, Antonianum, Roma 1984.

Corrado Balducci, The Devil… alive and active in the world,  Alba House N.Y. 1990.

Manlio Sodi, Tra maleficio, patologie e possessione demoniaca. Teologia e pastorale dell’esorcismo, Edizioni Messaggero, Padova 2003.

José Antonio Fortea, Summa daemoniaca. Tratado de demonologia y manual de exorcistas, Ed. Dos Latidos, Zaragoza 2012.

Manfred Hauke, The Theological Battle over the Rite of Exorcism, “Cinderella” of the New Rituale Romanum, in: Antiphon 10.1 (2006), 32-69.

Những văn kiện của Bộ Giáo lý đức tin (bản văn bằng nhiều ngôn ngữ):

Foi chrétienne et démonologie (1975)
www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_19750626_fede-cristiana-demonologia_fr.html

Letter to Ordinaries regarding norms on Exorcism (1985)
www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_19850924_exorcism_it.html

Instruction on prayers for healing (2000)  
www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20001123_istruzione_it.html


Cước chú:

[1] Có ý kiến cho rằng cho rằng Satan chỉ là biểu tượng của sự dữ và tội lỗi nơi con người, biểu tượng của giới hạn của con người, điển hình là Herbert Haag, Abschied vom Teufel (Từ giã tên quỷ,1969), Teufelsglaube (Lòng tin vào ma quỷ, 1974), Vor dem Bösen ratlos (1978) bên Đức; và Henry Ansgar Kelly, The Devil, Demonology and Witchraft (1968) bên Hoa kỳ.

[2] Các tác giả không nhất trí về nguyên nghĩa của từ daimon, nhưng đều nhìn nhận rằng có sự tiến triển về ý nghĩa: a) có khi là một thần linh nào đó; b) có lúc lại hiểu về một sức lực huyền bí mà con người không hiểu nổi (chẳng hạn sự chết, số phận); c) có lúc hiểu về khí thiêng ở trong con người. Đừng quên rằng eudaimonia (hạnh phúc) ghép bởi hai từ eu (tốt) và daimon (tinh khí).

[3] Chúng ta biết là dân Do thái dễ bị cám dỗ chạy theo các ngẫu tượng (chẳng hạn baal ) và nhiều người tin vào đồng bóng, mặc dù bị cấm. Vua Saul là một thí dụ điển hình (1 Sm 28,7-20).

[4] Nên biết là tác giả Sách thánh cũng “giải huyền” các ma quỷ của dân ngoại, chẳng hạn như: Lilith (Is 34,14) chỉ là một con thú chứ không phải là ác quỷ; Asmodeus, kẻ thù của các đôi tân hôn (Tb 3,8.17), không đáng sợ. Tác giả sách Lêvi chế nhạo con quỷ Azazel (16,10.22).

[5] Xem ra bản dịch LXX nhận ra sự tiến triển này. Những bản văn cổ nhất dịch Satan là endiaballein (đặt ngăn trở, chướng ngại: Ds 22,22), diabole (chướng ngại: Ds 22,32); hay epiboulos (kẻ thử thách: 1 Sm 29,4; 2 Sm 19,23), hoặc chỉ chuyển âm là satan (1 V 11,14.23), nhưng không dịch là diabolos. Với các sách Giob, Dacaria và Tv 108, 6, thì mới dùng thuật ngữ ho diabolos . Sang sách Biên niên thì bỏ mạo từ. Cũng nên biết Lucifer là danh từ tiếng Latinh có nghĩa là “Sao mai” (Is 14,12), áp dụng cho vua Babylon (Is 14,12) và vua Tyrô (Ed 28,2).

[6] Có sự khác biệt trong trình thuật cám dỗ nơi ba tác giả Tin mừng nhất lãm: Mc không nói “ba” cơn cám dỗ; Mt theo thứ tự “bánh – đền thờ – thế gian”; còn ở Lk thì thứ tự là “bánh – thế gian- đền thờ”.

[7] “Thần khí ô uế” tự xưng là “Đạo binh” vì đông lắm.

[8] Beelzebul có lẽ gốc bởi tiếng Hipri ba ‘al (chúa) tên một vị thần Cana và tiếng accadico  zbl (thủ lãnh, dinh cơ). Như vậy Beelzebul có nghĩa là tướng chỉ huy, hay chủ nhà. Bản dịch latinh “beelzebub” (thần ruồi) ngụ ý chế nhạo.

[9] X. bản dịch của Nhóm Các Giờ kinh Phụng vụ: “Chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao.” (Ep 6,12).

[10] Satan được nhắc đến ở Kh 3,9: “hội đường của Satan”

[11] Tatianus, Oratio adversus Graecos 14; 16; 17; 19; Athenagoras, Legatio pro christianis 24,5; Ireneus, Adversus haereses III, 23,3.

[12] Các giáo phụ chống lại thuyết nhị nguyên, thịnh hành nơi các nhóm ngộ giáo; họ chủ trương có hai vương quyền: ánh sáng (Thiên Chúa) và tối tăm (Ác thần).

[13] SC 6: satanas; – LG (7 lần): 5 daemonia; 16 Malignus; 17 daemon; 35 mundi rectores tenebrarum harum, spiritualia nequitiae; 48 diabolus; 55 serpens; 63 serpens antiquus. – DH: 11 potestates Deo adversae.- AG (4 lần): 3 potestas tenebrarum ac satanae; 9 diabolus, daemon; 14 potestas tenebrarum; 14 nota 19: daemon, tenebrae.- GS (5 lần): 2 malignus; 13a malignus; 13b princeps huius mundi. 22 diabolus; 37 potestates tenebrarum.

[14] Điển hình là các tác phẩm của Herbert Haag được nhắc ở đầu bài. Satan được coi như là biểu tượng của sự dữ trên thế giới (Sự Dữ được nhân cách hoá, cũng tựa như Sự chết được nhân cách hóa thành Tử thần). Cũng nên biết là vào những năm sau công đồng, một luồng tư tưởng thêm một biểu tượng mới của sự dữ nơi  “tội xã hội”, hoặc “cơ cấu tội lỗi”.  Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo nhắc đến đề tài này ở số 1869. ĐGH Gioan Phaolô II giải thích trong tông huấn Reconciliatio et paenitentia  số 16, và thông điệp Sollicituo rei socialis  số 36.

[15]www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_19750626_fede-cristiana-demonologia_fr.html

[16] Đừng kể những sách cổ xưa, ngay trong những sách phụng vụ được duyệt lại sau công đồng cũng còn nhắc đến Satan, chẳng hạn như phụng vụ các bí tích khai tâm (lời từ bỏ Satan). Chúng tôi sẽ trở lại trong mục kế tiếp.

[17] Như đã nói trên đây, vào lúc đầu, nhiều giáo phụ, dựa trên sách Enoch, giải thích là tội dâm dục. Nhưng về sau thì chuyển sang tội kiêu ngạo. Kiêu ngạo như thế nào? Đây là đề tài tranh luận của thần học kinh viện: 1/ Lucifer thấy mình sáng láng, muốn trở nên ngang hàng với Thiên Chúa (T. Bênađô; Phêrô Lombarđô). 2/ Lucifer bắt các thiên thần khác với vâng phục mình (Honorius  Autun); vài thiên thần thấy Lucifer quá oai phong cho nên ngỡ rằng ông là Thiên Chúa (T. Albertô Cả, T. Bonaventura). 3/ Lucifer muốn Ngôi Lời kết hiệp với thiên thần thay vì xuống làm con người (Suarez). 4/ Ma quỷ muốn tự sức mình đạt hạnh phúc siêu nhiên chứ không dựa vào ơn thánh (T. Tôma, I q.63).

[18] Thánh Augustinô nói rằng nếu mà Satan được tự do tung hoành thì có lẽ trên thế gian này chẳng còn ai sống sót (Enarrationes in Psalmos, 96,12: PL 37,1246)

[19] Xc. Giới thiệu (Presentazione) bản dịch sách Nghi thức sang tiếng Ý, số 7.

[20] Tác phẩm biên soạn trước công đồng Vaticanô II, và tuy được tái bản nhiều lần sau công đồng nhưng  chưa được cập nhật với bản văn của những Nghi thức cải tổ. Bản dịch tiếng Anh:  C. VAGAGGINI, Theological Dimensions of the Liturgy, Liturgical Press, Collegeville 1976, (The liturgy and the struggle against Satan, p.364-451)

[21] Á bi tích (hay cũng có người dịch là “phụ bí tích”) là những dấu chỉ thánh thiêng do Hội thánh thiết lập với cấu trúc tương tự như các bí tích, để ám chỉ và khẩn nài những ơn ích thiêng liêng. Hiệu lực của các á bí tích không chỉ tuỳ thuộc vào tâm tình của người ban hoặc lãnh nhận, mà còn nhờ lời cầu nguyện của Hội thánh.

[22] Chức “trừ tà” được xếp vào bốn “chức nhỏ” (ordines minores), và bị bãi bỏ do Đức Phaolô VI với tự sắc Ministeria quaedam (15/8/1972).

[23] Congregatio pro Doctrina Fidei, Epistula ordinariis locorum missa: in mentem normae vigentes de exorcismi revocantur,” AAS 77 (1985) 1169-70.  Lá thư gửi các Bản quyền, đề ngày 29/9/1985, nhắc nhở các Đấng Bản quyền hãy tuân giữ những quy tắc của giáo luật về việc trừ tà theo nghĩa chặt, cũng như canh chừng những cuộc hội họp để cầu nguyện xin ơn giải thoát.

[24]  Có tác giả dựa theo Tân ước và truyền thống, còn liệt kê một danh sách các dấu chỉ dài hơn: 1/ Chống cự mọi ảnh hưởng của Thiên Chúa. 2/ Sức mạnh phi thường. 3/ Rối loạn của các cơ quan. 4/ Một người nào khác nói thay cho nạn nhân. 5/ Tự gây thương tích cho mình và mưu toan tự vẫn. 6/ Cung cách cư xử thô bạo, giận dữ. 7/ có tri thức khác thường. 8/ Những hiện tượng kỳ quặc sau khi ma quỷ đã bị trục xuất (la thét, nằm xoài ra đất). 9/ Kiệt lực tuy vẫn lành lặn, sau khi ma quỷ bị trục xuất. X. Willem Cornelis Van Dam, Dämonen und Besessene: Die Dämonen in Geschichte und Gegenwart und ihre Austreibung,  Pattloch, Aschaffenburg  1970, p.112-164.

[25] Sách Giáo lý nhắc đến ma thuật, pháp thuật, chiêu hồn. Tuy nhiên, đừng vội gán các thực hành này cho ma quỷ, bao lâu có thể giải thich được theo khoa học (Parapsychology).

[26] Il Satanismo. „Sette e Religioni“  n.5 (Gennaio-Marzo 1992)  James T. Richardson -Joel Best – David G. Bromley (ed.), The Satanism Scare, A. de Gruyter, Hawthorne N.Y. 1991. Arthur Lyons, Satan Wants you: The Cult of Devil Worship in America, The Mysterious Press, N.Y. 1988.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here