Lm. Anthony Đinh Minh Tiên, OP.
Bài đọc: Gr 17,5-8; 1Cr 15,12.16-20; Lc 6,17.20-26.
1/ Bài đọc I: 5 Đức Chúa phán như sau: Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời,
lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa!
6 Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ,
hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy,
trong vùng đất mặn không một bóng người.
7 Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân.
8 Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong,
mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi,
gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái.
2/ Bài đọc II: 12 Nhưng nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại?
16 Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì Đức Kitô cũng đã không trỗi dậy.
17 Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em.
18 Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong.
19 Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.
20 Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.
3/ Phúc Âm: 17 Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn
20 Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói:
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
21 “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười.
22 “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.
23 Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.
24 “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
25 “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.
26 “Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.
————————-
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: HÃY ĐẶT TRỌN VẸN NIỀM TIN NƠI THIÊN CHÚA !
Đa số con người ở mọi thời đều tin: “ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.” Đàng sau niềm tin này là niềm tin vào “ông Trời,” hay “Thượng Đế,” hay “Thiên Chúa;” vì phải có một Đấng uy quyền nhìn xem để bảo vệ người lành và trừng phạt kẻ ác. Mới đầu, niềm tin này chỉ giới hạn trong cuộc đời trên dương gian của mỗi người; nhưng khi thấy có những người ăn ở hiền hậu mà vẫn không gặp lành, hay những kẻ ăn ở thất nhân ác đức mà vẫn sống phây phây; niềm tin này lan rộng tới đời sau. Nếu ông trời có mắt, phải thưởng công cho những người ăn ở hiền lành và phải phạt kẻ ác ở đời sau.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, để được Ngài ghé mắt thương tới cả đời này và đời sau. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Jeremiah so sánh sự đau khổ của những kẻ tin tưởng nơi sức phàm nhân với hạnh phúc của những ai đặt niềm trông cậy nơi Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô phải giữ vững niềm tin vào sự sống lại của Đức Kitô và niềm tin mình cũng sẽ được sống lại với Ngài. Đây chính là lý do thúc đẩy con người thực hành những gì Đức Kitô dạy. Trong Phúc Âm, thánh Lucas tường thuật bài giảng của Đức Kitô nơi đồng bằng. Ngài chúc lành cho tất cả những ai nghèo khó, đói khát, khóc lóc, và bị đối xử bất công vì danh Thiên Chúa. Ngược lại, Ngài báo trước khốn cho những ai bây giờ đang giầu có, no đầy, vui cười, và được mọi người ca tụng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Ngài làm chỗ nương thân
1.1/ Kẻ tin ở sức con người: Mục đích của Jeremiah là nêu bật sự tương phản giữa niềm tin nơi sức con người với niềm tin nơi Thiên Chúa. Điều đầu tiên chúng ta cần lưu ý: để bị nguyền rủa, một người phải có cả ba yếu tố được liệt kê: tin ở người đời, lấy xác thịt mình làm sức mạnh, và lòng dạ xa rời Đức Chúa! Nếu một người tin cha mẹ, tự tin nơi mình, và tin tưởng Thiên Chúa, người đó sẽ không bị nguyền rủa. Jeremiah muốn nhấn mạnh con người phải đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa, hơn là chỉ tin tưởng nơi tài năng của mình, hay cậy dựa vào người đời cho dẫu họ có quyền thế đến đâu chăng nữa. Điều dễ hiểu là nếu con người không có đức tin nơi Thiên Chúa, họ sẽ dễ dàng rơi vào chán chường và tuyệt vọng khi phải đương đầu với bệnh tật, phản bội, hay cái chết; vì họ không còn biết trông cậy vào ai hay vào điều gì nữa.
1.2/ Người trông cậy nơi Thiên Chúa: Lịch sử của Cựu Ước là một chuỗi những bài học dẫn chứng những điều tốt lành xảy đến cho các tổ-phụ, nhà lãnh đạo, các vua, và các tiên tri, khi họ tuân hành giữ cẩn thận các điều Thiên Chúa truyền dạy. Chúng ta có thể nói lời sấm của ngôn sứ Jeremiah hôm nay là kết luận của những gì Thiên Chúa muốn in sâu vào tâm khảm của con người: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái.”
Nếu con người biết hoàn toàn trông cậy nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ tiếp tục chúc lành, bảo vệ, và ban mọi ơn lành. Lịch sử Cựu Ước cũng chứng minh: khi một con người hay cả dân tộc không tin tưởng nơi Thiên Chúa, chỉ tin vào sự khôn ngoan hay sức mạnh của mình, hay chỉ biết cậy dựa vào sức mạnh của quốc gia khác, họ sẽ phải lãnh nhận biết bao đau khổ, tủi nhục, và lưu đày.
2/ Bài đọc II: Niềm tin vào sự sống lại giúp con người thi hành những gì Thiên Chúa dạy
Truyền thống Do-thái cho tới năm 200 BC không có giải thích rõ rệt về sự sống lại, mặc dù có nhiều đoạn nói về chỗ nghỉ của kẻ chết nhất là những người được trở thành bạn hữu với Thiên Chúa. Niềm tin vào sự sống lại bắt đầu được đề cập tới trong Sách tiên tri Daniel và Sách Maccabees.
2.1/ Niềm tin căn bản là niềm tin vào sự sống lại: Có nhiều lý do đưa tới việc thánh Phaolô dạy dỗ về sự sống lại:
(1) Niềm tin của các triết gia Hy-lạp: Họ tin vào sự bất tử của linh hồn, vì linh hồn không cấu thành bởi vật chất, nên không bị tiêu tan. Họ cũng tin thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn, nên con người phải tìm mọi cách để giải thoát linh hồn khỏi thân xác. Đó là một trong những lý do mà họ nhạo cười Phaolô tại Areopagus, Athens, khi ông nói về sự sống lại của thân xác. Corintô cũng là một thành phố của Hy-lạp, chắc chắn đã có người phản đối Phaolô về sự giáo huấn thân xác sẽ sống lại.
(2) Kinh nghiệm của các chứng nhân: Thánh Phaolô có kinh nghiệm rõ rệt về sự phục sinh của Đức Kitô trên đường đi Damascus. Ngài tưởng một người tên Giêsu đã bị Thượng Hội Đồng kết tội và giết chết sẽ rơi vào quên lãng như bao người; nhưng không, Ngài vẫn sống và tỏ uy quyền cho Phaolô: “Ta là Người mà ngươi đang truy tố. Khốn cho ngươi nếu ngươi cứ giơ chân đạp mũi nhọn!” Chính cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời Phaolô: từ chỗ không tin có sự sống lại đến chỗ phải tin; từ chỗ bắt bớ đạo Chúa đến chỗ nhiệt thành rao giảng… Nếu một Người đã chết mà vẫn sống, mọi điều Người ấy nói đều có thực; nhất là những mặc khải về ý định của Thiên Chúa cho con người và về sự sống đời sau.
(3) Niềm tin của đa số con người: Rất nhiều người dù không tin nơi Thiên Chúa, nhưng vẫn tin: “ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão;” nhưng có những người ăn ở thất nhân ác đức mà vẫn sống phây phây ở đời này. Vì thế, nếu ông trời có mắt, phải thưởng công cho những người ăn ở hiền lành và phải phạt kẻ ác ở đời sau.
(4) Mục đích của biến cố Nhập Thể của Đức Kitô: là để tha tội lỗi cho con người và mang lại cho con người cuộc sống đời đời với Thiên Chúa.
2.2/ Niềm tin vào sự sống lại giúp chúng ta biết sống thế nào trong cuộc đời: Có hai niềm tin và hai cách sống tương xứng với hai niềm tin này.
(1) Người không tin có sự sống lại: Họ sẽ giản lược tất cả vào việc tìm cách hưởng thụ tối đa những gì mà thế gian dâng tặng, cho dẫu phải đối xử bất công với anh chị em đồng loại. Họ không lo bị ai phán xét, vì chết là hết. Họ sẽ không phí thời giờ học hỏi Lời Chúa hay thực hành những gì Thiên Chúa dạy.
(2) Người tin vào sự sống lại sẽ sống đời này với cặp mắt luôn hướng về đời sau. Họ sống đời này như cuộc đời tạm thời để tiến về cuộc sống mai sau vĩnh cửu với Đức Kitô. Thánh Phaolô không chấp nhận giải pháp tin vào Đức Kitô sẽ giúp ích cho người tín hữu chỉ ở đời này: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.” Nói cách khác, nếu không tin vào sự sống lại, chúng ta hãy hưởng thụ tối đa cuộc sống đời này, như những người vô thần. Lý do: nếu không, đời này chúng ta đã không được hưởng mà đời sau cũng chẳng có để hưởng.
3/ Phúc Âm: Bài giảng về Nước Thiên Chúa nơi đồng bằng
3.1/ Những điều khác biệt giữa Lucas và Matthew: Có ít nhất 3 điều khác biệt giữa hai thánh ký:
(1) Khác với Matthew trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5,1-12), trong đó Chúa Giêsu chỉ dạy dỗ các môn đệ; trình thuật của Lucas xảy ra ở một chỗ đất bằng và mở rộng cho dân chúng: “từ khắp miền Judah, Jerusalem cũng như từ miền duyên hải Tyre và Sidon.”
(2) Matthew tường thuật rõ ràng Bát Phúc; trong khi Lucas phân chia thành bốn mối phúc và bốn sự khốn.
(3) Matthew xử dụng ngôi thứ ba trong khi Lucas xử dụng ngôi thứ hai.
3.2/ Những mối phúc: Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.” Lucas dùng động từ ở thời hiện tại trong câu này, như có ý bảo khi con người sống nghèo khó, họ bắt đầu sở hữu Nước Thiên Chúa. Trong thực tế, khi con người sống trong hoàn cảnh nghèo nàn, họ dễ trông cậy vào Thiên Chúa hơn khi họ trở nên giàu có. Người giàu thường cậy vào của cải của mình.
Trong câu kế tiếp, Lucas dùng mệnh đề thứ nhất ở thời hiện tại và mệnh đề thư hai ở thời tương lai: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười.”
Lucas có ý muốn nói những gì xảy ra trong tương lai sẽ đảo ngược hoàn toàn những gì đang xảy ra trong hiện tại.
Câu kế tiếp Lucas dùng các động từ của mệnh đề thứ nhất ở thời điều kiện, và các động từ của mệnh đề thứ hai ở thời hiện tại: “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.” Lucas có ý muốn nói nếu những điều đó xảy ra, các tín hữu hãy vui mừng, vì Thiên Chúa sẽ đền bù xứng đáng những gì họ phải chịu thiệt hại ở đời này.
3.3/ Những sự khốn: Có lẽ câu truyện giúp chung ta dễ hiểu Bài Giảng của Chúa Giêsu trong Lucas là câu truyện của Lazarus và người giàu có (Lc 16,20-31). Trong mối khốn thứ nhất, Lucas cũng dùng động từ của mệnh đề thứ nhất ở thời hiện tại và của mệnh đề thứ hai ở thời hoàn hảo: “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.” Khi con người sống trong hoàn cảnh giàu có ở đời này, họ đã được hưởng phần an ủi rồi. Trong câu kế tiếp, cấu trúc động từ cũng tương xứng với cấu trúc bên trên: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.” Tổ phụ Abraham cũng nói lời tương tự với người nhà giàu: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta đừng đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào mình hay bất cứ ai ngoại trừ vào Thiên Chúa, chỉ có Ngài là người yêu thương và có uy quyền mang lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
– Niềm tin vào sự sống lại là sự khác biệt căn bản giữa những người tin tưởng vào Thiên Chúa và những người không tin tưởng nơi Ngài.
– Đức tin của chúng ta cần phải được tôi luyện và thử thách trong đau khổ; nhưng những thử thách này chỉ tạm thời. Nếu không có thử thách, chúng ta sẽ không có cơ hội chứng minh niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa.