Lm. Anthony Đinh Minh Tiên, OP.
Bài đọc: Gr 1,4-5. 17-19; 1Cr 12,31-13,13; Lk 4,21-30.
1/ Bài đọc I: 4 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: 5 “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” 17 Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn. 18 Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giuđa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. 19 Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.”
2/ Bài đọc II: 31 Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.
1 Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.
2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.
3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.
4 Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, 5 không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, 6 không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. 7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. 8 Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn.
9 Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. 10 Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. 11 Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. 12 Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi.
13 Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.
3/ Phúc Âm: 21 Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
23 Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphácnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” 24 Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình. 25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ítraen; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ítraen, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi.” 28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.
30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
—————————-
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: SỨ VỤ KHÓ KHĂN CỦA NGÔN SỨ
Con người nông nổi thích được khen tặng và những ai ca tụng họ; ngược lại, họ ghét những ai phê bình cho dù biết đó là sự thật. Ngôn sứ được kêu gọi để nói sự thật; vì thế, họ sẽ bị những con người nông nổi ghen ghét và truy tố.
Các Bài đọc hôm nay tập trung trong sứ vụ của ngôn sứ và những thách đố người ngôn sứ phải đương đầu với. Trong Bài đọc I, Thiên Chúa tuyển chọn ngôn sứ Jeremiah trước khi ông được tạo thành trong dạ mẹ, thánh hóa và trao sứ vụ trước khi ông lọt lòng mẹ. Ngài hứa sẽ bảo vệ và ban chiến thắng nếu ông trung thành với sứ vụ Ngài trao ban. Trong Bài đọc II, thánh Phaolô nêu bật một đức tính quan trọng ngôn sứ phải có là đức mến đối với Thiên Chúa và với tha nhân. Nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trở về quê quán Nazareth để rao giảng Tin Mừng. Ngài thách đố những người đồng hương phải thay đổi lối suy nghĩ và cách biểu tỏ niềm tin nơi Thiên Chúa. Hậu quả họ đã không thay đổi, lại còn tức giận toan tính xô Ngài xuống vực thẳm; nhưng Ngài can đảm bước qua giữa họ mà đi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi
1.1/ Mối liên hệ hai chiều giữa Thiên Chúa và ngôn sứ: Ngôn sứ là người “nói thay” hay là “miệng lưỡi” của Thiên Chúa; chứ không phải là người nói trước hay tiên báo những gì sẽ xảy ra, cho dù nhiều lần những gì ngôn sứ nói được ứng nghiệm trong tương lai. Trong trình thuật hôm nay, ngôn sứ Jeremiah nêu bật những gì liên quan đến ơn gọi làm ngôn sứ.
(1) Thiên Chúa tuyển chọn và trao sứ vụ cho ngôn sứ: Không ai có thể tình nguyện làm ngôn sứ, nhưng phải được Thiên Chúa tuyển chọn từ khi người đó chưa hình thành trong lòng mẹ: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.”
(2) Ngôn sứ phải can đảm nói những gì Thiên Chúa truyền: Ngôn sứ là phát ngôn viên chính thức của Thiên Chúa; vì thế, ông phải nói những gì Thiên Chúa truyền, chứ không phải những gì ông muốn nói hay thiên hạ thích nghe. Nếu vì bất cứ lý do gì ngôn sứ không nói những gì Thiên Chúa truyền, ông không còn là ngôn sứ của Thiên Chúa: “Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn.”
1.2/ Thiên Chúa ban ơn và bảo vệ ngôn sứ của Ngài: Thiên Chúa biết rõ những khó khăn ngôn sứ phải đương đầu với, Ngài hứa với ngôn sứ hai điều: (1) Ngài luôn bảo vệ họ khỏi mọi người hãm hại: “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Judah đến các thủ lãnh, các tư tế, và toàn dân trong xứ.” (2) Lời hứa chiến thắng: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì – sấm ngôn của Đức Chúa – có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” Nhiều khi Thiên Chúa để các ngôn sứ bị thiệt thân để làm chứng cho Ngài; dẫu vậy, Ngài sẽ cho ngôn sứ được sống lại vinh quang với Ngài sau cái chết ở đời này.
2/ Bài đọc II: Tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả: con đường đức mến
2.1/ Đức mến là động lực thúc đẩy mọi việc tốt lành: Thánh Phaolô biết con người luôn khát khao được trở nên trọn lành; vì thế, Ngài khuyên các tín hữu Corintô: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.” Con đường hoàn hảo nhất Ngài nói ở đây là con đường đức mến: mến Chúa và yêu người. Một người cần phải có nhân đức nền tảng này trước khi có tất cả những điều tốt lành khác. Theo Phaolô, đức mến là ân huệ của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải nhờ luyện tập mà có. Giống như các nhân đức đối thần, con người phải luyện tập để cho đức mến ngày càng phát triển và đạt tới mức hoàn hảo. Nếu không có nhân đức này, tất cả các ân huệ và các việc tốt lành khác sẽ không phát triển được, và sẽ từ từ biến mất. Thánh Têrêsa Hài Đồng cùng một tư tưởng với Phaolô: nếu không có đức mến, nhiệt thành truyền giáo sẽ tắt ngúm và mong ước tử đạo cũng không còn.
2.2/ Ngôn sứ không thể thiếu đức mến: Thánh Phaolô quả quyết: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.”
Điều này đúng trong phương diện kỹ thuật: Các chuyên gia không phải chỉ có kiến thức về phương diện chuyên môn; nhưng còn phải có lòng yêu thích lãnh vực đó; nếu không, họ dễ chán nản bỏ cuộc và không dám hy sinh mọi sự cho nghề nghiệp của mình.
Điều này càng đúng cho các ngôn sứ, họ phải có lòng yêu mến sự thật và mong muốn mang sự thật họ biết về Thiên Chúa cho tha nhân; để tha nhân cũng được giải thoát bởi sự thật. Đức mến là động lực thúc đẩy ngôn sứ thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Mến Chúa là yêu thương tha nhân; nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Ngôn sứ không thể nhìn thấy dân chúng lầm lạc xa Thiên Chúa. Họ không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ngôn sứ phải kiên nhẫn trong việc đưa tội nhân về cùng Thiên Chúa. Họ rao giảng Tin Mừng không vì lợi lộc thấp hèn, nhưng để đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, ngôn sứ có thể chịu đựng tất cả, miễn sao cho mọi người được hưởng ơn cứu độ.
2.3/ Đức mến tồn tại muôn đời: Theo Phaolô, đức mến cao trọng hơn cả, vì chỉ có đức mến vững bền mãi mãi. Phaolô lý luận: “Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi.”
Phaolô lý luận tương tự khi so sánh ba nhân đức đối thần: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” Khi con người được về chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, họ không cần đức tin vì được diện kiến Thiên Chúa mặt đối mặt, họ cũng không cần đức cậy, vì họ đang được hưởng những gì bấy lâu nay họ trông cậy; nhưng họ cần đức mến để tiếp tục yêu Thiên Chúa cách nồng nàn.
3/ Phúc Âm: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình
3.1/ Người ngôn sứ dám thách thức khán giả đương đầu với sự thật: Trình thuật hôm nay tường trình biến cố Chúa Giêsu về quê Nazareth để rao giảng Tin Mừng cho những đồng hương. Sau khi đã đọc Sách của ngôn-sứ Isaiah, Ngài bắt đầu giảng dạy và nói về sứ vụ ngôn sứ của Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Ngài thách đố khán giả đồng hương trực diện với ba điều quan trọng:
(1) Niềm tin chỉ đặt căn bản trên phép lạ là niềm tin không chắc chắn: Chúa Giêsu biết người Do-thái thích phép lạ. Họ đã nghe biết những phép lạ Ngài làm; và họ đang mong Ngài làm phép lạ như Ngài đã từng làm ở Capernaum. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ: tin Thiên Chúa thì quan trọng hơn tin những phép lạ Ngài làm. Phép lạ được làm là để khơi dậy niềm tin; nếu sau khi đã chứng kiến phép lạ mà vẫn không tin, phép lạ mất mục đích của nó. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên phép lạ sẽ không vững bền, và sẽ dễ dàng bị mất khi không thấy phép lạ nữa.
(2) Đừng có thái độ khinh thường những người mình đã quá quen thuộc: Chúa Giêsu nói với họ một sự thật: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” Tục ngữ Việt-nam cũng nói lên thói xấu này: “gần chùa gọi bụt bằng anh.” Người Do-thái đã quá quen thuộc với Thiên Chúa, nên họ đâm ra khinh thường và không biết nhận ra những hồng ân Ngài đổ xuống trên họ. Con người phải biết thân phận và giới hạn thụ tạo của mình khi đứng trước nhan Thiên Chúa.
(3) Nhiều Dân Ngoại biểu lộ đức tin vào Thiên Chúa mạnh mẽ hơn người Do-thái: Chúa Giêsu đưa ra hai trường hợp với mục đích nêu bật đức tin của Dân Ngoại: (1) “Vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon.” (2) “Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisha, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi.” Bà góa thành Zareptha và ông Naaman được giúp đỡ vì họ đã tin và thi hành những gì các ngôn sứ truyền cho họ phải làm. Người Do-thái đã biết quá nhiều về Thiên Chúa và uy quyền làm phép lạ của Ngài, lẽ ra họ phải biểu lộ đức tin cách chắc chắn hơn Dân Ngoại; nhưng thực tế nhiều lần cho thấy Dân Ngoại biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa cách chắc chắn hơn họ.
3.2/ Phản ứng của dân chúng: Trình thuật cho chúng ta thấy thái độ nông nổi và dễ dàng thay đổi của dân chúng. Khi mới nghe những gì Chúa Giêsu giảng dạy, “họ thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” Nhưng sự thật chưa đủ để thuyết phục họ đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, họ đang trông chờ Ngài làm phép lạ.
Sự thật mất lòng, họ tức giận khi bị Chúa Giêsu bắt phải đương đầu với sự thật: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.” Họ không thể chịu đựng nổi sự xỉ nhục khi nghe Chúa Giêsu so sánh họ với Dân Ngoại; vì họ vẫn tự mãn cho họ là Dân Chúa, là con cháu tổ-phụ Abraham, và xứng đáng được hưởng mọi đặc quyền của Ngài. Dân Ngoại sinh ra để làm nô lệ và không xứng đáng được hưởng ơn cứu độ. Nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát: con cái Thiên Chúa mà không tin Thiên Chúa hay ngôn sứ Ngài gởi tới, có xứng đáng làm con cái của Thiên Chúa không? Không những từ chối sự thật, họ còn muốn tiêu hủy Chúa Giêsu, nguồn gốc mọi sự thật và là Người đang nói sự thật cho họ. Giận quá mất khôn: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.”
Không một chút sợ hãi, “Người băng qua giữa họ mà đi.” Khốn thay cho những con người từ chối và tiêu hủy sự thật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tất cả chúng ta đều đã nhận lãnh chức vụ ngôn sứ khi chịu Phép Rửa Tội để rao giảng, sống, và làm chứng cho Tin Mừng.
– Khi thi hành sứ vụ ngôn sứ, chắc chắn chúng ta sẽ bị thế gian từ khước, truy tố, và ngay cả đe dọa đến tính mạng. Thiên Chúa, Đấng trao ban sứ vụ và thánh hóa ngôn sứ, sẽ tiếp tục ban ơn, bảo vệ, và hứa sẽ giúp ngôn sứ chiến thắng mọi nguy hiểm của thế gian.
– Đức bác ái là quà tặng Thiên Chúa ban cho các ngôn sứ. Sứ vụ rao giảng sẽ có ngày chấm dứt; nhưng đức bác ái sẽ tồn tại muôn đời.