Những Văn Kiện Đời Tu (Tập 1) – Các Liên Hệ Hỗ Tương Giữa Giám Mục Và Tu Sĩ Trong Giáo Hội

0
3108

PHẦN IV : BỘ TU SĨ

CÁC LIÊN HỆ HỖ TƯƠNG GIỮA
GIÁM MỤC VÀ TU SĨ TRONG GIÁO HỘI
(Mutuae relationes 14-5-1978)

 

Văn kiện này không phải là một huấn thị” (instruction) theo nghĩa pháp lý, nhưng chỉ đề ra những chỉ dẫn (directives) cho các giám mục và tu sĩ trong các mối liên hệ hỗ tương. Từ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II, các tu sĩ nam nữ ngày càng tham gia vào các công tác mục vụ tại giáo xứ hay giáo phận. Những khó khăn không thể nào tránh được. Một đàng các giám mục muốn các Dòng hoạt động trong giáo phận phải tuân theo một kế hoạch mục vụ chung cho toàn giáo phận, với nguy cơ là không đếm xỉa tới những đặc sủng khác biệt của các dòng tu. Đối lại, các dòng tu muốn bảo vệ đặc sủng của mình kể cả trong lãnh vực hoạt động tông đồ, với nguy cơ là không cần biết gì tới những kế hoạch mục vụ của Giáo Hội địa phương. Làm sao dung hoà được cả hai yêu sách vừa nói ? Văn kiện này muốn đưa ra những hướng dẫn về lý thuyết (phần I) cũng như về thực hành (phần II). Trong phần thứ nhất, chúng ta đọc thấy những tư tưởng thần học quan trọng, tựa như : Giáo Hội địa phương (18), sứ vụ của giám mục (6-7), sự thông hiệp Giáo Hội (2 ; 5), đặc sủng các Dòng tu (11-12 ; 51), sứ vụ của các bề trên (13). Phần thứ hai đưa ra những hướng dẫn trong ba phạm vi : huấn luyện, hoạt động, phối hợp.

Nhập đề kể lại nguồn gốc lai lịch của văn kiện, được thành hình sau hơn hai năm tham khảo, với sự đóng góp của Bộ Giám Mục và Bộ Tu Sĩ cũng như các Hội đồng giám mục và hiệp hội các bề trên.

Phần thứ nhất

– Vài yếu tố đạo lý

– Chương I : Giáo Hội với tư cách là dân mới” (1-4)

– Chương II : Thừa tác vụ của các giám mục trong sự hiệp thông hữu cơ của Giáo Hội (5-9)

– Chương III : Đời tu trì trong sự hiệp thông Giáo Hội (10-14)

– Chương IV : Các giám mục và các tu sĩ quan tâm tới sứ mệnh duy nhất của Dân Thiên Chúa (15-23)

Phần thứ hai

– Những chỉ dẫn và quy tắc (24-67)

– Chương V : Một vài thỉnh nguyện liên quan đến khía cạnh huấn luyện (24-35)

– Chương VI : Dấn thân và trách nhiệm trong lãnh vực hoạt động (36-51)

– Chương VII : Tầm quan trọng của một sự điều phối thích đáng (52-67)

– Kết luận

———————————-

NHẬP ĐỀ

I. Ngày nay, các liên hệ hỗ tương giữa các thành phần khác nhau trong Dân Thiên Chúa đã được quan tâm một cách đặc biệt. Quả vậy, vì giáo lý của Công Đồng về Giáo Hội và, đàng khác, vì những thay đổi liên tục về khía cạnh văn hoá, mà tình trạng hiện nay đã chín mùi, và do đó, phát sinh những vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Trong những vấn đề này, có một số cho thấy những kết quả tích cực, dù là tế nhị và phức tạp. Và chắc chắn, trong những vấn đề ấy, có vấn đề mối liên hệ hỗ tương giữa các Giám mục và các tu sĩ mà chúng ta phải quan tâm đặc biệt. Người ta không khỏi ngạc nhiên (và có lý để mà ngạc nhiên) khi thấy một sự kiện khá quan trọng và đáng được đào sâu. Đó là số nữ tu rải rác trên thế giới lên quá một triệu người, hoặc, nói cách khác, cứ 250 phụ nữ Công Giáo là có một nữ tu ; đằng khác, số nam tu sĩ trên dưới 270.000 trong số đó, số linh mục tu sĩ chiếm 35,6 % số linh mục trong Giáo Hội toàn cầu. Trong một vài nơi, số linh mục tu sĩ chiếm quá bán số trong linh mục đoàn, ví dụ : bên Phi Châu và ở một vài nơi bên Mỹ Châu La-tinh.

II. Mười năm sau khi công bố các sắc lệnh về Nhiệm vụ mục vụ của các Giám mục (Christus Dominus) và sắc lệnh Canh tân thích nghi Dòng tu (Perfectae Caritatis) ngày 28 tháng 10 năm 1965, Bộ các Giám mục và Bộ các Dòng tu và tu hội đời đã tổ chức một Đại hội phối hợp vào hai ngày 16-18 tháng 10 năm 1975. Các Hội đồng quốc gia Giám mục và Tu sĩ cũng như các Hiệp hội quốc tế các Bề trên Nam Nữ Thượng cấp đã được bàn hỏi và cộng tác.

Đây là những vấn đề mà Đại hội nói trên đã xem như là những đề tài chính :

a. Các giám mục mong đợi gì nơi các tu sĩ ?

b. Các tu sĩ mong đợi gì nơi các giám mục ?

c. Phải sử dụng những phương tiện nào để đạt tới một hoạt động có tổ chức và phong phú giữa giám mục và tu sĩ trên bình diện giáo phận cũng như trên bình diện quốc gia và quốc tế ?

Vả lại, sau khi đã định rõ các tiêu chuẩn tổng quát và đã thêm ít nhiều vào bản văn các đề nghị đệ trình lên các nghị phụ, đại hội quyết định sẽ dự thảo một văn kiện để vạch rõ các đường hướng mục vụ.

Văn kiện ấy, cũng được soạn thảo với sự đóng góp của Bộ các Giáo Hội Đông Phương và Bộ loan báo Tin Mừng cho các dân tộc, chính là văn kiện công bố dưới đây.

III. Đề tài nghiên cứu nằm trong những giới hạn được định rõ, là khảo sát mối liên hệ hỗ tương giữa giám mục và tu sĩ thuộc mọi nghi lễ và mọi lãnh thổ”, nhằm trước hết là làm sao cho sự thực hiện được dễ dàng. Mối tương quan phải có giữa các đấng bản quyền, các dòng tu và các tu đoàn có đời sống chung là đối tượng của các cuộc thảo luận trực tiếp ; trái lại, các tu hội đời không được nói đến một cách minh nhiên, trừ khi có liên hệ đến những nguyên tắc tổng quát về đời sống tận hiến (DT 11) và sự chen vai đóng góp của các tu hội ấy trong các Giáo Hội địa phương (GM 33).

Bản văn gồm hai phần : phần thứ nhất nói về đạo lý, phần thứ hai nói về quy tắc. Mục đích của bản văn là vạch ra một đường hướng, hầu các nguyên tắc của Công Đồng Va-ti-ca-nô II về canh tân được áp dụng một cách tốt đẹp hơn và hữu hiệu hơn luôn mãi.

PHẦN THỨ NHẤT
MỘT VÀI YẾU TỐ ĐẠO LÝ

Trước khi đưa ra những quy tắc mục vụ liên quan đến vài vấn đề do những tương quan giữa các Giám mục và các tu sĩ nêu lên, xem ra cần phải trình bày một tổng hợp đạo lý vắn tắt, đặt những nguyên tắc làm nền tảng cho các mối tương quan đó. Mặc dầu vắn tắt, việc trình bày những nguyên tắc đó giả thiết phải triển khai rộng rãi đạo lý của các văn kiện Công Đồng.

CHƯƠNG I : GIÁO HỘI VỚI TƯ CÁCH LÀ DÂN MỚI”

Không phải theo xác thịt mà là trong Thần Khí (GH 9)

1. Công Đồng đã làm nổi bật bản tính thiết yếu riêng biệt của Giáo Hội, khi trình bày Giáo Hội như Mầu nhiệm (x. GH chương I). Quả thật, từ ngày lễ Ngũ Tuần (x. GH 4), trong trần gian có một Dân mới” ; được Thánh Thần ban cho sức sống, Dân đó được quy tụ trong Đức Ki-tô để đến cùng Chúa Cha (x. Ep 2,18). Các phần tử của Dân đó được kêu gọi từ khắp mọi dân nước và hoà lẫn với nhau trong một sự duy nhất thâm sâu (x. GH 9) đến mức những bằng chứng bình thường mang tính chất xã hội không thể cắt nghĩa được, bởi vì trong sự duy nhất đó có một thực thể thực sự mới mẻ vượt quá phạm vi nhân loại. Vậy, chỉ với nhãn giới siêu việt đó mới có thể giải thích đúng đắn những liên lạc hỗ tương giữa các phần tử trong Giáo Hội với nhau. Yếu tố làm nền tảng cho tính độc đáo theo kiểu đó, là chính sự hiện diện của Thánh Thần. Quả thật, chỉ có Người mới là sự sống và sức mạnh của Dân Thiên Chúa, là mối dây liên kết khiến cho các phần tử trong Dân đó được hiệp thông với nhau ; Người là Đấng làm cho sứ mạng của Dân đó được thêm mạnh mẽ, là nguồn mạch phát sinh nhiều ân huệ, là dây liên kết tạo nên sự duy nhất kỳ diệu trong Dân Thiên Chúa, là ánh sáng và vẻ đẹp của sức sáng tạo, là ngọn lửa tình yêu của Dân Thiên Chúa (x. GH 4, 7, 8, 12, 18, 21). Quả thật, cuộc hồi sinh về mặt thiêng liêng và mục vụ trong những năm cuối cùng này cho thấy một giai đoạn đặc biệt (x. LB 75) giúp cho Giáo Hội, Hiền Thê của Đức Ki-tô, đang hướng về Ngày của Chúa (x. Kh 22,17), có một bộ mặt trẻ trung, nhờ sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa. Vài sự lạm dụng, ngay cả những sự lạm dụng đáng chúng ta lo ngại, xuất hiện đây đó, cũng không gây ra bóng tối cản trở sự hiện diện đó.

Một thân thể duy nhất” trong đó mọi người đều là bộ phận lẫn cho nhau” (Rm 12,5; x. 1 Cr 12,13)

2. Trong mầu nhiệm Giáo Hội, sự duy nhất trong Đức Ki-tô bao hàm sự hiệp thông hỗ tương trong đời sống giữa các thành phần. Quả thế, Thiên Chúa đã không muốn thánh hoá và cứu độ con người cách riêng rẽ, ở ngoài mọi liên hệ hỗ tương, nhưng đã muốn cho họ hợp thành một dân tộc” (GH 9). Sự hiện diện của Thánh Thần (x. GH 7) là Đấng ban sự sống thực hiện trong Đức Ki-tô sự đoàn kết giữa các thành phần với nhau. Chính Người làm cho Giáo Hội được duy nhất trong sự hiệp thông và trong công cuộc phục vụ ; Người trang bị cho Giáo Hội và điều khiển Giáo Hội nhờ những ân huệ theo phẩm chức và đặc sủng, Người dùng các hoa quả của Người mà trang điểm cho Giáo Hội” (GH 4 ; x. Ep 4,11-12 ; 1 Cr 12,4 ; Gl 5,22).

Vì thế, những yếu tố làm cho các phần tử trong Giáo Hội khác biệt nhau, những ân huệ, nghĩa là những chức vụ và việc làm khác nhau, hợp thành một thứ tổng hợp thu gồm những điểm bổ túc cho nhau ; những yếu tố và những ân huệ đó thực sự quy hướng về sự hiệp thông duy nhất và về sứ mạng của cũng một “Thân Thể” (x. GH 7 ; TĐ 3). Trong Giáo Hội, các mục tử, giáo dân hoặc tu sĩ có thể chung sống với nhau, mà không có tình trạng bất bình đẳng về phẩm giá chung của các phần tử (x. GH 32) ; nhưng đúng hơn, những chỗ nối và các chức năng của một cơ thể sống động ăn khớp với nhau.

Được kêu mời làm thành một bí tích hữu hình”

3. Tính cách mới mẻ của Dân Thiên Chúa, theo hai khía cạnh liên kết chặt chẽ với nhau: thực thể xã hội hữu hình và thực thể thiêng liêng vô hình, tương tự như chính mầu nhiệm Đức Ki-tô. Quả thật, như bản tính do Ngôi Lời đảm nhận phục vụ cho Người trong tư thế một bộ phận sống động liên quan đến ơn cứu độ, chặt chẽ phối hiệp với Người, toàn thực thể xã hội là Giáo Hội cũng phục vụ cho Thần Khí của Đức Ki-tô, Thần Khí ban cho Giáo Hội sự sống để làm cho thân thể được phát triển” (GH 8 ; Ep 4,16). Vì thế, hai yếu tố được liên kết chặt chẽ với nhau mang lại cho Giáo Hội bản tính bí tích riêng biệt, nhờ đó Giáo Hội vượt hẳn những giới hạn do bởi nhãn giới thuần tuý xã hội đặt ra. Vì thế, Công Đồng đã có thể quả quyết là Dân Thiên Chúa ở trong thế giới như bí tích hữu hình diễn tả cho mọi người biết sự duy nhất về mặt cứu độ” (GH 9 ; x. GH 1 ; 8 ; 48 ; MV 42 ; TG 1 ; 5).

Những chuyển biến xã hội hiện nay và những đổi thay trong lãnh vực văn hoá mà chúng ta đang chứng kiến, không thể làm thay đổi ngay cả trong mức độ tối thiểu cơ cấu riêng biệt của Giáo Hội là bí tích cứu độ phổ quát, ngay cả khi những biến chuyển đó khơi dậy trong Giáo Hội yêu sách đòi phải đổi mới một vài khía cạnh con người. Trái lại, chính những biến chuyển đó là điều cần được khuyến khích cũng sẽ giúp làm nổi bật hơn bản tính của Giáo Hội.

Được dành riêng để làm chứng cho Tin Mừng và loan báo Tin Mừng.

4. Mọi thành phần trong Giáo Hội, mục tử, giáo dân và tu sĩ, đều tham dự theo cách riêng biệt vào bản tính bí tích của Giáo Hội ; cũng thế, mỗi thành phần, tuỳ theo sứ mạng của mình, phải là dấu chỉ và dụng cụ phục vụ sự kết hợp với Thiên Chúa, và ơn cứu độ trần gian. Quả thật, đối với mọi người, ơn gọi mang hai khía cạnh :

a. Ơn gọi nên thánh : Trong Giáo Hội, tất cả mọi người, cho dầu thuộc về hàng giáo phẩm hoặc được hàng giáo phẩm hướng dẫn, đều được kêu gọi nên thánh” (GH 39).

b. Ơn gọi làm tông đồ : Toàn thể Giáo Hội được Thánh Thần thúc đẩy cộng tác để hoàn tất trọn vẹn ý định của Thiên Chúa” (GH 17 ; x. TĐ 2 ; TG 1, 3, 2, 4, 5).

Vì thế, trước khi xem xét những ân huệ, sứ vụ và nhiệm vụ khác nhau, cần phải công nhận ơn gọi nền tảng là được kêu gọi sống kết hợp với Thiên Chúa để cho thế gian được cứu độ. Ơn gọi này đòi hỏi mọi người phải lấy vị trí siêu việt của đời sống trong Thần Khí làm tiêu chuẩn cho việc tham dự vào sự hiệp thông trong Giáo Hội. Đời sống trong Thần Khí này phải là nền tảng cho thái độ lắng nghe Lời Chúa, sự cầu nguyện trong nội tâm, ý thức sống với tư cách là chi thể của toàn thân, thái độ ân cần lo cho sự hiệp nhất, việc trung thành chu toàn sứ mạng riêng, thái độ hiến thân phục vụ và lòng khiêm nhường thống hối.

Từ ơn gọi chung tham dự vào đời sống trong Thần Khí do bởi bí tích Thánh Tẩy, phát xuất những yêu sách hướng dẫn và những ảnh hưởng hữu hiệu trên những mối liên lạc hỗ tương giữa các Giám mục và tu sĩ.

CHƯƠNG II : THỪA TÁC VỤ CỦA CÁC GIÁM MỤC
TRONG SỰ HIỆP THÔNG HỮU CƠ CỦA GIÁO HỘI

Sự hiệp thông riêng biệt của Dân Thiên Chúa và tính siêu việt của sự hiệp thông ấy

5. Sự hiệp thông giữa các phần tử trong Giáo Hội là hoa quả của Thánh Thần đến nỗi sự hiệp thông này giả thiết trước đó phải có sự nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô bao hàm lịch sử và mầu nhiệm vượt qua của Người. Quả thật, Thánh Thần là Thần Khí của Chúa : Đức Giê-su Ki-tô, được tôn dương bên hữu Thiên Chúa (Cv 2,33), đã đổ tràn trên các môn đệ Thần Khí do Chúa Cha hứa ban” (GH 5). Vậy nếu Thần Khí là như hồn của Thân Thể (x. GH 7), thì Đức Ki-tô là Đầu của Thân Thể đó (GH 7) ; sự liên kết chặt chẽ giữa các phần tử phát xuất từ hai Đấng (1 Cr 12-13 ; Cl 2,19). Cho nên, không thể có thái độ ngoan ngoãn thật sự đối với Thần Khí, nếu không có sự trung thành đối với Chúa Ki-tô là Đấng cử Người đến ; thật vậy, nhờ Đức Ki-tô toàn thân xe kết với nhau nhờ các gân cốt giao liên nối kết, mà lớn mạnh trưởng thành theo ý Thiên Chúa” (Cl 2,19).

Vì thế, sự hiệp thông giữa các thành phần trong Giáo Hội không hoàn toàn thiêng liêng, nghĩa là chỉ do Thánh Thần tạo nên và tự bản tính có trước những chức năng trong Giáo Hội do sự hiệp thông đó gây nên ; nhưng sự hiệp thông đó mang tính cách phẩm trật, bởi vì phát xuất từ Đức Ki-tô là Thủ Lãnh do một sức thúc đẩy mãnh liệt. Chính những ân huệ do Thần Khí ban là những gì Đức Ki-tô muốn. Và tự bản tính, những ân huệ đó hướng về công cuộc xây dựng Thân Thể để mang lại sức sống cho các chức năng và hoạt động. Đức Ki-tô là Đầu của Thân Thể, Người là Khởi Nguyên, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu” (GH 7 ; Cl 1,15-18). Như thế, sự hiệp thông giữa các thành phần trong Giáo Hội, dưới khía cạnh thiêng liêng cũng như dưới khía cạnh phẩm trật, bắt nguồn và lấy sức mạnh từ Đức Ki-tô cũng như từ Thần Khí của Người. Vậy, thánh Phao-lô tông đồ có lý khi nhiều lần cho thấy các công thức trong Đức Ki-tô trong Thần Khí liên kết chặt chẽ với nhau và quy về một hướng (Ep 2,21-22 ; và đây đó trong các thư).

Với tính cách là Đầu, Đức Ki-tô hiện diện trong thừa tác vụ của Giám mục

6. Chính Chúa Giê-su đã thiết lập nhiều thừa tác vụ khác nhau trong Giáo Hội của Người, nhằm sinh ích cho toàn Thân Thể” (GH 18) ; trong các thừa tác vụ ấy, thừa tác vụ Giám mục là nền tảng của tất cả các thừa tác vụ khác. Vì thế mà, hiệp thông phẩm trật với Đức giáo hoàng, các Giám mục làm thành Giám mục đoàn, đồng nói lên và thực thi trong Giáo Hội bí tích chức vụ của Đầu là Đức Ki-tô : Quả thế, trong bản thân của Giám mục được các Linh mục giúp đỡ, chính Đức Giê-su Ki-tô Thượng Tế hiện diện giữa anh em tín hữu… (các Giám mục), một cách tối hảo và hữu hình, thay mặt Đức Ki-tô là Thầy, là Mục Tử và là Thượng Tế, và hành động nhân danh Người” (GH 21 ; x. 27 ; 28 ; LM 1 ; GM 2). Trong Giáo Hội, không có ai thực thi chức năng hữu cơ cốt yếu đưa đến sự phong phú (x. GH 18, 19), sự hiệp nhất (x. GH 23), có quyền bính thiêng liêng (x. GH 22) và có ảnh hưởng trên tất cả các sinh hoạt của Giáo Hội cho bằng Giám mục. Quả vậy, dầu trong Dân Thiên Chúa, nhiều nhiệm vụ và sáng kiến được ban phát và phân chia một cách khác nhau, nhưng chính Đức giáo hoàng và các Giám mục mới có thừa tác vụ phân định và điều hoà (x. GH 21), do đó mà có được nhiều ân sủng đặc biệt của Thánh Thần và đặc sủng phân phát nhiều chức vụ khác nhau đúng theo sự chỉ dạy của Thánh Thần duy nhất, là Đấng ban sự sống (x. GH 12 ; 24 ; v.v…).

Thừa tác vụ của các Giám mục không thể phân chia

7. Với sự cộng tác của các Linh mục, Giám mục chu toàn đối với cộng đoàn tín hữu ba việc phục vụ là giảng dạy, thánh hoá và quản trị (x. GH 25-27 ; GM 12-20 ; LM 4-6). Vả lại, đây không phải là ba thừa tác vụ bởi vì, trong Luật Mới (nghĩa là trong Tân Ước), Đức Ki-tô phối hợp ba chức năng làm Thầy, Tư tế, Mục tử lại với nhau thành một thừa tác vụ duy nhất mà thôi, xét về nguồn gốc. Vì thế, khi thi hành những chức năng khác nhau ấy, vị Giám mục chỉ thực thi thừa tác vụ duy nhất một cách bất khả phân.

Vậy nếu đôi khi hoàn cảnh buộc phải làm nổi bật một trong ba khía cạnh của thừa tác vụ, thì cũng đừng bao giờ phân tách hoặc coi thường hai khía cạnh kia, kẻo làm tổn thương đến toàn thể thừa tác vụ vốn phải được nguyên vẹn. Vì thế, vị Giám mục chẳng những quản trị, thánh hoá, giảng dạy, nhưng, với sự giúp đỡ của Linh mục, ngài còn phải chăn dắt đoàn chiên mình bằng cách giảng dạy, thánh hoá và quản trị, như là một việc làm duy nhất và bất khả phân. Và cũng vì thừa tác vụ của mình mà vị Giám mục còn đặc biệt chịu trách nhiệm làm cho tất cả tín hữu tăng tiến về sự thánh thiện, vì ngài là người phân phát chủ yếu các mầu nhiệm của Thiên Chúa và là người làm cho đoàn chiên được trọn lành” tuỳ theo ơn gọi của mỗi người (x. GM 15) và, do đó, đặc biệt là ơn gọi của các tu sĩ.

Vai trò của Hàng Giáo Phẩm đối với đời sống tu trì

8. Nếu suy nghĩ kỹ về những chức vụ và bổn phận của Đức giáo hoàng và các Giám mục liên quan đến đời sống thực tiễn của các tu sĩ, chúng ta sẽ khám phá một cách rõ ràng và cụ thể điều này, là đời tu có chiều kích Giáo Hội, nghĩa là đời sống tu trì có liên hệ rõ ràng với đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội (x. GH 44). Quả vậy, qua tác động của Hàng Giáo Phẩm, Thiên Chúa hiến thánh các tu sĩ để phục vụ Dân Thiên Chúa ở một mức độ cao hơn (x. GH 44) ; cũng vậy, qua thừa tác vụ của các mục tử của mình, Giáo Hội chẳng những phê chuẩn việc khấn dòng để đưa đời sống tu trì lên bậc sống do Giáo luật quy định ; nhưng, qua việc cử hành phụng vụ, Giáo hội còn trình bày việc khấn dòng như một bậc sống được cung hiến cho Thiên Chúa” (GH 45 ; x. PV 80). Vả lại, với tính cách là thành phần của Giám mục đoàn, các Giám mục, hợp một lòng một ý cùng Đức giáo hoàng, cùng nhau thực thi một số trọng trách : Các ngài dùng lề luật mà hướng dẫn một cách khôn ngoan việc thực hành những lời khuyên Phúc Âm (GH 45). Các ngài chính thức phê chuẩn những luật Dòng được đề nghị (GH 45) và, như thế, các ngài thừa nhận và giao phó cho các Tu hội sứ mệnh riêng biệt của họ, khuyến khích họ dấn thân thành lập các giáo đoàn mới (TG 18 ; 27) hoặc, tuỳ hoàn cảnh, giao phó cho họ những phần việc và những uỷ nhiệm đặc biệt. Các ngài lo sao cho các Tu hội phát triển và sinh hoa trái theo tinh thần của Đấng sáng lập bằng cách lấy quyền bính của mình mà săn sóc, bênh vực và nâng đỡ” (GH 45). Sau hết, các ngài quy định việc miễn trừ, theo đó một số Tu hội không tuỳ thuộc thẩm quyền của các bản quyền sở tại vì ích lợi chung” (GH 45) cho toàn thể Giáo Hội, và để lo lắng nhiều hơn cho việc sống đời tu trì được tăng thêm và trọn lành” (GM 35).

Một vài kết luận

9. Những nhận xét vắn tắt trên, liên quan đến sự hiệp thông phẩm trật trong Giáo Hội, soi sáng rất nhiều những mối tương quan phải giữ giữa các Giám mục và tu sĩ.

a. Đầu của Thân Thể Giáo Hội là Đức Ki-tô. Người là Mục Tử muôn đời, đã tuyển chọn thánh Phê-rô và các Tông Đồ cùng với các đấng kế vị của các ngài, nghĩa là Đức giáo hoàng và các Giám mục ; Người dùng bí tích mà đặt các ngài làm đại diện của mình (x. GH 18 ; 22 ; 27), ban cho các ngài những đặc sủng thích hợp ; không ai có quyền thi hành các chức năng hoặc giáo huấn, hoặc thánh hoá, hoặc quản trị, nếu không thông phần và hiệp thông với các ngài.

b. Thánh Thần là linh hồn của Thân Thể Giáo Hội. Không một thành phần nào trong Dân Thiên Chúa, dầu có thừa tác vụ gì đi nữa, được thu gọn vào bản thân của mình các ân huệ, chức vụ và bổn phận một cách trọn vẹn, nhưng họ cần phải hiệp thông cùng kẻ khác. Trong Dân Thiên Chúa, các ân huệ hoặc chức vụ, tuy khác nhau, nhưng đều có cùng một mục đích và bổ túc cho nhau qua sự hiệp thông duy nhất và một sứ mệnh duy nhất.

c. Các Giám mục, hợp ý hợp lòng cùng Đức giáo hoàng, lãnh nhận từ Đức Ki-tô là Đầu, trách nhiệm (x. GH 21) phân định các ân huệ và khả năng, điều phối nhiều năng lực và hướng dẫn toàn thể Dân Thiên Chúa, để Dân Thiên Chúa sống trong thế gian nên dấu chứng và dụng cụ đem ơn cứu độ. Vì thế, cũng chính các ngài có phận sự chăm nom những đặc sủng của đời sống tu trì. Hơn nữa, vì lẽ thừa tác vụ mục vụ bất khả phân, nên các ngài lại càng có trách nhiệm về sự trọn lành của toàn thể đoàn chiên. Như vậy, khi các Giám mục cổ võ hoặc bênh vực đời sống tu trì đúng theo đặc tính riêng biệt của đời sống ấy, các ngài cũng chu toàn một bổn phận mục vụ đích thực.

d. Ước gì các Giám mục nhớ lại lời thánh Tông Đồ căn dặn, là : Đừng dùng quyền mà thống trị các kẻ Thiên Chúa giao phó, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1 Pr 5,3) ; các ngài hãy ý thức rằng sống trong Thánh Thần là ưu tiên hàng đầu và vì thế, các ngài phải vừa là người hướng dẫn vừa là thành phần, thực sự là người cha, nhưng cũng là người anh em ; là thầy dạy đức tin, mà nhất là cùng làm môn đệ trước mặt Đức Ki-tô ; là thầy dạy đường trọn lành cho tín hữu, nhưng cũng là chứng nhân về sự thánh hoá bản thân của mình.

CHƯƠNG III : ĐỜI SỐNG TU TRÌ
TRONG SỰ HIỆP THÔNG VỚI GIÁO HỘI

Tính chất Giáo Hội của các dòng tu

10. Hàng tu sĩ không phải là một bậc giữa bậc giáo sĩ và bậc giáo dân”, nhưng phát xuất từ bậc giáo sĩ cũng như từ bậc giáo dân, như một ân huệ đặc biệt” ban cho Giáo Hội (x. GH 43).

Đời sống tu trì hệ tại việc theo Đức Ki-tô, bằng cách công khai tuyên khấn những lời khuyên Phúc Âm, khiết tịnh, nghèo khó, vâng lời, và cam kết tránh xa những gì có thể làm cho đức bác ái không được sốt sắng và việc thờ phượng Thiên Chúa không được trọn hảo. Quả vậy, người tu sĩ tận hiến cho Thiên Chúa, là Đấng họ yêu mến trên hết mọi sự, để chăm lo việc phụng sự Thiên Chúa, làm vinh danh Người với một danh nghĩa mới mẻ và đặc biệt” ; sự tận hiến ấy liên kết họ với Giáo Hội và với mầu nhiệm của Giáo Hội một cách đặc biệt”, thúc đẩy họ hành động với lòng tận tuỵ không chia sẻ để phục vụ lợi ích của toàn Thân Thể (x. GH 44).

Do đó, đời sống tu trì là một cách thức đặc biệt để thông phần vào bản chất bí tích của Dân Thiên Chúa. Quả vậy, sự thánh hiến của những người khấn dòng tiên vàn phải đưa đến việc làm chứng cho thế giới thấy rõ mầu nhiệm khôn lường của Đức Ki-tô, bằng cách phản chiếu Đức Ki-tô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau ốm tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em, ban ơn lành cho mọi người, và trong mọi sự luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến” (x. GH 46).

Về đặc tính riêng của mỗi Tu hội

11. Trong Giáo Hội, các Tu hội thì nhiều và khác nhau tuỳ theo đặc tính riêng của mỗi Tu hội (DT 7, 8, 9, 10) nhưng mỗi Tu hội, qua sự cộng tác của những vị nam nữ lỗi lạc”, đã đem lại một ơn gọi đặc biệt, như một ân huệ do Thánh Thần khơi dậy (x. GH 45 ; DT 1, 2) và được hàng giáo phẩm chính thức công nhận.

Đoàn sủng của các Đấng sáng lập” (CT 11) được tỏ hiện như một kinh nghiệm về Thánh Thần, được truyền lại cho các môn đệ của mình để các môn đệ sống, giữ, đào sâu và không ngừng phát triển đồng nhịp với Thân Thể của Đức Ki-tô đang lớn lên mãi mãi. Vì thế, Giáo Hội chăm sóc và nâng đỡ đặc tính riêng của các Tu hội khác nhau” (GH 44 ; x. GM 33 ; 35,1 ; 35,2 ; v.v…). Đặc tính riêng này còn gồm kiểu thánh hoá và hoạt động tông đồ riêng biệt, tạo nên một truyền thống nhất định, đến độ có thể phân tích được những yếu tố khách quan của kiểu thức ấy.

Trong một thời kỳ mà văn hoá phát triển và Giáo Hội canh tân, mỗi Tu hội cần phải giữ hết sức kỹ căn tính của mình, hầu khỏi rơi vào một tình trạng không xác định rõ ràng, khiến người tu sĩ tham gia vào đời sống Giáo Hội một cách mơ hồ và lưỡng nghĩa mà không để đủ ý đến đặc tính riêng biệt của mình.

Một vài thuộc tính của một đoàn sủng” đích thực

12. Mọi đoàn sủng đích thực đều mang đến một số điều mới mẻ thực sự cho đời sống thiêng liêng của Giáo Hội, và một số sáng kiến trong hành động. Sự việc ấy đôi khi gây ra cảm giác khó chịu và cũng gây nên những khó khăn, vì không phải lúc nào cũng có thể nhận ra ngay tác động của Thánh Thần.

Đặc tính đoàn sủng riêng của mỗi Tu hội đòi hỏi Đấng sáng lập cũng như các môn đệ phải luôn luôn kiểm chứng xem mình có trung thành với Chúa, có vâng nghe Thánh Thần của Người, có sáng suốt quan tâm đến hoàn cảnh và đến thời điểm, có muốn đi vào lòng Giáo Hội, có sẵn sàng tùng phục hàng giáo phẩm, có gan dạ trong những sáng kiến, có kiên trì trong việc hiến dâng, có khiêm nhường để chịu đựng những nghịch cảnh không. Mối tương quan giữa đoàn sủng đích thực, viễn ảnh mới mẻ và đau khổ nội tâm là điều thường thấy trong lịch sử : đoàn sủng và thập giá gắn liền với nhau. Có nhiều lý do khác để biện minh cho những hiểu lầm ; nhưng thập giá vô cùng hữu ích để phân định đâu là một ơn gọi đích thực.

Chắc chắn mỗi tu sĩ đều được những ân huệ riêng, cũng do Thánh Thần ban cho, để làm cho đời sống của Tu hội được phong phú, phát triển và trẻ trung, trong cộng đoàn hiệp nhất, và ưu tư đến việc canh tân. Tuy nhiên, sự phân định các ân huệ ấy và việc thực thi đúng mức các ân huệ ấy được đánh giá cao hay thấp là tuỳ theo người có thẩm quyền phán đoán những sự việc ấy có ăn khớp với kế hoạch chung của Tu hội và với nhu cầu của Giáo Hội hay không.

Việc phục vụ riêng của quyền bính trong đời tu

13. Các bề trên chu toàn bổn phận phục vụ và hướng dẫn Tu hội đúng theo đặc tính riêng của Tu hội. Quyền bính của các ngài phát xuất từ Thánh Thần của Chúa, liên kết với hàng giáo phẩm đã thiết lập Tu hội theo giáo luật và chính thức phê chuẩn sứ mệnh riêng của Tu hội.

Do đó, vì tư cách ngôn sứ, tư tế và vương giả” là tư cách chung của toàn thể Dân Thiên Chúa (x. GH 9 ; 10 ; 34 ; 35 ; 36), thiết tưởng nên chỉ định lãnh vực của quyền bính dòng tu; so sánh quyền bính ấy với ba chức năng của tác vụ mục vụ, là giảng dạy, thánh hoá và quản trị, miễn là đừng vì thế mà lẫn lộn hoặc cho hai quyền bính ngang nhau.

a. Về nhiệm vụ giảng dạy, các bề trên dòng có thẩm quyền và quyền bính của bậc thầy thiêng liêng theo dự phóng Tin Mừng mà Tu hội vạch ra ; trong phạm vi ấy, các ngài thi hành việc hướng dẫn thiêng liêng (linh hướng) trên toàn thể tu hội và trên từng cộng đoàn, và hành sử chức năng hợp với huấn quyền đích thực của Giáo Hội, ý thức mình chu toàn một sứ mệnh đòi hỏi mình phải chịu trách nhiệm nặng nề trong phạm vi của kế hoạch Tin Mừng mà đấng sáng lập ước muốn thực hiện.

b. Còn về nhiệm vụ thánh hoá, các bề trên có thẩm quyền đặc biệt và có trách nhiệm kiện toàn đời sống bác ái theo dự phóng của Tu hội, bằng nhiều cách khác nhau : hoặc bằng cách huấn luyện sơ khởi, rồi liên tục, cho anh chị em mình, hoặc bằng cách lo lắng cho cộng đoàn cũng như cá nhân luôn luôn thực thi các lời khuyên Phúc Âm theo Luật Tu hội. Nếu phận sự đó được chu toàn hết lương tâm, thì được Đức thánh cha và các Giám mục coi đó như là một sự giúp đỡ quý báu trong công việc chu toàn chức vụ căn bản của các ngài là thánh hoá.

d. Còn về nhiệm vụ quản trị, các bề trên phải tổ chức đời sống của cộng đoàn mình, phân chia công tác cho các thành phần, quan tâm đến sứ mệnh riêng biệt của Tu hội mình, phát triển sứ mệnh ấy và ra sức đưa sứ mệnh ấy một cách hữu hiệu vào các sinh hoạt của Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Giám mục.

Vậy các Tu hội có một tổ chức nội bộ (x. GM 35,3) ; tổ chức này có một phạm vi thẩm quyền riêng, có quyền tự trị thực sự, cho dầu trong Giáo Hội, tự trị như thế không bao giờ có thể trở thành độc lập (x. GM 35,3 và 4). Cấp độ tự trị và thực hành cụ thể đã được nói đến trong Giáo luật và trong Luật hoặc Hiến pháp của mỗi Tu hội.

Một vài kết luận định hướng

14. Từ những suy tư về đời sống tu trì vừa nói trên, chúng ta có thể rút ra một vài chỉ dẫn sau đây :

a. Các tu sĩ và các cộng đoàn của họ được mời gọi nêu lên trong Giáo Hội một bằng chứng hữu hình về việc họ tận hiến cho Thiên Chúa ; đó là sự lựa chọn một cách cơ bản cho lối sống Ki-tô hữu của họ và là việc cam kết đứng hàng đầu cần được diễn đạt ra lối sống theo hình thức riêng. Quả thế, dù đặc tính riêng biệt của Tu hội có thế nào đi nữa, thì các tu sĩ tận hiến là để công khai làm chứng trong Giáo Hội – bí tích là : Không có tinh thần tám mối phúc thật, thì không tài nào biến đổi và hiến dâng thế gian này cho Thiên Chúa được” (GH 31).

b. Tu hội nào ra đời cũng là để phục vụ Giáo Hội, để dùng những đặc tính riêng biệt của mình, và tuỳ theo tinh thần cũng như sứ mệnh đặc thù của mình mà làm cho Giáo Hội được phong phú. Bởi đó, người tu sĩ phải ngày càng ý thức về Giáo Hội, sẵn sàng hoạt động để xây dựng Thân Thể Đức Ki-tô, kiên trì trung thành với Luật Tu hội, và vâng lời các bề trên của mình (x. DT 14 ; GM 35,2).

c. Bề trên các tu sĩ có phận sự trọng yếu và trách nhiệm trước tiên là phải ân cần lo cho các anh chị em của Tu hội mình trung thành với đoàn sủng Đấng sáng lập đã đề ra, hưởng ứng việc canh tân do Công Đồng quy định và hoàn cảnh đòi hỏi. Vì thế các ngài phải ra sức định hướng một cách hữu hiệu cho anh chị em trong Tu hội, và không ngừng khuyến khích họ đi trên con đường ấy. Vì thế, các ngài phải quan niệm rằng phận sự ưu tiên của mình là lo cho người tu sĩ được huấn luyện một cách đúng đắn và được canh tân (DT 2 ; 14 ; 18).

Sau hết, vì ý thức rằng bản chất của đời sống tu trì đòi hỏi sự tham gia đặc biệt của các phần tử, các bề trên phải khuyến khích sự tham gia, vì nếu các thành phần của Tu hội không cộng tác, thì không thể canh tân hữu hiệu và cập nhật đúng mức được (DT 4).

CHƯƠNG IV : CÁC GIÁM MỤC VÀ CÁC TU SĨ
QUAN TÂM TỚI SỨ MỆNH DUY NHẤT
CỦA DÂN THIÊN CHÚA

Sứ mạng của Giáo Hội phát xuất từ nguồn mạch của tình yêu (TG 2)

15. Dân Thiên Chúa có một sứ mạng duy nhất, sứ mạng này có thể được coi một cách nào đó là trọng tâm của tất cả mầu nhiệm Giáo Hội. Thật vậy, Cha đã hiến thánh Con và đã sai Con xuống thế gian” (Ga 10,36) để làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người (x. TG 3) ; ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Ki-tô đã từ nơi Cha, sai Thần Khí để thực hiện công cuộc cứu độ và thúc đẩy Giáo Hội bành trướng thêm (TG 4). Như thế, trong suốt tiến trình lịch sử của mình, Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo” (TG 2 ; x. GH 17) trong Đức Ki-tô và nhờ sức mạnh của Thần Khí. Tất cả, hoặc chủ chăn, hoặc giáo dân, hoặc tu sĩ, mỗi người theo ơn gọi riêng, đều được mời gọi dấn thân làm việc tông đồ, bắt nguồn từ lòng yêu mến của Cha ; Chúa Thánh Thần sẽ nuôi dưỡng việc dấn thân đó, Chúa Thánh Thần tựa như linh hồn, làm sống động những tổ chức của Giáo Hội và đổ vào lòng các tín hữu cũng một nhiệt tình truyền giáo đã thúc đẩy chính Đức Giê-su” (TG 4). Do đó, sứ mạng của Dân Thiên Chúa không bao giờ chỉ là một sinh hoạt bên ngoài, bởi vì công cuộc dấn thân làm việc tông đồ không bao giờ được giản lược vào việc thăng tiến con người, dù đó là một việc có giá trị, vì mỗi sáng kiến mục vụ và truyền giáo, đều căn bản dựa trên sự thông phần vào mầu nhiệm Giáo Hội. Thật vậy, do tự bản chất, sứ mạng của Giáo Hội không thể là gì khác sứ mạng của chính Đức Ki-tô được tiếp tục trong lịch sử thế giới ; vậy sứ mạng đó chủ yếu là thông phần vào sự vâng lời của Đấng đã tự hiến mình cho Chúa Cha để thế gian được sống (Dt 5,8).

Kết hiệp với Thiên Chúa là tuyệt đối cần thiết

16. Sứ mạng bắt nguồn tự Chúa Cha, đòi hỏi tất cả những ai được sai đi, phải kiện toàn đức ái của họ trong sự đối thoại với Thiên Chúa bằng cầu nguyện. Vì vậy trong thời kỳ canh tân tông đồ này, cũng như trong mọi việc dấn thân truyền giáo, phải dành một chỗ đặc biệt cho việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa, suy gẫm kế hoạch cứu độ của Người và suy nghĩ về các dấu chỉ thời đại dưới ánh sáng Tin Mừng, để cho lời cầu nguyện được nuôi dưỡng và lớn lên về phẩm chất cũng như về nhịp độ.

Nhu cầu rất khẩn trương đối với mọi người là phải quý trọng cầu nguyện và phải năng cầu nguyện. Các Giám mục và các linh mục cộng tác với các ngài (x. GH 25 ; 27 ; 28 ; 41) phải kiên trì trong việc cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa” (Cv 6) những người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1 Cr 4,1) phải làm sao cho tất cả những kẻ mà mình có nhiệm vụ chăm sóc, được đồng tâm nhất trí trong cầu nguyện và, nhờ lĩnh nhận các bí tích, lớn lên trong ơn thánh và trở nên những nhân chứng trung tín của Chúa” (GM 15). Các tu sĩ với tư cách là những kẻ được gọi để trở nên một cách nào đó những chuyên viên về cầu nguyện” (Phao-lô VI, 28-10-1966) phải tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự ; trong mọi hoàn cảnh, phải cố gắng sống đời sống ẩn dật cùng với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa (Cl 3,3), phát sinh và lan toả lòng yêu mến tha nhân (DT 6).

Ngày nay, nhờ Chúa quan phòng an bài, nhiều tín hữu thích hội lại thành nhóm nhỏ để nghe đọc Tin Mừng, suy gẫm sâu xa và tập chiêm niệm. Vậy để cho sứ mạng được hữu hiệu, cần phải làm sao cho tất cả mọi người, nhất là các chủ chăn, lo cầu nguyện, các Tu hội cũng vậy, phải giữ được trọn vẹn hình thức dâng hiến của họ cho Thiên Chúa, hoặc bằng cách khuyến khích vai trò trổi vượt” của các cộng đoàn chiêm niệm trong lãnh vực này (x. DT 7 ; TG 18) hoặc bằng cách lo cho các tu sĩ hoạt động tông đồ biết nuôi dưỡng sự kết hợp mật thiết của họ với Đức Ki-tô và làm chứng cho mọi người thấy điều đó (x. DT 8).

Các hình thức dấn thân tông đồ

17. Các hoàn cảnh văn hoá trong đó phải hoạt động tông đồ thật là khác nhau, cho nên mặc dầu duy nhất, sứ mạng đó cũng có những khác biệt không do bản tính thâm sâu của sứ mạng nhưng chỉ do những hoàn cảnh trong đó sứ mạng được thực thi ! Những hoàn cảnh đó hoặc tuỳ thuộc vào Giáo Hội hoặc tuỳ thuộc vào các dân tộc, các nhóm hay các người mà sứ mạng nhằm tới” (TG 6). Các sự khác biệt có thật đó, tuy là bất tất, cũng ảnh hưởng một cách thấy được không những tới việc thi hành tác vụ mục vụ của các Giám mục và linh mục, mà còn tới cung cách sống của các tu sĩ và tới công việc của họ, đòi hỏi những thích nghi đôi khi khó khăn, nhất là đối với những Tu hội có một tầm hoạt động tông đồ quốc tế.

Vì vậy trong các liên lạc giữa các Giám mục và các tu sĩ, phải cẩn thận lưu ý không những tới sự khác biệt trong các chức năng (x. TĐ 2) và đặc sủng (x. GH 2) mà cũng phải quan tâm tới những khác biệt cụ thể trong khung cảnh của các quốc gia.

Ảnh hưởng hỗ tương giữa những giá trị phổ quát và những giá trị cá biệt

18. Yêu cầu phải tham gia vào mầu nhiệm Giáo Hội trong môi trường riêng của mỗi vùng làm nẩy sinh vấn đề ảnh hưởng hỗ tương giữa những giá trị có tính cách phổ quát và những giá trị có tính cách cá biệt trong Dân Thiên Chúa.

Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã bàn không những về Giáo Hội phổ quát mà còn bàn về những Giáo Hội riêng và địa phương, được trình bày như một trong những khía cạnh đổi mới của đời sống Giáo Hội (x. GH 13 ; 23 ; 26 ; GM 3 ; 11 ; 15 ; TG 22 ; DT 20). Một tiến trình tản quyền nào đó có thể có một ý nghĩa tích cực, và chắc chắn phải ảnh hưởng tới các tương quan giữa các Giám mục và các tu sĩ (x. LB 61-64). Mỗi Giáo Hội địa phương được thêm phong phú nhờ những nhân tố có giá trị, đặc thù của tinh hoa và bản tính mỗi quốc gia. Những yếu tố như vậy không hẳn là những dấu vết của chia rẽ, của óc địa phương hay óc quốc gia ; song chúng biểu lộ sự đa dạng trong cùng một duy nhất tính, và sự sung mãn trong nhập thể, nhờ đó mà toàn Thân Thể Đức Ki-tô nên phong phú (x. HN 14-17). Thật vậy, Giáo Hội phổ quát không phải là một tổng số, cũng không phải là một liên bang các Giáo Hội địa phương (x. LB 62), nhưng Giáo Hội phổ quát là sự hiện diện toàn thể và tăng cường của bí tích duy nhất phổ quát của ơn cứu độ (x. LB 54). Tuy nhiên, tính cách duy nhất đa dạng như vậy có những đòi hỏi khác biệt và cụ thể đối với các Giám mục và tu sĩ trong việc chu toàn nghĩa vụ :

a. Các Giám mục và các linh mục là những cộng tác viên của các ngài, là những người đầu tiên phải chịu trách nhiệm về việc thẩm định đúng đắn các giá trị văn hoá của môi trường sống của Giáo Hội các ngài, và chịu trách nhiệm về viễn tượng phổ quát xuất phát từ vai trò truyền giáo của những người kế vị các tông đồ, là những kẻ đã được sai đi khắp thế gian (x. GM 6 ; GH 20 ; 23 ; 24 ; TG 5 ; 38).

b. Về phía mình, các tu sĩ, dù thuộc Tu hội thuộc quyền giáo hoàng, phải cảm thấy mình thực sự là thành phần của gia đình giáo phận” (x. GM 34) và đảm nhận nhiệm vụ thích nghi cần thiết. Họ cũng phải khuyến khích các ơn gọi địa phương, vừa cho hàng giáo sĩ triều, vừa cho đời tận hiến. Đàng khác, họ phải huấn luyện những người muốn gia nhập Tu hội, sao cho họ thực sự sống theo văn hoá đích thực của địa phương, và đồng thời họ phải quan tâm đừng để một tu sĩ nào đánh mất nhiệt tình truyền giáo mà ơn gọi tu trì phải có, cũng như quên tính cách duy nhất và nét đặc thù của mỗi Tu hội.

Nghĩa vụ truyền giáo và óc sáng kiến

19. Do đó rõ ràng các Giám mục và tu sĩ có nghĩa vụ truyền giáo, một nghĩa vụ đi đôi với chính tác vụ và đặc sủng của họ. Nghĩa vụ này mỗi ngày một trở nên khẩn trương, trong khi các điều kiện văn hoá hiện nay biến chuyển theo hai trào lưu chính : chủ nghĩa duy vật đang xâm nhập vào quần chúng ngay cả trong những vùng đạo truyền thống, và sự phát triển các phương tiện truyền thông quốc tế làm cho các dân tộc, thậm chí không theo Ki-tô giáo, dễ tiếp xúc với nhau. Đàng khác các thay đổi sâu xa về hoàn cảnh, sự gia tăng các giá trị nhân bản cùng những nhu cầu đa dạng của thế giới hiện tại (x. MV 43-44) thúc đẩy, ngày một mạnh hơn, việc canh tân nhiều sinh hoạt mục vụ truyền thống và tìm kiếm những hình thức hiện diện tông đồ mới. Tình trạng trên buộc phải có một sự quan tâm mục vụ nào đó, để có những thử nghiệm mới trong Giáo Hội, khéo léo và can đảm, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Đấng tự bản tính là Đấng sáng tạo. Bản tính đặc sủng của đời tu hoàn toàn phù hợp với một sinh hoạt có nhiều sáng kiến và hiện thực (x. số 12). Đức giáo hoàng Phao-lô VI đã có lý để khẳng định Nhờ sự dâng hiến tu trì, họ (các tu sĩ) thật sự tự do và tự nguyện bỏ mọi sự, đi rao giảng Tin Mừng cho tới tận cùng trái đất. Họ hăng hái hoạt động và việc tông đồ của họ thường mang một tính cách độc đáo, bộc lộ một thiên tài khiến người ta phải cảm phục” (LB 69).

Sự phối hợp trong sinh hoạt mục vụ

20. Giáo Hội không được thiết lập để thành một tổ chức các sinh hoạt” nhưng đúng hơn để thành Thân Thể sống động của Đức Ki-tô, ngõ hầu có thể làm chứng”. Tuy nhiên trong cụ thể, Giáo Hội buộc phải tổ chức và phối hợp các thừa tác vụ và việc phục vụ đa dạng, để quy chúng về một hành động mục vụ thống nhất, nhằm cụ thể hoá các sự lựa chọn phải làm và các dấn thân tông đồ phải coi là ưu tiên (x. GM 11 ; 30 ; 35,5 ; TG 22 ; 29). Thật vậy, lúc này, ở các cấp khác nhau của sinh hoạt Giáo Hội, rất nên lập chương trình nghiên cứu và thực hiện, nhằm chu toàn tốt hơn sứ mạng truyền giảng Phúc Âm cho thích hợp hơn với các hoàn cảnh khác nhau.

Để thực hiện việc phối hợp đáng mong ước này, có ba trung tâm chính : Toà thánh, Giáo phận (x. GM 11) và Hội đồng Giám mục (x. GM 38). Theo yêu cầu của các Giáo Hội và đòi hỏi các miền có thể lập ra những cơ cấu hợp tác khác bên cạnh các trung tâm trên.

Sự hợp tác giữa các tu sĩ

21. Trong khung cảnh đời tu, Toà thánh đã thiết lập, ở cấp địa phương cũng như ở cấp hoàn cầu, những Hội đồng các bề trên thượng cấp và bề trên (x. DT 23) ; dĩ nhiên những hội đồng này khác các Hội đồng Giám mục về bản chất cũng như quyền hành. Thực vậy, mục đích đầu tiên của các Hội đồng là cổ võ cho đời tu tham gia vào sứ mệnh của Giáo Hội, và hoạt động của các Hội đồng này là đề xuất các việc phục vụ chung : những sáng kiến nhằm gây tình huynh đệ, những đề xuất hợp tác, dĩ nhiên vẫn tôn trọng đặc tính riêng của mỗi Tu hội. Hiển nhiên một hoạt động như vậy sẽ góp phần giúp đỡ một cách đáng kể sự phối hiệp mục vụ, cách riêng nếu các quy chế làm việc được duyệt xét thích đáng theo định kỳ và nhất là nếu có những liên lạc giữa các Hội đồng giám mục và các Hội đồng bề trên thượng cấp, phù hợp với những chỉ thị của Toà Thánh.

Ý nghĩa mục vụ của đặc tính miễn trừ

22. Để mưu cầu ích lợi cho Giáo Hội (x. GH 45 ; GM 35,3), Đức giáo hoàng ban cho một số Tu hội quyền được miễn trừ, để các Tu hội có thể biểu lộ cách dễ dàng hơn chân tính riêng của mình, và phục vụ công ích với một lòng quảng đại lớn hơn và trong một phạm vi rộng hơn (x. số 8).

Thực ra, tự nó, đặc tính miễn trừ không gây một trở ngại nào đối với việc phối hiệp mục vụ lẫn các tương quan tốt giữa các thành phần Dân Thiên Chúa. Thật thế, nó đặc biệt liên hệ tới tổ chức nội bộ của các tu hội để mọi sự được sắp đặt một cách có trật tự và hài hoà hơn, và sự tiến bộ cũng như sự trọn lành đời sống tu dòng được bảo đảm hơn. Nó cũng khiến cho Đức giáo hoàng có thể điều động các tu sĩ theo ích lợi chung của toàn thể Giáo Hội và để cho một thẩm quyền khác có thể sắp đặt theo ích lợi của các Giáo Hội thuộc quyền” (GM 35,3 ; x. GM 35,4 ; ES 1,25-40 ; LB 69).

Các Tu hội được miễn trừ trung thành với bộ mặt riêng và chức năng riêng của mình” (x. DT 2b) phải trau dồi trước hết một sự tuân phục đặc biệt đối với Đức giáo hoàng và các Giám mục, thực sự và sẵn sàng dùng tự do và hoạt động tông đồ của mình vào công cuộc phục vụ, phù hợp với đức vâng lời của người tu sĩ ; cũng vậy, một cách ý thức và với lòng nhiệt thành, họ sẽ tìm cách biểu lộ và thể hiện, trong gia đình giáo phận, chứng tá đặc thù và sứ mạng riêng của Tu hội của họ ; sau hết, họ sẽ không ngớt kích thích sự bén nhạy và mối ưu tư tông đồ là những đặc tính của đời dâng hiến của họ.

Các Giám mục chắc chắn sẽ nhận biết và đánh giá cao sự đóng góp đặc thù của các tu sĩ này cho các Giáo Hội địa phương, các ngài sẽ coi tính cách miễn trừ của họ như biểu thị mối ưu tư mục vụ làm họ liên kết với Đức giáo hoàng, như dấu chỉ mối quan tâm tích cực tới mọi dân tộc (x. số 8).

Nếu tất cả mọi người tham gia công tác mục vụ thực sự chia sẻ một cái nhìn mới mẻ về đặc tính miễn trừ, nó sẽ góp phần không nhỏ làm tăng thêm khả năng sáng tạo tông đồ và lòng nhiệt thành truyền giáo, trong tất cả các Giáo Hội địa phương.

Vài tiêu chuẩn để tổ chức sinh hoạt mục vụ thích đáng

23. Những gì vừa được nói trên về sứ mạng Giáo Hội, đưa tới những chỉ dẫn sau đây :

a. Chính bản chất của hoạt động tông đồ đòi hỏi trước hết các Giám mục phải dành vị trí ưu tiên cho sự tĩnh tâm và đời sống cầu nguyện (x. GH 26 ; 27 ; 41) ; nó cũng đòi hỏi các tu sĩ, theo tính cách riêng của mình, phải đổi mới tự thâm tâm và phải chuyên cần cầu nguyện.

b. Nên đặc biệt cổ võ những sáng kiến khác nhau nhằm làm cho đời sống chiêm niệm được ăn rễ sâu” (x. TG 18), vì đời sống đó có một vai trò đặc biệt trong sứ mạng của Giáo Hội, dù cho nhu cầu hoạt động tông đồ khẩn trương đến đâu đi nữa” (x. DT 7). Thật vậy, nhất là ngày nay với nguy cơ chủ nghĩa duy vật gia tăng, ơn mời gọi mọi người sống đức ái trọn hảo (x. GH 40) càng được sáng tỏ nhờ các Tu hội hoàn toàn chiêm niệm, những Tu hội này như thánh Bê-na-đô đã nói, cho thấy rõ hơn rằng lý do để yêu mến Thiên Chúa là chính Thiên Chúa và Người đáng được yêu mến vượt mức” (De diligendo Deo, c.1 : PL 182, số 584).

c. Hoạt động của Dân Thiên Chúa trong thế giới, tự nó, có tính cách phổ quát và truyền giáo, không những do chính đặc tính của Giáo Hội (x. GH 17) mà còn do lệnh truyền của Đức Ki-tô, làm cho việc tông đồ có tính cách phổ quát, không biên giới (LB 49). Các Giám mục và các bề trên cần lưu ý tới chiều kích đó của ý thức tông đồ và cổ võ các sáng kiến cụ thể để làm nó tăng triển thêm.

d. Giáo Hội địa phương là không gian lịch sử để một ơn gọi bộc lộ trong thực tế và thể hiện sự dấn thân tông đồ của mình ; thật vậy, chính ở đó, trong lòng một nền văn hoá nhất định mà Tin Mừng được loan báo và được đón nhận (x. LB 19 ; 20 ; 29 ; 32 ; 35 ; 40 ; 62 ; 63). Vì vậy, trong việc đào tạo, cần lưu ý tới thực tại quan trọng cho việc canh tân mục vụ này.

đ. Ảnh hưởng hỗ tương giữa hai cực – nghĩa là giữa sự tham gia tích cực vào một nền văn hoá riêng và viễn ảnh phổ quát, phải dựa trên sự tôn trọng không thể phai lạt và sự duy trì kiên vững các giá trị hợp nhất, không thể chối bỏ bất cứ cách nào, sự hợp nhất của Giáo Hội Công Giáo, đối với tất cả các tín hữu – hay sự hợp nhất của Tu hội, đối với tất cả các phần tử. Cộng đoàn địa phương nào tách ra khỏi sự hợp nhất đó, sẽ bị hai nguy cơ đe doạ : Một đàng là nguy cơ sống trong một sự cô lập khô cằn, một đàng là nguy cơ đánh mất sự tự do của mình, khi bị cắt đứt khỏi trung tâm, thì bị bỏ mặc cho những thế lực muốn nô lệ hoá và khai thác mình” (LB 64).

e. Thời đại chúng ta đòi hỏi một cách đặc biệt nơi những tu sĩ sự chân thực đặc sủng, mạnh mẽ và khéo léo, trong các sáng kiến ; sự chân thực đó sáng chói nơi các vị sáng lập, làm họ hăng hái và nhiệt thành dấn thân trong công cuộc tông đồ của Giáo Hội, giữa những kẻ ngày hôm nay, trong thực tế, là đại bộ phận của nhân loại và là những người mà Giáo Hội ưu đãi : Những người bé nhỏ và khó nghèo của Chúa (x. Mt 18,1-6 ; Lc 6,20).

PHẦN THỨ HAI
NHỮNG CHỈ DẪN VÀ QUY TẮC

Nhờ những nguyên tắc vừa được trình bày soi sáng, kinh nghiệm của những năm vừa qua khiến phải đưa ra một vài chỉ dẫn và quy tắc, nhằm đặc biệt đến việc thực hành. Nhờ đó, chắc chắn các mối liên hệ hỗ tương giữa các Giám mục và các tu sĩ được hoàn hảo, hầu mang lại lợi ích cho việc xây dựng Thân Thể của Đức Ki-tô.

Chúng tôi sẽ trình bày những chỉ dẫn ấy dưới ba khía cạnh khác nhau nhưng bổ túc cho nhau, đó là :

a. khía cạnh huấn luyện

b. khía cạnh hoạt động và

c. khía cạnh tổ chức.

Bản văn này giả thiết và đôi lúc còn quy chiếu đến những quy tắc pháp luật hiện hành ; do đó, bản văn không đi trái với những quyết định của các văn kiện Toà Thánh trước đây vẫn còn giá trị trong vấn đề.

CHƯƠNG V : MỘT VÀI THỈNH NGUYỆN
LIÊN QUAN ĐẾN KHÍA CẠNH HUẤN LUYỆN

Trong Giáo Hội, Đức giáo hoàng và các Giám mục đóng vai trò tối cao, là vị thầy chính thức và là vị thánh hoá của toàn thể đoàn chiên (x. phần I, chương II). Về phía các bề trên của các tu sĩ, các ngài cũng có quyền hành riêng biệt để hướng dẫn Tu hội của mình, và có trách nhiệm không nhẹ về việc huấn luyện riêng cho các phần tử của Tu hội (x. DT 14 ; 18 ; Phần I, chương III).

Vì thế, ước mong các Giám mục và các bề trên hãy tuỳ theo vai trò của mình, hoà hợp với nhau và nhất trí mà đặt trách nhiệm huấn luyện lên hàng đầu.

24. (Cổ võ tinh thần Giáo Hội). Ước mong các Giám mục nhất trí với các bề trên các Tu hội, đặc biệt lo cho các linh mục giáo phận, các giáo dân tận tuỵ và các tu sĩ nam nữ địa phương, được ngày càng ý thức mãnh liệt và hiểu biết về mầu nhiệm và về cơ cấu của Giáo Hội, về sự tác động của Thánh Thần ban sức sống. Để đạt tới mục đích ấy, ước mong các ngài hãy cùng nhau tổ chức những buổi hội họp riêng biệt và những cuộc gặp gỡ chuyên việc thiêng liêng. Đàng khác, các ngài cũng nên luôn luôn nhắc nhở, để nêu cao giá trị và tăng cường việc cầu nguyện riêng và cầu nguyện chung ; nếu cần nên có những sáng kiến thích hợp được chuẩn bị thích đáng.

25. (Cổ võ tinh thần cầu nguyện). Về phía các cộng đoàn tu sĩ, nhất là các cộng đoàn chiêm niệm, thì tất nhiên phải trung thành với tinh thần của cộng đoàn (DT 7 ; TG 40), nhưng cũng phải giúp đỡ thích đáng những người thời đại chúng ta về việc cầu nguyện và sống đời sống thiêng liêng, hầu sự cầu nguyện và đời sống thiêng liêng ấy có thể đáp ứng nhu cầu suy niệm và đào sâu đức tin mà thời đại chúng ta đang cần. Các cộng đoàn cũng tạo dịp và sự dễ dàng để họ tham gia một cách thích đáng vào những việc phụng vụ, nhưng vẫn tôn trọng những đòi hỏi về luật nội vi” và những quy tắc đã được đặt ra liên quan đến vấn đề này.

26. (Cổ võ sự trung thành với ơn gọi). Các bề trên phải để tâm lo cho anh chị em mình trung thành với ơn gọi. Có những điều hoàn cảnh văn hoá, xã hội và kinh tế đòi phải thích ứng, thì các ngài cũng nên tuỳ theo hoàn cảnh thời thế mà dễ dàng thích ứng ; đồng thời cũng phải coi chừng kẻo những thích ứng lại mở đường cho những thói quen có hại cho đời sống tu trì. Những thích ứng văn hoá hoặc nghiên cứu chuyên môn mà các tu sĩ thực hiện, phải nhằm những vấn đề liên quan đến sứ mệnh riêng biệt của Tu hội ; những việc nghiên cứu ấy không phải để cá nhân kiện toàn bản thân nhằm những mục tiêu riêng tư, nhưng là để các tu sĩ có thể đáp ứng những yêu sách của những kế hoạch tông đồ của gia đình dòng tu của mình, hợp với những nhu cầu của Giáo Hội.

27. (Cổ võ ý thức lời khấn và hoạt động tông đồ). Khi tán trợ việc huấn luyện liên tục cho các tu sĩ, phải nhấn mạnh việc canh tân chứng tá đời sống nghèo khó và phục vụ những người nghèo túng nhất ; và cũng phải làm sao để cuộc sống vâng lời và khiết tịnh được canh tân, các cộng đoàn trở thành dấu chỉ tình yêu huynh đệ và hiệp nhất.

Những Tu hội hoạt động và lấy công việc tông đồ làm việc chủ yếu cho đời sống tu trì của mình (x. DT 8 ; TG 25 ; 45), thì trong lúc huấn luyện sơ khởi và liên tục, phải nhớ làm nổi bật công việc tông đồ ấy.

28. (Trách nhiệm của Giám mục đối với tu sĩ). Vì Giám mục là bậc thầy chính thức và là người chỉ đạo về sự trọn lành cho mọi thành phần giáo phận (x. GM 12 ; 15 ; 35,2 ; GH 25 ; 45), nên các ngài cũng là những vị lo giữ gìn cho các tu sĩ trung thành với ơn gọi tu trì và theo đúng tinh thần của mỗi Tu hội. Trong khi thi hành bổn phận mục vụ này, các Giám mục phải chú ý đến việc đề xướng mối tương quan với các bề trên Dòng, là những người các tu sĩ phục tùng trong tinh thần đức tin” (x. DT 14), hiệp thông về giáo lý và ý hướng với Đức giáo hoàng, cũng như với các cơ quan Toà Thánh, các Giám mục khác và bản quyền địa phương.

Cùng với hàng giáo sĩ của mình, các Giám mục phải là những người xác tín về đời sống tận hiến, che chở những cộng đoàn tu sĩ, giáo dục ơn gọi, và bảo vệ một cách hữu hiệu đặc tính của mỗi gia đình dòng tu trong lãnh vực thiêng liêng cũng như hoạt động tông đồ.

29. (Phổ biến đạo lý về Giáo Hội địa phương và về đời tu trì). Các Giám mục và bề trên Dòng sẽ tuỳ thẩm quyền của mình mà nhiệt tâm phổ biến đạo lý của Công Đồng và các văn kiện Toà Thánh nói về hàng Giám mục, về đời sống tu trì, về Giáo Hội địa phương cũng như về mối tương quan giữa ba tổ chức ấy. Muốn vậy, nên có những sáng kiến sau đây :

a. Các Giám mục và bề trên Dòng gặp nhau để cùng nhau đào sâu những đề tài nói trên.

b. Tổ chức những buổi học hỏi đặc biệt cho các linh mục giáo phận, các tu sĩ và các giáo dân dấn thân hoạt động tông đồ, để có những thích ứng mới mẻ thích hợp với hoàn cảnh hơn.

c. Nghiên cứu và đưa ra những kinh nghiệm đặc biệt thích hợp cho việc huấn luyện các trợ sĩ và các nữ tu.

d. Khởi thảo những văn kiện mục vụ thích hợp trong giáo phận, trong miền hoặc trong nước, để trình bày cho có kết quả những đề tài ấy cho giáo dân suy nghĩ.

Phải làm sao cho việc huấn luyện liên tục đừng hạn chế cho một số ít người, nhưng phải làm sao cho mọi người đều có thể hưởng nhờ và tạo ra một cuộc dấn thân chung của mọi tu sĩ.

Vả lại, cũng nên dùng các phương tiện truyền thông xã hội, báo chí, diễn thuyết, lời khích lệ, v.v…, mà phổ biến một cách rộng rãi những đạo lý đã được đào sâu.

30. (Chương trình huấn luyện). Ngay từ lúc đầu huấn luyện giáo sĩ cũng như tu sĩ, nên trình bày một nghiên cứu có phương pháp về mầu nhiệm Đức Ki-tô, về bản chất bí tích” của Giáo Hội, về tác vụ Giám mục và về đời sống tu trì trong Giáo Hội. Vì thế :

a. Ngay từ thời gian tập viện, người tu sĩ nam nữ phải được huấn luyện thế nào để đặc biệt ý thức và lo lắng cho Giáo Hội địa phương, đồng thời cũng đặc biệt trung thành với ơn gọi riêng của mình.

b. Các Giám mục phải làm sao cho hàng giáo sĩ giáo phận hiểu biết những vấn đề hiện tại của đời sống tu trì, nhu cầu cấp bách phải truyền giáo, làm sao cho có vài linh mục được tuyển chọn và được chuẩn bị để giúp các tu sĩ trong việc tiến tới trên đường thiêng liêng (x. ĐT 10 ; TG 39). Thậm chí trong nhiều trường hợp, nên giao phó phận sự ấy cho các tu sĩ linh mục đã được tuyển chọn một cách khôn ngoan (x. số 36).

31. (Nâng đỡ các trung tâm học hỏi). Ơn gọi linh mục hoặc tu sĩ có trưởng thành nhiều hay ít, chắc chắn cũng là do việc huấn luyện về đạo lý, thường được tổ chức trong các trung tâm nghiên cứu cấp đại học, trong các trường cao đẳng hoặc trong các học viện đặc biệt thích ứng.

Các Giám mục và bề trên các tu sĩ có liên quan đến phận sự này, hãy cộng tác hữu hiệu với nhau để thiết lập những trung tâm nghiên cứu và làm cho các trung tâm ấy hoạt động, nhất là khi những trung tâm ấy phục vụ nhiều giáo phận và Tu hội, và hãy bảo đảm tối đa một nền giáo dục tuyệt hảo, số thầy và giáo sư đã được chuẩn bị đúng mức, khả dĩ đáp ứng những đòi hỏi của việc huấn luyện và còn đảm bảo sao cho việc sử dụng nhân sự và các phương tiện được hợp lý hơn.

Khi chuẩn bị, cải tổ và đưa ra thực hành các quy chế của các trung tâm nghiên cứu này, phải xác định rõ ràng quyền lợi và nhiệm vụ của những người liên quan, các bổn phận của Giám mục hoặc các Giám mục do thừa tác vụ của các ngài, những cách thức hành động và trách nhiệm của các bề trên liên hệ, làm sao để cổ võ việc trình bày khách quan và đầy đủ một đạo lý phù hợp với huấn quyền Giáo Hội. Vì thế, dựa trên những tiêu chuẩn chung về thẩm quyền và trách nhiệm, và tuỳ theo đường hướng của quy chế, phải cẩn thận theo dõi hoạt động và những sáng kiến của những trung tâm ấy. Nhưng, trong tất cả công việc tế nhị và quan trọng này, phải luôn luôn tuân giữ những quy tắc và đường hướng của Toà Thánh.

32. (Cổ võ việc hiểu biết môi trường địa phương). Muốn canh tân việc thực hành mục vụ trong các giáo phận cho thích đáng, cần hiểu biết sâu xa những thực tại có liên hệ cụ thể đến đời sống con người và sinh hoạt tôn giáo địa phương. Dựa trên căn bản này, mới có được một suy tư thần học khách quan và thích hợp, mới đưa ra được những điểm ưu tiên trong hành động, mới thảo được một chương trình hoạt động mục vụ và kiểm điểm định kỳ những gì đã thực hiện. Chương trình này đòi hỏi các Giám mục tuyển chọn trong các tu sĩ những người có khả năng để cộng tác, thành lập và nâng đỡ những uỷ ban nghiên cứu và những trung tâm nghiên cứu. Những sáng kiến ấy luôn luôn ngày càng cần thiết chẳng những cho việc huấn luyện nhân sự thích hợp hơn, mà còn cần thiết để việc mục vụ có một cơ cấu hợp lý.

33. (Việc xuất bản tác phẩm). Người tu sĩ có một bổn phận đặc biệt và tế nhị : đó là có một tinh thần chăm chú và một tâm hồn vâng phục đối với huấn quyền của giáo phẩm, và giúp các Giám mục được dễ dàng thực thi tác vụ mình là vị thầy chính thức” và là những chứng nhân về chân lý thần linh và công giáo” (x. GH 25), trong trách nhiệm giảng dạy giáo lý đức tin, chẳng những trong các trung tâm nghiên cứu về giáo lý đức tin mà cả trong việc sử dụng các phương tiện để truyền thông các nghiên cứu ấy nữa.

a. Về vấn đề phát hành sách vở và văn kiện được giao phó cho các nhà sách do các tu sĩ đảm nhiệm, hoặc các nhà xuất bản do họ quản lý, phải giữ những quy tắc của Bộ giáo lý đức tin (ngày 19 tháng 3 năm 1975) liên quan đến thẩm quyền về việc chuẩn y các bản văn Kinh Thánh và bản dịch, các sách phụng vụ, kinh nguyện và giáo lý hoặc những tác phẩm thuộc loại khác nhưng có những vấn đề đặc biệt liên quan đến tôn giáo và đời sống luân lý. Viện lý lẽ giả tạo khéo léo để bỏ những quy tắc này có thể gây thiệt hại nhiều cho giáo dân ; vì thế, các tu sĩ đặc biệt cần phải tuân giữ những quy tắc ấy cho đúng luật. (*)

b. Ngay cả những văn kiện hoặc những tài liệu do các Dòng tu địa phương hoặc toàn quốc xuất bản : Những tài liệu này, tuy không nhằm phổ biến cho công chúng, nhưng có thể có ảnh hưởng ít nhiều đến công việc mục vụ, chẳng hạn : những vấn đề mới mẻ và quan trọng trong lãnh vực xã hội, kinh tế, chính trị, có liên quan đến đức tin và đời sống tu trì, thì luôn cần phải hội ý với các Bản quyền có thẩm quyền.

c. Để ý xem xét sứ mệnh riêng biệt của một số Tu hội nào đó, các Giám mục hãy khuyến khích và nâng đỡ các tu sĩ dấn thân làm việc tông đồ trong lãnh vực quan trọng là xuất bản và truyền thông xã hội ; trong việc này, các ngài hãy tạo điều kiện dễ dàng để việc cộng tác làm việc tông đồ được mở rộng hơn, nhất là trên bình diện quốc gia. Cũng vậy, các ngài phải lo lắng đến việc huấn luyện nhân sự chuyên môn trong sinh hoạt này, chẳng những về mặt khả năng chuyên môn, mà nhất là về mặt trách nhiệm trong Giáo Hội nữa.

34. (Việc tuân phục hàng giáo phẩm). Đời sống tu trì và các cơ cấu trong Giáo Hội không phải là hai thực tại tồn tại riêng biệt, như thể một thực tại thuộc về ân sủng, thực tại kia thuộc về cơ cấu ; trái lại, hai yếu tố ấy, tức là ân sủng thiêng liêng và cơ cấu trong Giáo Hội làm thành một thực tại duy nhất, tuy phức tạp (x. GH 8). Do đó, làm cho hai yếu tố độc lập với nhau là một sai lầm nặng ; và làm cho hai yếu tố đối chọi nhau còn là một sai lầm nặng hơn.

Vì thế, các tu sĩ, trong khi can đảm và tin tưởng nhìn về tương lai (x. Phần I, chương III), phải gắn bó chặt chẽ với mục đích và tinh thần của Tu hội, hoàn toàn tùng phục và kết hợp với giáo quyền (x. DT 2 ; GH 12).

35. (Tham gia vào Giáo Hội địa phương). Đức Giám mục với tính cách là mục tử của Giáo phận, và các bề trên Dòng với tính cách là người có trách nhiệm về Tu hội của mình, hãy khuyến khích các tu sĩ tham gia vào đời sống Giáo Hội địa phương và am hiểu những chỉ thị và đường hướng của Giáo Hội địa phương. Ngoài ra, các vị bề trên còn phải làm cho Tu hội của mình được thống nhất hơn trên bình diện quốc tế và tuân phục các bề trên tổng quyền của mình hơn (x. phần I, chương IV).

CHƯƠNG VI : DẤN THÂN VÀ TRÁCH NHIỆM
TRONG LÃNH VỰC HOẠT ĐỘNG

Giáo Hội sống trong Thần Khí và được đặt trên nền tảng thánh Phê-rô, các thánh Tông Đồ và những người kế vị các ngài, vì thế thừa tác vụ Giám mục thực là nguyên lý chỉ đạo cho năng động mục vụ của toàn thể Dân Thiên Chúa. Như vậy, Giáo Hội hành động phù hợp vừa với Chúa Thánh Thần là hồn Giáo Hội, vừa với Vị Thủ Lãnh đang hoạt động trong Thân Thể (x. Phần I, chương II). Điều đó hiển nhiên kéo theo những hậu kết đối với các giám mục và đối với các tu sĩ trong việc thực hiện những sáng kiến và những sinh hoạt của mình, mặc dầu mỗi bên có thẩm quyền riêng tuỳ theo vai trò riêng của mình.

Các chỉ dẫn thực tiễn dưới đây, liên quan tới hai loại yêu cầu trong lãnh vực hoạt động : các yêu cầu về mục vụ và các yêu cầu về đời tu.

Các yêu cầu về sứ mạng mục vụ

36. (Các tu sĩ là sự trợ giúp quý báu cho giáo phận). Công Đồng khẳng định rằng : Các tu sĩ cũng thuộc về gia đình giáo phận, và với một tư cách riêng, họ đem lại cho hàng giáo phẩm một sự trợ giúp quý báu – và vì nhu cầu tông đồ ngày một gia tăng nên họ có thể và phải đem lại sự giúp đỡ mỗi ngày một nhiều hơn” (GM 34).

Trong các vùng có nhiều lễ điển, các tu sĩ phụ trách các giáo hữu thuộc về một lễ điển khác với mình, phải tôn trọng các quy tắc đã được ban hành về các quan hệ với các Giám mục thuộc một lễ điển khác (x. ES I,23).

Cần phải áp dụng thực sự các tiêu chuẩn đó, không những trong giai đoạn kết thúc mà ngay cả trong việc ấn định và soạn thảo chương trình hoạt động, miễn là tôn trọng vai trò quyết định riêng của Giám mục.

Do tính cách duy nhất của chức tư tế (x. GH 28 ; GM 28 ; 11) và với tư cách tham gia việc chăm sóc các linh hồn, các tu sĩ linh mục, xét theo một phương diện nào đó, phải coi mình là thực sự thuộc hàng giáo sĩ của giáo phận” (GM 34), do đó, các ngài có thể và phải được dùng vào việc làm cho các tu sĩ, giáo sĩ, Giám mục một giáo phận được liên kết chặt chẽ hơn và hành động có phối hợp hơn trong lãnh vực hoạt động.

37. (Giáo sĩ giáo phận và các cộng đoàn tu sĩ). Giữa hàng giáo sĩ giáo phận và cộng đoàn tu sĩ, phải cố gắng tạo nên những mối dây liên lạc huynh đệ và cộng tác mới mẻ (x. GM 35,5). Vì thế, phải dành một phần thật quan trọng cho mọi phương tiện, dù đơn giản và không được chính thức, có thể góp phần vào việc tăng cường sự tin cậy lẫn nhau, sự liên đới trong việc tông đồ và sự hoà hợp huynh đệ (x. ES I,28). Điều đó thực sự không những làm tăng thêm một ý thức đích thực về Giáo Hội địa phương, mà còn khích lệ mỗi người vui vẻ chấp nhận giúp đỡ và được giúp đỡ, nuôi dưỡng lòng ao ước hợp tác và yêu mến cộng đoàn nhân loại và Giáo Hội, trong đó mình đã được hội nhập như quê hương của ơn gọi của mình.

38. (Đối thoại giữa các giám mục và các bề trên cao cấp). Các bề trên thượng cấp phải lo hiểu biết không những các tài năng và khả năng của các anh chị em, mà còn cả những nhu cầu tông đồ của các giáo phận trong đó Tu hội mình được mời gọi cộng tác. Vì thế giữa Giám mục và các bề trên các Tu hội hiện diện trong giáo phận, ước mong có cuộc trao đổi cụ thể và toàn bộ, sao cho các tu sĩ có thể được phân phối một cách chính đáng và có ích hơn, nhất là khi lưu ý tới một vài hoàn cảnh bấp bênh và sự khan hiếm ơn gọi kéo dài.

39. (Mục vụ ơn gọi). Sự dấn thân mục vụ để cổ võ ơn gọi (x. LM 11 ; DT 24 ; ĐT 2) phải được coi như một lãnh vực hợp tác ưu tiên giữa các Giám mục và tu sĩ. Công tác mục vụ đó hệ tại cả cộng đoàn Ki-tô hữu nhất trí hành động cho tất cả mọi ơn gọi, sao cho Hội Thánh được xây dựng theo sự viên mãn của Đức Ki-tô và sự đa dạng của các đặc sủng do Thần Khí Người ban cho.

Điều cần lưu ý trên hết khi nói đến ơn gọi, đó là Chúa Thánh Thần, Đấng muốn thổi nơi nào thì thổi” (Ga 3,8), mời gọi các tín hữu đảm nhận các thừa tác vụ khác nhau và các bậc sống khác nhau, nhằm mưu ích tối đa cho Hội Thánh. Hiển nhiên không được gây trở ngại nào ngăn chặn tác động của Thiên Chúa trái lại, phải làm sao cho mỗi người đáp lại ơn gọi riêng của mình một cách hoàn toàn tự do. Đàng khác, chính lịch sử có thể đem lại nhiều bằng chứng cho thấy rằng tính cách đa dạng của ơn gọi và nhất là sự chung sống và cộng tác giữa hàng giáo sĩ triều và dòng không những không làm thiệt hại cho các giáo phận mà còn làm cho các giáo phận thêm phong phú nhờ các kho tàng thiêng liêng mới và tăng cường sức sống tông đồ cách đáng kể.

Vì vậy nên phối hiệp cách khôn ngoan các sáng kiến đa dạng, dưới sự hướng dẫn của các Giám mục : tuỳ theo bổn phận của các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục, các linh mục, các tu sĩ và tất cả những ai hoạt động trong lãnh vực mục vụ. Sự dấn thân này phải được tất cả cùng đảm nhận, với sự cộng tác đầy đủ của mỗi người ; Giám mục khi hướng dẫn cố gắng của mọi người về cùng một mục đích, phải luôn nhớ rằng những cố gắng đó ăn rễ trong sự thúc đẩy của Thần Khí, vì thế, gia tăng nhiều sáng kiến cầu nguyện là điều cấp bách để có thể đạt được mục đích.

40. (Canh tân hoạt động tông đồ). Trong việc canh tân mục vụ và thích nghi các công cuộc tông đồ, phải lưu ý tới những thay đổi sâu xa của thế giới hiện tại (x. MV 43 ; 44), những thay đổi đó cho thấy đôi khi cần đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn, nhất là vì nhu cầu các linh hồn và sự khan hiếm giáo sĩ” (x. ES I,36).

Khi đối thoại với các bề trên dòng và với tất cả những ai hoạt động trong mục vụ giáo phận, các Giám mục phải cố gắng biện phân những đòi hỏi của Thần Khí và nghiên cứu các phương tiện để sắp đặt các sự hiện diện tông đồ mới, nhằm ứng phó với các khó khăn xuất phát từ chính trong giáo phận. Tuy nhiên, việc tìm kiếm đổi mới sự hiện diện tông đồ không được ngăn trở việc thừa nhận giá trị vẫn còn hiệu lực của các hình thức tông đồ khác có trong truyền thống, như trường học (Thánh bộ Giáo dục công giáo, Trường Công Giáo 19-3-1977), các công cuộc truyền giáo, sự hiện diện tích cực trong các bệnh viện, các dịch vụ xã hội v.v… Tất cả những hình thức truyền thống đó tất nhiên phải được thích nghi không trì hoãn, hợp thời và mau mắn, theo các quy tắc của Công Đồng và các nhu cầu của thời đại.

41. (Các sáng kiến tông đồ). Các sáng kiến tông đồ phải được chuẩn bị bằng một cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh. Một phần, các Giám mục có bổn phận không được dập tắt Thần Khí, nhưng nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt lành thì giữ lấy” (1 Tx 5,12.19-21 ; GH 12). Tuy nhiên cần bảo vệ và khuyến khích sự bộc phát của những ai tham gia vào công cuộc đó” (TG 30) ; đàng khác, các bề trên Dòng sẽ cộng tác cách sinh động và qua sự trao đổi với các Giám mục để tìm kiếm các giải pháp, chuẩn bị các chương trình liên quan tới các lựa chọn đã theo, khởi sự các thử nghiệm, dầu là hoàn toàn mới mẻ, tuy vẫn hành động theo các nhu cầu cấp bách nhất của Giáo Hội, phù hợp với các quy tắc và đường hướng Huấn quyền và theo tính cách riêng của mỗi Tu hội.

42. (Kiểm điểm các cuộc thử nghiệm). Để tránh những trốn né và những tình trạng bị tước đoạt và cả những nguy cơ khủng hoảng và lệch lạc, không bao giờ được sao nhãng bổn phận trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau giữa Giám mục và bề trên Tu hội nhằm đánh giá khách quan và xét đoán cách công bình các thử nghiệm đã thực hiện.

Vì vậy, vào những thời kỳ nhất định, cần kiểm điểm các sáng kiến đó và nếu việc thử nghiệm không đạt được một kết quả tốt đẹp (x. LB 58), một cách khiêm nhường nhưng cương quyết, phải lo sửa chữa, cho ngưng hay điều chỉnh lại một cách thích đáng hơn, thử nghiệm được cứu xét.

43. (Phòng ngừa lạm dụng). Việc để cho một vài sáng kiến lệch lạc hay một vài sự kiện mập mờ kéo dài rất tai hại cho các tín hữu. Vì vậy, các Giám mục và các bề trên, với lòng tin cậy lẫn nhau trong việc chu toàn bổn phận, mỗi bên theo trách nhiệm riêng, sẽ lo đưa ra, trong tình bác ái nhưng cũng với một sự cương quyết cần thiết, những quyết định và những điều kiện rõ ràng để ngăn ngừa và sửa chữa những lệch lạc như vậy.

Nhất là trong lãnh vực phụng vụ, cần phải can thiệp cấp bách để sửa chữa nhiều lạm dụng nẩy sinh từ nhiều lý do trái ngược nhau. Các Giám mục như là những vị có trách nhiệm đích thực về phụng vụ trong Giáo Hội địa phương (x. PV 22,41 ; GH 26 ; GM 15 ; x. phần I, chương II) và các bề trên Dòng về những gì liên quan tới anh chị em mình, phải cảnh giác để cho một cuộc canh tân phụng vụ thích hợp được thực hiện, can thiệp đúng lúc để sửa chữa các lệch lạc và lạm dụng trong một lãnh vực chính yếu và quan trọng như vậy (x. PV 10). Các tu sĩ cũng phải nhớ rằng họ có bổn phận tuân thủ các luật lệ và chỉ thị của Toà Thánh cùng các sắc lệnh của Giám mục sở tại trong việc thi hành phụng tự công cộng (x. ES I, 26 ; 27 ; 28). (*)

Các đòi hỏi của đời sống tu trì

44. (Các tu sĩ tuỳ thuộc giám mục trong việc mục vụ). Về những gì liên quan tới việc mục vụ của các tu sĩ, Công Đồng tuyên bố rõ ràng : Mọi tu sĩ miễn trừ và không miễn trừ, đều phải phục tùng bản quyền địa phương trong những điều liên quan tới việc công khai tôn thờ Thiên Chúa tuy vẫn tôn trọng sự khác biệt của các nghi lễ, trong những điều liên quan tới việc coi sóc các linh hồn, việc giảng huấn thánh cho dân chúng, việc giáo dục tôn giáo và luân lý, việc tổ chức dạy giáo lý và huấn luyện phụng vụ cho các tín hữu đặc biệt là cho các thiếu nhi, tư cách của hàng giáo sĩ. Và cả những công việc khác liên quan tới việc thi hành hoạt động tông đồ cũng thế. Những học đường Công Giáo của các tu sĩ cũng phải lệ thuộc bản quyền địa phương về những gì liên hệ tới tổ chức chung và sự giám sát, tuy vẫn tôn trọng quyền của các tu sĩ được điều khiển các trường đó. Cũng thế, các tu sĩ buộc phải tuân giữ tất cả những gì mà các công đồng hay Hội đồng Giám mục ban bố cách hợp pháp, buộc mọi người phải giữ (x. GM 35,4 ; 35,5 ; ES I,39).

45. (Liên hệ giữa giám mục và bề trên). Để mỗi ngày sinh thêm hoa trái tốt đẹp hơn, các quan hệ giữa các Giám mục và bề trên Dòng phải luôn luôn được thực hiện trong sự tôn trọng đầy hảo ý những con người và những Tu hội, với xác tín rằng các tu sĩ phải nêu chứng tá về sự dễ tuân phục đối với huấn quyền và vâng phục đối với các bề trên Tu hội, cũng như trong ý muốn đôi bên tôn trọng giới hạn thẩm quyền của lẫn nhau.

46. (Các tu sĩ hoạt động ngoài cộng đoàn). Về các tu sĩ hoạt động tông đồ ngoài những công việc của Tu hội, nên lưu tâm bảo vệ sự tham gia cốt yếu của họ vào đời sống cộng đoàn và sự trung thành với Luật và Hiến pháp : Chính các Giám mục cũng đừng quên nhấn mạnh tới nghĩa vụ này” (x. GM 35,2). Không một việc dấn thân tông đồ nào được phép làm cho người ta đi trệch ơn gọi riêng.

Tình trạng của một vài tu sĩ, muốn vuột khỏi quyền của bề trên Dòng và nại đến quyền của Giám mục, sẽ được cứu xét từng trường hợp một ; tuy nhiên, sau khi trao đổi ý kiến thích đáng và nỗ lực thành thật tìm kiếm giải pháp, Giám mục cần ủng hộ quyết định của bề trên có thẩm quyền, trừ phi có bằng chứng là quyết định đó phần nào bất công.

47. (Thông tin và tìm hiểu). Các Giám mục và các cộng sự viên trực tiếp của các ngài phải cố gắng không những hiểu rõ tính cách riêng biệt của các Tu hội, mà còn am hiểu hiện trạng và các tiêu chuẩn canh tân của họ. Về phía các bề trên Dòng, với một cái nhìn giáo lý cập nhật về Giáo Hội địa phương, các ngài phải tìm hiểu một cách cụ thể về hiện trạng của hoạt động mục vụ và về kế hoạch tông đồ do giáo phận trong đó họ phải làm việc, thiết lập.

Khi một Tu hội ở trong tình trạng không thể đảm đương một công trình nữa, các bề trên sẽ cho biết kịp thời và trong sự tin cậy, những trở ngại cho việc tiếp tục công trình, ít nữa là dưới hình thức hiện tại, nhất là khi thiếu nhân sự. Bản quyền địa phương sẽ cứu xét với hảo ý đơn xin bãi bỏ công trình (ES I,34,2) và cùng với các bề trên Tu hội tìm ra một giải pháp thoả đáng.

48. (Trao đổi giữa các Tu hội). Một nhu cầu được cảm thấy sâu xa và đầy hy vọng cho đời sống hoạt động và sức năng động tông đồ của Giáo Hội địa phương, đó là sớm thấy gia tăng các sự trao đổi tin tức và những thoả hiệp quan trọng hơn, giữa các Tu hội làm việc trong giáo phận. Vậy các bề trên phải lo sao cho cuộc đối thoại đó được thực hiện theo các phương thức và với các nhịp độ thích hợp. Không thể nghi ngờ rằng các cuộc tiếp xúc như vậy làm tăng thêm lòng tin tưởng và quý trọng lẫn nhau, sự tương trợ giúp đào sâu các vấn đề và thông đạt cho nhau những kinh nghiệm, trong đó có thể diễn tả một cách rõ rệt hơn việc cùng tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm.

49. (Vai trò của các nữ tu). Trong cánh đồng mục vụ rộng lớn của Giáo Hội, một chỗ đứng mới và rất quan trọng được dành cho phụ nữ. Xưa kia là những trợ tá quý báu của các Tông Đồ (x. Cv 18,26 ; Rm 16,1tt), các phụ nữ ngày nay phải hội nhập sinh hoạt tông đồ của họ vào cộng đồng Giáo Hội, bằng cách thể hiện trung tín mầu nhiệm chân tính người phụ nữ như Thiên Chúa đã tạo dựng và mạc khải (x. St 2 ; Ep 5,1 ; 1 Tm 3 ; v.v.) và lưu tâm tới việc tăng gia sự hiện diện của họ trong xã hội trần thế.

Vì vậy, nhờ trung tín với ơn gọi đặc thù của mình, đồng thời phù hợp với tính cách riêng của người phụ nữ, cũng để đáp lại các đòi hỏi cụ thể của Giáo Hội và thế giới, các nữ tu sẽ tìm kiếm và đưa ra những hình thức tông đồ phục vụ mới.

Theo gương Đức Ma-ri-a là Đấng, trong số những người tin, đứng ở chóp đỉnh bác ái trong Giáo Hội, và được thúc đẩy bởi tinh thần bén nhậy và tận tâm, đầy tình người”, là tinh thần đặc biệt của phái nữ (Đức Phao-lô VI, diễn văn đọc tại đại hội toàn quốc của Trung tâm phụ nữ I-ta-li-a, Oss. Rom. 6-7. 12. 1976), nhờ ánh sáng của một lịch sử dài, đầy những chứng tá vô giá về các sáng kiến của nữ giới trong hoạt động tông đồ, các nữ tu có thể mỗi ngày mỗi trở nên một dấu chỉ xán lạn về Giáo Hội trung tín, cần mẫn và phong phú trong việc rao giảng Nước Thiên Chúa và tỏ ra cho người khác thấy như vậy (Tuyên ngôn Inter insigniores của Bộ Giáo lý đức tin 15-10-1976).

50. (Thăng tiến các nữ tu). Các Giám mục hợp nhất với các cộng sự viên của các ngài trong công việc mục vụ, và các bề trên Dòng, phải làm sao cho việc phục vụ tông đồ của các nữ tu được biết đến nhiều hơn, được đào sâu và phát triển hơn. Vì vậy, xét không những sĩ số nữ tu (x. Nhập đề I) mà nhất là xét về tầm quan trọng của họ trong đời sống Giáo Hội, các ngài phải lo áp dụng nhanh chóng nguyên tắc thăng tiến nữ giới trong Giáo Hội để cho Dân Thiên Chúa không mất sự giúp đỡ đặc biệt mà chỉ có họ mới có thể đem lại, vì những ơn huệ mà Thiên Chúa đã ban cho họ với tư cách là phụ nữ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các nữ tu phải được quý trọng và đánh giá đúng đắn vì chứng tá con người tận hiến của họ, trước khi vì những dịch vụ hữu ích mà họ đảm nhiệm cách thật là quảng đại.

51. (Việc thiết lập tu hội mới). Trong vài vùng, người ta thấy có sự vội vã lập ra những Tu hội mới. Những ai có trách nhiệm phân định tính cách trung thực mỗi khi có một hội được lập, phải thẩm định một cách khiêm tốn dĩ nhiên, nhưng cũng phải làm một cách khách quan kiên trì, cố suy nghĩ về các viễn tượng tương lai và các dấu chỉ về một sự hiện diện có thể có của Chúa Thánh Thần, hoặc là để đón nhận các đặc sủng… với lòng biết ơn và an ủi” (x. GH 12), hoặc là để tránh thấy lập ra bừa bãi những Tu hội vô ích hoặc thiếu sinh lực cần thiết” (DT 19). Thật vậy, khi phải cứu xét về sự khai sinh một Tu hội, nếu chỉ nghĩ tới ích lợi hay sự thích hợp của công việc của hội hay chỉ dựa trên cách hành động của một người nào đó đã cảm nghiệm những hiện tượng đạo đức mập mờ, thì rõ ràng là khái niệm đích thực về đời tu trong Giáo hội, một cách nào đó, đã bị hiểu sai (x. Phần I, chương III).

Để xét đoán một đặc sủng xem có chân thực hay không, phải hội đủ các điều kiện sau đây :

a. Một ơn khởi hứng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, khác với các ơn cá nhân, dẫu rằng ơn khởi hứng không tách rời khỏi các ơn này. Ơn khởi hứng phải biểu lộ trong hành động và cách tổ chức.

b. Một lòng ao ước sâu xa được trở nên giống Đức Ki-tô để làm chứng cho một khía cạnh nào đó trong mầu nhiệm của Người.

c. Một tình yêu xây dựng đối với Giáo Hội, nhất quyết từ chối gây ra một chia rẽ nào trong Giáo Hội.

Thêm vào đó, các vị sáng lập phải là những người mà nhân đức đã được thử luyện (x. GH 45), cho thấy một sự sẵn sàng tuân phục đích thực hoặc đối với hàng giáo phẩm, hoặc trong việc đáp lại sự thúc đẩy của Thần Khí.

Vậy khi có việc thiết lập một Tu hội mới, những ai có nhiệm vụ xét đoán, cần phải làm một cách thật khôn ngoan, kiên nhẫn thẩm định và có những yêu cầu chính đáng. Trách nhiệm trên trước hết thuộc về các Giám mục là những người kế vị các Tông Đồ, dưới quyền các ngài, Chúa Thánh Thần đã đặt cả những người lãnh nhận các đoàn sủng” (x. GH 7) và hiệp thông với Đức giáo hoàng, các ngài có bổn phận giải thích các lời khuyên Phúc Âm, hướng dẫn cách thực hành cùng thiết lập những lối sống cố định dựa trên những lời khuyên ấy” (GH 43).

CHƯƠNG VII : TẦM QUAN TRỌNG
CỦA MỘT SỰ ĐIỀU PHỐI THÍCH ĐÁNG

Sinh lực đa dạng và phong phú của các Giáo Hội đòi hỏi một cố gắng phối hiệp để canh tân, sáng tạo và hoàn thiện những dụng cụ mục vụ đa tạp, nhằm phục vụ và linh hoạt. Chúng ta sẽ xét các dụng cụ đó ở các bình diện giáo phận, quốc gia và quốc tế.

Ở bình diện giáo phận

52. (Nghĩa vụ của Giám mục và tu sĩ). Trong mỗi giáo phận, qua các con chiên của mình, và cách riêng qua các tu sĩ và các Tu hội hiện diện trong giáo phận, Giám mục tìm hiểu xem Thần Khí muốn tỏ lộ điều gì. Vậy ngài cần phải có những quan hệ chân thành và thân mật với các bề trên Dòng, để chu toàn tốt hơn sứ mạng mục tử của ngài đối với các nam nữ tu sĩ (x. GM 15 ; 16). Thật vậy, bổn phận đặc biệt của ngài là bênh vực đời tận hiến, thăng tiến và linh hoạt sự trung thành và trung thực của các tu sĩ, giúp họ hội nhập, theo đặc sủng riêng của họ, vào sự thông hiệp và hoạt động truyền giảng Phúc Âm của Giáo Hội. Trong công tác đó, Giám mục tự nhiên sẽ hành động cách liên đới với Hội đồng Giám mục và hợp với vị Thủ lãnh tông đồ đoàn.

Về phần mình, các tu sĩ phải coi Giám mục không chỉ như chủ chiên của toàn thể cộng đoàn giáo phận, mà còn như vị bảo đảm sự trung tín của họ với ơn gọi trong việc chu toàn công cuộc phục vụ vì lợi ích Giáo Hội địa phương. Các tu sĩ hãy mau mắn và trung thành hưởng ứng những lời thỉnh cầu và nguyện vọng của các Giám mục để lãnh nhận những vai trò rộng lớn hơn trong việc cứu độ con người, tuy vẫn phải duy trì đặc tính của Tu hội và theo đúng Hiến pháp” (x. GM 35,1).

53. Các tu sĩ phải luôn nhớ những quy định dưới đây của tự sắc Ecclesiae Sanctae”. (*)

a. Tất cả mọi tu sĩ, kể cả những người được miễn trừ, đều phải tuân phục, trong các công cuộc khác nhau của họ, những luật lệ, sắc lệnh, chỉ thị của Bản quyền sở tại về những gì liên quan tới việc tông đồ cũng như tới hoạt động mục vụ và xã hội mà Bản quyền sở tại chỉ dạy hoặc khuyến khích.

b. Các tu sĩ cũng còn phải tuân phục những luật lệ, sắc lệnh và chỉ thị của Bản quyền sở tại hay của Hội đồng Giám mục – hay, tuỳ theo nơi, của Hội đồng thượng phụ (x. GM 35,5) – những luật lệ liên quan tới các yếu tố nói trên (ES I,25,1-2, a,b,c,d).

54. (Đại diện giám mục đặc trách tu sĩ). Nên thiết lập tại các giáo phận, chức vụ Đại diện giám mục đặc trách các Tu hội nam nữ, để giúp chính công tác mục vụ của Giám mục trong lãnh vực này (x. Phần I, chương III). Chức vụ này không bao hàm nhiệm vụ bề trên. Mỗi Giám mục sẽ tự quy định rõ ràng các phận vụ riêng của chức vụ đó và sau khi nghiên cứu kỹ, trao cho người nào có khả năng, hiểu rõ đời sống tu trì, quý chuộng và mong muốn cho đời sống ấy phát triển.

Để chu toàn chức vụ đó, nên có sự tham gia thích đáng (với tư cách tư vấn chẳng hạn, hay với một tư cách nào khác tương tự), của các tu sĩ, thuộc nhiều loại khác nhau : linh mục, tu sĩ giáo dân, nữ tu có đủ khả năng cần thiết.

Như vậy, nhiệm vụ của Đại diện Giám mục đặc trách các Tu hội là giúp Giám mục chu toàn một công tác là công tác riêng của Giám mục và không ai có thể làm thay Giám mục, đó là chăm lo đời sống tu trì trong giáo phận và hội nhập nó vào toàn bộ việc mục vụ. Vì vậy, Giám mục nên tham khảo cách khôn ngoan các nam nữ tu sĩ để lựa chọn người cho chức vụ này.

55. (Mở rộng chỗ cho các tu sĩ tham gia). Để linh mục đoàn trong giáo phận có thể biểu lộ sự hợp nhất và chu toàn tốt hơn các thừa tác vụ khác nhau, Giám mục ân cần khuyên các linh mục triều nhìn nhận, với lòng tri ân, sự đóng góp phong phú của các tu sĩ nam nữ cho Giáo Hội địa phương, và vui vẻ chấp nhận việc bổ nhiệm các tu sĩ vào những công tác có một mức độ rộng lớn hơn, hợp với ơn gọi và khả năng của họ.

56. (Sự có mặt của tu sĩ ở hội đồng linh mục và hội đồng mục vụ). Phải sắp đặt sao cho các linh mục tu sĩ tham gia trong các hội đồng linh mục một cách thích đáng, cũng nên lưu ý để các tu sĩ, linh mục và không linh mục, và các nữ tu, được đại diện một cách công bình trong các hội đồng mục vụ (x. LM 7 ; GM 27 ; ES 1,15 và 16), Giám mục địa phương sẽ đưa ra đúng lúc đúng cách, những tiêu chuẩn và phương tiện cần thiết để ấn định cách công bình tỷ lệ đại diện trong các hội đồng nói trên.

57. (Hợp đồng khi uỷ thác một công tác). Để giúp cho công cuộc hợp tác mục vụ được lâu bền :

a. Phải lưu ý tới sự khác biệt giữa những công trình riêng của một Tu hội và những công tác được Bản quyền sở tại trao phó. Các công trình riêng tuỳ thuộc vào các bề trên Dòng, theo như Hiến pháp quy định, dù rằng về mặt mục vụ, các công trình đó, theo Giáo luật, phải được đặt dưới thẩm quyền của Bản quyền sở tại (ES I,29).

b. Về mọi công tác tông đồ do Bản quyền sở tại trao cho một Tu hội, các quy định của Giáo luật phải được tôn trọng, một hợp đồng sẽ được ký kết giữa Bản quyền và bề trên Dòng có thẩm quyền, trong hợp đồng đó sẽ ghi rõ cách riêng những gì liên quan tới việc thực thi công tác, các tu sĩ được gửi tới làm việc và các vấn đề tài chính (ES I,30, điều 1).

d. Bề trên Dòng sẽ chọn cho các công tác đó những tu sĩ có khả năng thực sự, trước đó, bề trên phải trao đổi với Bản quyền và nếu phải trao cho một tu sĩ một chức vụ thuộc giáo sĩ thì đương sự phải được chính Bản quyền sở tại bổ nhiệm, theo sự giới thiệu hay ít nhất với sự đồng ý của bề trên, cho một nhiệm kỳ được hai bên thoả thuận (ES I,30, điều 2).

58. (Công tác trao cho cá nhân tu sĩ). Nếu nhu cầu cấp bách canh tân Tu hội đòi hỏi, vẫn có thể thay đổi cách sắp xếp sao cho thích hợp hơn, tuy nhiên nên ưu tiên ấn định cách rõ ràng các công tác và nhất là các chức vụ phải trao cho những tu sĩ được chỉ định, mà cần phải có một bản hợp đồng viết chẳng hạn như đặt làm cha sở (ES I,33), quản hạt, đại diện Giám mục, trợ tá Công Giáo tiến hành, thư ký ban mục vụ, các giám đốc cấp địa phận, các giáo sư đại học Công Giáo, các giáo lý viên chuyên nghiệp, các hiệu trưởng các trường trung học Công Giáo v.v… mục đích là để tránh việc thay đổi dễ dàng các người phụ trách, và bảo đảm việc chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản trong trường hợp công trình phải giải tán.

Nếu phải giải nhiệm một tu sĩ, phải tôn trọng quy định sau : Vì một lý do nghiệm trọng, bất kỳ một tu sĩ nào cũng có thể bị giải nhiệm hoặc do ý muốn của giáo quyền đã trao nhiệm vụ, một khi đã báo cho bề trên đương sự biết, hoặc do ý muốn của bề trên, một khi đã báo cho giáo quyền đã trao nhiệm vụ biết, hai bên đều có quyền ngang nhau, bên này không buộc phải có sự đồng ý của bên kia, bên này không cần phải chứng minh hay ngay cả thông tri cho bên kia những lý do của sự quyết định của mình, mỗi bên vẫn có quyền khiếu nại lên Toà Thánh nếu muốn” (ES I,32).

59. (Hiệp hội tu sĩ cấp giáo phận). Các hiệp hội tu sĩ nam và nữ ở cấp giáo phận là điều rất có ích, vì vậy tuy vẫn tôn trọng tính cách và cứu cánh đặc thù của chúng, các hiệp hội đó nên được khuyến khích :

a. Hoặc làm như những cơ quan liên lạc giữa các Tu hội, để thăng tiến và canh tân đời tu trong sự trung tín với những đường hướng của Huấn quyền và sự tôn trọng tính cách đặc thù của mỗi Tu hội.

b. Hoặc làm như những cơ quan để bàn bạc về những vấn đề chung giữa các Giám mục và các bề trên, đồng thời để phối hiệp các hoạt động của các Tu hội với hoạt động mục vụ của giáo phận dưới quyền của Giám mục, nhưng không làm thiệt hại cho các mối liên lạc và thương thảo đã có giữa Giám mục với từng Tu hội riêng rẽ.

Ở cấp quốc gia, vùng và lễ điển

60. (Hội đồng giám mục). Trong các Hội đồng Giám mục một quốc gia hay một vùng (GM 37) các Giám mục liên đới thi hành phận sự mục vụ để lợi ích Giáo Hội cống hiến cho con người được phát triển hơn” (GM 38). Cũng vậy, các Hội đồng thượng phụ (ĐP 9) thi hành tác vụ cho những người theo một lễ điển riêng và những đại hội các bản quyền thuộc nhiều lễ điển (x. GM 38) theo cách cấu tạo riêng của chúng, thi hành phận sự liên quan tới những liên lạc giữa các lễ điển khác nhau.

61. (Hiệp hội bề trên cao cấp). Trong nhiều quốc gia hay nhiều vùng, do sự quan tâm của Bộ tu sĩ và Tu hội đời – và trong các vùng tuỳ thuộc Bộ Phúc Âm hoá các dân tộc và Bộ các Giáo Hội Đông Phương, với sự tán đồng của Bộ sở quan, Toà Thánh đã lập các Hội đồng bề trên thượng cấp (Nam tu sĩ, nữ tu hoặc chung cho cả hai giới). Các hội đồng đó phải tôn trọng sự khác biệt giữa các Tu hội, phát triển sự tận hiến chung và hướng năng lực của tất cả những người đang dấn thân vào công cuộc tông đồ (x. số 21) về sự phối hợp mục vụ của các Giám mục.

62. Các liên lạc giữa các Hội đồng bề trên thượng cấp hay các Hội đồng thượng phụ hay các Hội đồng Giám mục hoặc các Đại hội liên lễ điển, sẽ được ấn định theo các tiêu chuẩn quy định những mối tương quan giữa các Tu hội và đấng bản quyền (ES I,23-25,40) ; có thể lập ra các quy tắc bổ túc tuỳ theo đòi hỏi của địa phương.

63. (Uỷ ban hỗn hợp). Sự hợp tác nhiệt tình và đầy tin cậy giữa các Hội đồng bề trên thượng cấp với các Hội đồng Giám mục (x. GM 35,5 ; TG 33) rất là quan trọng, vì thế các vấn đề liên quan tới hai bên nên được bàn trong các uỷ ban hỗn hợp gồm Giám mục và bề trên thượng cấp (ES I,43) hoặc theo các hình thức khác tuỳ lục địa, quốc gia hay vùng.

Một uỷ ban hỗn hợp như vậy phải được cơ cấu hoá sao cho có thể chu toàn thực sự sứ mạng một cơ quan đóng vai trò cố vấn, liên lạc, thông tin chung, nghiên cứu và suy tư, mặc dầu quyền quyết định tối hậu vẫn thuộc về các Hội đồng bề trên thượng cấp và các hội đồng Giám mục, theo thẩm quyền riêng của mỗi bên.

Vì vậy, các chủ chăn có bổn phận phát huy trong giáo phận sự phối hợp tất cả các công trình và sinh hoạt tông đồ, các Hội đồng thượng phụ và các Hội đồng Giám mục cũng có bổn phận đó trong vùng của mình (x. GM 36,5).

Để cứu xét các vấn đề liên quan tới các tu sĩ, nếu cần hay có lợi – như thấy ở vài nơi -, các Giám mục sẽ lập một uỷ ban thích đáng trong hội đồng Giám mục. Sự hiện diện của một uỷ ban như vậy không gây cản trở cho công việc của uỷ ban hỗn hợp, trái lại nó đòi có uỷ ban này.

64. (Các tu sĩ trong các uỷ ban của Hội đồng giám mục). Sự tham gia của các bề trên thượng cấp hay (theo quy chế Hội đồng giám mục), của những đại diện tu sĩ vào các uỷ ban của hội đồng Giám mục và đại hội liên lễ điển của các bản quyền sở tại (tỷ dụ như vào uỷ ban giáo dục, y tế, công lý và hoà bình, truyền thông xã hội v.v…) có thể rất thích hợp cho hoạt động mục vụ.

65. (Sự hiện diện hỗ tương của các đại biểu). Sự hiện diện của các đại diện Hội đồng Giám mục hay Hội đồng các bề trên thượng cấp tại các đại hội của bên này hay bên kia đáng được khuyến khích ; dĩ nhiên là phải có những quy tắc soạn trước theo đó mỗi hội đồng có thể tự ý giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền riêng của mình.

Ở cấp siêu quốc gia và quốc tế

66. (Phối hợp giữa Giám mục và bề trên). Về những gì liên quan tới nhiều quốc gia thuộc một lục địa hay một vùng, với sự chấp thuận của Toà Thánh, có thể thiết lập những hình thức phối hiệp cho các giám mục cũng như cho các bề trên thượng cấp. Ở cấp đó, một sự liên lạc thích đáng giữa các trung tâm phục vụ sẽ góp phần tốt đẹp vào việc thực hiện một hành động chung có tổ chức, từ phía các giám mục và tu sĩ.

Trong những vùng mà đã có những hình thức tổ chức có tầm hoạt động lan rộng ra cả lục địa, các uỷ ban hay hội đồng thường trực có thể đóng vài trò trên một cách hữu ích.

67. (Hợp tác với Toà Thánh). Ở cấp toàn cầu, đấng kế vị thánh Phê-rô thi hành tác vụ riêng của mình cho toàn thể Giáo Hội, nhưng trong khi thi hành quyền tối thượng, trọn vẹn và trực tiếp trên toàn thể Giáo Hội, Đức giáo hoàng dùng các Bộ thuộc giáo triều Rô-ma” (GM 9).

Chính Đức giáo hoàng đã khuyến khích vài hình thức cộng tác của các tu sĩ với Toà Thánh khi chấp thuận sự có mặt của Hội đồng các bề trên tổng quyền nam và Hội đồng các bề trên tổng quyền nữ bên cạnh Bộ các Dòng tu và tu hội đời (ES II,42) và khi đưa các đại diện tu sĩ vào Bộ Truyền giảng Phúc Âm cho các dân tộc (ES III,16).

KẾT LUẬN

Cuộc đối thoại và cộng tác đã có ở nhiều cấp bậc, nhưng cần được phát triển thêm để đem lại nhiều kết quả hơn. Vì vậy, cần phải nhắc nhở rằng công cuộc hợp tác sẽ hữu hiệu hơn, nếu những người tham gia xác tín rằng sự thành công trước hết tuỳ thuộc vào tài thuyết phục cũng như sự huấn luyện của họ. Thật thế, mọi sự sẽ tiến triển tốt hơn, nếu các đương sự xác tín sâu xa về sự cần thiết, về bản chất và về tầm quan trọng của một sự hợp tác như vậy, trong niềm tin tưởng lẫn nhau, tôn trọng vai trò của mỗi bên, trao đổi giữa hai bên để lấy các sáng kiến ở mọi cấp bậc. Lúc đó, các liên hệ hỗ tương giữa các Giám mục và các tu sĩ, nhờ một ý muốn chân thành và hăng hái hướng dẫn, sẽ biểu lộ một cách thích đáng sinh lực dồi dào của Giáo Hội – bí tích, trong sứ mạng cứu độ lạ lùng của Giáo Hội.

Thánh Phao-lô tông đồ, người tù trong Chúa, viết từ Rô-ma cho tín hữu Ê-phê-xô, đã nhắn nhủ họ như sau : Tôi khuyên anh em hãy sống sao cho xứng với ơn Thiên Chúa đã kêu gọi anh em, là hết lòng khiêm nhượng và hiền từ, với đức đại lượng, chịu đựng lẫn nhau trong lòng mến, hăm hở duy trì sự hiệp nhất của Thần Khí trong dây liên kết của hoà thuận” (Ep 4,1-3).

Các chỉ dẫn trên đây đã được đệ trình Đức thánh cha, và ngày 23 tháng 4 năm 1978, người đã phê chuẩn và truyền công bố.

Rô-ma, Bộ các Dòng tu và tu hội đời,
14-5-1978, lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

         † Hồng Y Eduardo Pironio                                 † Hồng Y Sebastiano Baggio

Tổng Trưởng Bộ Dòng tu và Tu hội đời                              Tổng Trưởng Bộ Giám mục

 

——————————–

(*) Quy tắc hiện hành về việc xuất bản được ấn định ở các điều 824-832 của Bộ Giáo Luật (chú thích của người dịch).

(*)Giáo luật hiện hành quy định vấn đề này ở điều 838 ; 678 (chú thích của người dịch).

(*) Những quy định nói ở các số 53-58 được Bộ Giáo Luật lặp lại ở các điều 678-682 (chú thích của người dịch).

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here