Những Bước Chân Anh Của Em Đaminh Tại Á Châu

0
2004


Học Viện Đaminh

 

Theo tinh thần của Tổng Hội Trogir (2013), kỷ niệm 800 năm thành lập Dòng Anh Em Giảng Thuyết không phải là dịp để chúng ta ôn lại quá khứ hào hùng của một lịch sử đã qua nhằm tôn vinh chính mình, nhưng là cơ hội nhắc nhở chúng ta về nguồn cội của mình trong tâm tình tri ân, và giúp chúng ta khám phá ra vai trò của hành trình trong cách sống của mình.[1]

Nhân dịp mừng kỷ niệm 50 năm thành lập Tỉnh Dòng Đaminh Việt Nam, cũng như trong tâm tình “nhìn lại nguồn cội và hướng đến tương lai”, chúng tôi xin trích lược lại một vài nét lịch sử quan trọng theo dấu bước chân các bậc tiền nhân, để từ đó hướng đến sứ vụ mà các Anh Em Đaminh Việt Nam được gọi mời nối tiếp.

Trong bài viết tóm lược này, chúng tôi chia làm 3 phần:

– Phần thứ nhất ôn lại thời “tiền sử” của Tỉnh Dòng: Những bước chân của anh em Đaminh ở vùng Viễn Đông.

– Phần thứ hai sơ lược về những dấu chân các Anh Em Đaminh trên “cánh đồng Việt Nam”; (Giai đoạn I: Thế kỷ XVIII-XIX) và khái quát về các Anh Em Đaminh Việt Nam trong thế kỷ XX (Giai đoạn II).

– Phần thứ ba ôn lại vài niên biểu của Tỉnh Dòng từ năm 1967 đến năm 2016.

I. ANH EM ĐAMINH TRÊN VÙNG ĐẤT ĐÔNG NAM Á

Từ khi nào Dòng Đaminh bắt đầu hiện diện tại Châu Á? Câu hỏi này khó trả lời, bởi vì lãnh thổ “Châu Á” khá rộng: thánh địa cũng thuộc về Châu Á! Nếu hiểu Châu Á như là Miền Viễn Đông, khởi đi từ India (Ấn Độ) cho đến Japan (Nhật Bản), thì có thể nói rằng từ thế kỷ XIV anh em đã được Tòa Thánh ủy thác phụ trách Giáo tỉnh Sultania, với lãnh thổ trải dài từ India đến Black Ocean (Biển Đen); và anh Jourdain Catalani (de Sévérac, k.1280-1330) được Đức Thánh Cha Gioan XXII đặt làm Giám mục Quilon (Coulom ở India hay Colombo ở Sri Lanka) ngày 21/8/1329, với lãnh thổ bao trùm các quốc gia Pakistan, Afganistan, Bangladesh, Myanmar, Sri Lanka ngày nay. Trong khi thăm viếng những nơi mình coi sóc, anh Jourdain Catalani đã viết lại cuốn hồi ký Mirabilia descripta kể lại địa lý, khí hậu tập tục, của bán đảo India. Tiếc rằng, những bước khởi đầu đã bị gián đoạn trong gần hai thế kỷ.

A. TÌNH HÌNH TRUYỀN GIÁO TẠI VÙNG ĐÔNG NAM Á VÀO THẾ KỶ XVI

Với việc “khám phá Tân Thế Giới”, Đức Thánh Cha Alexander VI phân chia công cuộc truyền giáo cho hai hoàng triều Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, với các sắc chiếu từ năm 1493 cho đến năm 1522: Bồ Đào Nha phụ trách Châu Phi và Châu Á, cộng thêm Brasil; Tây Ban Nha phụ trách Châu Mỹ cộng thêm Philippines, mở đầu cho chế độ “Bảo trợ” (Padronato). Như vậy, theo sự phân chia này, Miền Viễn Đông nằm trong lãnh thổ truyền giáo của Bồ Đào Nha.

Anh em Đaminh Bồ Đào Nha đã sớm lên đường đi Phi Châu và Á Châu. Họ đã có mặt tại Congo năm 1486, và đã thiết lập nhiều cứ điểm truyền giáo tại Etiopia và Mozambique.[2] Năm anh em Đaminh, do cha Domingo de Souza hướng dẫn, theo phái đoàn của ông Alfonso Albuquerque đặt chân lên India năm 1503.

Anh em đặt cứ điểm truyền giáo tại Cochin, rồi từ đó tiến sang Ormuz, Goa (1510). Từ Goa, anh em đi sang mạn Đông, đặt chân lên Colombo, Cămbốt (1554; sau này đổi tên là Cambodia hay Campuchia), Xiêm (1567; sau này đổi tên là Thailand), Myanmar (1604), Malacca và quần đảo Indonesia: Solor (1566), Flores,…

Nhằm tổ chức công cuộc truyền giáo được quy mô hơn, một thực thể được thành lập vào năm 1548, mang danh là “Congregatio S. Crucis Indiarum orientalium”, với địa bàn hoạt động trải dài từ Phi Châu sang Á Châu.[3] Những Giám mục tiên khởi tại Goa (1533) và Cochin (1558) đều thuộc hàng ngũ Dòng Anh Em Giảng Thuyết.

Khi quốc công Bồ Đào Nha phân chia khu vực truyền giáo, các anh em Dòng Đaminh được trao khu vực phía Tây của Goa, còn anh em Dòng Phanxicô được trao phần đất phía Đông. Sau khi được phân chia khu vực truyền giáo, đến năm 1630, các anh em Đaminh đã thiết lập 70 Tu viện với khoảng 320 anh em trên vùng đất India và trông coi lãnh thổ rộng lớn gồm: Sri Lanka, Myanmar, Thailand, Cambodia và Indonesia. Anh em Đaminh được coi như là những người đầu tiên đặt chân lên Cambodia và Timor.[4] Tuy nhiên, sự nghiệp truyền giáo của Tỉnh Dòng Goa bị ngưng lại vào thế kỷ XIX khi các Dòng tu ở Bồ Đào Nha bị giải tán.

Trong số các nhà truyền giáo nổi tiếng, nên ghi nhận cha Gaspar da Cruz, người đã đặt chân lên Trung Hoa năm 1555; Jorge de Santa Luzia (Giám mục tiên khởi của Giáo phận Malacca 1558-79),[5] Silvestre de Avezedo (tông đồ Cambodia).

Cha Gaspar da Cruz (k.1520-1570) đã có công lao rất lớn trong việc truyền giáo tại Miền Viễn Đông. Cha Gaspar da Cruz được nhận vào Dòng Anh Em Giảng Thuyết tại Tu viện Azeitão. Năm 1548, cùng với 10 Tu sĩ khác, Gaspar da Cruz đã lên tàu rời Bồ Đào Nha đến India dưới chỉ thị của cha Diogo Bermudes với mục đích thiết lập một sứ vụ Đaminh tại Viễn Đông. Trong 6 năm, ngài đã ở Hindustan (Bắc India), có lẽ ở Goa (Tây India), Chaul (một tỉnh phía Bắc India) và Kochi (thành phố cảng phía Tây Nam India), bởi vì Dòng đã thiết lập được cơ sở tại đó. Trong khoảng thời gian này, ngài cũng đã đến thăm Sri Lanka.

Năm 1554, cha Cruz đã ở Malacca, nơi đó ngài thiết lập một Tu xá cho Dòng, và sống ở đó cho đến tháng 9/1555. Sau đó ngài được chuyển đến Cambodia. Theo sử sách, cha Cruz là người đầu tiên đặt chân lên vùng đất Hà Tiên hiện nay vào năm 1550. Dù sao, Giáo hội Cambodia đã dựng bia kỷ niệm 450 năm cha Gaspar da Cruz loan báo Tin Mừng năm 1554. Cuối năm 1556, cha Cruz sang Trung Hoa và ở lại đây cho đến năm 1557. Cha Gaspar da Cruz nổi tiếng trong lịch sử vì viết cuốn tường thuật về Trung Hoa (Tratado das cousas da China, xuất bản tại Evora năm 1569).

1. Xiêm (Thailand)

Năm 1567, hai cha Jéronimo da Cruz và Sebastiao da Canto đến Ayutthaya và được cấp một nơi ở xứng hợp, nơi này tọa lạc tại nơi đẹp nhất trong thành phố. Hai cha đã đi giảng trong vòng 3 năm tại đây. Trong thời gian này, hai cha đã học tiếng Siam một thời gian ngắn và có thể giao tiếp với mọi người. Người Hồi Giáo ghen tỵ sự thành công của các ngài và lo sợ ảnh hưởng của các ngài trên dân chúng, nhưng họ không thể tấn công một cách công khai các nhà truyền giáo, vì các ngài được mọi người kính trọng và yêu mến, vì họ có nguy cơ gặp rắc rối từ chính quyền Xiêm. Nhưng cuối cùng họ cũng đạt được mục đích.

Trong một cuộc chiến tranh với đất Xiêm vào năm 1569, những người Hồi Giáo đã dùng lưỡi đòng để kết liễu cha Jéronimo. Còn cha Sebastiao thì bị ném đá bởi đám đông nổi loạn. Trước khi tắt thở, cha xin vua Xiêm không truy cứu những kẻ giết mình vì cha không muốn thấy thêm cảnh đổ máu. Khâm phục trước hành động này, nhà vua đã đồng ý. Cha Sebastiao còn xin vua đặc ân là cử sứ giả đến Malacca và trở về với các nhà truyền giáo. Hai vị linh mục được gửi đến theo yêu cầu của cha Sebastiao, nhưng lịch sử không nêu danh tính của hai vị này.

Khi các nhà truyền giáo trở lại Ayutthaya, họ tiếp tục loan báo Tin Mừng, mục vụ cho các công dân Bồ Đào Nha đang làm việc tại Xiêm và cho người bản xứ. Cuộc chiến với người Burma (Myanmar) vào năm 1569 kết thúc với sự thất bại của vua Xiêm. Người Burma đã tìm thấy ba nhà truyền giáo đang cầu nguyện trong nhà thờ và xử trảm họ vào ngày 11/02/1569. Cùng số phận với họ, các cha Mota và Fonseca của chúng ta cũng chịu tử đạo trong thời gian sau đó (1600).

Sứ vụ truyền giáo chỉ tiếp tục trở lại với cha Francisco da Annuncicao vào những năm đầu của thế kỷ XVII, và sứ vụ truyền giáo trên mảnh đất Chùa Vàng kết thúc vào thế kỷ XVIII sau nhiều lần gián đoạn.

2. Cămbốt (Cambodia)

Cha Gaspar da Cruz được xem như nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân lên Cămbốt năm 1550, do lời yêu cầu của nhà vua. Nhưng sau một năm hoạt động, cha thấy nhà vua chỉ muốn lợi dụng cơ hội để liên lạc với người Bồ Đào Nha, và cũng vì lý do sức khỏe, cha rời xứ.

Năm 1570, khi Abram Langara nên ngôi, nhận thấy quốc gia không thể đương đầu với vương quốc Xiêm, nên cần đến sự giúp đỡ của người Bồ Đào Nha. Vua cho mời các giáo sĩ và binh sĩ đến, hứa sẵn sàng giúp đỡ để xây cất nhà thờ. Vào khoảng 1582–1583, hai cha Lopo Cardoso và Joao Madeira đến Lovek, thiết lập cơ sở để có thể dâng lễ, rao giảng Lời Chúa và rửa tội cho mọi người.

Tuy nhiên, sau khi vua Abram Langara băng hà và Barom Reachea II lên ngôi, chính sách tôn giáo thay đổi. Là một người sùng Phật giáo, vua rút lại phép giảng đạo cho dân bản xứ. Trước tình cảnh khó khăn, cha Cardoso muốn bỏ cuộc, nhưng không được bề trên chấp nhận. Năm 1584, cha Đại diện Giám Tỉnh ở Malacca gửi cha Silvestre de Azevedo đến Cămbốt để thay thế cha Joao Madeira, và sau đó, hai cha Reginaldo de Santa Maria và cha Gaspar do Salvador đến thay thế cho cha Lopo Cardoso. Tuy nhiên, tình hình tại đất nước này đã khiến cho các ngài hoảng sợ và cuối cùng, đã lẩn trốn.

Tuy còn lại một mình, nhưng cha Silvestre de Azevedo tiếp tục với nhiệm vụ của mình và dần dần chiếm được tình cảm của quốc vương. Ngài trở thành cố vấn và được ban tước trong triều đình với danh hiệu “Pa” (Cha). Cha được vinh dự ngự triều, đội vương miện hoàng gia, bên cạnh nhà vua. Vua Barom Reachea II cho phép cha rao giảng Tin Mừng, xây dựng nhà thờ, và thậm chí cắt đặt một học giả trong triều đình đến hỗ trợ cha trong việc soạn thảo sách giáo lý (Misterios da Fe Crista) bằng tiếng Khmer.

Kể từ đó, các nhà truyền giáo được gửi đến Cămbốt đều đặn và liên tục. Năm 1580, hai cha Gregoire de la Motte (người Pháp) và Luis de Fonseca (người Bồ Đào Nha) còn tiến xa hơn, đến tận Quảng Nam (Việt Nam) để giảng đạo cho người Chiêm (tức người Chăm Pa; tiếng phạn là “Campanagara”) và người Việt. Năm 1586, hai cha bị vua Chiêm bắt đem về thành Chà Bàn (Qui Nhơn ngày nay) lẫn với nhiều tù binh. Hai cha tiếp tục giảng đạo, và bị giết năm 1588 do lệnh của nhà vua.

Đang khi đó, trên xứ Cămbốt, năm 1585, có thêm hai cha Dòng Đaminh, Antonio Orta và Antonio Caldeira, cùng với hai cha Dòng Phanxicô. Họ đã được phép giảng đạo, và rửa tội cho khoảng 300 trẻ em. Tuy nhiên, mối thiện cảm của nhà vua hoàn toàn có dụng ý chính trị, nghĩa là nhờ sự giúp đỡ của người Bồ Đào Nha. Vì thế, khi tổng trấn Johor lo sợ bị Malaysia xâm lăng, đã cảnh báo nhà vua về sự hiện diện của các nhà thừa sai đến từ Malacca, và nhà vua liền ra lệnh trục xuất họ, chỉ giữ lại một mình cha Silvestre de Azevedo. Tuy nhiên, vì nhận thấy biện pháp có những hệ quả tai hại đối với việc bang giao bên ngoài, cho nên không lâu sau, nhà vua lại cho phép các nhà thừa sai trở lại.

Năm 1592-1593, lo sợ bị Xiêm tấn công, vua Baroam Reachea II sai hai cha Silvestre de Azevedo và Diogo Veloso đi Malacca, và sau đó qua Manila để cầu viện, đồng thời hứa sẽ dành nhiều thuận lợi cho việc giảng đạo. Tiếc rằng, trước khi nhận được phúc đáp, thì tháng 04/1594, quân Xiêm đã tràn vào Lovek và bắt các cha Silvestre de Azevedo, Jorge da Mota, Luis da Fonseca, cùng với ba Tu sĩ Phanxicô, giải về Siam. Sau khi được phóng thích, chỉ còn cha Silvestre de Azevedo trở lại Cămbốt và qua đời năm 1602. Sau đó, Dòng còn gửi thêm hai Tu sĩ Alonso Ximenes và Diego Aduarte đến Cămbốt, nhưng họ không dừng lại lâu vì hoàn cảnh chiến tranh. Sứ vụ của anh em Đaminh tại Cămbốt xem như chấm dứt.[6]

B. MIỀN VIỄN ĐÔNG

Trên đây, chúng ta đã theo dõi hoạt động truyền giáo của anh em Đaminh Bồ Đào Nha, từ Goa và Malacca, đã đến truyền giáo ở Đông Nam Á, và được nhìn nhận là những người đầu tiên mang Tin Mừng đến Cambodia, Đông Timor. Hai cha Luis de Fonseca và Gregoire de La Motte cũng đáng được xem như là những nhà truyền giáo đầu tiên của xứ Đàng Trong (1580), vào lúc mà Việt Nam và Chiêm Thành còn đang tranh chấp biên giới, đồng thời cũng là những vị chứng nhân Tin Mừng đầu tiên đã đổ máu trên đất này.

Bây giờ chúng ta quay sang một địa bàn khác, ở phía Đông của nước Việt Nam. Công cuộc truyền giáo tại đây do các anh em Đaminh Tây Ban Nha thuộc Tỉnh Dòng Mân Côi Philippines đảm nhận. Tỉnh Dòng được phép thành lập ngày 14/07/1582.

Nên lưu ý về sự khác biệt giữa thủ tục thành lập các Địa phận và Tỉnh Dòng ở các miền truyền giáo thời xưa và thời nay:

– Thời nay, người ta bắt đầu bằng một giáo điểm, rồi lên Giáo xứ; kế đó là Hạt Phủ Doãn Tông Tòa do một thừa sai đứng đầu; kế đó là Đại Diện Tông Tòa và sau cùng là Giáo phận do Giám mục cai quản.[7] Một cách tương tự như vậy, khi Dòng mới đến một vùng nào đó, thì trước tiên là gắng thiết lập một cộng đoàn, rồi sau đó tiến đến Phụ Tỉnh, Dự Tỉnh, Tỉnh Dòng.

– Thời xưa thì tiến trình trái ngược. Một Giám mục (thừa kế các thánh tông đồ) được cử đến một địa điểm truyền giáo và lập Giáo phận tại đó, khởi đầu cho công cuộc loan truyền Tin Mừng. Các Dòng tu cũng vậy. Tỉnh Dòng Mân Côi được thiết lập với việc bổ nhiệm một Giám Tỉnh (cha Juan Chrysostomo, sau đó trao quyền lại cho cha Juan de Castro) và cho phép chiêu mộ 30 Tu sĩ đi truyền giáo ở Viễn Đông.

Ngày 17/7/1586, đoàn truyền giáo gồm 40 anh em rời cảng Cadiz (phía Nam Tây Ban Nha) sang Mexico (thuộc vùng bảo trợ của Tây Ban Nha), rồi từ đó đến Philippines (chứ không thể dùng đường vòng qua Châu Phi, vì vùng này thuộc quyền bảo trợ của Bồ Đào Nha). Khi đoàn cập bến Cavite ở Philippines ngày 22/7/1587, ngày lễ thánh kính Madalena, đoàn truyền giáo chỉ còn 15 người (một số đã ở lại Mexico vì bệnh, 03 người chết dọc đường, một số trở về quê mẹ). Tỉnh Hội lần đầu tiên, họp ngày 10/6/1588, đã nhận Đức Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi làm bổn mạng đệ nhất, và thánh nữ Maria Madalena làm bổn mạng đệ nhị.

Vào cùng năm ấy, anh em Đaminh Tỉnh Dòng Tây Ban Nha đã bắt tay vào việc truyền giáo ngay tại quốc gia Philippines. Nên biết rằng, Đức Giám mục đầu tiên của Manila là Đức Cha Domingo Salazar, một Tu sĩ của Dòng (1581-1594).

1. Japan (Nhật Bản)

Từ Philippines, Tỉnh Dòng đã gửi phái đoàn truyền giáo sang Japan vào đầu tháng 7 năm 1602, và kéo dài cho đến năm 1637, khi Nhật hoàng tuyên bố bế quan tỏa cảng. Trong thời gian bị bách hại (từ năm 1614), Dòng đã có rất nhiều vị tử đạo, được tôn phong vào hai dịp:

– 1/. Ngày 07/07/1867, chân phước Alfonso de Navarrete († 01/06/1617) với 125 bạn, trong đó có 12 linh mục, 2 tư giáo, 5 trợ sĩ, 15 nam và 4 nữ hội viên Dòng Ba.

– 2/. Ngày 18/02/1981, chân phước (và hiển thánh ngày 18/10/1987), linh mục Ibanez de Erquicia († 14/05/1633) và 15 bạn, trong đó có 9 linh mục, 2 trợ sĩ, 2 nữ hội viên Dòng Ba.

Phải cho mãi đến năm 1904 trở đi, Tỉnh Dòng Mân Côi mới trở lại truyền giáo ở Japan.

2. Trung Hoa

Năm 1626, cha B. Martinez và bốn anh em Đaminh đã đặt chân đến Đài Loan để truyền giáo; và từ đây, đến năm 1630 đã vào Trung Hoa, và kể từ năm 1633, cha J.B. Morales đã củng cố vùng hoạt động tại Phúc Kiến. Tại đây, Dòng Đaminh đã dâng cho Thiên Chúa vị thánh tử đạo tiên khởi của Trung Hoa, cha Francisco Capillas († 15/01/1648). Dòng Đaminh cũng được vinh dự có vị Giám mục bản xứ đầu tiên vào năm 1685, Đức Cha Gregorio Lo (Lopez: Luo Wenzao, 1616-1691). Công cuộc truyền giáo tiếp tục cho đến năm 1955.

3. Việt Nam

Các cuộc “thám hiểm” của Tỉnh Dòng Mân Côi đến Việt Nam đã bắt đầu từ năm 1595 với cha Giám Tỉnh Alonso Jimenez và Diego Aduarte theo một đoàn hải quân Tây Ban Nha đến Cửa Hàn, nhưng không dừng lại lâu. Ba chuyến kế tiếp vào các năm 1598, 1603, 1628 cũng không may mắn hơn. Phải chờ đến năm 1676, Tỉnh Dòng mới cử hai cha Juan de Santa Cruz và Juan de Arjona tới Phố Hiến, theo lời mời của Đức Cha Francois Pallu, Đại Diện Tông Tòa Đàng Ngoài, mở đầu cho hoạt động lâu dài ở Việt Nam cho đến năm 1954.[8]

II. ANH EM ĐAMINH TRÊN MẢNH ĐẤT VIỆT NAM

Tuy Tỉnh Dòng Đaminh Việt Nam mới được thành lập năm 1967 (vào giữa thế kỷ XX), nhưng bóng dáng các Tu sĩ Đaminh Việt Nam đã xuất hiện từ trung tuần thế kỷ XVIII. Vì lý do chính trị (Pháp đặt nền đô hộ tại Việt Nam), từ năm 1877, Dòng không thâu nhận các Tu sĩ Việt Nam nữa. Vì thế, dòng lịch sử bị gián đoạn, được đặt tên là “Giai đoạn I”. “Giai đoạn II” được mở ra vào năm 1934, với việc trao áo tu phục cho 13 Thỉnh sinh tại Tập viện Quần Phương (Hải Hậu, Nam Định). Chúng ta nên ôn lại lịch sử của các vị “tiền bối” dựa theo một bài viết được đăng trong tập “Kỷ yếu Bách Chu Niên 4 Chân phước Tử Đạo tại Hải Dương 1861-1961”.[9] Tác giả đã phân chia thành hai nhóm dựa theo từng thế kỷ (XVIII và XIX); thế kỷ XIX lại tái phân thành hai thời kỳ.

A. Thế kỷ XVIII

Nếu Đức Cha khả kính Juan de Santa Cruz (Thập) đã được vinh hạnh là người tiên phong Địa phận truyền giáo Dòng Đaminh tại Việt Nam, thì chính ngài cũng đã chiếm được vinh hạnh đào tạo một số con dân nước Việt vào Dòng Đaminh để chung sức trong việc mở mang nước Chúa.

Năm 1738 có hai linh mục triều khôn ngoan đạo đức đã được diễm phúc khấn Dòng Đaminh trong tay cha chính Giuse Valerio. Một trong hai vị nói trên đã được Đức Cha Thập săn sóc nuôi nấng từ thủa nhỏ. Để tỏ lòng biết ơn ngài, cả hai cha Dòng Đaminh tiên khởi hình như thi đua lấy tên của Đức Cha để đặt cho mình. Vì vậy, một cha đã xin đặt trên trong Dòng là Pio de Santa Cruz, còn cha kia tên là Juan de Santo Domingo. Cha này trước đã có đôi bạn, nhưng đến sau, với sự đồng ý của bạn và Tòa Thánh, ngài xin đi tu làm linh mục triều, sau xin mặc áo và khấn Dòng Đaminh. Sau khi đã khấn, cha chỉ còn sống có 4 năm, nhưng đã lập nhiều công đức lớn lao cho Giáo Hội Việt Nam. Cha Pio đã theo giúp Đức Cha Thập từ còn niên thiếu. Sau khi chịu chức linh mục được 10 năm, cha mới xin nhập Dòng Đaminh. Trong khi hoạt động tông đồ, cha đã bị bắt giam hai lần vì đạo, nhưng được chuộc lại. Cha qua đời năm 1756. Đó là “trái đầu mùa” Dòng Đaminh Việt Nam. Lịch sử đã tặng cho ngài tước hiệu “Đáng kính”, vì đời ngài thánh thiện; hơn nữa, ngài cũng đã nếm thử xiềng xích gông cùm vì danh thánh Chúa Giêsu.

Mười năm sau, tức là năm 1748, cha chính Giuse Valerio nhận hai linh mục trẻ tuổi và một phó tế vào Dòng và cho khấn. Nên biết rằng, trong thời gian đó chỉ có một cha thừa sai, nhưng Chúa quan phòng đã cho thêm bốn cha người Việt để bổ khuyết phần nào vào công cuộc truyền giáo bên cạnh các cha triều.

Từ năm 1748-1796 đã tổ chức 14 lớp khấn Dòng, tổng cộng 35 cha, hầu hết là những linh mục trẻ trung, nhiều cha mới 26-27 tuổi. Trong số đó, có 6 cha và 1 thầy bốn chức được khấn Dòng tại Manila. Hầu hết các cha khác đã qua năm Tập Dòng tại Chủng viện Trung Linh (Bùi Chu).

B. Thế kỷ XIX

Lịch sử các Tu sĩ Dòng Đaminh Việt Nam trong thế kỷ này có thể tạm chia thành 2 giai đoạn, căn cứ vào 2 thời kỳ cấm đạo tàn khốc dưới triều vua Minh Mạng và Tự Đức. Trong mỗi giai đoạn, có một khoảng thời gian tương đối yên bình để các Tu sĩ có thời giờ chuẩn bị xông pha chiến trường. Giai đoạn thứ nhất từ năm 1802, khi Gia Long lên ngôi vua, cho đến năm 1841, khi vua Minh Mạng băng hà. Giai đoạn thứ hai khởi đầu bằng thời gian tương đối yên tĩnh dưới thời vua Thiệu Trị và chấm dứt năm 1882.

1. Thời kỳ thứ nhất: 1802-1840

Đây là khoảng thời gian hoàng kim trong lịch sử Dòng Đaminh Việt Nam: đoàn thể các anh em Đaminh Việt Nam đồng tiến cả về phẩm lẫn lượng tới mức tối đa trong lịch sử. Phần đông các linh mục triều xuất sắc trong Địa phận đã xin mặc áo và khấn Dòng. Không đầy 40 năm mà con số các cha Dòng Việt Nam đã lên tới 63 vị, ấy là chưa kể 16 cha đã khấn Dòng cuối thế kỷ trước và phần đông còn sinh sống hoạt động dưới triều vua Minh Mạng. Ngay trong 7 năm đầu (1802-1809) đã có 13 linh mục triều trẻ trung được khấn Dòng, trong số này có thánh Vincent Yến khấn Dòng năm 1808 và tử đạo dưới triều Minh Mạng.

Từ 1812 đến 1840, hai cha Chính Giuse Amando Chiêu và Vincent Bombin Trang đã làm tăng con số các cha Dòng Đaminh Việt Nam lên mức tối đa trong lịch sử. Chúa Quan Phòng đã dùng hai vị thừa sai tài đức này để huấn luyện một đội ngũ các nhà truyền giáo cần thiết cho cuộc loan báo Tin Mừng đầy thử thách cam go dưới triều vua Minh Mạng và Tự Đức sau này. Trong vòng 28 năm, đã có 50 linh mục được khấn Dòng; trong số đó có 18 vị được phước tử đạo; các cha khác phải sống chui rúc dưới hang hầm, chịu đựng nhiều hy sinh cay cực. Sử gia Gispert đã viết về đời sống hàng giáo sĩ Bắc kỳ trong 4 năm cuối đời Minh Mạng như sau:

Trong không đầy 4 năm trời, các Giám mục thuộc hai Địa phận Đông và Tây ký đã bị tống giam và xử tử. Hầu hết các vị thừa sai, và đa số các linh mục bản xứ, cũng đã chịu chung một số phận. Năm 1840, Địa phận Đông ký thuộc Dòng Đaminh còn 3 vị thừa sai, 37 cha Dòng Việt Nam và một số rất ít linh mục triều. Trong thời gian cực kỳ tang thương đó, các ngài đã làm được các phép bí tích như sau: Rửa Tội 143 người lớn, 1.012 trẻ em; Giải tội 118.307; cho rước lễ 109.515; làm phép cưới 1.630; xức dầu kẻ liệt 1.730. Cũng trong thời gian đó, cha chính Hieronimo Hermosilla Liêm đã nhận cho 6 linh mục xuất sắc mặc áo và khấn Dòng, trong số đó 4 vị được phúc đổ máu để chứng minh đức tin dưới triều vua Tự Đức.[10]

Thánh Đaminh Trạch đã kết thúc “mùa tử đạo” dưới thời vua Minh Mạng: ngày 18/9/1840, theo đề nghị của Trịnh Quang Khanh, tổng đốc Nam Định, vua Minh Mạng ký án xử tử linh mục Đaminh Trạch. Đó là bản án cuối cùng của nhà vua độc ác này, để rồi ngày 22/01/1841, chính vua Minh Mạng phải điệu đến trước Tòa án tối cao của Thiên Chúa lãnh án theo phép công bằng, xứng đối với việc nhà vua đã làm khi còn tại thế. Người ta biết rằng: ngày 22/01/1841 là hạn chót vua đã định để tiêu diệt cho kỳ hết giống “cỏ xấu hoa lang tả đạo”.

2. Thời kỳ thứ II: 1842-1882

Trong vòng 40 năm, chỉ có 30 cha khấn Dòng, các lớp mặc áo Dòng thưa dần và giảm số vì cơn bão táp phũ phàng dưới triều vua Minh Mạng đã quét sạch mọi cơ sở huấn luyện. Tiếp đến, cuộc cấm đạo dưới triều vua Tự Đức đã làm tê liệt hầu như mọi hoạt động truyền giáo. Năm 1856 có một lớp khấn Dòng tương đối đông nhất là 6 cha. Trong số các cha Dòng đã khấn trong kỳ này, có 10 vị được phúc tử đạo; thêm vào số đó có 11 vị tử đạo khác đã khấn trong kỳ trước nhưng đã được phúc tử đạo trong kỳ này.

Trong số 30 cha Dòng nói đây, có 4 vị đã qua đời trước khi vua Tự Đức ra chỉ cấm đạo, còn bao nhiêu đều đã hăng hái hoạt động trong giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam.

Năm 1849, cha già Đaminh Dược được hân hạnh chết vì đức tin để mở đầu cho một mùa tử đạo mới: cha bị bắt cùng với một thầy giảng, 6 chú Nhà Đức Chúa Trời và một ông đồ. Mấy cha con bị giải về Nam Định. Mặc dầu bị tra tấn cực kỳ dã man, các chú nhỏ vẫn tỏ ra trung thành với Thiên Chúa khiến các quan vô cùng ngạc nhiên và tha cho về vì còn bé chưa nỡ giết. Còn cha Đaminh vì thân già sức yếu chịu không nổi những cực hình đau đớn đó nên đã chết rũ tù ngày 13/05/1849.

Năm 1850, sau cuộc âm mưu phản loạn của ông Hoàng Bảo, vua Tự Đức ra chỉ cấm đạo ngặt hơn trước. Lần này, nhà vua nhất định tầm nã tiêu diệt cho kỳ hết bọn “tây dương đạo trưởng”. Ai cả lòng chứa chấp các vị đó cũng sẽ bị phân thây. Để đi đến kết quả đó, nhà vua hứa thưởng 300 lạng bạc cho những ai tố giác “tây dương đạo trưởng”. Cuộc cấm đạo khốc hại này kéo dài hơn 10 năm trời, nhưng đôi khi ngưng hoạt động vì những lý do chính trị không cho phép. Nhờ có những thời gian “ngưng chiến” đó mà năm 1856, cha Manuel Ignacio Rianho Hòa đã có thể tổ chức lại Chủng viện và các lớp Tập Dòng tại Phú Nhai. Từ 1850 đến năm 1862, có 26 cha Dòng Đaminh Việt Nam phải ngã gục trên vũng máu đào để làm chứng đức tin của mình, trong số đó hai vị đã được đặt lên bàn thờ: cha Đaminh Mậu, tử đạo năm 1858, và Giuse Tuân, tử đạo năm 1861.

Năm 1874, cha Đaminh Cần được nhận cho khấn Dòng, sau đó được cử đi xứ Kẻ Mèn. Tiếp đến, cha Giuse Nghiêm được khấn Dòng năm 1877 và được cử đi coi xứ Cao Mộc (Thái Bình).

Năm 1882 đến lượt cha Bartholomew Oanh khấn Dòng và khóa sổ các cha Đaminh Việt Nam trong Giai đoạn I. Cha còn sống cho đến ngày 23/07/1919 mới qua đời. Sau đó, người ta phải chờ cho đến năm 1934 mới lại thấy bóng dáng người Việt Nam trong bộ áo trắng của Dòng Đaminh. Trong giai đoạn này, lịch sử đã ghi lại 134 linh mục và 1 thầy bốn chức người Việt được mặc áo và khấn Dòng. Trong số đó, 35 vị được phúc lấy máu đào làm chứng đức tin, và 11 vị được tôn phong hiển thánh.[11]

C. Thế kỷ XX[12]

1. Tại Miền Bắc

Theo hướng đi chung của Thánh Bộ Truyền Giáo và tinh thần Thông điệp Rerum Ecclesiae của Đức Giáo Hoàng Piô XI, toàn bộ các xứ truyền giáo được chuẩn bị để trao lại cho hàng giáo sĩ địa phương. Năm 1926, Đức Cha Munagorri Trung O.P., nhân dịp về Rôma, đã trình bày lên Đức Thánh Cha ước muốn chuẩn bị một Tỉnh Dòng Đaminh tại Việt Nam. Trở về nước, Đức Cha cùng các Bề trên Dòng đã xây cất và khánh thành trường Đệ Tử Hải Dương. Năm 1931, qui tụ 40 đệ tử đầu tiên làm nền móng cho Tỉnh Dòng tương lai.

Đến năm 1934, Tập viện Đaminh đầu tiên tại Việt Nam được thiết lập tại Quần Phương, Nam Định, đón nhận 13 tập sinh tiên khởi. Và đến ngày 08/12/1935, 12 Tu sĩ tuyên khấn, khởi sự Giai đoạn II của các Tu sĩ Đaminh tại Việt Nam.

Ngay sau đó, Tỉnh Dòng Mân Côi đã lần lượt gởi nhiều anh em đi du học ở một số quốc gia khác, như: Hong Kong, Philippines, Belgium, France, Roma, Canada, Jerusalem. Tùy theo năng khiếu và nhu cầu, anh em chọn theo học nhiều ngành chuyên môn khác nhau như: Kinh Thánh, Triết Học, Xã Hội, Văn Chương, Lịch Sử, Khoa Học hoặc Quản Trị Học Đường.

Chỉ trong vòng Mười năm, từ 1935-1945, các Tu sĩ đã tuyên khấn lên tới con số 75 (57 tư giáo, 18 Tu huynh); tuy nhiên sau đó, từ 1946-1954, do hoàn cảnh chiến tranh thời chống Pháp, chỉ có 15 người (11 tư giáo và 4 Tu huynh). Tổng kết cho đến năm 1954, nhân sự Phụ Tỉnh lúc này chỉ còn 69 Tu sĩ (không kể 8 người đã về nhà Cha, 6 người chuyển sang Triều và 7 người không khấn trọn).

Ngoài Tu xá thánh Đaminh ở Hải Dương (nơi có trường Đệ Tử) và Tu xá thánh Vincent tại Cát Đàm, Thái Bình (thành lập năm 1938, và cũng là trụ sở của Phụ Tỉnh Đaminh Việt Nam), anh em đã có 2 Tu viện Gabrien tại Bắc Ninh (thành lập năm 1939, và Tập viện cũng được di chuyển từ Quần Phương về đây) và Tu viện thánh Thomas ở Khoái Đồng, Nam Định (thành lập năm 1947). Ngoài ra, trong quần thể phần diện tích đất tại Khoái Đồng, còn có Giáo Hoàng Chủng Viện Alberto, nơi đào tạo linh mục cho các Địa Phận Dòng (1930-1954).

Từ năm 1939, hàng năm Phụ Tỉnh đều có tân linh mục. Nhiều vị được cắt cử làm giáo sư Giáo Hoàng Chủng viện Alberto Nam Định, giáo sư Chủng viện, hoặc phụ trách Giáo xứ. Bảy anh em được chọn làm giáo sư Giáo Hoàng Chủng viện tại Rosaryhill, Hong Kong. Năm 1951, theo lời mời của Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, cha Giuae Hoàng Mạnh Hiền đã góp phần tích cực trong việc cải tổ, huấn luyện và thành lập Hội Dòng nữ Đaminh Việt Nam tại Bùi Chu.

Ngoài ra, trong số các anh em Đaminh lúc này, đã được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục: Đức Cha Đaminh Hoàng Văn Đoàn, Giám mục Giáo phận Bắc Ninh (1950-1960) và Giáo phận Qui Nhơn (1963-1974); Đức Cha Giuse Trương Cao Đại, Giám mục Giáo phận Hải Phòng (1953-1955).

2. Tại Miền Nam

Biến cố năm 1954 của đất nước đã khiến cho không chỉ anh em Đaminh Việt Nam mà cả Giáo Hội Việt Nam phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, cho dù phải đối diện với một hiện thực đầy hoang mang và không biết trước tương lai thế nào, nhưng các anh em Đaminh vẫn quyết tâm và khẳng định ý muốn xây dựng Tân Tỉnh Dòng trên đất Việt. Đang khi các thừa sai (trừ 5 vị) rút về Philippines và Hong Kong để thi hành sứ vụ truyền giáo nơi khác, thì các anh em đã chọn chia sẻ với những gian truân của anh chị em tín hữu trên vùng đất mới lạ, và nỗ lực duy trì cũng như tái lập Đệ Tử Viện nhằm chuẩn bị cho tương lai.

Ngoài một số các giáo sư đi theo Chủng sinh thuộc Giáo Hoàng Chủng Viện qua Hong Kong, các anh em Đaminh vẫn luôn hiện diện và hỗ trợ các anh chị em tín hữu từ các Giáo phận trong các lều tạm trú, và cố gắng tìm mọi cách để ổn định cuộc sống cho họ.

Số đệ tử sinh trong cuộc di cư vào Miền Nam và sống tập trung không nhiều, nhưng cũng đủ để tạo nên một thế hệ chuyển tiếp. Số Tu sĩ khấn từ 1954-1964 được 16, trong đó có 13 linh mục. Tuy nhiên, việc quyết định mở lại Đệ Tử Viện tại Gò Vấp ngay năm 1956, dù phải di dời qua các nhiều địa điểm khác nhau nhiều lần: đến Vũng Tàu (1957-1962), Phú Nhuận (1962-1965) rồi trở lại Gò Vấp, đã đem lại thành quả rõ rệt. Số Tu sĩ khấn từ 1965-1976 được 89 người, là thành phần nhân sự trẻ quan trọng trong giai đoạn mới của Tỉnh Dòng.

Từ ngày 21/12/1956, Phụ Tỉnh chính thức có Bề trên Việt Nam đầu tiên: Cha chính Giuse Nguyễn Tri Ân (1956-1964), rồi đến Cha chính Joachim Nguyễn Văn Liêm (1964-1967).

Năm 1961, cha Jesus Gayo, Giám tỉnh Tỉnh Dòng Mân Côi, trong chuyến kinh lý tại Việt Nam, đã chính thức cổ võ việc thiết lập Tân Tỉnh Dòng độc lập. Dự án này cũng được Tổng Hội Bogota năm 1965 đặc biệt khích lệ; đồng thời, Tổng Hội này cũng ủy cho Bề Trên Tổng Quyền Aniceto Fernandez tiến hành các điều kiện cần thiết để cho dự án được diễn ra cách tốt đẹp.

III. TÓM LƯỢC NIÊN BIỂU TỈNH DÒNG ĐAMINH VIỆT NAM (1967 – 2016)

Năm 1967

– Thành lập Tỉnh Dòng Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo, Việt Nam.

– Ngày 18/3, với sự hiện diện của Bề Trên Tổng Quyền Aniceto Fernandez, cha Joachim Nguyễn Văn Liêm được đặt làm Bề trên Giám Tỉnh tiên khởi. Nhân sự của Tỉnh Dòng gồm 112 Tu sĩ: 2 Giám mục, 52 linh mục, 23 trợ sĩ, 26 sinh viên, 7 tập sinh và 137 đệ tử sinh. Tỉnh Dòng có 3 Tu viện: Thomas, Vũng Tàu; Alberto, Phú Nhuận; Mân Côi, Gò Vấp.

– Ngày 17/5, với Sắc lệnh số 129/65/67, Bề Trên Tổng Quyền đã nâng Tu xá thánh phụ Đaminh, Tăng Nhơn Phú, lên hàng Tu viện, và do ủy quyền của Bề Trên Tổng Quyền, Bề trên Tỉnh đã đặt cha Giuse Nguyễn Công Lý làm Bề trên tiên khởi. Học viện dời từ Vũng Tàu về Tu viện mới, khai giảng khóa đầu tiên ngày 25/9.

– Cha Hieronimo Phạm Quang Tự đã xuất bản từ năm 1966 Nguyệt san LIÊN LẠC để truyền bá kinh Mân Côi và Dòng Ba Đaminh cũng như tinh thần và việc tông đồ của Dòng và riêng Tỉnh Dòng.

Năm 1968

– Lần đầu tiên, Tỉnh Dòng Việt Nam có đại diện tham dự Tổng Hội, họp tại River Forest, Chicago, USA, từ 30/8-24/10, để soạn lại Hiến Pháp cho phù hợp với những thay đổi của Công Đồng Vatican II.

Năm 1969

– Cha Andrew Đinh Dưỡng Thiệm tham dự Hội nghị Quốc tế các giáo sư Thần học Luân lý nhóm họp từ ngày 10 đến ngày 16/3 tại Tu viện Walberberg, Đức quốc.

– Đức Cha Trương Cao Đại qua đời tại Madrid ngày 29/6.

– Ngày 03/8, áp lễ cha Thánh Đaminh, Đaminh Học viện, Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức, đã được long trọng khánh thành. Tham dự cuộc lễ có Đức Ông Alberto Tricarico, Cố vấn Sứ Thần Tòa Thánh, Quyền Khâm sứ tại Việt Nam; Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám mục Sài Gòn; cùng đông đảo quý Đức Cha, Bề trên các Hội Dòng, và đại diện phía chính quyền các cấp.

– Khánh thành lớp triết lý thần học Sedes Sapientiae dành cho nữ tu tại Thủ Đức (15/9). Con số ghi danh được 100 người.

– Tỉnh Hội ngoại thường họp tại Thủ Đức (7-30/10) để soạn thảo quy chế của Tỉnh Dòng.

Năm 1971

– Cha Alejandro Fernandez Báu qua đời (2/1). Ngài là vị thừa sai cuối cùng thuộc Tỉnh Dòng Rosario tại Việt Nam. Tính đến thời điểm này, Tỉnh Dòng Rosario đã phái sang Việt Nam 245 thừa sai (kể cả 2 thầy Tu huynh).

– Thủ bản Dòng Ba Đaminh tại Việt Nam soạn thảo theo tinh thần đổi mới của Công Đồng Vatican II và Tổng Hội River Forest (1968) đã được Bề Trên Tổng Quyền châu phê (Prot. n. 710626/T1).

– Tỉnh Hội bầu cử họp tại Thủ Đức (từ 26/12/1971 đến 13/01/1972). Cha Joachim Nguyễn Văn Liêm tái cử Giám Tỉnh.

Năm 1972

– Lễ truyền chức linh mục cho các sinh viên tốt nghiệp Học viện Đaminh Thủ Đức (8/8).

Năm 1973

– Sắc lệnh của Tòa Giám mục Sài Gòn thành lập Hội Dòng nữ Đaminh thánh hiệu Rosa Lima (1/1), trụ sở đặt tạm thời tại Từ Đức (Thủ Đức).

– Khánh thành Tu xá Văn Côi, Hố Nai (6/1). Trước đó, Tu xá Văn Côi đặt tại Giáo xứ Ngọc Đồng (thành lập năm 1957) được chuyển về địa điểm mới.

Năm 1974

– Đức Cha Giuse Hoàng Văn Đoàn qua đời tại Sài Gòn ngày 20/5 (ngài làm Giám mục Quy Nhơn từ năm 1962).

Năm 1975

– Cha Nguyễn Công Lý về Rome nhận chức vụ Phụ tá Bề Trên Tổng Quyền đặc trách miền Á Châu (20/2).

– Biến cố 30/4 mở đầu cho phong trào tị nạn ra nước ngoài, đặc biệt là sang Bắc Mỹ. Cha Giám Tỉnh được đặt làm đại diện Bề Trên Tổng Quyền (Vicarius Magistri Ordinis) tại Việt Nam (26/4).

Năm 1976

– Tỉnh Hội bầu cử họp tại Thủ Đức (từ 6-14/6). Cha Joachim Nguyễn Văn Liêm tái cử Giám Tỉnh (nhiệm kỳ III).

Năm 1978

– Tu viện thánh phụ Đaminh (cùng Đaminh Học viện đặt tại đây), Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức, bị nhà nước chiếm giữ (19/4). Các sinh viên buộc phải phân tán sang các cộng đoàn nhỏ (Phụ xá): Long Bình, Minh Đức, Lạc Quang, Tam Hải, Tam Hà, Bình Phước.

– Sắc lệnh của Tổng Giám mục Sài Gòn thành lập Hội Dòng nữ Đaminh Lạng Sơn, thánh hiệu Đức Mẹ Mân Côi (8/12).

Năm 1979

– Ngày 17/3, các anh em: Đaminh Đinh Viết Tiên, Đaminh Phạm Ngọc Điển, Giuse Phạm Hưng Thịnh đi mở giáo điểm truyền giáo tại ấp kinh tế mới tại Xã lộ 25, Thống Nhất, Đồng Nai (quen gọi là Suối Bí).

Năm 1980

– Cha Giuse Nguyễn Công Lý được Bề Trên Tổng Quyền đặt làm Đại diện Giám Tỉnh phụ trách anh em Đaminh Việt Nam tại hải ngoại (9/11).

Năm 1981

– Tỉnh Hội họp tại Phú Nhuận (18/3–6/4). Cha Giuse Đoàn Thiệu được bầu làm Giám Tỉnh, và được ủy quyền làm Đại diện Bề Trên Tổng Quyền (4/4).

– Tu viện thánh Tôma tại Vũng Tàu bị nhà nước tịch thu (10/10). Tập viện được xê dịch sang nhiều nơi khác nhau (Gò Vấp, Phú Nhuận, Hố Nai).

Năm 1982

– Cha Giám Tỉnh Giuse Đoàn Thiệu ký quyết định (Prot. n.432) nâng Tu xá Văn Côi, Hố Nai, thành Tu viện.

Năm 1983

– Cha Giuse Phạm Quang Chiêu qua đời tại Gò Pháo (15/6), vị linh mục Đaminh cuối cùng trên đất Bắc.

Năm 1985

– Tỉnh Hội họp tại Tu viện Alberto, Phú Nhuận (28/5). Cha Giuse Đoàn Thiệu tái đắc cử Giám Tỉnh (nhiệm kỳ II).

Năm 1986

– Qua văn thư đề ngày 23/01, cha Bề Trên Tổng Quyền Damian Byrne đã chấp nhận Thỉnh nguyện của Tỉnh Hội 1985 (số 27), xin “dời lễ bổn mạng Tỉnh Dòng vào ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi (15/9)”.

– Nghị định của Bề Trên Tổng Quyền thành lập Phụ Tỉnh Việt Nam tại Calgary, Canada (13/11). Cha Đaminh Lê Thành Nghĩa được bầu làm Bề trên Phụ Tỉnh (09/02/1987) với nhiệm kỳ 4 năm. Kế đó là cha Giuse Hà Viễn Lự (1991–1995; 1995–1999).

– Cha Joachim Nguyễn Văn Liêm, Đại diện Bề Trên Tổng Quyền, ký quyết định tái lập Học viện Đaminh tại Tu viện Mân Côi, Gò Vấp (14/02).

– Bản dịch Kinh nguyện Phụng vụ Phần riêng Dòng Đaminh được hoàn tất và phổ biến cho toàn Tỉnh Dòng.

Năm 1988

– Đại Lễ tuyên hiển thánh cho 117 vị tử đạo tại Việt Nam diễn ra ở Rome (19/6). Cha Vincent Phạm Hiếu Liêm, O.P. là vị tử đạo người Việt đầu tiên trong danh sách này (07/11/1773).

– Trong hoàn cảnh đặc biệt, Bề trên Giám Tỉnh Giuse Đoàn Thiệu, Đại diện Bề Trên Tổng Quyền, đã thành lập hai Tập viện tại Tu viện Alberto Cả, Phú Nhuận, và Tu viện Văn Côi, Hố Nai, đồng thời cắt cử hai vị giáo tập là Tu sĩ Đaminh Vũ Đức Cương và Tu sĩ Hieronimo Phạm Quang Tự.

– Ngày 30/9, Đức Giám mục Giáo phận Xuân Lộc đã truyền chức linh mục cho Tu sĩ Đaminh Phạm Ngọc Điển. Đây là lễ truyền chức chính thức (được nhà nước công nhận) đầu tiên của anh em Đaminh tại Việt Nam từ sau biến cố 1975.

Năm 1989

– Lần đầu tiên kể từ sau năm 1975, Giám Tỉnh Việt Nam tham dự Tổng Hội Dòng, họp tại Oakland (tháng 7).

Năm 1990

– Tỉnh Hội họp tại Tu viện thánh Alberto, Phú Nhuận (7–23/2). Cha Giuse Đinh Châu Trân đắc cử Giám Tỉnh.

– Ngày 30/9, cung hiến thánh đường Giáo xứ Minh Đức.

Năm 1991

– Cha Bernard East, phụ tá Bề Trên Tổng Quyền, thăm viếng Tỉnh Dòng (1–10/3). Xét vì sự liên lạc dễ dàng hơn, chức vụ “Đại diện Bề Trên Tổng Quyền tại Việt Nam” từ năm 1975 chấm dứt.

– Từ 02–04/4, Bề Trên Tổng Quyền Damian Byrne đã kinh lý Phụ Tỉnh thánh Vincent Liêm, Calgary, Canada, và chấp thuận cho Phụ Tỉnh sinh hoạt thêm 10 năm nữa, và được phép đào tạo ơn gọi.

– Ngày 08/8, Đức Giám mục Giáo phận Xuân Lộc làm phép nguyện đường Tu viện Văn Côi, Hố Nai. Trước đó, ngày 29/2, nhà thờ Giáo xứ Bưng Kè do Tu sĩ Đaminh Phạm Ngọc Điển làm chánh xứ cũng đã được khánh thành.

– Ngày 29/10, Ban Cố Vấn Tỉnh Dòng chấp thuận đổi thánh hiệu Tu viện Văn Côi, Hố Nai thành Tu viện thánh Martino de Pores.

– Ngày 21/12, thánh lễ truyền chức linh mục chính thức (được nhà nước công nhận) đầu tiên sau biến cố 1975 của anh em Đaminh tại Tổng Giáo phận Sài Gòn được tổ chức. Hai anh em được truyền chức là Giuse Nguyễn Cao Luật và Giuse Phạm Quang Sáng.

– Bề Trên Tổng Quyền Damian Byrne thăm viếng Tỉnh Dòng (27–30/12).

Năm 1992

– Ngày 18/3, kỷ niệm 25 năm thành lập Tỉnh Dòng, có sự hiện diện của cha San Roman (Đại diện Tỉnh Dòng Rosario, Tỉnh Dòng mẹ) và cha Honorato Castigador, Giám Tỉnh Tỉnh Dòng Philippines.

Năm 1994

– Từ 10 – 27/02, Tu sĩ Kevin Toomey, Phụ tá Bề Trên Tổng Quyền, đặc trách vùng Châu Á – Thái Bình Dương đến thăm Tỉnh Dòng.

– Tỉnh Hội họp tại Tu viện Mân Côi, Gò Vấp (22/5 đến 4/6). Cha Giuse Đinh Châu Trân tái đắc cử Giám Tỉnh (nhiệm kỳ II).

Năm 1995

– Qua văn thư ngày 15/01, Bề Trên Tổng Quyền Timothy Radcliffe đã nâng Phụ xá Tam Hà lên thành Tu xá thánh Phêrô, và nâng Phụ xá Bình Phước lên thành Tu xá thánh Jacinto.

– Ngày 19/8, thiết lập Tu xá thánh Martino tại Vancouver, Canada.

Năm 1996

– Từ 07 – 26/02, hai vị Phụ tá Bề Trên Tổng Quyền là Jean Jacques Pérennès, đặc trách Sinh Hoạt Tông Đồ, và Kevin Toomey, đặc trách vùng Châu Á – Thái Bình Dương, đã đến thăm và làm việc với Tỉnh Dòng.

– Thành lập Liên hiệp các Hội Dòng nữ Đaminh Việt Nam (10/3).

– Ngày 25/11, Tu xá thánh Đaminh tại Calgary, Canada, được nâng lên thành Tu viện. Đồng thời, thiết lập Phụ xá thánh Vincent Liêm trực thuộc Tu viện trên.

Năm 1997

– Kỷ niệm 30 năm thành lập Tỉnh Dòng (từ 18/3 đến 15/9). Hiện diện trong thánh lễ bế mạc có 3 vị phụ tá Bề Trên Tổng Quyền: phụ trách vùng Châu Á – Thái Bình Dương, phụ trách Sinh Hoạt Trí Thức, và phụ trách Nữ Tu Chiêm Niệm.

– Bề Trên Tổng Quyền Timothy Radcliffe kinh lý Tỉnh Dòng trong vòng 2 tuần (1–17/12).

Năm 1998

– Tỉnh Dòng ký kết văn bản trao lại hai Giáo xứ Minh Hòa và Hòa Thuận được thiết lập tại “vùng kinh tế mới” cho Giáo phận Xuân Lộc (20/4).

– Cùng ngày 20/04, Đức Cha Phaolo Maria Nguyễn Minh Nhật, Giám mục Giáo phận Xuân Lộc và linh mục Giuse Đinh Châu Trân, Giám tỉnh Tỉnh Dòng Đaminh Việt Nam, đã ký văn bản chấp thuận trao Giáo xứ Ngọc Đồng, Hố Nai, cho Tỉnh Dòng Đaminh Việt Nam phụ trách cách vĩnh viễn. Hai nhân chứng cùng hiện diện và ký nhận trong biên bản là linh mục Đaminh Ngô Công Sứ, chánh văn phòng Tòa Giám Mục Xuân Lộc và linh mục Đaminh Đinh Viết Tiên, OP., thành viên Tỉnh Dòng.

– Đệ tử viện tại Bình Phước được dời về Tu xá thánh Phêrô, Tam Hà (18/6). Từ năm 1975 đến nay, trường Đệ tử đã thay đổi địa sở và bộ dạng nhiều lần. Theo ngôn ngữ Giáo luật hiện hành, trường được gọi là “Tiền Tập viện” hay “Thỉnh viện”.

– Tu xá thánh Phêrô đổi thánh hiệu thành Tu xá thánh Vincent Liêm.

Năm 1999

– Ngày 20/6, Giáo xứ Hòa Thuận, Bưng Kè, được bàn giao lại cho Giáo phận Xuân Lộc, sau hơn 10 năm được anh em Đaminh gầy dựng và coi sóc.

– Tỉnh Hội họp tại Tu viện thánh Martino, Hố Nai (23/5 đến 5/6). Cha Giuse Nguyễn Cao Luật đắc cử Giám Tỉnh. Phụ Tỉnh Lyon, Pháp, tại Việt Nam chính thức sát nhập vào Tỉnh Dòng (trước đó, Tỉnh Dòng Lyon sát nhập vào Tỉnh Dòng Pháp từ 07/07/1997).

– Phiên họp đầu tiên của Ban Cố Vấn Tỉnh Dòng ngày 14/7 đã đưa ra một số quyết định quan trọng, trong đó: Tập viện được dời về Tu viện Martino, Hố Nai. Học viện được phân chia thành hai nơi: Triết học tại Tu viện Mân Côi, Gò Vấp; Thần học tại Tu viện Mai Khôi, quận 3. Học viện dành cho việc huấn luyện các anh em Tu huynh được đặt tại Tu viện Alberto, Phú Nhuận.

– Đại hội của Phụ Tỉnh Calgary (05–07/7): cha Phaolo Trần Trung Dung được bầu làm Bề trên phụ tỉnh. Websites của Tỉnh Dòng lần đầu xuất hiện trên Internet.

– Ngày 12/9, Tu sĩ Viktor Hofstetter, Tổng đặc trách Nữ Đan Sĩ Đaminh, đã đến Việt Nam để khảo sát việc đặt nền móng cho đời sống đan tu Đaminh tại Việt Nam.

– Ngày 08/12, Đức Cha Nicola Huỳnh Văn Nghi, Giám mục Giáo phận Phan Thiết, đã chủ sự nghi thức và thánh lễ đặt viên đá xây dựng nhà thờ Giáo xứ Hòa Bình, Gò Vấp.

Năm 2000

– Năm Thánh cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai ghi nhận nhiều biến cố trong Tỉnh Dòng: số khấn sinh lần đầu (22) và tập sinh (23) đạt mức kỷ lục (14–15/8); Những cuộc thực tập Tông đồ của các sinh viên sau giai đoạn Triết học đã đến những biên cương mới ở miền Bắc và Tây Nguyên; Ngôi nhà Học viện Gò Vấp được đưa vào sử dụng; Một số anh em lên đường du học; các nhân viên tại Trụ Sở Trung Ương Dòng (Santa Sabina) cũng siêng năng thăm viếng Việt Nam.

– Ngày 09/01, Tỉnh Dòng bàn giao Giáo xứ Xuân Trà cho Giáo phận Xuân Lộc.

– Ngày 29/6, Giáo xứ Thánh Tâm long trọng khánh thành ngôi thánh đường mới, sau hơn 4 năm xây dựng.

– Ngày 27/7, anh em trong Tỉnh Dòng đã quy tụ về Tu xá thánh Vincent Liêm, Tam Hà, để tham dự ngày họp mặt mừng Năm Thánh 2000. Chủ đề ngày họp mặt là “Cum Christo paupere, pauperes” (trở nên nghèo khó cùng với Đức Kitô khó nghèo).

– Ngày 06/8, Tu sĩ Guido Vergauwen, phụ tá Bề Trên Tổng Quyền, đặc trách Sinh Hoạt Trí Thức, đã đến thăm và làm việc với Tỉnh Dòng để hoàn tất Dự thảo Quy Chế Học Vấn của Tỉnh Dòng.

– Ngày 07/10, nhân dịp lễ Đức Mẹ Mân Côi, Tu viện – Giáo xứ Mân Côi khánh thành ngôi nhà Mục Vụ Giáo Lý.

Năm 2001

– Từ 30/01 đến 10/02, ba vị phụ tá Bề Trên Tổng Quyền là Kevin Toomey, đặc trách khu vực Châu Á – Thái Bình Dương; Pablo Romo, đặc trách Công Lý và Hòa Bình; Antoine Lion, đặc trách Truyền Thông và Văn Hóa, đã đến thăm và chung vui với anh em nhân ngày đầu xuân (Tết Nguyên Đán).

– Từ 28 – 31/5, Tu sĩ Fausto B. Gomez, Khoa trưởng Phân Khoa Thần Học, và linh mục Domingo Moraleda, C.F.M., Khoa trưởng Phân Khoa Đời Sống Thánh Hiến, thuộc Đại học Santo Tomas, Malina, Philippines, đến thăm và thảo luận vấn đề học vấn với Tỉnh Dòng.

Năm 2002

– Ngày 28/01, sau hơn 3 năm thi công, Học viện Đaminh tại Tu viện Mân Côi, Gò Vấp, chính thức được khánh thành và đi vào sử dụng, đánh dấu một giai đoạn mới, giai đoạn phát triển và ổn định của Học viện.

– Từ 01–06/7, anh em trong Tỉnh Dòng đã có tuần tĩnh tâm chung tại ngôi nhà Học viện mới khánh thành. Chủ đề tuần tĩnh tâm là “Canh tân đời sống tâm linh”.

Năm 2003

– Ngày 14/01, Bề trên Giám Tỉnh đã đến thăm và trao đổi với Ban Giám Đốc Đại học Santo Tomas, Malina, Philippines, về vấn đề liên kết đào tạo giữa Tỉnh Dòng và Phân Khoa Thần Học của Đại học.

– Từ ngày 16–23/02, cha Bề Trên Tổng Quyền Carlos Alfonso Azpiroz Costa và cha Quirico Pedregosa, phụ tá vùng Châu Á – Thái Bình Dương, đã viếng thăm Tỉnh Dòng. Hai cha đã đi thăm nhiều nơi, gặp gỡ và nói chuyện với mọi thành phần trong gia đình Đaminh Việt Nam. Sau thời gian viếng thăm, hai cha đã có những tình cảm tốt đẹp về Tỉnh Dòng và rất mong sớm có dịp trở lại.

– Tỉnh Dòng cũng hân hạnh đón các cuộc viếng thăm của anh em các Tỉnh Dòng khác: hai cha thuộc Tỉnh Dòng Pháp, Alain Riou và Guy Bedouelle, một trong những chuyên viên có uy tín trong lãnh vực lịch sử và linh đạo của Dòng (09–16/02); hai cha Eric, nguyên Bề trên Giám Tỉnh Tỉnh Dòng Pháp và cha Bruno Dominic (09/2003); cha Bonifacio Solis, Giám Tỉnh Tỉnh Dòng Rosario và cha Jose Legido, phụ tá (3–5/10); cha Marcio A. Couto, Giám Tỉnh Tỉnh Dòng Bartolomeo de Las Casas, Brasil, và cha Anthony Moser, giáo sư thần học luân lý, hiện nay đang là giám đốc Nhà xuất bản Công Giáo ở Brasil, thuộc Dòng Phanxicô (27/10); cha Wojciech Giertych, phụ tá Bề Trên Tổng Quyền đặc trách Đời Sống Trí Thức (21–27/12).

– Từ 06–21/06, Tỉnh Hội đầu tiên kể từ Tỉnh Hội hiệp nhất (1999) giữa Tỉnh Dòng Đaminh Việt Nam và anh em thuộc Phụ Tỉnh Lyon, đã diễn ra tại Tu viện Mai Khôi. Tỉnh Hội quy tụ các anh em đại diện Phụ Tỉnh, các Tu viện, Tu xá, và đại biểu các anh em đang học tập tại các Tỉnh Dòng khác. Các Nghị huynh đã bầu cha Giuse Nguyễn Cao Luật vào chức vụ Giám Tỉnh (nhiệm kỳ II: 2003–2007).

– Sau Tỉnh Hội đúng 1 tháng, từ ngày 07-11/07, Phụ Tỉnh Hội cũng đã diễn ra tại Calgary, Alberta, Canada. Đây là Phụ Tỉnh Hội có số Nghị huynh đông và đầy đủ nhất từ trước tới nay. Các Nghị huynh tham dự Phụ Tỉnh Hội đã bầu cha Phaolo Trần Trung Dung vào chức vụ Bề trên Phụ Tỉnh (nhiệm kỳ II).

– Ngày 04/12, Ban Cố Vấn Trung ương Dòng đã tiến cử cha Joachim Nguyễn Văn Liêm, nguyên Bề trên Giám Tỉnh tiên khởi, làm Tôn Sư Thần Học.

Năm 2004

– Ngày 29/03, Ban Cố Vấn Trung ương Dòng đã tiến cử cha Tanila Hoàng Đắc Ánh làm Tôn Sư Thần Học.

– Ngày 01/04, Trụ Sở Tỉnh Dòng, sau thời gian dài đặt tại Tu viện thánh Alberto Cả, Phú Nhuận, đã chính thức chuyển về địa chỉ mới tại số 43 Nguyễn Thông, Phường 7, Quận 3, theo tinh thần Công vụ Tỉnh Hội 2003, số 225 và quyết định của Ban Cố Vấn Tỉnh Dòng trong phiên họp ngày 27/03. Cộng đoàn gồm có 5 thành viên: Giám Tỉnh, Phụ tá, Quản lý, Thư ký và Thầy quản lý cộng đoàn.

– Từ ngày 27/07 đến 17/08, Tổng Hội thứ 128 của Dòng diễn ra tại Tu viện Chúa Ba Ngôi, Krakow, Ba Lan. Tu sĩ Phanxicô Xavie Đào Trung Hiệu là Giám định viên của Tỉnh Dòng tham dự Tổng Hội này.

– Nhân dịp lễ Bổn mạng Tỉnh Dòng 15/09, “Sách Hiến Pháp và Chỉ Thị Dòng Anh Em Giảng Thuyết”, bản dịch mới nhất, đã chính thức được giới thiệu với toàn thể anh em trong Tỉnh Dòng. Sách dày 400 trang, nội dung cập nhật theo Tổng Hội Krakow.

– Giáo xứ Thánh Tâm và Giáo xứ Ngọc Đồng mừng kỷ niệm 50 năm thành lập trong tháng 9 và 10/2004. Cả hai Giáo xứ đã có những hoạt động hết sức thiết thực và sôi động, kéo dài trong nhiều ngày liền, để chào mừng biến cố trọng đại này. Dịp này, Giáo xứ Ngọc Đồng cũng kỷ niệm 300 năm đón nhận đức tin và đón tiếp cha chánh và cha phó xứ mới.

– Ngày 30/10, Trung Tâm Học Vấn Đaminh tổ chức buổi hội thảo với chủ đề “Yves Congar, con người và tư tưởng” để kỷ niệm 100 ngày sinh của của nhà Thần học này. Buổi hội thảo với sự góp mặt đông đảo của hơn 500 nam nữ sinh viên, khách mời trong cũng như ngoài Trung Tâm Học Vấn. Thành phần ban thuyết trình gồm: Đức Cha Phaolo Bùi Văn Đọc, cha Toma Thiện Cẩm, cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp, giáo sư Nguyễn Khắc Dương, nữ tu Mai Thành CND, và cha Giuse Nguyễn Trọng Viễn.

Năm 2005

– Ngày 07/04, Tu xá thánh Đaminh, Đà Lạt, mừng kỷ niệm 50 năm thành lập. Đây là một trong những cộng đoàn đầu tiên của Tỉnh Dòng tại Miền Nam Việt Nam sau ngày di cư 1954.

– Ngày 26/06, khánh thành Phòng Khám Mai Khôi tại Trung Tâm Phaolô Nguyễn Văn Bình, 43 Nguyễn Thông, phường 7, quận 3, Tp. HCM, nhằm phục vụ những bệnh nhân nghèo, neo đơn, đặc biệt là những người nhiễm HIV/AID.

– Từ ngày 25/08 đến ngày 20/09, hai cha Phụ tá Bề Trên Tổng Quyền, là cha Quirico Tamayo Pedregosa và cha Thomas Chrys McVey đã viếng thăm chính thức và kinh lý Tỉnh Dòng. Hai cha đã đến viếng thăm các Tu viện, gặp gỡ trao đổi với từng anh em. Ngoài ra, các cha còn có cuộc gặp gỡ với đại diện các thành phần của gia đình Đaminh Việt Nam.

– Ngày 28/8, khánh thành Thánh Đường Giáo xứ Đaminh – Ba Chuông, Phú Nhuận. Thánh lễ do Đức Hồng Y Gioan B. Phạm Minh Mẫn chủ tế.

– Ngày 07/10, lễ Đức Mẹ Mân Côi, Tu viện Mai Khôi mừng kỷ niệm 50 năm hình thành Tu viện. Cha phó bề trên Andrew Đỗ Xuân Quế cùng với anh em Tu viện dâng thánh lễ tạ ơn Thiên Chúa. Năm 1955, Tu viện Mai Khôi khi ấy chỉ là một dãy nhà tôn, được cha Cras (Vọng) thuê để mở câu lạc bộ Phục Hưng dành riêng phục vụ giới sinh viên vào tháng 10 năm đó. Tu xá Mai Khôi được chính thức thành lập tháng 01/1956, và được nâng lên thành Tu viện ngày 11/02/1969.

– Theo lời mời của Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận Kontum, ngày 11/10, anh Giuse Đặng Quang Thắng và một số anh em đã lên đường đến Kontum, góp phần cho sự hiện diện của Dòng tại Giáo phận này.

– Ngày 31/10, cha Bề Trên Tổng Quyền Carlos Alfonso Aspiroz Costa đã chính thức đặt cha Giám Tỉnh Giuse Nguyễn Cao Luật làm Đại diện Bề Trên Tổng Quyền, đặc trách Đan viện Đức Maria Thánh Linh tại Việt Nam trong nhiệm kỳ ba năm.

– Ngày 15/11 và ngày 22/12, hai cha Tân Tu viện trưởng thuộc hai Tu viện Alberto và Mai Khôi đã chính thức tuyên thệ nhậm chức. Đây là nhiệm kỳ thứ III của hai cha tại hai Tu viện nói trên.

– Ngày 22 – 24/11, cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã tham dự Hội Thảo Quốc tế do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và UNESCO tổ chức tại Hà Nội về đề tài “Toàn cầu hóa: Những vấn đề triết học ở Châu Á – Thái Bình Dương”. Hội Thảo quy tụ các Giáo sư và các nhà nghiên cứu đến từ Hoa Kỳ, Nga, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines, Thailand, An Độ, Sri Lanka, Australia và Việt Nam. Tại đây, Giáo sư Nguyễn Thái Hợp đã trình bày đề tài: “Gạn đục khơi trong” trước toàn cầu hóa.

Năm 2006

– Sáng ngày 21/01, dịp lễ Thánh Thomas Aquinas, Trung Tâm Học Vấn Đaminh đã trao bằng tốt nghiệp cử nhân thần học cho các anh em sinh viên Đaminh mới ra trường. Đây là lần cấp bằng đầu tiên kể từ khi Trung Tâm Học Vấn Đaminh sát nhập với Phân Khoa Thần Học thuộc Đại học Santo Tomas, Manila, Philippines.

– Dịp mừng xuân Bính Tuất 2006, anh em trong Tỉnh Dòng vinh dự được đón tiếp cha Thomas Cassidy, Giám Tỉnh Tỉnh Dòng Australia (13–24/01) và cha Edmund Nantes, Giám Tỉnh Tỉnh Dòng Philippines sang thăm (27/01–03/02).

– Ngày 14/02, khởi công xây dựng Tu viện Mai Khôi.

– Ngày 25/02, Tỉnh Dòng đón nhận thêm hai tân phó tế: anh Phaolô Nguyễn Minh Tuấn và anh Giuse Nguyễn Hữu Phú. Hai anh đã được Đức Giám mục Giáo phận Kontum phong chức tại vùng đất cao nguyên đầy nắng và gió.

– Ngày 27/5/2006, theo lời mời của Vị Chủ Chăn Giáo Phận Bà Rịa, cha Giám Tỉnh Giuse Nguyễn Cao Luật cùng một số anh em đã đến tham quan 2 địa điểm được Đức Giám mục Địa phận giới thiệu. Đó là Giáo xứ Bình Ba (Ngãi Giao) và Bông Trang (Xuyên Mộc).

– Tháng 07, Phụ Tỉnh Canada mừng ngân khánh thành lập (1981 – 2006).

– Ngày 17/07, cha Đaminh Đinh Viết Tiên, Đại diện Giám Tỉnh đã đến thăm và trao đổi với Đức Giám mục Giáo phận Bà Rịa về sứ vụ của anh em Đaminh tại Giáo phận. Đồng thời, giới thiệu với Đức Cha thầy Giuse Nguyễn Hữu Thập sẽ đến hiện diện tại Giáo xứ Văn Côi một thời gian trước khi lãnh tác vụ linh mục.

– Ngày 23/09, tại Nhà Thờ Chính Tòa Đà Nẵng, Đức Giám mục Phaolô-Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh đã trao tác vụ Linh Mục cho thầy Giuse Trần Văn Việt, đánh dấu sự hiện diện của Dòng tại Giáo phận Đà Nẵng.

– Ngày 25/9, Đức Giám mục Giuse Nguyễn Tích Đức, nguyên Giám mục Giáo phận Buôn Mê Thuột đã đến thăm cộng đoàn Tu viện Rất Thánh Mân Côi và đặt tay truyền chức linh mục cho thầy Giacôbê Đỗ Huy Nghĩa.

Năm 2007

– Ngày 09/01, anh Phanxicô Salê Lê Văn La Vinh lên đường đi Đà Nẵng, nhận công tác mục vụ tại Giáo xứ Hòa Thuận.

– Ngày 02/02, lễ Đức Maria dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã chủ sự nghi thức làm phép và cắt băng khánh thành tòa nhà Tu viện Mai Khôi. Sáng sớm hôm ấy, anh em trong Tu viện đã dâng thánh lễ đầu tiên trong ngôi nhà nguyện mới.

– Ngày 17/03, khoảng 500 anh chị em trong gia đình Đaminh đã tề tựu tại Tu viện thánh Alberto Cả để mừng kỷ niệm 40 năm thành lập Tỉnh Dòng (18/03/1967 – 18/03/2007). Trước thánh lễ là buổi thuyết trình theo đề tài và phần chia sẻ của các cha anh, những chứng nhân sống động của một giai đoạn lịch sử.

– Ngày 19/03, cha Giám Tỉnh tham dự buổi họp các Bề trên Giám Tỉnh và Phụ Tỉnh vùng Châu Á – Thái Bình Dương tại Tokyo, Japan, để bàn về hướng hợp tác trong khu vực và đề ra những kiến nghị gửi lên Tổng Hội Dòng sắp tới.

– Ngày 29/05, Bề Trên Tổng Quyền Carlos A. Azpiroz Costa đã gửi cho các Nghị huynh một lá thư. Trong thư, Bề Trên Tổng Quyền tỏ lòng biết ơn đối với Tỉnh Dòng vì đã có những đóng góp nhất định đối với Dòng, và mong muốn Tỉnh Dòng tích cực dấn thân hơn nữa trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, mở rộng địa bàn hoạt động tại các quốc gia trong khu vực: Laos, Thailand và Campuchia, đồng thời khuyến khích anh em đẩy mạnh sứ vụ hợp tác quốc tế và việc hợp tác giữa Tỉnh Dòng và Phụ Tỉnh tại Calgary, Canada.

– Ngày 02/06, Tỉnh Hội chính thức khai mạc. Thánh lễ khai mạc do Tu sĩ Giuse Nguyễn Tất Trung, Bề trên Tu viện, Đại diện Tỉnh Dòng, chủ tế cùng với các Nghị huynh, một số đông anh em trong Tỉnh Dòng, và đại diện các thành phần của Gia đình Đaminh Việt Nam. Tỉnh Hội đã bầu Tu sĩ Giuse Ngô Sĩ Đình làm Bề trên Giám Tỉnh một cách hợp thức và hợp pháp. Ngày 05/06, Bề Trên Tổng Quyền đã gửi văn thư số 40/07/614 CP phê chuẩn cuộc bầu cử và vị đắc cử.

Năm 2008

– Ngày 11/04, Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình châu phê Quy chế Phụ Tỉnh thánh Vincent Liêm, Calgary, Canada.

– Từ 31/03 – 07/04, Tu sĩ David M. Kammlerm, Tổng đặc trách Huynh Đoàn Đaminh thế giới và bà Belen L. Tangco, chủ tịch Huynh Đoàn thăm và làm việc với Huynh Đoàn Giáo Dân Đaminh Việt Nam.

– Ngày 22/04, Tỉnh Dòng ký với Hội Dòng nữ Đaminh Bùi Chu giao ước cầu nguyện.

– Từ ngày 01–06/09, phái đoàn Phụ Tỉnh Đức Mẹ Trung Hoa, Đài Loan do Bề trên Phụ Tỉnh Celestine Huang làm trưởng đoàn, đã đến viếng thăm và trao đổi công việc với Tỉnh Dòng.

– Tuần Tĩnh tâm chung của Tỉnh Dòng từ 30/06 đến 05/07 diễn ra tại Tu viện Mân Côi, Gò Vấp, với chủ đề “Để Yêu Mến Thế Giới Này” đã quy tụ được khoảng 90 anh em về tham dự. Cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền, thuộc Trung Tâm Mục Vụ Giáo phận Sài Gòn giảng phòng.

– Từ 30/06– 03/07, Phụ Tỉnh Hội diễn ra tại Phụ xá thánh Vincent Liêm, Calgary. Tu sĩ Giuse Trần Trung Liêm được các Nghị huynh bầu làm Tân Bề trên Phụ Tỉnh. Kết thúc Phụ Tỉnh Hội, chiều ngày 03/07, hai Tu sĩ Giuse Vũ Văn Tập và Gioan B. Nguyễn Minh Đức đã tuyên khấn trọng thể. Và chiều ngày 04/07, ba anh em của Tỉnh Dòng đã được Đức Cha Henri, Giám mục Giáo phận Alberta trao tác vụ linh mục tại nhà thờ Chúa Ba Ngôi, Calgary.

– Từ ngày 09–28/09, Tu sĩ J.M. Poffet, nguyên Giám đốc trường Kinh Thánh Giêrusalem, đã đến thăm Việt Nam.

– Ngày 24/10, cha Bề Trên Tổng Quyền Carlos A. Azpiroz Costa đã ký nghị định thành lập Tu xá thánh Jacinto Odrowaz tại vùng biên giới Tây Ninh. Cha Phêrô Trần Văn Huấn được đặt làm Bề trên tiên khởi của Tu xá.

– Ngày 30/10, Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình được chỉ định làm Đại diện Tổng quyền phụ trách Đan viện Đức Maria Chúa Thánh Linh, với nhiệm kỳ 3 năm, thay thế cha Giuse Nguyễn Cao Luật kết thúc nhiệm kỳ cùng ngày.

Năm 2009

– Từ 04–06/02, Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình tham dự hội nghị các vị lãnh đạo thuộc Gia đình Đaminh vùng Châu Á – Thái Bình Dương tại Cao Hùng (Đài Loan).

– Ngày 15/02, tại Houston, Texas, Tỉnh Dòng thánh Martino Pores, Hoa Kỳ đã chuyển giao vĩnh viễn Tu xá thánh Đaminh, Houston cho Phụ Tỉnh thánh Vincent Liêm, thuộc Tỉnh Dòng Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo, Việt Nam. Bản thỏa thuận giữa các bên liên hệ được Bề Trên Tổng Quyền ký chấp thuận ngày 24/11/2008 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2009.

– Từ 11–19/03, phái đoàn Tỉnh Dòng do cha Giám Tỉnh dẫn đầu thăm và làm việc tại hai Tổng Giáo phận Bangkok, Thares và Nongseng, và Giáo phận Kurat, Thailand.

– Từ 14–17/04, Ban Cố Vấn mở rộng họp tại Bãi Dâu, Vũng Tàu. Dựa trên các quyết định của kỳ họp này, Giám Tỉnh tuyên bố Phụ Tỉnh thành Phụ Tỉnh Miền (Vicariatus Regionalis) thánh Vincent Liêm ngày 29/04/2009, và thành lập Phụ xá thánh Thomas Aquinô ngày 29/04/2009, trực thuộc Tu viện Mai Khôi, Quận 3.

– Tuần Tĩnh tâm chung của Tỉnh Dòng từ 07–12/07 diễn ra tại Tu viện Mân Côi, Gò Vấp, với chủ đề “Say Mê Đời Sống Đaminh” đã quy tụ được hơn 100 anh em về tham dự. Tu sĩ Giuse Đinh Văn Nghị, giáo sư đại học Assumption, Bangkok, là người thắp lửa say mê trong tuần phòng.

– Theo quyết định của phiên họp Ban Cố Vấn ngày 13/06, Giám Tỉnh thành lập Phụ xá Giang Sơn ngày 03/11/2009 và Phụ xá Hiền Đức ngày 16/05/2010. Cả hai trực thuộc Tu viện thánh Martino, Hố Nai.

– Ngày 08/11, Tỉnh Dòng ký với Đan viện Đaminh giao ước cầu nguyện.

– Ngày 16/11, Tu viện thánh Alberto, Phú Nhuận mừng 50 năm ngày thành lập. Kể từ ngày thành lập (13/06/1959), Tu viện đã là nơi đặt Trụ Sở Tỉnh Dòng (1967-2004), Giáo Hoàng Chủng Viện Alberto (1958-1962), Học viện và Tập viện. Trong thời gian 1962 – 1976, Tu viện điều hành trường Trung Tiểu học Thánh Thomas. Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ, một trong những cựu sinh viên của Giáo Hoàng Chủng Viện Alberto, đã đến chủ tế Thánh lễ Tạ ơn. Đức Cha Phanxicô X. Nguyễn Văn Sang, Viện phụ Đan viện Phước Sơn Đaminh Phạm Văn Hiền và nhiều cựu giáo sư, sinh viên của trường thánh Thomas cũng đến hiện diện với Tu viện trong dịp vui này.

Năm 2010

– Ngày 13/05, Đức Thánh Cha Benedict XVI bổ nhiệm Tu sĩ Phaolô Nguyễn Thái Hợp làm Giám mục Giáo phận Vinh.

– Ngày 03/06, lãnh đạo thành phố Nam Định đã bàn giao nhà thờ và nhà xứ Khoái Đồng cho Tòa Giám mục Bùi Chu. Sau biến cố 1954, nhà nước đã trưng thu nhà thờ, trường thánh Thomas và toàn bộ khuôn viên rộng nhiều hécta cho mục đích xã hội. Nhà thờ một thời trở thành Câu lạc bộ Thể thao rồi xưởng may mặc của thành phố.

– Ngày 23/7, lễ tấn phong Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp diễn ra tại nhà thờ Chính Tòa Xã Đoài, Giáo phận Vinh. Đông đảo các anh em Đaminh đã đến tham dự.

– Từ ngày 27/06 đến 24/07, Tỉnh Dòng đăng cai tổ chức khóa học Common Study. Khóa học gồm 15 tham dự viên thuộc các Tỉnh Dòng Mân Côi, Philippines, Việt Nam, India và Dự Tỉnh Pakistan. Tu sĩ Thomas Aquinô Nguyễn Trường Tam làm trưởng Ban tổ chức. Khoá học diễn ra tại Huế, Sài Gòn và Đà Lạt.

– Ngày 08/08, Đức Giám mục Giuse Hoàng Văn Tiệm ký chuyển giao vĩnh viễn cho Tỉnh Dòng nhà thờ và nhà xứ Khoái Đồng, tại số 3, đường Lê Hồng Phong, thành phố Nam Định.

– Ngày 15/08, Giám Tỉnh, với sự đồng ý của Ban Cố Vấn Tỉnh Dòng, đã phê chuẩn các tu chính của Quy Chế Huynh Đoàn Giáo Dân Đaminh Việt Nam.

– Từ 31/08 – 21/09, cha Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình, cha Bề trên Phụ Tỉnh Giuse Trần Trung Liêm, cha Giuse Đỗ Ngọc Bảo và cha Tôma Nguyễn Trường Tam, tham dự Tổng Hội của Dòng tại Roma, Italia. Trong Tổng Hội này, cha Bruno Cadoré, O.P., thuộc Tỉnh Dòng Pháp, được các Nghị Huynh bầu chọn làm Bề Trên Tổng Quyền thứ 86 của Dòng, thay thế cha Carlos Alfonso Azpiroz Costa O.P. vừa mãn nhiệm kỳ 9 năm trong vai trò Tổng Quyền Dòng.

– Ngày15/09, chính quyền công nhận hoạt động tôn giáo của Đan viện Đức Maria Chúa Thánh Linh, Ngũ Phúc.

– Từ 22–26/10, Tu sĩ Giuse Lê Minh Thông tham dự hội nghị các Giám đốc Học vụ toàn Dòng tại Roma và dự lễ Kỷ niệm 400 thành lập Đại Học thánh Thomas, Manila ngày 28/01/2011.

– Ngày 24/10, Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình tuyên bố tái lập Tu xá thánh Vincent, Cát Đàm tại miền Bắc. Ngôi nhà này từng là Trụ Sở của cha Chính Dòng, tọa lạc bên bờ sông Trà Lý, tỉnh Thái Bình. Ngày 02/09/1938, Bề Trên Tổng Quyền Stanislas Gillet ký nghị định thành lập Tu xá làm Trụ Sở cho Phụ Tỉnh Việt Nam. Sau biến cố di cư 1954, chỉ còn lại 1 thầy trợ sĩ ở lại trông coi cơ sở. Năm 1969, nhà nước tịch thu toàn bộ Tu xá và khu đất lân cận. Đến tháng 5/2010, ngôi nhà và một phần khu đất mới được trả lại cho Dòng.

Năm 2011

– Từ 10/01 – 30/01, Tu sĩ Hilario Siñgian, OP., Phụ tá Tổng quyền khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và Tu sĩ Cletus Nwabuso, OP, Phụ tá Tổng quyền khu vực Châu Phi, thay mặt Tổng quyền, thực hiện cuộc kinh lý anh em Việt Nam. Sau cuộc kinh lý, ngày 14/03, hai vị phụ tá Tổng quyền đã gửi anh em Đaminh Việt Nam Thư Đúc kết Kinh lý.

– Từ 22–25/01, Tu sĩ Bruno Cadoré, Tân Bề Trên Tổng Quyền Dòng, cùng Tu sĩ Vincent Hà Viễn Lự, phụ tá Tổng Quyền, đặc trách khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, thăm Tỉnh Dòng Việt Nam.

– Từ 09–14/10, Giám Tỉnh tháp tùng cha Vincent Hà Viễn Lự thăm các anh em thuộc khu vực miền Bắc Việt Nam. Trong dịp này, Giám Tỉnh kinh lý anh em tại Tu xá Cát Đàm và tại Lạng Sơn, Yên Bái, Sao Đỏ.

– 26/10, Bề Trên Tổng Quyền đặt Tu sĩ Giuse Ngô Sĩ Đình làm đại diện, phụ trách Đan viện Đức Maria Chúa Thánh Linh tại Ngũ Phúc, Xuân Lộc với nhiệm kỳ ba năm (Prot. 70/11/903 Vietnam_The Holy Spirit).

Năm 2012

– Từ 06–10/02, cuộc họp các Giám Tỉnh vùng Châu Á – Thái Bình Dương diễn ra tại Sài Gòn.

– Ngày 07/03, Tu sĩ Phanxicô Xaviê Đào Trung Hiệu được chỉ định làm Đại diện Giám Tỉnh tại Giáo tỉnh Hà Nội.

– Ngày 19/03, kỷ niệm 45 năm thành lập Tỉnh Dòng, cũng là dịp Tỉnh Dòng đánh dấu bước đột phá trong sứ vụ truyền giáo khi thiết lập Tu xá thánh Tomas Aquinas tại Bangkok, Thailand.

– Ngày 31/05, Tu sĩ Giuse Đinh Văn Nghị được chỉ định làm Đại diện Giám Tỉnh tại Thailand và Laos.

– Từ 23–27/07, Phụ Tỉnh Hội diễn ra tại Calgary, Canada. Trong phiên họp ngày 24/07, Tu sĩ Giuse Trần Trung Liêm được các Nghị huynh bầu làm Tân Bề trên Phụ Tỉnh, kết quả này được Giám Tỉnh châu phê ngày 25/07. Công vụ Phụ Tỉnh Hội 2012 đã được châu phê ngày 15/09.

– Từ 27/10–09/11, hai anh Giuse Mai Văn Tuyến và Đaminh Martino Nguyễn Sỹ Lưu đã tham dự Đại hội Tu huynh thế giới, tổ chức tại thành phố Lima, Peru, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thánh Martino được tuyên hiển thánh.

Năm 2013

– Ngày 07/01, Giám Tỉnh đã phê chuẩn và ban hành Quy Chế Thỉnh Viện.

– Từ 08–31/07, bốn anh em Học viện tham gia khóa học Common Studies lần V tại Mumbai, India.

– Ngày 12/11, phái đoàn 16 anh chị em Huynh Đoàn Đaminh Indonesia, do một anh em Đaminh dẫn đầu, đã đến thăm và trao đổi kinh nghiệm với Ban Phục Vụ Huynh Đoàn Đaminh Việt Nam. Cuộc gặp gỡ diễn ra tại Trụ Sở Tỉnh Dòng.

Năm 2014

– Ngày 18/3, đánh dấu 47 năm thành lập Tỉnh Dòng, cha Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình chủ sự thánh lễ và nghi thức đặt viên đá đầu tiên xây dựng Trung Tâm Mục Vụ Martino, Hố Nai.

– Ngày 25/3, Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Giám mục Giáo phận Xuân Lộc chủ sự thánh lễ và công bố sắc lệnh thành lập Đan viện nữ Đaminh đầu tiên tại Việt Nam, với tước hiệu “Đức Maria Chúa Thánh Linh”. Cha Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình công bố văn thư của Cha Bruno Cadoré, Bề Trên Tổng Quyền Dòng Đaminh, chỉ định nữ Đan sĩ Anna Gioan Nguyễn Thị Hào làm Đan viện trưởng tiên khởi của Đan viện này (70/13/690 Xuan_Loc_Vietnam).

– Từ 17/06–02/07, Phụ Tỉnh Hội diễn ra tại Calgary, Canada. Dịp này Phụ Tỉnh khánh thành ngôi nhà mới của Tu viện và cũng là Trụ Sở Phụ Tỉnh tại địa chỉ mới.

– Kể từ sau ngày tái hiện diện tại Địa phận Thái Bình, ngoài Giáo xứ gắn liền với Tu xá thánh Vincent, Cát Đàm, anh em chúng ta chưa chính thức phục vụ tại nơi nào khác. Tuy nhiên, ngày 17/9, trong dịp luân chuyển linh mục lớn nhất Giáo phận từ trước tới nay, hai anh em chúng ta đã được Giám mục bổ nhiệm trông coi hai Giáo xứ Lai Ổn và Đại Điền.

– Từ 04–21/10, cha Bề Trên Tổng Quyền Bruno Cadoré, cha Vincent Hà Viễn Lự, phụ tá vùng Châu Á – Thái Bình Dương, cha Gabriel Samba, phụ tá vùng Phi Châu kinh lý Tỉnh Dòng. Cũng trong dịp cha Bề Trên Tổng Quyền có mặt tại Việt Nam này, ngày 18/10, ngày hội Gia đình Đaminh đã được tổ chức tại Hội Dòng nữ Đaminh Thánh Tâm, quy tụ đông đảo anh chị em trong cả nước về tham dự.

– Cha Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình ký quyết định nâng Tu xá thánh Vincent Liêm, Dĩ An, Bình Dương, lên thành Tu viện ngày 16/11. Ngày 30/11, cha Đaminh Nguyễn Hữu Cường tuyên thệ nhận chức Tân Bề trên tiên khởi của Tu viện.

Năm 2015

– Tỉnh Hội họp tại Trụ Sở Tỉnh Dòng (4 – 24/6). Cha Giuse Nguyễn Đức Hòa đắc cử Giám Tỉnh.

– Ngay trước ngày chính thức khai mạc Tỉnh Hội, 18h30 ngày 03/06, cha nguyên Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình đã chủ sự nghi thức làm phép và khánh thành ngôi nhà mới tại Trụ Sở Tỉnh Dòng.

– Từ 5-8/8, anh em Phụ Tỉnh khu vực Bắc Mỹ tổ chức Đại hội Gia Đình Đaminh tại Houston, Texas, Hoa Kỳ, nhân dịp kỷ niệm 800 năm thành lập Dòng. Đại hội qui tụ hơn 300 anh chị em Đaminh từ các nơi như: Edmonton, Calgary, Vancouver (Canada); Arlington (Virginia), Phoenix (AZ); California;…

– Trong không khí chung của toàn Dòng mừng 800 năm thành lập, Tỉnh Dòng đã khai mạc Năm Thánh ngày 7/11, thánh lễ được tổ chức tại Tu viện Alberto, Phú Nhuận, do Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp chủ tế. Trước đó, nghi thức khai mạc Năm Thánh do cha Tân Giám Tỉnh Giuse Nguyễn Đức Hòa chủ sự.

Năm 2016

– Ngày 17/03, nữ Đan sĩ Êlizabeth Lê Thanh Xuân tuyên khấn trọn đời tại Đan viện Đức Maria Chúa Thánh Linh, Ngũ Phúc, Hố Nai. Chị là người trẻ đầu tiên tại Việt Nam tuyên khấn.

– Ngày 18/03, cha Giám Tỉnh Giuse Nguyễn Đức Hòa chủ sự thánh lễ khai mạc “năm chuẩn bị” kỷ niệm 50 năm thành lập Tỉnh Dòng. Trong thánh lễ khai mạc, có sự hiện diện của cha Giuse Hà Viễn Lự, phụ tá Bề Trên Tổng Quyền vùng Á Châu – Thái Bình Dương; cha Giuse Trần Trung Liêm, Bề trên Phụ Tỉnh tại Canada.

– Sau đó một ngày, 19/03, Tỉnh Dòng khánh thành Trung Tâm Mục Vụ Martino, Hố Nai. Đây là trung tâm đa năng, có thể phục vụ tĩnh tâm hay hội họp, gồm 130 phòng và sức chứa tại hội trường là 300 người.

– Trung tuần tháng 6, Phụ Tỉnh Hội diễn ra tại Calgary, Canada. Tu sĩ Phêrô Phạm Văn Hương được các Nghị huynh bầu làm Tân Bề trên Phụ Tỉnh. Cha Giám Tỉnh đã châu phê kết quả bầu cử này.

– Từ ngày 16/07-04/08, cha Giám Tỉnh tham dự Tổng Hội của Dòng tại thành phố Bologna, Italia; nơi có phần mộ thánh phụ Đaminh. Cùng với cha Giám Tỉnh tham dự Tổng Hội lần này, còn có cha Vincent Hà Viễn Lự, phụ tá Bề Trên Tổng Quyền đặc trách vùng Châu Á – Thái Bình Dương và cha Phêrô Phạm Văn Hương, Tân Bề trên Phụ Tỉnh Đaminh Việt Nam ở Bắc Mỹ.

– Ngày 28/06, ba anh em sinh viên (2 tư giáo, 1 tu huynh) lên đường tham dự chương trình hành hương theo dấu chân thánh Đaminh, trong khuôn khổ mừng kỷ niệm 800 năm thành lập Dòng.

– Từ 01–31/07, năm anh em Học viện tham dự khóa học Common Studies tại Sri Lanka.

– Tuần Tĩnh Tâm chung của Tỉnh Dòng diễn ra từ 04 – 08/07, được tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ Martino, Hố Nai, qui tụ gần 200 anh em về tham dự, với chủ đề “TRỞ LẠI PHẦN GIA SẢN CỦA MÌNH” (x. Lv 25,10). Tuần Tĩnh Tâm kết thúc với Thánh lễ Tạ ơn và trao tác vụ linh mục cho 8 anh em trong Tỉnh Dòng.

– Ngày 15/09, lễ Đức Mẹ Sầu Bi, bổn mạng Tỉnh Dòng, trong Năm Thánh kỷ niệm 800 năm thành lập Dòng và chuẩn bị mừng kỷ niệm 50 năm thành lập Tỉnh Dòng Đaminh Việt Nam, đã diễn ra long trọng tại nhà thờ Giáo xứ Mân Côi, Gò Vấp. Tham dự lễ bổn mạng có hơn 200 anh em và 70 vị khách mời.

– Ngày 07/10, lễ Đức Mẹ Mân Côi, bổn mạng Tu viện Mai Khôi, Đức Giám mục Phaolo Nguyễn Thái Hợp dâng lễ Tạ ơn mừng kỷ niệm 60 năm Tu xá Mai Khôi được chính thức thành lập vào tháng 01/1956 (Tu xá được nâng lên thành Tu viện năm 1969).

– Ngày 07/11, lễ kính các Thánh Dòng Đaminh, ngày hành hương VỀ NGUỒN của Tỉnh Dòng trong khuôn khổ Năm Thánh mừng kỷ niệm 800 năm thành lập Dòng Anh Em Giảng Thuyết, Đức Giám mục Tôma Vũ Đình Hiệu dâng lễ Tạ ơn tại Giáo xứ Khoái Đồng, Giáo phận Bùi Chu.

 

 

 

 

 

 


[1] Xc. Công Vụ Tổng Hội Trogir, số 57.

[2] Công cuộc truyền giáo tại Phi Châu vào thời này rất hời hợt: người Bồ Đào Nha chỉ dừng lại ở vài cửa biển nhằm việc thương mại. Mãi cho tới thế kỷ XIX, việc truyền giáo tại Phi Châu mới có tính cách quy mô hơn. Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Africa (Giáo Hội tại Phi Châu), Ngày 14-09-1995, số 31-33.

[3] B. Biermann, Die Missionen der portugiesischen Dominikaner in Hinterindien, in: Zeitschr. fur Miss. 21 (1931) 305-327. Id. Documenta quaedam initia missionum Ordinis Praedicatorum in India orientali illustrantia (1503-1548), in: Archivum Fratrum Praedicatorum 10 (1940) 132-157. C.M. De Witte, Aux origines de la Congrégation indienne de l’Ordre des frères Prêcheurs (1546-1580), in: Archivum Fratrum Praedicatorum 36 (1966) 457-492.

[4] Theo Wikipedia, chính phủ Đông Timor cũng như phần lớn các quốc gia khác trên thế giới dùng “Timor Leste” là tên chính thức của quốc gia này; nhưng một số quốc gia khác lại dùng chữ “East Timor” chứ không dùng chữ “Timor Leste”. Giáo Hội Đông Timor cử hành kỷ niệm 500 năm Tin Mừng được loan báo do các tu sĩ Đaminh ngày 15/8/2015. Trước đây (cho đến năm 1975), Quốc huy có khắc huy hiệu của Dòng.

[5]Giáo phận Malacca được thiết lập ngày 04/02/1558, nay được gọi là Melaka-Johor, trực thuộc Giáo tỉnh Kuala Lumpur (Malaysia).

[6] Vanessa Loureiro, The Jesuits In Cambodia: A Look Upon Cambodian Religiousness, Bulletin of Portuguese-Japanese Studies, 2005, n.10-11, p. 193-222.

[7] Vd: Lịch sử Giáo phận Lạng Sơn là một thí dụ điển hình cho trình tự này.

[8] Xc. Bùi Đức Sinh, Dòng Đaminh trên đất Việt, Tập I, Sài Gòn 1993; Phan Tấn Thành, Tìm hiểu Dòng Đaminh, Học viện Đaminh 2013, chương 28 (Linh đạo truyền giáo).

[9] Bách Chu Niên 4 Chân phước Tử Đạo tại Hải Dương (1861-1961),Chân Lý, Sài Gòn 1961, trang 61-64. Bài viết này không ghi rõ tên tác giả, nhưng có thể xác định cách chắc chắn là của cha Vincent Bùi Đức Sinh.

[10]Marcos Gispert, Historia de las misiones dominicanas en Tungking, Avila 1927, p.368.

[11]Xem thêm danh sách các anh em: Bùi Đức Sinh, Dòng Đaminh trên đất Việt, In lần thứ hai Sàigòn 1993, tập I, trang 75-80; 125-133; 267-278; – tập II, trang 23-30.

[12] Phần này được trích lại trong tập “Kỷ Yếu 30 Năm Thành Lập Tỉnh Dòng”.