Ba Điều Răn Yêu Thương Trong Kinh Thánh

0
1859


Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.

 

DẪN NHẬP

Chúng ta thường nói đến điều răn yêu thương và mời gọi mọi người sống điều răn yêu thương như Đức Giê-su dạy. Nhưng cụ thể là điều răn nào? Điều răn “yêu thương người thân cận” hay “yêu thương lẫn nhau”? Điều răn mới là điều răn nào và có gì khác với “điều răn cũ”? Đâu là sự khác biệt giữa “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Nhất Lãm và “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gio-an?

Để xác định nội dung và cách thức yêu thương trong các “điều răn yêu thương”, bài viết sẽ trình bày sơ lược về ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh: (I) Điều răn yêu thương trong Cựu Ước, (II) Điều răn yêu thương trong Tin Mừng Nhất Lãm, và (III) Điều răn yêu thương trong Tin Mừng Gio-an với những đặc điểm riêng của điều răn này. (Trích dẫn Kinh Thánh lấy trong Bản dịch của NPD/CGKPV ấn bản 2011). Nội dung “điều răn yêu thương” diễn tả bằng động từ “agapaô” mà chúng tôi dịch là “yêu mến” để phân biệt với động từ “phileô” dịch là “yêu thương.” Trong bài viết này sự phân biệt trên không cần thiết nên chúng tôi dùng kiểu nói thông dụng: “điều răn yêu thương” cho xuôi vần tiếng Việt.

I. ĐIỀU RĂN YÊU THƯƠNG TRONG CỰU ƯỚC

Tin Mừng Mát-thêu thuật lại cuộc trao đổi liên quan đến hai điều răn trong Cựu Ước ở Mt 22,34-40: “34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 ‘Thưa Thầy, trong Lề Luật, điều răn (entolê) nào là điều răn trọng nhất?’ 37 Đức Giê-su đáp: ‘Ngươi phải yêu mến (agapêseis) Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và đứng hàng đầu. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến (agapêseis) người thân cận (plêsion) như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.’” Trong đoạn văn này, Đức Giê-su kết hợp hai điều răn trong Cựu Ước:

(1) Điều răn yêu thương thứ nhất lấy trong sách Đệ Nhị Luật. Ông Mô-sê truyền lại cho dân Ít-ra-en điều răn của Đức Chúa ở Đnl 6,4-5: “4 Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5 Hãy yêu mến (agapêseis) ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em).” Đây là “điều răn quan trọng nhất và đứng hàng đầu” (Mt 22,38). Sách Đệ nhị luật nhấn mạnh việc tuân giữ và truyền lại điều răn này cho con cháu ở Đnl 6,6-9: “6 Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng. 7 Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy, 8 phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, 9 phải viết lên khung cửa nhà anh (em), và lên cửa thành của anh (em).” Cụm từ “Những lời này” ở đầu c. 6 là nội dung điều răn yêu mến ĐỨC CHÚA, đồng thời cũng gợi đến 10 điều răn trong chương trước đó (Đnl 5,1-22) như là nền tảng của Giao Ước. Trong đó điều răn đứng hàng đầu là “yêu mến ĐỨC CHÚA” (Đnl 6,5). Việc tuân giữ những điều răn và thánh chỉ khác của ĐỨC CHÚA đều dựa trên lòng “yêu mến ĐỨC CHÚA.”

(2) Điều răn yêu thương thứ hai lấy trong sách Lê-vi. ĐỨC CHÚA phán: “Ngươi phải yêu (agapêseis) người thân cận (plêsion) như chính mình” (Lv 19,18b). Điều răn này nằm trong đoạn văn Lv 19,11-17, trình bày những quy định có tính cách luân lý mà dân Ít-ra-en phải giữ, theo như Giao ước đã thiết lập giữa Thiên Chúa và dân qua trung gian ông Mô-sê (x. Lv 19,1-2). Chẳng hạn, chỉ thị ở Lv 19,17-18: “17 Ngươi không được để lòng ghét người anh em, phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. 18 Ngươi không được trả thù, không được oán hận con cái dân ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Ta là ĐỨC CHÚA.”

Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 22,36-40 // Mc 12,28-34 // Lc 10,25-28) nhắc lại hai điều răn “Mến Chúa” – “yêu người” trong Cựu Ước, và xác định đây là hai điều răn quan trọng nhất, vì Đức Giê-su nói ở Mt 22,40: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.” Tân Ước áp dụng hai điều răn này cho các môn đệ: “Yêu mến Thiên Chúa” và “yêu thương người thân cận.” Nhưng câu hỏi đặt ra: “Ai là người thân cận của tôi?”

Trong Cựu Ước, nghĩa của từ “người thân cận” tuỳ thuộc thời đại và môi trường xã hội, tôn giáo. Tự điển bách khoa Kinh Thánh (Dictionnaire encyclopédique de la Bible) định nghĩa “người thân cận” như sau: “Trong cơ cấu thị tộc, người thân cận là thành viên của thị tộc hay thành viên của thị tộc đồng minh (St 31,32; Tl 9,18). Đó là công dân hay người đồng đạo theo quan niệm xã hội của dân Ít-ra-en thời xưa (Is 66,20; Mk 5,7; Nkm 5,8). Đối với nhóm Ét-xê-nô (esséniens), sống tách biệt thành cộng đoàn, người thân cận là thành viên của phái này (1QS; Fl. Jos, B.J. 2,124 s). Do Thái giáo chính thống thời sau khi Kinh Thánh được biên soạn và thời talmud (l’époque postbiblique et talmudique) ít tán thành việc giao tiếp với dân ngoại, nói chung họ xem người thân cận là đồng bào hay người theo đạo (Do Thái) (BabBQ 38a; 113b). Đối với Do Thái giáo Hy Lạp hoá hay ở Alexandrin, họ giao tiếp hằng ngày với người Hy lạp, với những cấp độ khác nhau, người thân cận là tất cả công dân (concitoyen) (Kn 12,19; 2Mcb 4,36; Lettre d’Aristée).” (Mục từ “prochain” trong Dictionnaire encyclopédique de la Bible (DEB), Centre Informatique et Bible Abbaye de Maredsous, (dir.), (3è éd. rev. et aug.), Turnhout, Brepols, 2002). (Các từ viết tắt trong trích dẫn trên: 1QS: Luật cộng đoàn (Manuel de Discipline ou Règle de la Communauté, Écrit qoumrânien); Fl. Jos, B.J.: Tác phẩm  Cuộc chiến Do Thái (Guerre juive) của Flavius Josèphe; BabBQ: Talmud Babylone Baba’ qamma’; Lettre d’Aristée: ngụy thư (Écrit pseudépigraphe) viết bằng tiếng Hy Lạp bởi một người Do Thái ở Ai Cập).

Trong Cựu Ước, “yêu thương người thân cận” gợi đến “yêu thương ngoại kiều” nói đến ở Lv 19,33-34 và Đnl 10,19. ĐỨC CHÚA phán: “33 Khi có ngoại kiều cư ngụ với (các) ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. 34 (Các) ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; (các) ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19,33-34); “Anh em phải yêu thương ngoại kiều, vì anh em đã từng là ngoại kiều ở đất Ai-cập” (Đnl 10,19).

Tóm lại, định nghĩa “người thân cận” thay đổi theo thời gian và tuỳ thuộc vào môi trường xã hội và tôn giáo. Không dễ trả lời câu hỏi “ai là người thân cận của tôi?” Đức Giê-su trả lời câu hỏi này như thế nào? Nghĩa của từ “người thân cận” theo Tân Ước là gì?

II. ĐIỀU RĂN YÊU THƯƠNG TRONG TIN MỪNG NHẤT LÃM

Tin Mừng Lu-ca thuật lại câu chuyện liên quan đến điều răn yêu thương ở Lc 10,25-28: “25 Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: ‘Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?’ 26 Người đáp: ‘Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?’ 27 Ông ấy thưa: ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.’ 28 Đức Giê-su bảo ông ta: ‘Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.’” Trong Lc 10,25-28, người thông luật đã trả lời câu hỏi và nối kết hai điều răn yêu thương trong Cựu Ước, trong khi ở Mt 22,36-40 // Mc 12,28-34 thì chính Đức Giê-su trả lời. Có ba chi tiết đáng chú ý về hai điều răn trên: (1) Nối kết điều răn yêu mến ĐỨC CHÚA và yêu mến người thân cận lại với nhau (Mt 22,37-39), (2) Đây là hai điều răn quan trọng hơn cả (Mt 22,38; Mc 12,31b), (3) Lề Luật và các ngôn sứ qui vào hai điều răn đứng đầu này (Mt 22,40).

Sau khi Đức Giê-su mời gọi người thông luật thực thi điều răn yêu thương: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10,28), người thông luật hỏi Đức Giê-su: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29). Đây là câu hỏi khó trả lời đối với Ki-tô hữu, vì khi chỉ ra ai là người thân cận, thì cùng lúc cho thấy có những người không phải là người thân cận. Đức Giê-su trả lời câu hỏi này bằng cách kể dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu ở Lc 10,30-35: “30 Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’”

Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giê-su hỏi người thông luật: “Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” (Lc 10,36). Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” (10,37a). Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi và hãy làm như thế” (Lc 10,37b). Trong câu hỏi Đức Giê-su đặt ra cho người thông luật (Lc 10,36), Người đã đảo ngược câu hỏi ban đầu của ông. Ông ấy hỏi Đức Giê-su: “Ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29) thì Đức Giê-su lại hỏi ông ta: “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp” (Lc 10,36b). Nghĩa là thay vì hỏi “ai là người thân cận của tôi” thì hãy tự hỏi “tôi là người thân cận của ai?”

Đức Giê-su đề cao nhân vật chính của dụ ngôn: người Sa-ma-ri là người không thuộc dân Do Thái. Qua đó, Đức Giê-su mở rộng khái niệm “người thân cận.” Từ nay người thân cận không chỉ giới hạn trong dân Ít-ra-en, dân Thiên Chúa tuyển chọn. Đức Giê-su định nghĩa người thân cận là người liên đới với người khác, là người cứu giúp những ai đang gặp hoạn nạn. Câu hỏi đặt ra không còn là “ai là người thân cận của tôi?” mà là tôi đã làm gì cho người khác để trở thành người thân cận của họ? Để tránh rơi vào tình trạng phân biệt: ai là người thân cận, ai không phải là người thân cận, Đức Giê-su mời gọi: Hãy làm cho mình trở thành người thân cận của mọi người mà không cần biết trước tình trạng của người ấy (như về chủng tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, v.v… ). Điều quan trọng là họ đang ở trong trình trạng khó khăn và cần được giúp đỡ. Nạn nhân trong dụ ngôn chỉ đơn là “một người kia” (anthrôpos tis), độc giả không biết gì về nguồn gốc hay tình trạng xã hội của người ấy. Hơn nữa, người Sa-ma-ri nhân hậu cũng không đi tìm nạn nhân, ông chỉ là người đang đi đường (Lc 10,33), tình cờ gặp nạn nhân “nửa sống nửa chết” (10,30b). Những chi tiết trong dụ ngôn đã định nghĩa “người thân cận” theo quan điểm của Đức Giê-su.

Như thế theo giáo huấn Đức Giê-su trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,29-37), người thân cận là tất cả mọi người, không phân biệt màu da, chủng tộc, văn hoá, ngôn ngữ. Tân Ước đã nối kết hai điều răn trong Cựu Ước và mở rộng nghĩa của từ “người thân cận (plêsion).” Trong viễn cảnh này, Phao-lô mời gọi các tín hữu Rô-ma sống điều răn yêu thương ở Rm 13,8-10: “8 Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái (to allêlous agapan); vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. 9 Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận (plêsion) như chính mình. 10 Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại (plêsion); yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” Từ “plêsion” (thân cận, đồng loại) ở Rm 13,9.10 phải hiểu là “tất cả mọi người.” “Yêu thương người thân cận” là yêu thương mọi người, không phân biệt hay loại trừ bất cứ ai. Như thế, “yêu thương người thân cận” trong Tân Ước có chiều kích phổ quát (x. Gl 5,14; Gc 2,8).

Tóm lại, phần trên đã trình bày điều răn kép: “yêu mến ĐỨC CHÚA” (Đnl 6,5) và “yêu thương người thân cận” (Lv 19,18b) trong Cựu Ước. Đây là những điều răn ĐỨC CHÚA ban cho dân Ít-ra-en. Trong viễn cảnh này, “người thân cận” là thành viên của các cộng đồng Ít-ra-en. Chúng ta có thể gọi đây là điều răn yêu thương thứ nhất trong Kinh Thánh.

Trong Tân Ước, Đức Giê-su nối kết hai điều răn này lại và mở rộng nghĩa từ “thân cận” đến tất cả mọi người. Có thể gọi đây là điều răn yêu thương thứ hai trong Kinh Thánh, liên quan đến tất cả mọi người. Nhân loại được mời gọi giữ điều răn này, đặc biệt là các môn đệ Đức Giê-su, họ yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tất cả mọi người bằng cách làm cho mình trở thành người thân cận của mọi người. Còn có một điều răn yêu thương nữa, khác với hai điều răn trên, đó là “điều răn yêu thương” thứ ba, được nói đến trong Tin Mừng Gio-an.

III. ĐIỀU RĂN YÊU THƯƠNG TRONG TIN MỪNG GIOAN

“Điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gio-an được Đức Giê-su gọi là “điều răn mới” (Ga 13,34). Điều răn này có ý nghĩa thần học độc đáo riêng so với điều răn “yêu thương người thân cận” đã phân tích trên đây. Tin Mừng Gio-an không nói đến “yêu thương người thân cận (plêsion)” mà là “yêu thương lẫn nhau (allêlous)” giữa các môn đệ. Phần sau sẽ phân tích “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gio-an qua năm mục: (1) Điều răn mới, nền tảng đời sống các môn đệ, (2) Điều răn mới so với Cựu Ước, (3) “Điều răn mới” là “điều răn cũ” trong thư Gio-an, (4) Điều răn của Đức Giê-su, (5) Cách thức yêu thương trong điều răn mới.

1. Điều răn mới, nền tảng đời sống các môn đệ

Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Ga 13,34-35: “34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới (entolên kainên) là anh em hãy yêu mến nhau (hina agapate allêlous), như Thầy đã yêu mến (êgapêsa) anh em anh em hãy yêu mến nhau (agapate allêlous). 35 Ở điều này mọi người sẽ nhận biết rằng: Anh em là môn đệ của Thầy, nếu anh em có tình yêu mến (agapên) lẫn nhau (allêlois).” Đức Giê-su lặp lại điều răn này với các môn đệ ở 15,12-13.17: “12 Đây là điều răn của Thầy (hê entolê hê emê): Anh em hãy yêu mến nhau (hina agapate allêlous) như Thầy đã yêu mến (êgapêsa) anh em. 13 Không ai có tình yêu (agapên) cao cả hơn người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu (tôn philôn) của mình” (15,12-13); “Những điều này, Thầy truyền dạy anh em, để anh em yêu mến nhau (hina agapate allêlous)” (15,17).

“Điều răn mới” (13,34) là đặc trưng quan trọng của “điều răn yêu thương” và điều răn này là trọng tâm đời sống của các môn đệ. Theo Cha Jean-Pierre Lémonon: “[Điều răn mới] làm nên hiến chương của thời cuối cùng, được khởi đầu với cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giê-su” (J.-P. Lémonon, “Agapè dans le Nouveau Testament”, dans B.-M. Duffé, (dir.), Agapè, sources et interprétation de la charité, 1999, p. 78.) Như thế, “điều răn mới” trở thành căn tính (identité) của người môn đệ. Điều răn này làm nên dân mới của Thiên Chúa và khi người tin giữ điều răn này thì mọi người sẽ nhận biết họ là môn đệ Đức Giê-su (13,35).

Trong Tin Mừng Gio-an, bản chất của người môn đệ Đức Giê-su là hoà vào dòng chảy tình yêu giữa Chúa Cha và Đức Giê-su, giữa Đức Giê-su và các môn đệ và giữa các môn đệ với nhau. Đức Giê-su nói đến dòng chảy tình yêu này với các môn đệ ở Ga 15,9-10: “9 Như Cha đã yêu mến Thầy (kathôs êgapêsen me ho patêr), Thầy cũng yêu mến anh em (kagô humas êgapêsa). Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy (meinate têi agapêii emêi). 10 Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu (meneite en têi agapêi) của Thầy, như chính Thầy, Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu (menô en têi agapêi) của Người.” Dòng chảy tình yêu này chỉ trọn vẹn khi các môn đệ sống điều răn yêu thương Đức Giê-su ban tặng: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em” (15,12).  (Xem bài viết: “Ga 15,9-13: Dòng chảy tình yêu giữa Chúa Cha, Đức Giê-su và các môn đệ”).

2. Điều răn mới so với Cựu Ước

Tính từ “mới” (kainos) trong “điều răn mới” (Ga 13,34) đánh dấu bước ngoặt mang tính quyết định trong lịch sử cứu độ. Khi nói đến “điều răn mới” giả thiết là đã có “điều răn cũ.” “Điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gio-an gợi đến điều răn yêu thương trong Cựu Ước ở Lv 19,18b: “Ngươi phải yêu (agapêseis) người thân cận (plêsion) như chính mình.” Tuy nhiên, “điều răn mới” trong Tin Mừng Gio-an vừa tiếp nối, vừa mới mẻ so với điều răn yêu thương trong Lv 19,18b. “Điều răn mới” tiếp nối điều răn yêu thương trong Cựu Ước, vì “điều răn mới” (Ga 13,34) có cội nguồn trong tình yêu Chúa Cha dành cho thế gian (Ga 3,16) và tình yêu Chúa Cha dành cho Đức Giê-su (Ga 15,9). Đồng thời, “điều răn mới” mới mẻ so với “điều răn cũ” (Lv 19,18b), qua hai đặc điểm chính:

(1) Điều mới của “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gio-an so với Lv 19,18b không phải là “tình yêu” nhưng là “đối tượng của tình yêu”: trong Tin Mừng Gio-an là “yêu thương lẫn nhau (allêlous)” giữa các môn đệ Đức Giê-su; còn trong sách Lê-vi là “yêu thương người thân cận (plêsion)” trong dân Ít-ra-en.

(2) Chủ thể ban điều răn thay đổi. Trong Cựu Ước, ĐỨC CHÚA ban điều răn cho dân, còn trong Tin Mừng Gio-an, chính Đức Giê-su ban điều răn mới cho các môn đệ. Đức Giê-su ban điều răn mới với tư cách là Con Thiên Chúa, là Đấng Chúa Cha sai đến, và là vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người như Người đã nói với các môn đệ ở 14,6b: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Với sự xuất hiện của Đức Giê-su, bước ngoặt quyết định trong lịch sử cứu độ đã xảy ra. Từ nay con người chỉ có thể hiệp thông với Thiên Chúa và đón nhận tình yêu của Thiên Chúa qua trung gian Đức Giê-su. Với tư cách là Đấng trung gian duy nhất, Đức Giê-su ban điều răn yêu thương cho các môn đệ.

Tin Mừng Gio-an còn cho phép nói đến cái mới, so với điều răn “yêu mến ĐỨC CHÚA” ở Đnl 6,5. Trong Tin Mừng Gio-an Đức Giê-su mời gọi các môn đệ “yêu mến và giữ các điều răn của Người” (Ga 14,15-23), “ở lại trong tình yêu của Người” (15,9-10). Ai yêu mến Đức Giê-su sẽ được Chúa Cha yêu mến (14,21.23; 16,27). Như thế “yêu mến ĐỨC CHÚA” trong Cựu Ước, trở thành “yêu mến Đức Giê-su” trong Tân Ước. Những điều mới mẻ này làm cho “điều răn mới” trong Tin Mừng Gio-an đánh dấu giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ.

3. “Điều răn mới” là “điều răn cũ” trong thư Gioan

Trong truyền thống Tin Mừng và ba thư Gio-an, “điều răn mới” (Ga 13,34) có vị trí đặc biệt. Tác giả thư thứ nhất Gio-an nói về “điều răn mới” (Ga 13,34) bằng cách chơi chữ giữa “cũ” và “mới”. Tác giả thư thứ nhất Gio-an viết ở 1Ga 2,7-8: “7 Anh em thân mến, không phải là một điều răn mới (entolên kainên) tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ (entolên palaian) mà anh em đã có từ khởi đầu. Điều răn cũ ấy (hê entolê hê palaia) là lời mà anh em đã nghe. 8 Tuy nhiên, đó là một điều răn mới (entolên kainên) tôi viết cho anh em, – điều ấy là sự thật nơi Người và nơi anh em – vì bóng tối đang đi qua và ánh sáng thật đã tỏa sáng rồi.” Trong thư thứ hai Gio-an, tác giả viết ở 2Ga 4-6: “4 Tôi rất vui mừng vì đã tìm thấy trong số con cái của Bà, những người bước đi trong sự thật, như điều răn (entolên) chúng ta đã nhận được từ nơi Cha. 5 Thưa Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này – đây không phải là một điều răn mới (entolên kainên) tôi viết cho Bà, nhưng là điều răn chúng ta đã có từ khởi đầu – là chúng ta yêu mến nhau (hina agapômen allêlous). 6 Đây là tình yêu: Chúng sống theo các điều răn (tas entolas) của Người. Đây là điều răn (hê entolê) như anh em đã được nghe từ khởi đầu: Anh em sống trong tình yêu.” Những kiểu nói: “Điều răn mới”, “điều răn cũ” và “yêu mến nhau” ở 1Ga 2,7-8 và 2Ga 5 gợi đến “điều răn mới” trong Tin Mừng Gio-an (Ga 13,34; 15,12).

Vào thời điểm các thư Gio-an được viết ra, “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gio-an vừa “cũ” lại vừa “mới”. Thư thứ nhất Gio-an được viết trong bối cảnh khác với Tin Mừng Gio-an. Nội dung thư thứ nhất Gio-an cho thấy khủng hoảng trầm trọng đã xảy ra ngay giữa cộng đoàn các môn đệ, nguyên nhân là do cách hiểu khác nhau về căn tính của Đức Giê-su. Vấn đề sai lạc Ki-tô học ở đây là tách rời nhân tính và thiên tính của Đức Giê-su (x. 1Ga 2,21-22; 4,2-3). Xem bài viết: “Chia rẽ và hiệp thông’ – ‘sự thật và dối trá’ trong thư thứ nhất Gio-an.” Trong bối cảnh đó, tác giả kêu gọi cộng đoàn hiệp thông và tuân giữ điều răn yêu thương. Điều răn này không phải là điều răn mới, bởi vì điều răn này đã có ngay từ khởi đầu, từ lúc cộng đoàn đầu tiên được thiết lập. Đó là cộng đoàn các môn đệ được Đức Giê-su trao ban điều răn yêu thương ở Ga 13,34; 15,12. Vì thế, tác giả thư thứ nhất viết ở 1Ga 2,7b: “Điều răn cũ (entolên palaian) mà anh em đã có từ khởi đầu.” Thư thứ hai Gio-an cũng dùng kiểu nói này: Đó là điều răn “mà chúng ta đã có từ lúc khởi đầu” (2Ga 5b).

Việc chơi chữ giữa hai tính từ: “cũ”, “mới” trong thư thứ nhất Gio-an đề cao “điều răn mới”. Thật vậy, trước hết tác giả viết: “Không phải một điều răn mới (entolên kainên) tôi viết cho anh em, nhưng một điều răn cũ (entolên palaian)” (1Ga 2,7a). Kế đến, tác giả nhắc lại một lần nữa: “Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe” (1Ga 2,7b). Cuối cùng, tác giả kết luận cách nghịch lý: “Nhưng đó cũng là một điều răn mới tôi viết cho anh em” (1Ga 2,8a). Khi nhấn mạnh tính chất “cũ” của điều răn, tác giả thư Gio-an không nói điều gì mới mà chỉ nhắc lại điều đã có từ khởi đầu của cộng đoàn người tin. Tác giả thư thứ nhất dựa vào mặc khải trong sách Tin Mừng Gio-an để kêu gọi hiệp thông trong cộng đoàn ở 1Ga 1,3: “Điều chúng tôi thấy và chúng tôi nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em, để chính anh em cũng có sự hiệp thông với chúng tôi. Sự hiệp thông của chúng tôi với Cha và với Con của Người, Đức Giê-su Ki-tô.” Sự hiệp thông này trong cộng đoàn dựa trên điều răn yêu thương mà Đức Giê-su đã ban cho các môn đệ trong Tin Mừng Gio-an ở Ga 13,34; 15,12. Đồng thời “điều răn cũ” trên đây là “điều răn mới” (1Ga 2,7-8), bởi vì “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gio-an có tên gọi là “điều răn mới” (Ga 13,34a). Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới (entolên kainên)…” (Ga 13,34a). Theo tác giả thư thứ nhất Gio-an, “điều răn cũ” là cũ về thời gian, vì đã có ngay từ đầu, nhưng đó là “điều răn mới”, vì tên gọi của “điều răn yêu thương” là “điều răn mới.”

4. Điều răn của Đức Giê-su

Trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 22,36-40 // Mc 12,28-34 // Lc 10,25-28), Đức Giê-su lấy lại các điều răn của ĐỨC CHÚA trong Cựu Ước (Đnl 6,5; Lv 19,18b), còn trong Tin Mừng Gio-an, chính Đức Giê-su ban điều răn yêu thương cho các môn đệ và đó là điều răn của Người chứ không phải của ai khác. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Ga 13,34a; 15,12a: “Thầy ban cho (didômi) anh em một điều răn mới:…” (13,34a); “Đây là điều răn của Thầy (hê entolê hê emê):…” (15,12a). Điều răn mới này là điều răn của Đức Giê-su chứ không phải của ĐỨC CHÚA. Nói đúng hơn, Đức Giê-su đã lãnh nhận điều răn từ nơi Cha của Người và Người ban cho các môn đệ như Người nói ở Ga 12,49-50: “49 Vì chính Tôi đã không nói tự mình, nhưng là Cha, Đấng đã sai Tôi, chính Người cho Tôi mệnh lệnh (entolên) để Tôi nói điều gì và tuyên bố điều gì. 50 Và Tôi biết rằng: Mệnh lệnh (hê entolê) của Người là sự sống đời đời. Vậy những điều Tôi nói, thì như Cha đã nói với Tôi thế nào, Tôi nói như vậy.” Danh từ “mệnh lệnh” ở 12,49-50 tiếng Hy lạp là danh từ “entolê” được dùng ở 13,34 và 15,12 để nói về “điều răn” yêu thương.

Như thế “Anh em hãy yêu mến nhau (hina agapate allêlous) như Thầy đã yêu mến (êgapêsa) anh em” (13,34; 15,12) là điều răn của Đức Giê-su và chính Người đã ban cho các môn đệ. Đây là những đặc điểm Ki-tô học quan trọng của “điều răn mới.” Với tư cách là “người sở hữu” và là “người ban” điều răn yêu thương, Đức Giê-su được đặt song song với ĐỨC CHÚA là đấng sở hữu và ban các điều răn cho dân Ít-ra-en trong Cựu Ước.

5. Cách thức yêu thương trong điều răn mới

Vế thứ hai của “điều răn mới”: “… NHƯ Thầy đã yêu thương anh em” (13,34c; 15,12c) chỉ ra cách thức yêu thương trong điều răn này. Từ “như” (kathôs) trong điều răn: “Anh em hãy yêu mến nhau như (kathôs) Thầy đã yêu mến anh em” (13,34; 15,12) có nghĩa thần học, từ này diễn tả “nền tảng” (le fondement), “nguồn gốc” (l’origine) và “nguồn mạch” (la source) tình yêu của các môn đệ dành cho nhau. Nói cách khác, từ “như” (kathôs) khẳng định rằng tình yêu Đức Giê-su dành cho các môn đệ vừa là nền tảng vừa là nguồn mạch cho hành động “yêu thương lẫn nhau” của các môn đệ. Có thể nói, tình yêu của Đức Giê-su “sinh ra” (engendre) liên lỷ tình yêu giữa các môn đệ. “Yêu thương lẫn nhau” giữa các môn đệ chỉ có thể tồn tại “trong”, “nhờ” và “với” tình yêu của Đức Giê-su dành cho họ.

Như thế, mệnh đề thứ hai của “điều răn mới”:  “…như Thầy đã yêu thương anh em” (13,34c; 15,12c) là yếu tố cấu thành và không thể tách rời với mệnh đề thứ nhất: “Anh em hãy yêu thương nhau” (13,34b; 15,12b). Nếu không có mệnh đề thứ hai thì mệnh đề thứ nhất cũng không tồn tại. Mệnh đề thứ hai làm rõ bản chất của tình yêu thương lẫn nhau giữa các môn đệ qua hai yếu tố: (1) Cách thức yêu thương: các môn đệ yêu thương nhau “như” (bằng, với) tình yêu của Đức Giê-su dành cho họ. (2) Nền tảng của tình yêu thương lẫn nhau: Tình yêu của các môn đệ dành cho nhau phải không ngừng đặt trên nền tảng tình yêu của Đức Giê-su dành cho họ. Tình yêu này được Đức Giê-su định nghĩa rõ ràng ở 15,13: “Không ai có tình yêu (agapên) cao cả hơn người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu của mình.”

“Điều răn mới” là điều răn Đức Giê-su ban cho các môn đệ và chỉ dành cho các môn đệ Đức Giê-su mà thôi. Bởi vì các môn đệ được mời gọi yêu thương nhau bằng tình yêu mà Đức Giê-su đã dành cho họ. Yêu thương như thế thì chỉ có người tin vào Đức Giê-su mới cảm nhận và sống tình yêu của Đức Giê-su dành cho mình và yêu thương nhau bằng tình yêu ấy. “Yêu thương nhau như Đức Giê-su đã yêu thương” là dấu chỉ tuyệt hảo để mọi người nhận ra môn đệ Đức Giê-su và để phân biệt “tình yêu” trong “điều răn mới” với các thứ “tình yêu” khác như “yêu mến bóng tối” (3,19), “yêu mạng sống mình” (12,25) hay “yêu mến vinh quang của con người” (12,43). Xem trình bày về “tình yêu nẩy sinh sự sống” và “tình yêu dẫn đến sự hư mất” trong bài viết: “Đề tài tình yêu và tình bạn trong Tin Mừng Gioan.”

KẾT LUẬN

Qua những phân tích trên về các điều răn: “Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình” trong Cựu Ước và trong Tin Mừng Nhất Lãm, nhất là “điều răn mới” trong truyền thống Gio-an (Tin Mừng và ba thư), có thể nói đến ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh:

1) Điều răn kép: “Yêu mến ĐỨC CHÚA” (Đnl 6,5) và “yêu thương người thân cận như chính mình” (Lv 19,18) theo truyền thống Cựu Ước. Trong đó, nói chung “người thân cận” là đồng bào Ít-ra-en.

2) Điều răn kép: “Yêu mến ĐỨC CHÚA” và “yêu thương người thân cận như chính mình” theo thần học Tân Ước (Lc 10,25-28). Trong đó, định nghĩa “người thân cận” là tất cả mọi người, không loại trừ bất kỳ ai. Các môn đệ được mời gọi làm cho mình trở thành người thân cận của người khác.

3) Điều răn mới: “Yêu thương nhau như Đức Giê-su đã yêu thương” (Ga 13,34; 15,12). Đây là điều răn của Đức Giê-su, Người ban cho các môn đệ và chỉ dành cho các môn đệ (người tin).

Đặc biệt, điều răn mới trong Tin Mừng Gio-an cho thấy sự nối kết và sự mới mẻ của Tân Ước so với Cựu Ước. Tân Ước nối kết với Cựu Ước vì “điều răn yêu thương” Đức Giê-su trao ban cho các môn đệ bắt nguồn từ tình yêu giữa Đức Giê-su và Cha của Người (Ga 10,18; 12,49.50; 15,9-10). Tân Ước mới mẻ so với Cựu Ước qua ba thay đổi sau: (1) “Tình yêu” giữa các thành viên dân Thiên Chúa trong Cựu Ước nay trở thành “tình yêu” giữa các môn đệ Đức Giê-su. (2) Điều răn yêu thương của ĐỨC CHÚA (Lv 19,18b) nay trở thành điều răn yêu thương của Đức Giê-su (Ga 15,12). (3) “Yêu thương người thân cận như chính mình” (Lv 19,18b) trở thành “yêu thương nhau như Đức Giê-su đã yêu thương” (Ga 13,34; 15,12). Như thế, “điều răn mới” trong Tân Ước đi xa hơn và mở rộng hơn so với điều răn yêu thương trong Cựu Ước (Lv 19,18b).

Điều quan trọng khác trong “điều răn mới” là cách thức yêu thương: “yêu thương nhau như Đức Giê-su đã yêu thương.” Đặc điểm này làm cho “điều răn mới” trong Tin Mừng Gio-an chỉ ban cho các môn đệ, bởi vì tình yêu trong điều răn mới không thể tách rời khỏi tình yêu của Đức Giê-su dành cho họ, để từ nay bất kỳ ai cũng có thể trở thành môn đệ Đức Giê-su và sống điều răn mới. Nhờ đó, người môn đệ được hiệp thông trọn vẹn với Đức Giê-su và với Chúa Cha. Sống và thực hành điều răn mới là lời chứng tuyệt hảo về tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại và về tình yêu của người môn đệ dành cho Đức Giê-su.

***

MỤC TỪ NGỮ

– agapaô, đt., yêu mến

– agapê, -ês, hê, dt., tình yêu

– phileô, đt., yêu thương

– philos, -ou, ho, dt., bạn hữu

1. Agapaô, đt., yêu mến (37 lần)

Động từ “agapaô” xuất hiện 37 lần, trong đó:

+ Ga 1–12: 7 lần với nghĩa tích cực (5 lần: 3,16.35; 8,42; 10,17; 11,5) và nghĩa tiêu cực (2 lần: 3,19; 12,43).

+ Ga 13–17: 25 lần, trong đó:

   – Ch. 13: 6 lần: 13,1a.1b; 13,23; 13,34a.34b.34c.

   – Ch. 14: 10 lần trong 14,15-31:

                   14,15.21a.21b.21c.21d.23a.23b.24.28.31.

   – Ch. 15: 5 lần, trong 15,9-17: 15,9a.9b.12a.12b.17.

   – Ch. 16: động từ này không xuất hiện.

   – Ch. 17: 4 lần trong 17,23-26: 17,23a.23b.24.26.

+ Ga 18–21: 5 lần, 3 lần nói về môn đệ Đức Giê-su yêu mến (19,26; 21,7.20); 2 lần Đức Giê-su hỏi Phê-rô: “Anh có yêu mến Thầy không?” (21,15.16).

2. Agapê, -ês, hê, dt., tình yêu (7 lần)

Danh từ “agapê” xuất hiện 7 lần ở Ga 5,42; 13,35; 15,9.10a.10b.13; 17,26.

Trong phần đầu Tin Mừng (Ga 1–12), chỉ có 1 lần danh từ “agapê” ở 5,42. Còn 6 lần khác ở trong Ga 13–17. Danh từ “agapê” xuất hiện lần thứ hai ở 13,35. Đoạn văn 15,9-13 có 4 lần từ “agapê” ở 15,9.10a.10b.13. Trong đó, 3 lần trong kiểu nói “ở lại trong tình yêu” (15,9.10a.10b).

Tóm lại, danh từ “agapê” và động từ “agapaô” xuất hiện chủ yếu trong Ga 13–17 và tập trung vào 4 đoạn văn:

– 13,34-35:     3 lần “agapaô”, 1 lần “agapê”.

– 14,15-31:     10 lần “agapaô”.

– 15,9-17:       5 lần “agapaô”, 4 lần “agapê”.

– 17,23-26:     4 lần “agapaô”,  1 lần “agapê”.

3. Phileô, đt., thương mến (13 lần)

Động từ “phileô” xuất hiện 13 lần. Trong đó,

– 11 lần có nghĩa tích cực: Ga 5,20; 11,3.36; 16,27a.27b; 20,2; 21,15.16.17a.17b.17c (5 lần trong đoạn văn 21,15-17).

– 2 lần có nghĩa tiêu cực: 12,25 (yêu mạng sống mình) và 15,19 (thế gian yêu thích cái thuộc về nó).

Cùng gốc với danh từ “philos” (bạn hữu), động từ “phileô” có nghĩa: “thương”, “thương mến” trong tình bằng hữu (aimer d’amitié). Tùy theo văn mạch và âm điệu câu văn, động từ “phileô” có thể dịch sang tiếng Việt: “thương mến” (11,3), “thương”(11,36), “yêu” (12,25) hay “yêu thích” (15,19).

4. Philos, -ou, ho, dt., bạn hữu (6 lần)

Danh từ “philosxuất hiện 6 lần trong Tin Mừng Gio-an:

– 3,29: Gio-an Tẩy Giả là bạn của chú rể.

– 11,11: La-da-rô bạn của Đức Giê-su và các môn đệ.

– 15,13.14.15: Các môn đệ là bạn hữu của Đức Giê-su.

– 19,12: Bạn của Xê-da.

***

Bài viết về đề tài tình yêu:

1Đề Tài “Tình Yêu” Và “Tình Bạn” Trong Tin Mừng Gioan.

2Ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh.

3- Ga 15,9-13: Dòng chảy tình yêu giữa Chúa Cha, Đức Giê-su và các môn đệ.

4- Ga 14,15-24: Đặc Ân Dành Cho Ai Yêu Mến Đức Giê-Su Và Giữ Các Điều Răn Của Người