Lịch Sử Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội

0
1230


Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.

 

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Giám đốc Trung Tâm Học vấn Đaminh;
nguyên Khoa Trưởng Phân Khoa Thần Học đại học Angelicum, Rôma

Khi nghiên cứu thần học về con người, chúng ta nhận thấy rằng có ít là hai đường hướng nghiên cứu: 1/ Một đàng thì bàn tới con người theo lịch sử cứu rỗi, với bộ môn “anthropologia theologica” (tại Việt nam, có nơi dịch là “nhân học đối thần”); 2/ Đàng khác thì chú trọng tới việc bảo vệ phẩm giá con người trong những điều kiện xã hội hiện tại, đưa đến học thuyết xã hội của Giáo hội. Trong bài này, chúng tôi muốn trình bày lịch sử của sự thành hình học thuyết xã hội của Giáo hội.

Theo một nghĩa rộng, thì có thể nói rằng học thuyết xã hội của Giáo hội ra đời cùng một lúc với Kitô giáo. Thực vậy, Kitô giáo không phải chỉ gồm những chân lý về mầu nhiệm Thiên Chúa nhưng còn kèm theo rất nhiều đạo lý về mối tương quan của con người với tha nhân, với gia đình và xã hội. Dọc theo dòng lịch sử, đã có bao nhiêu vị chủ chăn và thần học gia đã suy tư, nhắc nhở các tín hữu về những chiều kích của nghĩa vụ công bằng bác ái. Tuy nhiên, theo nghĩa chặt, thì học thuyết xã hội được thành hình từ một thế kỷ nay, và có thể lấy thông điệp Rerum Novarum” của đức Lêo XIII (1891) làm khởi điểm. Bối cảnh lịch sử của nó là cuộc cách mạng kỹ nghệ tại Âu châu, lôi kéo theo rất nhiều cuộc thay đổi về những công cụ sản xuất, cũng như những mối tương quan xã hội.

Thực ra, xã hội tại Âu châu đã bị lay động từ nhiều thế kỷ trước, do nhiều nhân tố khác nhau. Trước tiên là các cuộc cách mạng chính trị, lật đổ các chế độ chuyên chế, đòi hỏi các quyền tự do bình đẳng cho hết mọi công dân (điển hình là cách mạng Pháp 1789). Tiếp theo cuộc cách mạng chính trị đòi hỏi các quyền tự do cho công dân, là thuyết tự do kinh tế, theo đó trong lãnh vực kinh tế, chính quyền phải để cho sáng kiến tư nhân hoạt động (laissez faire, laissez passer) chứ không được can thiệp vào guồng máy sản xuất (từ việc thiết lập cơ xưởng, cho tới khế ước thuê mướn nhân công, lẫn giá cả). (Vài học giả tiêu biểu : Adam Smith 1723-1790; David Ricardo 1772-1823).

Chủ thuyết tự do cũng đề cao tư sản như là cái gì thánh-thiêng ngang hàng với tôn giáo và gia đình. Những tiền đề của chủ thuyết tự do, khi được áp dụng vào cuộc cách mạng kỹ nghệ, không những đã làm thay đổi các điều kiện làm việc (từ nông nghiệp sang kỹ nghệ, từ đồng quê lên thành thị), nhưng còn tạo ra những giai cấp mới trong xã hội: một bên là lớp tư bản và một bên là lớp vô sản. Từ khi mà mức sống giữa đôi bên càng lúc càng chênh lệch, thì hai bên càng ngày càng trở nên đối thủ.

Đứng trước tình trạng bất công mà đa số dân nghèo phải chịu đựng, nhiều học giả tựa như Robert Owen (1771-1858), Saint Simon (1760-1825), Proudhon (1809-1865)và nhất là Karl Marx (1818-1883), cho rằng nguồn gốc của các bất công xã hội là chủ nghĩa tự do kinh tế. Vì vậy muốn dẹp đi những bất công, thì chính quyền cần phải nắm giữ các bộ máy sản xuất. Không những Marx chỉ đề ra một lý thuyết nhưng ông còn khơi lên một hiệp hội quốc tế các công nhân, từ năm 1866 mang tên là Đệ nhất Quốc tế, nhằm chuẩn bị cho giới lao động nắm chính quyền, dẹp tan chế độ tư sản.

Học thuyết xã hội của Giáo hội đã ra đời trong hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, cũng cần phải thêm rằng, Giáo hội không những chỉ phải đương đầu với những lý thuyết tự do trong lãnh vực kinh tế. Thực vậy, từ thời cách mạng chính trị bên Pháp, giữa Giáo hội với chủ nghĩa tự do còn có những cuộc đụng độ trên những phạm vi khác nữa thí dụ như : về nguồn gốc quyền bính trong xã hội (từ trời, hay là từ nhân dân?), về tự do lương tâm (ai muốn theo đạo nào thì theo, hay là phải theo đạo chân thật ?). Các Giáo hoàng Grêgoriô XVI (thông điệp “Mirari vos” 15-8-1832, “Singulari nos” 25-7-1834) và Piô IX (“Syllabus”, danh mục những sai lầm của thời đại, 8-12-1864) đã lên án những tiền đề của chủ thuyết tự do trong lãnh vực chính trị; nhưng thái độ lên án mang tính cách tiêu cực.

Đức Lêo XIII (1878-1903) bắt đầu tạo ra một học thuyết có tính cách tích cực và vững chắc về luân lý xã hội, để đáp lại những học thuyết tự do lẫn học thuyết cộng sản về nguồn gốc quyền bính trong xã hội, về ý nghĩa của tự do, về mối quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước. Cách riêng, với thông điệp Rerum Novarum (15-5-1891), đức Lêo XIII giải quyết vấn đề mà sự kỹ nghệ hóa đã đặt ra, đó là: một thiểu số người giàu đã áp đặt ách nô lệ lên đại đa số người vô sản. Có thể coi đây như là khởi điểm của học thuyết xã hội của Giáo hội, tuy phải nhìn nhận rằng các văn kiện chính thức của Giáo hội đã được chuẩn bị trước đó nhờ những nhà thần học hoặc các giáo dân đi tiên phong.

Từ thông điệp Rerum Novarum trở đi, học thuyết xã hội của Giáo hội được bổ túc dần dần, do những vấn đề được gợi lên tùy thời thế và cũng do những cuộc tìm hiểu và suy tư càng ngày càng chín chắn hơn. Xét về những biến chuyển của thời thế, chúng ta có thể chia thành 6 giai đoạn như sau:

1. Thời phác họa những vấn đề (1891-1931). 

2. Thời khủng hoảng của các chế độ kinh tế (1931-1939). 

3. Thời thế chiến và chiến tranh lạnh (1939-1958). 

4. Thời lạc quan của thập niên 60 (1958-1969). 

5. Thời khủng hoảng trong Giáo hội và xã hội (1969-1989). 

6. Từ 1989, với sự sụp đổ của bức tường Bá linh.

Chúng ta hãy lược qua những nét chính của mỗi giai đoạn.

I. THỜI PHÁC HỌA VẤN ĐỀ (1891-1931)

Không phải tất cả mọi giới công giáo đều hoan hỉ đón nhận thông điệp “Rerum Novarum”. Một nhóm trưởng giả đã trách đức Lêo XIII là đã vượt quá thẩm quyền của mình khi can thiệp vào những vấn đề xã hội thay vì chú trọng đến chuyện cứu rỗi các linh hồn. Dù sao, thông điệp ấy đã thức tỉnh lương tâm của nhiều tín hữu về vai trò của mình trong xã hội. Trong những thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, người ta nhận thấy rất nhiều sáng kiến đã được xúc tiến về phía các chủ nhân cũng như các công nhân Kitô giáo, muốn đem ra áp dụng đạo lý của Hội thánh. Chính trong khi thực hành, người ta mới thấy nảy ra những vấn đề mới mà thông điệp chưa nghĩ tới, nhưng cũng nhờ vậy mà học thuyết xã hội dần dần được bổ túc và hoàn chỉnh. Vài thí dụ : người công giáo có nên thành lập một đảng chính trị để tranh đấu cho một chính sách hòa hợp với luân lý hay không ? Các công nhân công giáo nên lập ra nghiệp đoàn riêng hay là nên gia nhập những nghiệp đoàn khác tuy không đồng tín ngưỡng ? Riêng về quyền lợi của các công nhân, các nhà thần học còn tranh luận xem vấn đề phụ cấp dành cho gia đình thuộc về công bằng hay thuộc đức bác ái ?

II. THỜI KHỦNG HOẢNG CỦA CÁC CHẾ ĐỘ (1931-1939)

Thập niên 30 của thế kỷ XX được đánh dấu bằng nhiều khủng hoảng. Chế độ tư bản tự do gặp phải cơn khủng hoảng, điển hình với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Nữu ước (24-10-1929). Chế độ xã hội, sau cuộc cách mạng 1917 bên Nga, cũng bị rạn nứt giữa khuynh hướng đệ nhị và đệ tam quốc tế. Đang khi đó tại Đức và Ý nảy ra chủ nghĩa quốc xã và phát xít.

Thông điệp Quadragesimo anno của đức Pio XI (15-5-1931), kỷ niệm 40 năm thông điệp Rerum Novarum, đã vạch ra những sai lầm của ba chủ nghĩa nói trên: 1) Chủ nghĩa tư bản bị lên án là bất công bởi vì hoàn toàn dựa trên định luật cung cầu ; mặc dù đề cao tự do nhưng trên thực tế nó áp đặt sự thống trị của thiểu số có tiền lực. 2) Chủ nghĩa cộng sản bị kết án vì quan niệm đấu tranh giai cấp, gây ra căm thù trong xã hội. 3) Chủ nghĩa độc tài phát xít bị công kích vì dành cho Nhà nước quá nhiều can thiệp vào đời sống xã hội đến nỗi bóp nghẹt những sáng kiến tư nhân.

Nên biết là đức Pio XI đã dành ba thông điệp cho ba chế độ độc tài: “Non abbiamo bisogno” (29-6-1931) dành cho phát xít Ý; “Mit brennender Sorge” (14-3-1937) hướng tới quốc xã Đức; bốn ngày sau đó, thông điệp “Divini Redemptoris” (19-3-1937) ra đời bàn về chế độ cộng sản. Đức Piô XI đã mạnh dạn tố cáo tất cả những chủ nghĩa nào,- dù hữu phái hay tả phái, dù thuộc khuynh hướng tự do hay xã hội-, khi chúng đe dọa sự tự do đích thực của con người.

III. THỜI CHIẾN TRANH THẾ GIỚI VÀ CHIẾN TRANH LẠNH (1939-58)

Triều đại của Đức Pio XII trùng với thời chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh của thế giới. Chiến tranh nóng khởi sự với thế chiến thứ hai ngày 1-9-1939. Khi thế chiến vừa kết liễu thì cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu giữa hai khối Nga Mỹ. Thêm vào đó, ngay tại nước Nga, người ta cũng đã chứng kiến việc hạ bệ Staline năm 1956 đưa tới sự lên án vào năm 1961, dưới thời Kruschov, tuy ông này cũng làm thế giới đứng tim với cuộc khủng hoảng Cuba năm 1962, sau khi đã xây bức tường Bá linh năm 1961.

Đức Piô XII không xuất bản một thông điệp nào về vấn đề xã hội, nhưng Ngài đã viết hoặc tuyên bố trên đài phát thanh biết bao nhiêu bài diễn văn bàn về hòa bình trên thế giới. Không những ĐTC lên án chiến tranh, nhưng còn vạch ra những nguyên nhân của nó, cũng như đề nghị những nguyên tắc xây dựng một trật tự hòa bình trên thế giới. Ngoài ra, Ngài cũng đề cập tới những vấn đề như quyền tư hữu, việc quốc hữu hóa xí nghiệp…

IV. THỜI LẠC QUAN CỦA THẬP NIÊN 60 (1958-1969)

Thập niên 60 được đánh dấu với những nét lạc quan về chính trị, kinh tế xã hội. Mặc dù chiến tranh lạnh giữa hai khối Nga Mỹ còn tiếp diễn, nhưng lãnh tụ của hai phe đã có dịp gặp gỡ nhau để thảo luận về chính trị quốc tế. Mức sống của dân chúng tại Âu Mỹ đã được nâng cao nhờ sự phát triển kinh tế. Các công nhân và nghiệp đoàn đã có tiếng nói trong sinh hoạt chính trị và xã hội. Thập niên 60 cũng còn được đánh dấu với sự dành độc lập của các nước Á-Phi, làm thay đổi mối bang giao giữa các quốc gia, dần dần đưa tới những khối trong cộng đồng chính trị thế giới.

Về phía Giáo hội, giai đoạn này trùng hợp với triều đại của đức Gioan XXIII. Ngài đã để lại hai thông điệp xã hội : Mater et Magistra (15-5-1961) và Pacem in terris (14-4-1963). Thông điệp thứ nhất kỷ niệm 70 năm thông điệp “Rerum Novarum”, đặt lại những vấn đề quyền tư hữu, lương bổng, các cơ cấu kinh tế trong viễn tượng mới của thế giới. Thông điệp thứ hai phát biểu quan điểm của Giáo hội trước các vấn đề chính trị quốc gia và quốc tế. Thông điệp này gửi tới “hết mọi người thiện chí”, chứ không chỉ giới hạn vào các phần tử của Giáo hội. ĐTC đề cao các quyền lợi của con người (nhân quyền), cũng như đặt nền móng xây dựng hòa bình dựa trên bốn cột trụ của: chân lý, công bằng, yêu thương và tự do.

Như chúng ta đã biết, đức Gioan XXIII đã triệu tập công đồng Vaticano II. Công đồng này đã bàn tới các vấn đề xã hội, đặc biệt là trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes, 7-12-1965), với những chương nói về gia đình, văn hóa, kinh tế, chính trị, hòa bình.

Trong công tác thực thi công đồng, Đức Phaolô VI đã để lại một văn kiện quan trọng cho HTXH, đó là thông điệp Populorum Progressio (26-3-1966) bàn về sự phát triển các dân tộc. Sự phát triển không thể chỉ giới hạn vào lãnh vực kinh tế, nhưng cần được mở rộng tới sự phát triển toàn diện con người. Mặt khác, sự phát triển cũng đòi hỏi tình liên đới; vì thế vấn đề quyền tư hữu cần được lồng trong bối cảnh nhằm phục vụ lợi ích của toàn thể nhân loại.

V. THỜI KHỦNG HOẢNG TRONG XÃ HỘI VÀ GIÁO HỘI (1969-1989)

Vào năm 1969, con người đã đặt chân lên cung trăng. Nhưng thay vì mở màn cho những hy vọng vô bờ bến của nhân loại, thì nó lại đánh dấu một giai đoạn khủng hoảng. Trước đó một năm, những cuộc biểu tình của sinh viên tại Paris và các thủ đô lớn ở Âu Mỹ đã cho thấy rằng thế hệ trẻ không hài lòng với những cơ cấu xã hội cổ truyền, và họ muốn phá đổ tất cả. Sự phát triển kinh tế bị đình trệ lại với cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973. Hòa bình thế giới bị thương tổn không những do những cuộc chiến tranh sôi bỏng tại Việt nam, nhưng còn có những cuộc chiến tranh du kích tại Nam mỹ nhằm đòi hỏi một trật tự xã hội công bình hơn.

Trong nội bộ Giáo hội, luồng gió mới của công đồng Vaticano II đôi khi cũng gây ra những bão tố, điển hình là phản ứng tiếp theo thông điệp “Humanae vitae” của đức Phaolo VI (25-7-1968).
Trong giai đoạn này, đừng kể những văn kiện liên quan tới việc canh tân Giáo hội sau công đồng, chúng ta có thể ghi nhận rất nhiều văn kiện về học thuyết xã hội của Giáo hội.

Đức Phaolo VI, với tông thư Octogesima Adveniens (15-5-1971), kỷ niệm 80 năm thông điệp Rerum Novarum, đã trình bày lập trường của Giáo hội trước những vấn đề mới, đặc biệt là sự tham gia của các tín hữu vào các ý thức hệ. Ngài đã phân tích hai ý thức hệ (tự do và mác xít), khác với ba phong trào lịch sử (chủ nghĩa xã hội, cộng sản, tư bản).

Thượng hội đồng các Giám mục năm 1971 đã dành một văn kiện bàn về Sự Công bằng trên thế giới. Thượng hội đồng khóa 1974, được đức Phaolo VI đúc kết trong tông huấn Rao truyền Phúc âm (Evangelii Nuntiandi 8-12-1975), đã dành nhiều khoản(số 29-39) để nói về mối liên hệ giữa việc rao truyền Phúc âm với sự thăng tiến con người.

Đức Gioan Phaolô II khai trương giáo huấn xã hội của triều đại với thông điệp Laborem exercens (14-9-1981) bàn về lao động, vào dịp kỷ niệm 90 năm thông điệp Rerum Novarum. Tiếp theo đó là thông điệp Sollicitudo rei socialis (30-12-1987) kỷ niệm 20 năm thông điệp Populorum Progressio. Những dịp kỷ niệm như vậy không phải chỉ để lặp lại chuyện cũ nhưng là để bàn đến những vấn đề mà thời đại đặt ra. Thí dụ vào thời đại hôm nay, vấn đề lao động lôi kéo theo vấn đề nghiệp đoàn, lãng công, thất nghiệp, di dân, phụ nữ. Sự phát triển các dân tộc bị đình trệ vì nợ của các nước nghèo: thế giới không phải chỉ chia thành hai khối tư bản và xã hội, nhưng còn thêm những nước thuộc thế giới thứ ba và thứ bốn.

Bên cạnh giáo huấn của ĐTC, còn phải kể thêm hai huấn thị của Bộ Giáo Lý đức tin về thần học giải phóng (6-8-1984 và 22-3-1986), một huấn thị của Bộ Giáo dục công giáo về việc dạy học thuyết xã hội trong các chủng viện (30-12-1988), đó là chưa kể đến các văn kiện của Hội đồng Tòa thánh về “Công lý Hòa bình” và của các Hội đồng Giám mục.

VI. TỪ KHI BỨC TƯỜNG BÁ LINH SỤP ĐỔ (1989)

Với sự sụp đổ của bức tường Bá linh ngày 9-11-1989, một trang sử được lật qua với những ảnh hưởng không riêng gì cho chính trị tại Âu châu mà còn cho trật tự của toàn thế giới. Bản đồ của nhiều quốc gia đã được vẽ lại. Người ta không còn lo sợ sự đụng độ giữa hai siêu cường Nga-Mỹ nữa, (điển hình là hồi chiến tranh vùng vịnh Ba-tư).Tuy nhiên, những cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội vẫn còn trờ trờ ở đó: nạn thất nghiệp, nợ quốc tế, vv; đó là chưa nói tới cuộc khủng hoảng của các giá trị luân lý tinh thần.

Thông điệp Centesimus Annus (1-5-1991) không nhằm kỷ niệm 100 năm thông điệp Rerum Novarum cho bằng phác họa hướng đi cho tương lai. Thông điệp ôn lại thái độ của Giáo hội đối với hai chế độ mácxít và tư bản, cho thấy những khuyết điểm của mỗi chế độ, chung quy ở chỗ quan điểm lệch lạc về phẩm giá của con người. Khuyết điểm chính của thuyết mác xít là cắt đứt con người khỏi chiều kích siêu việt, cũng như chủ trương đấu tranh giai cấp. Khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản là đề cao tự do cá nhân mà không đếm xỉa đến tình liên đới xã hội, hoặc đề cao một thứ tự do quá khích tách rời khỏi mọi giá trị luân lý.

Tóm lại, trong vòng 100 năm qua, học thuyết xã hội của Giáo hội đã có sự tiến triển, do những vấn đề được đặt ra tùy theo tình thế mới. Mặt khác, với dòng thời gian, những suy tư càng ngày càng chín mùi hơn, từ những giải pháp lẻ tẻ nhất thời cho tới những nguyên tắc có tính cách bao quát. Chúng tôi sẽ trở lại với vấn đề bản chất của học thuyết xã hội trong bài tới. Lần này, để kết thúc mục lịch sử, chúng tôi muốn ghi nhận vài nguyên tắc coi như bền vững trải qua những biến chuyển của thời gian. Những nguyên tắc căn bản có thể tóm lại như sau :

1) Tôn trọng phẩm giá của con người. Con người là chủ thể và trung tâm của mọi cơ cấu và hoạt động xã hội. Nói khác đi, tất cả sinh hoạt chính trị, kinh tế xã hội phải nhằm giúp con người phát triển phẩm giá của mình, chứ không phải để khuynh đảo, bóc lột con người. Việc tôn trọng phẩm giá của con người được thể hiện qua việc tôn trọng nhân quyền. Sách Giáo Lý Hội thánh công giáo nói tới phẩm giá con người tại các số 355-379 và 1700-1709.

2) Con người cần có xã hội để phát triển; hậu nhiên những cơ cấu xã hội thực là cần thiết cho con người. Tuy nhiên, những cơ cấu cần được luôn luôn cải tiến để khỏi rơi vào nguy cơ là đè bẹp, chèn ép những sáng kiến cá nhân. Chúng ta có thể xem sách Giáo lý Công giáo các số 1878-1889.

3) Trật tự xã hội chính trị cần đặt trên nền tảng là công ích. Công ích bao gồm toàn thể những điều kiện xã hội nhằm giúp đỡ sự phát triển toàn diện của con người và của hết mọi người. Khái niệm công ích được Sách Giáo Lý nói ở số 1905-1912.

4) Đời sống xã hội cần được điều khiển bởi sự liên đới và hỗ trợ. Ý nghĩa của liên đới và hỗ trợ được Sách GL giải thích ở số 1883-1884; 1939-1942; 2437-2440.

5) Xã hội là một khái niệm hữu cơ, gồm có nhiều cấp độ: gia đình, làng mạc, hiệp hội, quốc gia, cơ quan quốc tế. Con người có quyền được thiết lập, bảo vệ, cũng như bổn phận phải tham gia vào sinh hoạt của các cấp độ ấy. Sự tham gia vào sinh hoạt xã hội được sách GL nói đến ở các số 1913-1917.

6) Cần phải nhìn nhận cho con người được quyền tư hữu. Lao động là một nguồn gốc của quyền tư hữu. Nên biết rằng quyền tư hữu không chỉ giới hạn vào đất đai hay tài sản vật chất, nhưng còn bao hàm kiến thức, kỹ thuật. Mặt khác, quyền tư hữu không phải là quyền lợi cá nhân tuyệt đối, nhưng phải lệ thuộc một nguyên tắc cao cấp hơn, đó là: nhằm tới ích lợi của toàn thể nhân loại. Vì thế, đôi khi ích chung có thể đòi hỏi sự truất hữu hay cải cách quyền tư hữu, ngõ hầu hết mọi người có thể hưởng dụng những phương tiện tối cần để sinh sống.

Như quý vị có thể nhận thấy, một điểm mới của Sách Giáo lý Hội thánh công giáo (xuất bản năm 1992) là đã dành ra những mục riêng cho học thuyết xã hội của Giáo hội, đặc biệt ở các số 2419-2425, đó là chưa kể những bổn phận xã hội trong phần luân lý tổng quát (thí dụ 1878-1888) hay chuyên biệt (thí dụ 2443-2449).