Giáo Huấn Xã Hội Của Giáo Hội Về Lao Động – 03

0
3591


DẪN NHẬP VÀO GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI

Tác giả: Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.

***

***

GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI VỀ LAO ĐỘNG

 

Chữ viết tắt:

LĐ = Lao động

GHXH = Giáo huấn xã hội của Giáo hội

TLHT = Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội

XH = Xã hội

Thông điệp LE = Laborem exercens; CA = Centesimus annus. Hiến chế GS = Gaudium et spes.

Giống như bài trước, chúng ta sẽ chia bài này làm hai mục: 1/ Tóm lược nội dung của Sách Tóm lược. 2/ Nhận xét

***

MỤC I

SÁCH TÓM LƯỢC GIÁO HUẤN XÃ HỘI

Giới thiệu

Trong sách TLHT đề tài lao động được bàn ở chương 6, được phân ra làm 7 đoạn:

1. Khía cạnh Kinh thánh (số 255-266)

2. Giá trị ngôn sứ của thông điệp Rerum novarum (số 267-269)

3. Phẩm giá lao động (số 270-286)

4. Quyền làm việc (số 287-300)

5. Những quyền lợi của người lao động (số 301-304)

6. Tình liên đới giữa những người lao động (số 305-309)

7. Những vấn đề mới (res novae) của thế giới lao động (310-322)

Chiều dài và tầm quan trọng của các đoạn không ngang nhau. Đoạn 2 và đoạn 7 đặt vấn đề lao động trong bối cảnh lịch sử, trình bày những vấn đề mới (res novae) hồi thế kỷ XIX (thông điệp Rerum novarum) và vào thời nay. Đoạn 1 nói đến khía cạnh Kinh thánh nhằm cung cấp cho các tín hữu ánh sáng của Lời Chúa, nhưng có lẽ sẽ khó sử dụng được cho những người ngoài Kitô giáo. Đoạn 3 có thể coi như căn bản cho mọi hình thức lao động, (được khai triển trong ba đoạn tiếp theo), dựa theo thông điệp Laborem exercens của đức thánh cha Gioan Phaolô II.

I. KHÍA CẠNH KINH THÁNH

Mọi suy từ thần học đều bắt đầu bằng Lời Chúa. Như vừa nói, những điều nói ở đây có giá trị cho các Kitô hữu, chứ chưa hẳn có sự thuyết phục các tôn giáo khác. Mặt khác, Kinh thánh nói đến “lao động” dưới khía cạnh thần học luân lý và tu đức, hơn là những khía cạnh kinh tế xã hội vào thời đại chúng ta. Chúng ta sẽ trở lại điều này trong Mục 2 (nhận xét).

Đoạn này gồm có ba khoản: 1/ Cựu ước: sứ mệnh lao động vào lúc tạo dựng. 2/ Tân ước: đức Kitô gương mẫu lao động. 3/ Nghĩa vụ làm việc dựa theo các thánh tông đồ và các giáo phụ.

A. Nghĩa vụ khai khẩn và bảo tồn trái đất

1. Trong chương trình của Đấng Tạo Hoá, các vật thụ tạo được dựng nên để phục vụ con người (số 255).

– Cựu ước trình bày Thiên Chúa như là Đấng Tạo Hoá quyền năng (St 2,2)

– Thiên Chúa nặn lên con người theo hình ảnh của ngài và mời gọi con người canh tác trái đất (St 1,28).

– Con người được đặt làm quản lý vũ trụ, nhưng không có quyền khai thác vũ trụ các vô trách nhiệm.

2. Lao động là một điều kiện của con người ngay từ lúc khai nguyên, trước khi sa ngã. Vì thế lao động không phải là một sự trừng phạt hoặc là một lời chúc dữ cho con người (số 256). Lao động trở thành nặng nhọc vất vả do tội lỗi của ông Ađam và bà Evà (St 3,6-8). Con người phải tùng phục Thiên Chúa trong việc quyết định điều gì là tốt hay xấu. Con người không có quyền thống trị tuyệt đối trên vạn vật. Dù sao, kế hoạch của Thiên Chúa vào lúc khai nguyên vẫn không thay đổi: con người được mời gọi canh tác và giữ gìn vũ trụ.

3. Lao động là một điều thiết yếu đối với con người, nhưng nguyên uỷ và cứu cánh của con người là Thiên Chúa, chứ không phải là lao động (số 257). Cần phải tôn trọng lao động, bởi vì nó là nguồn gốc của giàu có và phong lưu. Nó là một dụng cụ hữu hiệu để chống lại sự nghèo nàn (Cn 10,4). Tuy nhiên đừng để cho lao động trở thành ngẫu tượng. “Thà rằng ít tiền của mà liêm khiết, còn hơn là giàu sang mà thiếu công bằng” (Cn 16,8).

4. Tột đỉnh của giáo huấn của Kinh thánh về lao động là lệnh truyền phải nghỉ ngơi ngày sabát (số 258). Nó mở ra cho con người viễn ảnh của một sự tự do hoàn toàn, vào ngày Sabát vĩnh cửu (Dt 4,9-10). Sự nghỉ ngơi cho phép con người được nhắc nhớ và sống lại những công trình của Thiên Chúa trong việc tạo dựng và cứu chuộc, và để tạ ơn ngài.

Cảm nghiệm về ngày sabát là thành lũy chống lại nạn làm nô lệ cho lao động và chống lại tất cả mọi hình thức khai thác bóc lột. Ngoài “ngày sabát” hằng tuần, Cựu ước còn có chế độ “năm sabát” theo chu kỳ bảy năm (Xh 23,10-11), trong đó, người giàu hạn chế quyền khai thác tài sản nhằm giúp đỡ người nghèo; điều này cũng nhắc nhớ rằng việc thu tích tài sản của một thiểu số có thể đưa đến việc truất hữu tài sản của nhiều người khác1.

B. Đức Giêsu – một con người làm việc

1. Trong các bài giảng, Đức Giêsu đã dạy dỗ chúng ta hãy biết quý trọng sự làm việc (số 259). Chính Người đã nêu gương làm việc tay chân trong xưởng thợ mộc. Người lên án thái độ của người tôi tớ lười biếng (Mt 25,14-30), và khen ngợi người tôi tớ trung thành và không ngoan (Mt 24,46).

Người diễn tả sứ mệnh của mình như là một công tác (làm việc): “Cha của tôi vẫn làm việc và chính tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Người cũng diễn tả sứ mệnh của các môn đệ như là những người làm việc trong mùa gặt của Chúa (Mt 9,37-38). “Người thợ đáng hưởng tiền lương của mình” (Lc 10,7).

2. Đức Giêsu dạy con người đừng trở thành nô lệ cho lao động (số 260). Tiên vàn con người hãy lo cứu rỗi linh hồn mình (Mc 8,36). Đừng vì tìm kiếm lợi lộc mà xao lãng Nước Thiên Chúa và công lý của Ngài.

3. Ý nghĩa cao quý nhất của lao động ở chỗ hoạt động để giải phóng khỏi sự dữ, thực hành tình huynh đệ và chia sẻ, nhờ đó giúp cho nhân loại tiến về ngày Sabát vĩnh cửu (số 261). Đức Giêsu nỗ lực hoạt động không ngừng để giải thoát con người khỏi bệnh tật, đau khổ và cái chết. “Ngày sabát được làm ra cho con người, chứ không phải con người được làm ra cho ngày sabát” (Mc 2,27).

4. Trong các văn phẩm, thánh Phaolô và thánh Gioan mở ra những viễn tượng mới của công cuộc tạo dựng (số 262). Vạn vật là một công trình tuyệt tác của Ba ngôi Thiên Chúa (Ga 1,3; 1 Cr 8,6; Cl 1,15-17). Vũ trụ không phải là một khối hỗn mang nhưng là một kiệt tác. Con người được mời gọi hãy chiêm ngắm kỳ công của Thiên Chúa, và tham gia bằng những việc làm của mình. Những vất cả lao nhọc khi làm việc mang giá trị cứu độ nếu biết kết hợp với Thánh giá của đức Kitô (số 263).

C. Bổn phận làm việc

1. Các Kitô hữu cần phải sống đời lao động giống như cung cách của đức Kitô. (Số 264). Mọi người phải làm việc, chứ không ăm bám người khác (2 Tx 3,7-15; 6,12). Cần phải bày tỏ tình liên đới qua việc chia sẻ những hoa trái của việc làm. Mỗi người lao công đều đáng hưởng tiền lương (Gc 5,4).

2. Các giáo phụ không coi lao động như là “công việc của nô lệ” nhưng như là “việc làm của con người” (số 265). Nhờ làm việc mà con người cai quản vũ trụ với Thiên Chúa, và làm chủ thế giới cùng với Ngài. Sự ăn không ngồi rồi gây thiệt hại cho con người, còn hoạt động thì làm lợi cho thân xác và tinh thần. Người Kitô hữu làm việc cho bản thân và gia đình của mình, cũng như cho người nghèo. Theo thánh Ambrôsiô, mỗi người thợ là bàn tay của đức Kitô, Người tiếp tục tạo dựng và làm lành cho tha nhân.

3. “Ora et labora”2: cầu nguyện và làm việc! (số 266). Nhờ đức mến định hướng, việc làm trở nên cơ hội chiêm niệm.

II. GIÁ TRỊ TIÊN TRI CỦA THÔNG ĐIỆP “RERUM NOVARUM”

(Đoạn này ôn lại lý do của việc Giáo hội lên tiếng về vấn đề lao động trong thế kỷ XIX-XX)

1. Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã gây ra một thách đố cho Giáo hội (số 267). Vào thế kỷ XIX, xã hội đã biến chuyển từ nông nghiệp sang cơ khí.

– Cách tổ chức lao động mới của kỹ nghệ đã đưa tạo ra cảnh khai thác các công nhân.

– Cảnh lầm than của giới công nhân đã trở thành cơ hội để cho chủ nghĩa xã hội và cộng sản khai thác cuộc tranh đấu chính đáng của giới thợ thuyền.

– Từ đó nảy ra “vấn đề lao động”, nghĩa là sự khai thác các công nhân.

2. Thông điệp “Rerum novarum” tiên vàn là lời bảo vệ hăng say cho phẩm giá bất khả nhượng của các công nhân (số 268). Giáo hội gắn liền phẩm giá ấy với:

– quyền tư hữu;

– nguyên tắc hợp tác giữa các giai cấp;

– những quyền lợi của những kẻ yếu kém và nghèo khó;

– những nghĩa vụ của các công nhân và chủ nhân;

– quyền lập hội.

Thông điệp nhấn mạnh đến việc đem tinh thần Kitô giáo thấm nhập vào xã hội, qua các nghiệp đoàn, các trung tâm nghiên cứu xã hội, các hiệp hội công nhân và hợp tác xã, các ngân hàng nông dân, việc bảo hiểm và cơ quan cứu trợ,.v.v…

Chiến dịch thấm nhập tinh thần Kitô giáo vào xã hội đã góp phần thúc đẩy công cuộc soạn thảo những luật lao động: bảo vệ các công nhân, cách riêng phụ nữ và trẻ em; việc huấn luyện; cải thiện lương bổng và vệ sinh nơi làm việc.

3. Lao động là một chìa khóa then chốt của vấn đề xã hội, chi phối sự phát triển của toàn thể nhân loại về mọi phương diện: kinh tế, văn hóa, luân lý (số 269). Vấn đề này dần dần mang những chiều kích toàn cầu. Thông điệp Laborem excercens bổ túc thêm nhiều suy tư mới về khía cạnh nhân bản của lao động, về những ý nghĩa của nó đứng trước những câu hỏi mới được đặt lên.

III. PHẨM GIÁ CỦA LAO ĐỘNG

Đây là đoạn quan trọng nhất xét về đạo lý. Lao động được phân tích dưới nhiều khía cạnh: chủ thể và khách thể; xã hội; nghĩa vụ.

A. Chiều kích chủ thể và khách thể của lao động3

Vì là một nhân vị mà con người là chủ thể lao động (số 270).

1. Ý nghĩa khách thể của lao động. Đó là toàn thể những hoạt động, tài nguyên, dụng cụ và kỹ thuật mà con người sử dụng để sản xuất. Đây là khía cạnh hay thay đổi của hoạt động con người.

2. Ý nghĩa chủ thể của lao động. Lao động xét như là hành động của con người, một nhân vị, nghĩa là chủ thể có lý trí và ý chí. Đây là khía cạnh bền vững, nó không tuỳ thuộc vào loại công tác hoặc kết quả do mình làm ra.

3. Chiều kích chủ thể mang lại phẩm giá cho lao động (số 271). Không được phép đối xử con người như một món hàng. Con người là tiêu chuẩn đo lường phẩm giá lao động. Vì thế những điều sau đây làm mất đi bản tính của lao động:

– Người công nhân bị coi như một lực lượng sản xuất dựa theo cái nhìn duy vật và kinh tế.

– Đặt chiều kích khách thể lên trên chiều kích chủ thể: lao động và kỹ thuật được coi là quan trọng hơn chính con người.

4. Mục tiêu của lao động bao giờ cũng là con người, chứ không phải là đối tượng khách thể của việc làm (số 272). Lao động là vì con người, chứ không phải là con người vì lao động.

5. Lao động của con người tự nó bao hàm một chiều kích xã hội (số 273). Làm việc là làm việc với người khác và cho người khác. Những kết quả của lao động cũng là cơ hội của những sự trao đổi, những mối tương quan, những cuộc gặp gỡ.

– Điều kiện để cho hoạt động của con người mang lại thành quả dồi dào: xã hội được tổ chức thành những đoàn thể; hệ thống xã hội và pháp lý biết bảo vệ lao động; tình liên đới nghề nghiệp; sự kết hợp giữa trí tuệ, tư bản, lao động.

– Để đánh giá đúng mức việc làm và trả lương cân xứng, cần phải xét đến khía cạnh vừa cá nhân vừa xã hội của lao động.

6. Làm việc cũng là một bổn phận của con người (số 274). Đây là một đòi hỏi của Đấng Tạo hoá cũng như yêu sách của sự phát triển nhân cách. Làm việc là một nghĩa vụ đối với tha nhân: gia đình, xã hội, quốc gia. Chúng ta là những người thừa kế của công lao của các thế hệ trước ta, và là những kẻ kiến tạo tương lai cho những người đến sau ta.

7. Lao động xác nhận căn cước thâm thúy của con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (số 275).  Con người được làm chủ thế giới hữu hình theo kế hoạch nguyên thuỷ của Đấng Tạo Hóa. Con người không phải là chủ nhân của vũ trụ, nhưng chỉ là quản lý, được mời gọi phản ánh Đấng Tạo hoá nơi việc làm của mình.

B. Tương quan giữa lao động và tư bản

1. Vì mang tính cách nhân vị nên chi lao động đứng trên tất cả những thành tố sản xuất khác (số 276). Do khía cạnh chủ thể, lao động đứng trên tư bản vật chất: các phương tiện sản xuất, nguồn tài chính, các hoạt động thị trường chứng khoán,.v.v…

2. Lao động tự bản chất đi trước tư bản; đôi bên bổ túc cho nhau (số 277). Lao động đi trước, bởi vì là nguyên nhân tác thành; tư bản chỉ là nguyên nhân dụng cụ. Bổ túc, bởi vì cả hai đều liên hệ mật thiết trong tiến trình sản xuất. “Không thể có tư bản mà không có lao động, cũng như không thể có lao động mà không có tư bản” (Thông điệp Rerum novarum). Vì thế sẽ là sai lầm nếu cho rằng chỉ có tư bản hoặc chỉ có lao động là nguyên nhân độc nhất của những gì đã được sản xuất.

3. Khi bàn về tương quan giữa lao động và tư bản, cần nhớ rằng con người chính là “nguyên liệu chính yếu”, và “yếu tố quyết định” nằm ở trong tay con người (số 278). “Sự phát triển toàn diện con người trong lao động sẽ làm tăng gia chứ không đi ngược với nhịp độ sản xuất và hiệu năng của chính lao động” (Thông điệp CA số 43). Ngày nay, chiều kích chủ thể có khuynh hướng mang tính quyết định và quan trọng hơn là chiều kích khách thể. (Điều này khác với quá khứ, khi mà con người bị đối xử như một cái máy).

4. Tương quan giữa lao động và tư bản thường mang những dấu tích của xung đột (số 279). Trước đây, các doanh nhân, do nguyên tắc lợi nhuận, tìm cách giữ đồng lương ở mức thấp nhất có thể. Ngày nay, trong khung cảnh của tiến bộ kỹ thuật và toàn cầu hóa, những người thợ có nguy cơ bị khai thác bởi những bộ máy kinh tế và thi đua sản xuất.

5. Tiến trình vượt qua sự lệ thuộc của lao động vào vật chất tự nó không đủ khả năng để vượt qua sự tha hóa về nơi làm việc và ngay cả về lao động (số 280). Lao động xâm nhập vào những chiều kích khác cũng cần thiết cho con người: đời sống gia đình.

C. Lao động – cứ điểm cho sự tham gia

Sự tham gia của các công nhân vào sở hữu, sự quản trị và những hoa trái của sở hữu (số 281). Các công nhân cần được nhìn nhận như là đồng sở-hữu-chủ của xí nghiệp: như vậy là kết hợp lao động với việc sở hữu tư bản. Nên nghĩ ra việc thiết lập những cơ cấu nhằm mục tiêu kinh tế, xã hội và văn hóa (LE số 14).

D. Tương quan giữa lao động và tư hữu

1. Tư hữu được thủ đắc nhờ lao động, vì thế cần phải phụng sự lao động (số 282). Điều này cần được áp dụng cách riêng đối với việc chiếm hữu các phương tiện sản xuất, cũng như các tài sản thuộc thế giới tài chính, kỹ thuật, trí tuệ, nhân sự. Các phương tiện sản xuất không thể được chiếm hữu để chống lại lao động, cũng như không thể được chiếm hữu nguyên chỉ để chiếm hữu (LE số 14). Quyền tư hữu phải tuỳ thuộc nguyên tắc về các tài nguyên được dành cho tất cả mọi người; cũng vậy, quyền tư hữu không được ngăn cản lao động và sự phát triển của tha nhân. Nếu làm ngược lại thì quyền tư hữu trở thành bất hợp pháp, chẳng hạn như khi tư hữu làm ngăn trở lao động của tha nhân, bóc lột, phá vỡ tình liên đới trong giới lao động,.v.v…

2. Tư hữu tư và công cần được sắp xếp nhắm đến một nền kinh tế phục vụ con nguời (số 283).  Các kiến thức và kỹ thuật mới cũng được dành cho toàn thể nhân loại, cũng giống như việc sở hữu đất đai và tư bản. Sự tập trung kiến thức và kỹ thuật vào những quốc gia tiến bộ và vào tay một thiểu số nắm quyền có nguy cơ đưa đến nạnh thất nghiệp và khơi rộng hố ngăn cách giữa những người giàu và người nghèo.

E. Việc nghỉ ngơi các ngày lễ (số 284)

1. “Vào ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi sau tất cả những gì đã làm” (St 2,2). Vào ngày chúa nhật và lễ buộc, các tín hữu hãy ngưng những công tác hoặc hoạt động nào làm ngăn cản sự thờ phượng Thiên Chúa, niềm vui riêng của Ngày Của Chúa, thi hành các công tác từ thiện, và thư dãn tinh thần và thể xác (GLHTCG số 2185).

2. Chúa nhật là một ngày cần được thánh hóa bằng đức ái thực hành (số 285): quan tâm đến các phần tử trong gia đình; thăm viếng những người bệnh tật, già lão. Dành thời giờ thích hợp để suy tư, thinh lặng, học hỏi những điều giúp thăng tiến đời sống nội tâm và đạo đức. Chúa nhật là ngày giải thoát, tiên báo niềm vui trên trời (xc. Dt 12,22-23).

3. Chính quyền phải để ý lo liệu sao cho các công dân không bị tước mất thời gian dành cho việc nghỉ ngơi và phụng tự, dưới danh nghĩa là tăng gia sản xuất kinh tế (số 286). Các Kitô hữu phải đòi hỏi để pháp luật nhìn nhận những chúa nhật và ngày lễ trọng như là ngày nghỉ việc.

IV. QUYỀN LÀM VIỆC

Trong đoạn này, Sách TLHT bàn đến quyền làm việc nhìn cách tổng quát cũng như từ phía một vài thành phần xã hội: các phụ nữ, trẻ em, người di cư, nông dân.

A. Sự cần thiết của công ăn việc làm

1. Làm việc là một quyền lợi căn bản và một điều thiện đối với con người (số 287). Lao động là một giá trị cho cá nhân, đồng thời cũng là một điều cần thiết để thành lập và nuôi sống gia đình; thủ đắc tài sản; đóng góp vào công ích. Thất nghiệp là một tệ nạn xã hội, cách riêng đối với các thế hệ trẻ.

2. Làm việc là một điều thiện cho hết mọi người, và phải nằm trong tầm tay của những người có khả năng (số 288). Mục tiêu của hết mọi hệ thống kinh tế nhắm đến công bình và công ích là phải tạo ra công ăn việc làm cho hết mọi người.  Đây là một trách nhiệm nặng nề của những người hoặc cơ quan định hướng chính sách lao động và kinh tế trên bình diện quốc gia và quốc tế.

3. Một hệ thống kinh tế được đánh giá qua những viễn ảnh lao động mà nó có thể cung cấp (số 289). Nạn thất nghiệp là một thảm cảnh đè nặng trên nhiều tầng lớp xã hội.

4. Tầm quan trọng của hệ thống giáo dục và đào tạo (số 290). Hệ thống giáo dục phải cho phép đối diện với nhu cầu thay đổi việc làm nhiều lần trong suốt thời kỳ lao động. Các bạn trẻ phải học cách đối phó với những rủi ro kèm theo bối cảnh kinh tế hay thay đổi và những diễn biến không thể lường được.

B. Vai trò của Nhà Nước và xã hội dân sự trong việc cổ động quyền làm việc

1. Nhà Nước có nhiệm vụ cổ võ những chính sách thúc đẩy lao động (số 291). Tuy nhiên Nhà Nước không có phận sự phải bảo đảm trực tiếp quyền làm việc của các công nhân bằng cách chỉ huy tất cả đời sống kinh tế. Nhà Nước cần nâng đỡ hoạt động của các doanh nghiệp, bằng cách tạo ra những điều kiện cho phép cung cấp việc làm.

2. Cần cổ võ sự hợp tác hữu hiệu giữa các chính phủ (số 292). Ngày nay các tương quan kinh tế tài chánh và thị trường lao động mang tầm kích hoàn vũ. Vì thế cần phải ký kết những thoả ước và những hành động chung nhằm bảo vệ quyền làm việc và lương bổng. Trong lãnh vực này, các tổ chức quốc tế và nghiệp đoàn có vai trò quan trọng.

3. Nên khuyến khích các mô hình “tự quản trị” mà thông điệp Rerum novarum đã đề cập để cổ võ quyền làm việc (số 293).

C. Gia đình và quyền làm việc

Lao động là nền tảng xây dựng gia đình. Đời sống gia đình và lao động chi phối lẫn nhau bằng nhiều cách: có những thứ lao động gây thiệt hại cho gia đình, và có những khủng hoảng gia đình gây ảnh hưởng tiêu cực cho lao động (số 294). Cần tránh hai điều sai lầm: quan niệm tư riêng về gia đình và quan niệm kinh tế về lao động.

D. Phụ nữ và lao động (số 295)

Tất cả mọi hình thức xã hội đều cần đến thiên tài người phụ nữ. Cần làm thế nào để cho các phụ nữ có thể tham gia vào ngành lao động, qua việc đào tạo nghề nghiệp cho họ, cũng như tổ chức công việc cách nào để phụ nữ không mất đi nữ tính và những nghĩa vụ gia đình (cách riêng đối với các bà mẹ).

E. Lao động của các trẻ em (số 296)

Lao động của các trẻ em là một điều cưỡng bức. Các trẻ em chỉ được nhận vào giới lao động vào tuổi mà các em đã phát triển các sức lực thể lý, trí tuệ và luân lý (Rerum novarum, số 11). Học thuyết xã hội tố cáo sự tăng gia nạn khai thác lao động trẻ em dưới những điều kiện làm nô lệ.

F. Di dân và lao động

1. Hiện tượng người di dân có thể là một nguồn lợi thay vì là một ngăn trở cho sự phát triển (số 297). Hiện tượng di dân càng ngày càng gia tăng: những người gốc từ những miền nghèo khổ muốn đi tìm những điều kiện sinh sống khá hơn. Hiện tượng di dân thường bị coi như là mối đe doạ cho những nước tiền tiến, nhưng trên thực tế, những người di cư đáp ứng cho một một nhu cầu nhân công tại đây.

2. Những nước đón tiếp cần tạo ra những điều kiện bảo đảm quyền lợi cho người di dân (số 298): quy định những điều kiện nhập cư theo tiêu chuẩn công bình, ngõ hầu có thể tìm công ăn việc làm xứng hợp cho người di dân; tránh việc bóc lột công nhân nước ngoài; tạo cơ hội đoàn tụ gia đình và hòa nhập vào xã hội. Đồng thời, trong tầm mức có thể, các nước tiền tiến cố gắng cải thiện điều kiện sinh sống tại những nước kém mở mang, để người dân địa phương không còn phải di cư nữa.

G. Nông dân và quyền làm việc

1. Giới nông dân cần được quan tâm đặc biệt (số 299), vì vai trò xã hội, văn hóa và kinh tế của họ, cũng như vì nhu cầu cần bảo vệ môi trường. Cần phải cải thiện tận gốc để nông nghiệp lấy lại giá trị chính đáng của mình là nền tảng của nền kinh tế.

2. Tại vài quốc gia, việc tái phân chia ruộng đất trở thành khẩn trương (số 300). Sự phát triển kinh tế đòi hỏi phải xóa bỏ những diện tích rộng lớn không sản xuất. Việc cải cách ruộng đất không phải là một vấn đề chính trị, nhưng còn là một nghĩa vụ luân lý.

V. NHỮNG QUYỀN LỢI CỦA CÁC CÔNG NHÂN

Đoạn vừa rồi nói đến quyền làm việc, đoạn này nói những quyền lợi của người làm việc. Trước tiên là bản liệt kê các quyền lợi của công nhân; kế đó là xét hai vấn đề cụ thể: lương bổng và quyền đình công.

A. Phẩm giá các công nhân và việc tôn trọng những quyền lợi của họ

Những quyền lợi của các công nhân, cũng như tất cả những quyền khác, dựa trên bản tính của nhân vị và trên phẩm giá siêu việt của con người (số 301).

Một vài quyền lợi được Huấn quyền xã hội của Giáo hội nhắc đến (LE số 19): quyền được trả lương công bằng; quyền nghỉ ngơi; quyền được sử dụng những phương pháp làm việc không thương tổn đến sự toàn vẹn luân lý và thể lý; quyền không bị cưỡng bức về lương tâm và nhân phẩm; quyền được trợ cấp khi thất nghiệp, đau ốm, già cả, bị tai nạn lao động; quyền được hưởng những biện pháp xã hội liên quan đến thời kỳ sinh con; quyền được hội họp và lập hội.

Những quyền này được bị vi phạm: trả lương thấp kém; không được che chở; không có đại biểu để tranh đấu quyền lợi; những điều kiện làm việc thiếu nhân đạo.

B. Quyền được trả lương công bằng và phân chia lợi tức

1. Lương bổng là dụng cụ quan trọng nhất để thực hiện công bằng trong các tương quan lao động  (số 352). Tiền lương được gọi là công bằng căn cứ vào công tác và kết quả của người thợ; tình hình của xí nghiệp và công ích. Tiền lương công bằng cũng phải lưu ý đến chiều kích gia đình, bảo đảm cho gia đình một đời sống xứng đáng về phương diện vật chất, xã hội, văn hóa và tinh thần. Sự thoả thuận giữa người chủ và người thợ chưa đủ để ấn định tiền lương công bằng. Sự công bằng tự nhiên thì đi trước và ở trên sự tự do kết ước.

2. Nền kinh tế thịnh vượng của một quốc gia còn được đo lường bằng sự công bằng trong việc phân phối lợi tức (số 303). Sự phân phối lợi tức cách công bằng dựa trên những tiêu chuẩn sau đây: công bằng giao hoán; công bằng xã hội, xét đến giá trị khách quan của những sự đóng góp công sức lao động, phẩm giá của người thợ; những công trạng và nhu cầu của mỗi người công dân.

C. Quyền đình công

Học thuyết xã hội nhìn nhận tính cách hợp pháp của việc đình công (số 304). Đây là giải pháp hợp pháp sau khi các phương án giải quyết tranh chấp không có hiệu quả. Thể thức đình công phải có tính cách ôn hòa để tranh đấu quyền lợi. Việc đình công không phù hợp với luân lý khi nhắm đến các mục tiêu không trực tiếp liên quan đến điều kiện làm việc, hoặc đi ngược lại với công ích.

VI. TÌNH LIÊN ĐỚI GIỮA CÁC CÔNG NHÂN

Đoạn này tiếp nối tư tưởng của đoạn trước: trong số những quyền lợi của các công nhân, có quyền thành lập hiệp hội (nghiệp đoàn) để bảo vệ các quyền lợi ấy.

A. Tầm quan trọng của các nghiệp đoàn

1. Khi theo đuổi mục tiêu cụ thể nhằm phục vụ công ích, các tổ chức nghiệp đoàn góp phần vào việc xây dựng trật tự xã hội và tình liên đới (số 306). Lý do hiện hữu của các nghiệp đoàn là: bảo vệ các quyền lợi chính đáng của các công nhân; xây dựng tình liên đới và trật tự xã hội.

2. Những tương quan giữa các công nhân phải dựa trên sự hợp tác (số 306). Vì thế cần loại bỏ sự hận thù và tranh đấu nhằm diệt trừ giới tư bản. Các nghiệp đoàn không phải là những người phát ngôn của cuộc đấu tranh giai cấp để giật lấy quyền cai trị. Các nghiệp đoàn là những người tranh đấu cho công bằng xã hội, tranh đấu cho quyền lời các công nhân.

3. Ngoài ra, các nghiệp đoàn còn đóng vai trò đại diện nhắm đến việc tổ chức đời sống kinh tế (số 307). Các nghiệp đoàn cũng có vai trò đào tạo lương tâm xã hội  cho các công nhân để phục vụ công ích. Các nghiệp đoàn cũng có thể nhắc nhở chính quyền để họ biết quan tâm đến các công nhân. Tuy nhiên các nghiệp đoàn không phải là đảng phái chính trị, và không nên gắn chặt với các đảng phái.

B. Những hình thức mới của tình liên đới

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các nghiệp đoàn được mời gọi hoạt động theo những hình thức mới (số 308): những hình thức hợp đồng mới, có thời hạn; việc sát nhập các xí nghiệp với hậu quả gây ra cho quyền làm việc của các công nhân; quyền lợi của những người di dân, vv. Vì thế cần chú trọng đến giá trị chủ thể của lao động, chứ không chỉ nhằm đến ích lợi kinh tế, lợi nhuận.

VII. NHỮNG ĐIỀU MỚI “RES NOVAE” TRONG THẾ GIỚI LAO ĐỘNG

Đoạn này nói đến những viễn tượng mới được mở ra do những hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay. Nhiều điều có thể bổ túc thêm ở thông điệp Caritas in veritate.

A. Một chặng chuyển tiếp lịch sử

1. Những sự thay đổi trong việc tổ chức việc làm và hiện tượng toàn cầu hoá (số 310).

–  Vài đặc trưng của toàn cầu hóa:  Những hình thức sản xuất mới;  Chuyển dời các cơ xưởng sang những khu vực địa lý xa với các cơ quan giữa quyền quyết định điều hành;  Sự xa cách giữa nơi sản xuất và nơi tiêu thụ.

– Những yếu tố thuận lợi cho sự toàn cầu hoá: tốc độ giao lưu trong không gian và thời gian; sự vận chuyển dễ dàng về nhân lực và tài sản.

– Hậu quả: sự xa cách giữa tư bản với điều kiện xã hội tại nơi sản xuất.

2. Một trong những đặc trưng quan trọng nhất của việc tổ chức lao động mới mẻ là sự phân tán về thể lý của chu trình sản xuất (số 311). Mục tiêu là đạt được hiệu năng và lợi nhuận cao hơn. Hậu quả là sự chuyển biến các yếu tố không gian – thời gian đưa đến sự thay đổi trong cơ cấu làm việc. Từ đó gây ra nhiều sự thay đổi các cá nhân và cộng đoàn xét về vật chất, văn hoá, các ciá trị. Thách đố đặt ra vào thời buổi hôm nay cũng có thể sánh được với thời buổi đầu tiên của cuộc cách mạng kỹ nghệ.

3. Vì thế cần phải quan tâm đến việc định hướng các hoạt động xã hội và chính trị dựa theo những cách thức mới của việc tổ chức lao động (số 312): thị trường tự do; cổ võ sự cạnh trạnh; tăng gia những xí nghiệp chuyên về cung cấp các sản phẩm và dịch vụ.

3. Hiện đang có sự chuyển dạng từ một nền kinh tế kỹ nghệ sang một nền kinh tế chú trọng đến các dịch vụ và các đổi mới kỹ thuật (số 313). Do những đổi mới kỹ thuật, nảy sinh nhiều nghề mới, và biến đi một số nghề khác. Mô hình kinh tế và xã hội cổ điển gắn với doanh nghiệp lớn; ngày nay ta thấy nảy sinh những nghề nghiệp mới trong lãnh vực các dịch vụ.

4. Việc tổ chức lao động trước đây mang tính cố định vững bền dựa trên hợp đồng; ngày nay đã nhưỡng chỗ cho những việc làm linh động, ngắn hạn (số 314). Tình trạng gây ra sự mất ổn định về việc làm: nạn thất nghiệp trở thành nếp bởi vì khó lựa chọn việc làm thích hợp; các chế độ bảo hiểm lao động cũng trở thành bấp bênh. Tại các nước đang phát triển, tình trạng này còn trở thành tồi tệ hơn, bởi vì thiếu những hệ thống huấn nghệ, thiếu những luật pháp bảo vệ công nhân, thiếu hệ thống bảo hiểm.

5. Sự phân tán tiến trình sản xuất tạo ra nhiều xí nghiệp cỡ nhỏ hay cỡ trung bình bên cạnh ngành thủ công nghệ cổ truyền (số 315). Các hoạt động mới phát sinh những công việc tự lập, với những rủi ro của nó. Các xí nghiệp nhỏ tạo ra bầu không khí thân mật hơn, với nhiều sáng kiến hơn; nhưng cũng mang nhiều rủi ro hơn, vì tính cách bấp bênh của nó.

6. Tại các nước đang phát triển, nảy ra nhiều hoạt động “ngầm” (chui), với nhiều hứa hẹn kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề về luân lý và pháp lý (số 316): mức sản xuất thấp, lợi tức cũng thấp, không đủ bảo đảm nhu cầu sinh sống cho gia đình.

B. Giáo huấn xã hội và thực trạng mới (res novae)

1. Đứng trước những sự thay đổi này, cần phải tránh sự sai lầm khi cho rằng những thay đổi này xảy đến cách tất định (số 317). Yếu tố quyết định các sự thay đổi này luôn luôn là con người. Con người cần đảm nhận trách nhiệm quản lý các sự canh tân thay đổi hiện nay nhằm để giúp cho sự thăng tiến các cá nhân, gia đình, xã hội và toàn thể gia đình nhân loại. Cần phải dành chỗ ưu tiên cho chiều kích chủ thể của lao động.

2. Những nhu cầu cụ thể và khẩn trương của con người vượt lên trên những phạm trù thuần tuý kinh tế (số 318). Những lý giải về hoạt động sản xuất theo kiểu máy móc và kinh tế đã bị bắt bẻ do sự phân tích khoa học của các vấn đề gắn liền với lao động. Lao động là một hoạt động tự do và sáng tạo của con người. Các nhu cầu của con người không chỉ giới hạn vào sự chiếm hữu; bản chất và ơn gọi của con người còn duy trì liên hệ với Đấng Siêu Việt.

3. Trước nguy cơ của sự giày xéo các quyền lợi căn bản, cần phải nghĩ ra những hình thức liên đới mới (số 319): giữa các thể chế quốc gia và quốc tế, giữa nền kinh tế cũ và mới; giữa sự canh tân kỹ thuật và nhu cầu bảo vệ lao động; giữa sự tăng trưởng kinh tế và sự phù hợp với môi trường.

4. Các nhà khoa học và những nhà trí thức được mời gọi hãy góp phần vào việc tìm ta những giải pháp công bằng (số 320): vạch ra những cơ may và rủi ro trong các sự thay đổi; đề nghị những đường hướng hoạt động để hướng dẫn sự thay đổi theo chiều hướng thuận lợi cho sự phát triển của toàn thể gia đình nhân loại, nhờ những chính sách kinh tế.

5. Đứng trước tình thế mất quân bình hiện nay, cần tái lập hệ trật các giá trị, đặt phẩm giá của con người lên hàng đầu (số 321). Cần phải xúc tiến tiến trình phát triển tình liên đới ở tầm mức thế giới, như điều kiện sống còn của các dân tộc. Cần phải toàn cầu hóa tình liên đới, làm sao để cho con người trở thành chủ động chứ không phải là công cụ của các sự thay đổi.

6. Khung cảnh toàn cầu hóa hiện nay mở ra một viễn tượng đề cao khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn thiết lập những tương quan (số 322). Cần khẳng định rằng tiên vàn chiều kích hoàn vũ thuộc về con người, chứ không phải về đồ vật. Kỹ thuật có thể là nguyên nhân dụng cụ cho sự toàn cầu hóa, những nguyên nhân đệ nhất phải là tính toàn cầu của gia đình nhân loại. Lao động cũng mang một chiều kích hoàn vũ (toàn cầu). Bên cạnh những khía cạnh tiêu cực của hiện tượng toàn cầu hoá, chúng ta nên nhận ra những khía cạnh tích cực được mở ra, đó là tình liên đới của thế giới lao động. Con người càng ý thức hơn ơn gọi liên đới hoàn vũ của mình.

***

MỤC II

MỘT VÀI NHẬN XÉT

 

Lao động và tư hữu là hai chủ đề cổ điển nhất của Giáo huấn xã hội của Hội thánh công giáo, bắt đầu từ thông điệp Rerum novarum của đức Lêô XIII, nhằm trả lời cho những thách đố của thời đại: sự bóc lột giới lao động trong cuộc cách mạng kỹ nghệ, đầu đề cho cuộc tranh đấu của các phong trào cộng sản. Giáo Hội phải bảo vệ cả hai giá trị: người lao động (chống lại sự bóc lột của chủ nhân), quyền tư hữu (chống lại thuyết mác xít). Tuy nhiên từ thế kỷ XIX đến nay, tình hình đã thay đổi rất nhiều: câu chuyện không còn giới hạn trong khuôn khổ của một xí nghiệp (tương quan chủ thợ), nhưng còn liên quan đến chính sách kinh tế của một quốc gia (lệ thuộc vào chủ nghĩa chính trị: tư bản, xã hội, cộng sản), và ngày nay mang tính cách toàn cầu.

Người ta nhận thấy rằng vấn đề lao động đã có nhiều chuyển hướng trong vòng một thế kỷ (từ Rerum novarum đến Centesimus annus):

1/ Cho đến thế chiến thứ nhất: lao động là một vấn đề luân lý (đức công bằng) trong tương quan giữa công nhân và tư bản, và giới hạn của sự can thiệp Nhà Nước.

2/ Giữa hai thế chiến, với chủ nghĩa tân tư bản và cuộc khủng hoảng kinh tế, lao động trở thành vấn đề chính trị: không thể để cho thị trường tự do thao túng, nhưng Nhà Nước buộc phải can thiệp.

3/ Sau thế chiến thứ hai, khi nếp sống được nâng cao hơn tuy vẫn không tránh những khó khăn, người ta nghĩ đến việc “nhân bản hóa lao động”: trong bối cảnh này đã phát triển khía cạnh thần học lao động (tác phẩm của cha M.D. Chénu) được trình bày trong hiến chế Gaudium et spes. (Lát nữa chúng ta sẽ điểm qua các văn kiện của Giáo hội).

Không lạ gì mà những vấn đề được bàn trong chương này bao trùm nhiều lãnh vực: thần học, tu đức, luân lý, chính trị, mục vụ. Chương này được viết ra cho toàn thể Giáo hội, với những quốc gia mang những  truyền thống kinh tế khác nhau (các nước kỹ nghệ phương Tây, các nước đang phát triển, các nước nông nghiệp). Nước Việt Nam hiện nay sống trong một khung cảnh xã hội đặc biệt: tuy mang danh là “xã hội chủ nghĩa”, nhưng chắc hẳn là không giống với xã hội chủ nghĩa của các nước Đông Âu trước khi sụp đổ bức tường Bá Linh; đàng khác, cũng chưa muốn chuyển sang “tư bản chủ nghĩa”, bởi vì ngại những hậu quả về chính trị. Đang khi đó, dù muốn dù không, chúng ta cũng chịu ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu, với những thăng trầm của nó.

Chúng tôi không đi vào những khía cạnh chuyên môn của kinh tế chính trị, nhưng chỉ dừng lại ở khía cạnh đạo lý (triết học – thần học). Dù đã giới hạn trong một lãnh vực cụ thể như vậy, xin thú nhận rằng vấn đề không đơn giản, bắt đầu bằng chuyện từ ngữ và định nghĩa.

I. NHỮNG KHÁI NIỆM

A. Từ ngữ

Ai ai cũng phải “làm việc”; nhưng “làm việc” có phải là “lao động” không? Nếu xét theo tầm nguyên Hán Việt, thì phải nói rằng “làm việc” khác với “lao động”. Lao động: lao là mệt nhọc, cực khổ (động: không ở yên). Lao công: người làm việc nặng nhọc (công: người làm việc)4. Như vậy, theo nguyên ngữ, lao động phải là làm việc mệt nhọc vất vả. Do đó, chúng ta có thể nói rằng “Thiên Chúa làm việc, hoạt động”, chứ không thể nói rằng Thiên Chúa “lao động”; điều này chỉ có thể áp dụng cho Đức Giêsu ở Nazareth. Nhưng đó là nói về từ ngữ trong tiếng Việt. Tiếng Anh (to work, working, worker) và tiếng Pháp (travailler, travail, travailleur) không có vấn đề này.

B. Định nghĩa

Từ xa xưa, các triết gia đã định nghĩa con người như là “hữu thể có lý trí”: con người khác động vật ở chỗ nó trí khôn: homo sapiens. Ông Karl Marx đã mở thêm một chiều hướng mới khi ông  định nghĩa con người dựa theo tiêu chuẩn lao động: con người là homo faber; nhờ lao động mà con người giải quyết được các nhu cầu của mình. Con người khác loài động vật bởi vì biết chế tạo dụng cụ làm việc và sản xuất những đồ tiêu dùng. Lao động là một đặc trưng của con người, cũng ngang hàng với ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật, tôn giáo. Nhận xét này cũng đúng thôi, bởi vì lao động không chỉ là vận động các bắp thịt mà thôi, nhưng còn đòi hỏi vận dụng lý trí để biến đổi cái thô sơ nơi thiên nhiên sang cái gì hữu ích cho cuộc sống. Lao động là nền tảng cho sinh hoạt kinh tế, văn hóa của nhân loại. Mặt khác, lao động mang nhiều hình dạng, và cũng trở nên cơ sở để phân định sự tiến triển của các nền văn minh, từ chỗ thâu lượm đến chỗ cày bới, từ canh nông sang kĩ thuật, từ cơ xưởng đến dịch vụ.

Nói chung, ai cũng biết thế nào là lao động, nhưng đến khi muốn định nghĩa Lao động là gì? thì chúng ta sẽ cảm thấy lúng túng. Thật vậy, định nghĩa lao động không chỉ giới hạn vào phạm vi triết học nhưng còn mang theo nhiều hệ luận về chính trị, pháp lý, kinh tế nữa. Chỉ cần trưng dẫn vài thí dụ  để  hiểu tính cách phức tạp của vấn đề. Thí dụ thứ nhất lấy từ trường học. Ai ai cũng nhìn nhận rằng việc học tập là lao động tinh thần (chứ không phải là lao động chân tay); nhưng thử hỏi: ai là người lao động, học sinh hay thầy giáo? Dựa theo tiêu chuẩn nào  để xác định? Nếu dựa theo tiêu chuẩn vất vả nặng nhọc, thì các học sinh cảm thấy việc học nặng nề hơn (họ miễn cưỡng đi vào lớp, tuy có lẽ họ thích đi làm chuyện khác); đang khi đó thầy giáo thao thao bất tuyệt, coi việc dạy học là điều hứng thú. Trên thực tế, luật pháp nhìn nhận công tác của thầy giáo là lao động vì thế được trả lương, còn các học sinh không những không được trả lương mà còn phải đóng tiền để trả lương cho thầy nữa. Một thí dụ khác lấy từ đời sống gia đình. Bà Bắc ngày này nấu cơm cho gia đình thì không phải là lao động; nhưng nếu bà đi làm thuê trong một tiệm cơm, hoặc bà đứng mở tiệm cơm thì mới gọi là lao động. Ông Nam  có chiếc xe hơi: ông có thể dùng xe để chở con đi học và chở vợ đi chợ; nhưng đó không phải là lao động; nhưng nếu ông dùng xe đó chở khách thì được coi như lao động. Đâu là tiêu chuẩn để xác định bản chất lao động? Một điều chắc chắn là ông Nam chỉ có thể đòi tiền khách hàng, chứ không đời nào lại đòi tiền vợ con mình, cho dù đôi khi phải phục vụ lâu giờ hơn!

Từ những thí dụ vừa trưng dẫn, ta có thể thấy vấn đề định nghĩa lao động không đơn giản. Tuy cùng là một công tác là học hành, nhưng công việc của thầy giáo được coi là lao động, còn công việc của học trò thì không phải là lao động. Nhưng đó là nhìn dưới khía cạnh pháp lý và tài chính mà thôi (hợp đồng lao động), chứ xét về bản chất thì việc học hành của các học sinh cũng là lao động, không những chỉ vì nó nặng nhọc nhưng nhất là vì nó giúp phát triển con người nữa.

Trải qua dòng lịch sử, đã có nhiều định nghĩa về lao động, và những định nghĩa này bị chi phối bởi những quan niệm về giá trị của lao động (công tác nặng nhọc của người nô lệ hay cơ hội phát triển tài năng)  cũng như về chính bản chất của lao động (lao động chân tay hay lao động trí tuệ). Nhiều yếu tố đã được đưa ra để xác định bản chất của lao động; có lẽ không một yếu tố nào mang tính cách phổ quát áp dụng cho tất cả mọi hình thức lao động; nhưng nếu gom lại nhiều yếu tố thì chúng ta có thể đưa ra một khái niệm bao quát về lao động, đó là:

a) Ý định  muốn thực hiện một điều gì đó ở bên ngoài của ta (khác với những tư tưởng ước muốn chỉ diễn ra trong đầu óc);

b) Vận dụng cơ thể và nghị lực, hoặc trực tiếp với tay chân, hoặc với việc sử dụng các dụng cụ;

c) Sự cố gắng (khác với giải trí) và kiên trì.

C. Phân loại lao động

Có nhiều tiêu chuẩn để phân chia lao động:

1/ Dưới khía cạnh chủ quan: lao động “nô lệ” (phải dùng sức lực tay chân) và lao động “tự do” (chú trọng về trí tuệ). Đây là sự phân chia dựa theo chế độ xã hội thời xưa, gồm những người nô lệ và tự do5. Ngày này ta có thể thay thế bằng các từ  lao động “cưỡng bách” và lao động “tình nguyện”.

2/ Dưới khía cạnh khách quan, dựa theo công cụ: lao động “chân tay” (không có dụng cụ), lao động “thủ công” (dùng dụng cụ, như vẫn đòi hỏi sáng kiến cá nhân), lao động “công nghệ” (sử dụng cơ khí).

3/ Dưới khía cạnh sản phẩm: lao động kinh tế (sản xuất đồ tiêu dụng) và lao động văn hoá (nhằm phát triển các giá trị tinh thần).

4/ Dựa trên lịch sử  hệ thống sản xuất, các nhà kinh tế học phân biệt các hình thức: nông nghiệp và chăn nuôi, công nghiệp và dịch vụ,.v.v…

5/ Trong lãnh vực triết học, khi bàn về lao động, Học thuyết Xã hội của Giáo hội nhấn mạnh đến sự phân biệt giữa khía cạnh “chủ thể” và khía cạnh “khách thể”. Khía cạnh chủ thể là chính con người lao động, bởi vì duy chỉ có con người mới biết lao động (động vật và máy móc không biết đến lao động). Khía cạnh khách thể là những tài sản, cơ sở, dụng cụ, phương tiện,…  sử dụng vào sự làm việc hoặc là kết quả của nó6. Trong hệ trật các giá trị, cần phải đặt lao động chủ thể lên trên lao động khách thể, tài năng của con người đứng trên công cụ vật chất; con người chế ra công cụ chứ không phải ngược lại.

II. GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG

Khi bàn về giá trị lao động, người ta ra như chỉ giới hạn vào công việc tay chân (lao động theo nghĩa chặt: vất vả đổ mồ hôi). Trong những thế kỷ gần đây, mới có những suy tư về lao động “tinh thần” và các “dịch vụ”.

A. Từ lao động tay chân đến lao động tinh thần

1/ Vào thời xưa, tại nhiều nền văn minh, lao động bị coi là hèn hạ, không xứng với hạng quý phái. Từ lúc nảy sinh các đế quốc và các giai cấp xã hội, thì lao động được dành cho giới nô lệ. Các nô lệ không được đối xử như con người. Trong đế quốc Rôma, sự phân biệt này rất rõ rệt: một bên là những công dân tự do và không phải là lao công (chính quyền, quân nhân);  bên kia là những lao công và  nô lệ. Những công việc nặng nhọc nhất được dành cho các nô lệ; những giai cấp nghèo mà không làm nô lệ  thì làm những công việc nhẹ hơn. Ông Cicêrô và ông Seneca ca ngợi sự nhàn cư bởi vì nó cao thượng hơn lao động. Bên Ấn độ, các công việc đê tiện nhất được dành do giai cấp hạ đẳng. Cho đến nay, bên Phi châu, lao động được dành cho phụ nữ. Điều này không có nghĩa là phụ nữ được thăng tiến giống như Âu-Mỹ, nhưng ngược lại. Đàn ông đi săn bắn, nhậu nhẹt hoặc tham gia công chuyện xã hội, còn chuyện chân tay (kể cả làm ruộng) thì dành cho đàn bà.

Nói cho đúng, không phải tất cả mọi thứ lao động đều bị coi rẻ. Công việc của các thủ công nghệ (vì đòi hỏi tài trí và sáng tạo) được đánh giá cao, nhưng đại đa số các người thợ sống trong hòan cảnh cùng cực. Trước khi có những kỹ thuật tân tiến hiện đại, phần lớn các người thợ phải làm những công việc cực nhọc (như là đào đất, đập đá, chặt cây) đòi hỏi sức mạnh gân guốc tuy thành quả thâu lượm chẳng được bao nhiêu.

Trên thực tế, trong quá khứ, xem ra là điều mỉa mai khi nói rằng con người chế ngự trái đất bằng  lao động (xc. St 1,28). Đúng hơn là trái đất đã chế ngự con người. Mục tiêu của lao động là kiếm bát cơm để sống, hoặc là xây cất những công trình dinh thự dành cho các vua chúa, hoặc là phục vụ những kẻ nắm giữ quyền lực. Trong tâm thức đó, ta dễ hiểu vì sao có sự phân biệt giữa hai thành phần xã hội: giới thượng lưu được danh giá bởi vì không phải làm việc; giới hạ lưu phải làm việc và bị đối xử như tôi tớ không chút phẩm giá gì.

2/ Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, người ta có một quan niệm mới về phẩm giá lao động. Người công nhân phải học hỏi kỹ thuật, cách điều khiển máy móc và các dụng vụ  tinh vi. Từ đó bộ mặt lao động được thay đổi. Mức độ sản xuất tăng thêm. Những công việc nặng nhọc thì đã có máy móc làm. Sự phân biệt giữa lao động “trí tuệ” và lao động “tay chân” được thu hẹp lại. Các giới tư bản nhận ra tầm quan trọng của lao động trong việc sản xuất và thay đổi thế giới. Từ đó, người ta xướng ra lý thuyết về giá trị của lao động trong việc kiến thiết xã hội.

Các công nhân cũng ý thức về sự đóng góp của mình, vì thế cũng tranh đấu đòi cải thiện điều kiện làm việc xứng hợp với nhân phẩm. Tuy nhiên, với đà tiến triển của kỹ thuật, dần dần sự đóng góp của công nhân trong tiến trình sản xuất cũng giảm: máy móc đã lọai bỏ con người. Tình trạng thất nghịêp gia tăng khắp nơi. Vì thế cuộc tranh đấu của các công nhân cũng chuyển mục tiêu: quyền lợi đầu tiên của các công nhân là quyền được làm việc. Từ một nghĩa vụ, lao động trở thành một quyền lợi.

B. Những sự tha hóa của người lao công

Thuật ngữ “tha hóa” (aliénation) được thuyết mác-xít sử dụng để chỉ trích chế độ tư bản. Chính vì xuất xứ đó cho nên trước đây, thần học công giáo tỏ ra dè dặt khi sử dụng. Ngày nay, khi phân tích những hoàn cảnh lịch sử, ta thấy có những tình trạng nói được là tha hóa của người lao công (hay công nhân) dưới nhiều hình thức.

1/ Khai thác thân xác của người thợ

Mọi hình thức lao động đều mang theo mồ hôi và nhọc nhằn. Tuy nhiên, có những công việc đưa đến cả sự hủy hoại thân xác của người thợ. Điều này đã xảy ra đối với các nô lệ trong quá khứ, đối với các tù nhân trong các trại tập trung khổ sai. Lao động không còn phải là “vinh quang” nhưng sát hại người thợ. Đây là dạng tha hóa thứ nhất

2/ Khai thác sức lực của người thợ

Đây là hình thức tha hóa mà Marx đã chỉ trích chế độ tư bản: người thợ chỉ lãnh được tiền lương đủ sống, chứ không lãnh trọn  thành quả mà mình đã đóng góp. Một phần lợi tức đã được chủ nhân giữ lại để tích lũy vào số tư bản. Tư bản trở thành chủ nhân của sự sản xuất. Sự sản xuất không nhằm để thỏa mãn nhu cầu của người thợ, nhưng là để tăng thêm số vốn, để cho sự sản xuất có thể tăng thêm vô hạn định.

3/ Sự xây dựng một nền văn minh dành riêng cho một thiểu số

Sự tha hóa thứ ba nằm ở chỗ người thợ xây dựng một thế giới hòan tòan xa lạ với mình: thế giới dành cho hạng người dư giả, những khu ăn chơi xa hoa, các dãy khách sạn và nhà hàng đủ tiện nghi. Lao động và tư bản nằm trong tay chỉ huy của một thiểu số đại phú, và họ điều khiển nền kinh tế của quốc gia và thậm chí của thế giới nữa. Các người thợ được thuê mướn để xây dựng những công trình được thiết kế, nhưng sẽ không được đặt chân vào.

Nên biết rằng cả ba điều tha hóa vừa rồi không chỉ được áp dụng vào điều kiện của chế độ tư bản của thế kỷ XIX-XX. Ngày nay, sự tha hóa xảy ra trên một bình diện rộng lớn hơn của việc toàn cầu hóa, và nội dung cũng không mấy thay đổi: người công nhân làm việc đầu tắt mặt tối cho những kế họach (của một nhóm tư bản, một chính phủ, một công ty liên quốc gia), mà họ không hề được bàn hỏi hay góp ý kiến. Họ cũng chẳng biết ai là chủ nhân của mình.

4/ Khía cạnh luân lý

Sau cùng, dưới khía cạnh luân lý đạo đức, thì cả chủ lẫn thợ đều có nguy cơ trở thành nô lệ cho kỹ thuật mà con người đã tạo ra. Tuy nhìn nhận rằng “Lao động là vinh quang”, nhưng nếu con người chỉ biết lao động chứ không biết nghỉ ngơi thì đâu còn gì là phẩm giá nữa? Đấng Tạo Hoá cũng nghỉ ngơi để thưởng lãm công trình của mình cơ mà!

C. Tin mừng lao động7

1/ Từ những điều vừa nói trên đây, chúng ta thấy vấn đề giá trị lao động có thể được nghiên cứu từ nhiều khía cạnh: về phía chủ thể hay về phía khách thể cũng như trong tương quan xã hội.

a) Xét về phía con người, nghĩa là phía chủ thể làm việc:

– lao động để phát huy những khả năng của mình

– lao động để góp ích cho tha nhân (dịch vụ, phục vụ)

– lao động để có phương tiện sinh sống

– lao động để gia tăng lợi tức

– lao động để “nghỉ ngơi”, nghĩa là để có phương tiện thư dãn, hưởng thụ…

b) Xét về phía sản phẩm: kết quả của lao động

Lao động mang lại những thành quả vật chất, cung cấp các nhu cầu tối thiểu của nhân loại, cũng như những thành quả tinh thần (văn hóa nghệ thuật).

c) Xét về khía cạnh tương quan xã hội

Lao động tạo ra tương quan giữa người thuê nhân công và người làm công; giữa chủ và thợ.

– Trong các xã hội cổ truyền, mối tương quan tương đối đơn giản, và được ấn định qua các hợp đồng, được quy định do đức công bình giao hoán.

– Trong các xã hội kỹ nghệ, mối tương quan trở nên phức tạp hơn. Nhiều khi “chủ nhân” không còn là một cá nhân nhưng là một tập đoàn (kể cả Nhà Nước): một công ty vô danh, với tầm hoạt động quốc tế (các công ty đa quốc gia). Người công nhân không biết khuôn mặt của những ông chủ đó (tư bản), mà chỉ gặp các trung gian (các doanh nhân).

2/ “Linh đạo lao động” (Spiritualité du travail) có thể áp dụng vào khía cạnh thứ nhất (chủ thể) hơn là những  khía cạnh khác. Kinh thánh cung cấp cho chúng ta nhiều suy tư về ý nghĩa và giá trị của lao động.

a) Trước hết, thiết tưởng không nên bỏ qua bối cảnh văn hóa của dân Do thái, khác với các xã hội Hy-lạp Rôma. Israel là một dân tộc gồm những người thợ tự do, và họ chống lại hết mọi hình thức nô lệ từ bên trong hay bên ngòai (xc. Đnl 15,12-18). Trong dân Israel, không có sự phân biệt giữa giai cấp thợ thuyền (không có quyền lợi) và giai cấp thống trị (với đủ hết mọi quyền lợi). Tại đây, không hề có sự khinh miệt lao động. Kể cả các tư tế và kinh sư đều là những người làm việc chân tay.  Đức Giêsu cũng đã làm việc chân tay, không phải vì là một hình thức sinh sống ngọai lệ, nhưng vì là một phần tử của dân tộc Israel. Người không bị khinh thường bởi vì làm việc chân tay. Sự làm việc cũng chẳng phải là một cách thức thực hành đức khiêm nhường, bởi vì nó không phải là điều hèn hạ. Thánh Phaolô cũng lớn lên trong văn hóa Do thái.

b) Khi trình bày “Tin mừng lao động”, các văn kiện của Giáo hội thường nói đến lao động góp phần vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa, dựa theo sách Sáng thế. Những đọan văn này quả đáp lại ước nguyện của nền văn minh lao động ngày nay: nhờ lao động mà con người biến đổi thế giới. Tuy nhiên, đó là nói một cách tổng quát như một lý tưởng nêu lên cho toàn thể nhân lọai. Khi đi vào hoàn cảnh cụ thể, ta thấy rằng khó mà nhận thấy sự tham gia vào công trình tạo dựng thế giới ở nơi các công việc thường ngày: bán hàng, gác cổng, chạy xe, quét đường, vv.  Mặt khác, xem ra trong Cựu ước, chính những công trình vĩ đại ra như tham gia vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa lại không được ca ngợi; ngược lại là đàng khác, chẳng hạn như tháp Babel, kim tự tháp Ai cập, dinh thự của vua Salomon bị lên án như công trình của tính kiêu ngạo, của sự bóc lột bất công (St 11,1-9; 1V 10,14-11,13: Gr 50-51; Ed 26-28).

c) Vì thế, ta có thể đọc lại những trang Kinh thánh về giá trị lao động dưới một viễn tượng khác. Thánh Phaolô không coi lao động như là cộng tác vào sự tạo dựng của Thiên Chúa, nhưng với một động lực rất cụ thể là “ai không làm việc thì đừng ăn” (2Tx 3,6-8.10-12). Đây không chỉ là một lý do thực tế (tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ), nhưng còn hàm ngụ cái gì sâu xa hơn, đó là tình liên đới với nhân lọai. Lao động là một trọng trách được trao cho tất cả nhân lọai, và hết mọi người đều phải tham gia. Ai không tham gia là tự lọai mình ra khỏi cộng đồng. Vì thế sự thay đổi thế giới đầu tiên mà ta có thể hình dung được là thay đổi vật chất thành cơm bánh: lao động nhằm sản xuất lương thực hằng ngày cho mỗi người. Không ai được phép miễn cho mình khỏi làm việc và dành miếng ăn của người khác.

d) Lao động không chỉ góp phần vào việc thay đổi thế giới mà còn đóng góp vào việc thay đổi chính bản thân của con người. Con người có cơ hội phát triển những tiềm năng sức lực của mình, vận dụng nghị lực về thể lý và tinh thần của mình, và tập luyện những đức tính kiên nhẫn, cần cù, liên đới. Thêm vào đó, người Kitô hữu cũng góp mồ hôi nước mắt của mình vào công trình cứu độ của Đức Kitô trên thập giá.

e) Cao điểm của linh đạo lao động là Thánh lễ. Cộng đoàn Hội thánh dâng lên Thiên Chúa chính những tặng phẩm mà Ngài đã ban cho nhân loại (bánh và rượu), nhưng đồng thời cũng là sản phẩm do bàn tay con người làm ra. Hội thánh dâng lên Thiên Chúa bánh và rượu cùng với tất cả những mồ hôi nước mắt, những nỗi nhọc nhằn của con người, để xin  được biến đổi thành Mình và Máu Chúa Giêsu. Thánh lễ vừa là hy lễ tạ ơn và dâng hiến, đền tội và chuyển cầu, vừa loan báo một thế giới mai hậu, khi mà những công việc của chúng ta sẽ được biến đổi trong thế giới mới (Tông huấn Sacramentum caritatis số 47).

III. LAO ĐỘNG VÀ GIÁO HUẤN XÃ HỘI

A. Sự tiến triển của vấn đề lao động

Như đã nói trên đây, đã có một sự tiến triển trong các văn kiện của Giáo hội bàn về lao động.

1. Trong thông điệp Rerum Novarum (1891), đức Lêo XIII nói tới điều kiện của người thợ trong xã hội kỹ nghệ Âu châu cuối thế kỷ XIX, phải chịu lắm cảnh bất công. Thông điệp nhấn mạnh rằng không thể coi lao động như một món hàng có thể đánh giá theo luật cung cầu; lao động gắn liền với con người, vì nó bộc lộ tài năng và kiện toàn con người. Lao động cần thiết cho con người cũng như cho gia đình, vì thế lương bổng cần phải để ý tới các yếu tố đó.

2. Bốn mươi năm sau, tình trạng của người công nhân không mấy tiến bộ hơn. Đức Piô XI phải lên tiếng lần nữa để bàn về những tiêu chuẩn xác định lương bổng công bằng. Thông điệp Quadragesimo Anno (1931) cũng xét lao động trong tương quan với quyền tư hữu, tư bản, trật tự xã hội.

3. Với thông điệp Mater et Magistra (1961), đức Gioan XXIII tiến thêm một bước khi bàn tới việc các công nhân được tham gia vào việc điều hành xí nghiệp, nhờ đó xí nghiệp ngày càng có tính cách nhân bản hơn vì sẽ biến thành một cộng đồng với những chức phận khác nhau. Ngài cũng nhấn mạnh rằng giá trị cao quý của con người nằm ở chỗ tài nghệ, làm chủ được nghề nghiệp của mình, chứ không phải ở chỗ tài sản mà mình sở hữu.

4. Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế “Vui Mừng và Hy vọng” số 33-39 (1965), mở rộng quan điểm lao động đến toàn thể những hoạt động của con người trong thế giới, và như vậy không chỉ giới hạn trong những xí nghiệp kỹ nghệ. Hai năm sau (1967), đức Phaolô VI, trong thông điệp Populorum Progressio (số 27-28), cũng đả động tới lao động hiểu theo nghĩa rộng ấy, và tố cáo nguy cơ là con người có thể trở thành nô lệ cho lao động thay vì làm chủ nó.

5. Với thông điệp Laborem exercens (1981), đức Gioan Phaolo II muốn tổng hợp và đào sâu tất cả giáo huấn của Giáo hội về lao động. Cách riêng, Ngài nhấn mạnh đến một vài nấc thang giá trị cần phải tôn trọng, tỉ như: con người có giá trị hơn là lao động (số 6); nhân vị có giá trị hơn là sự vật, và lao động có giá trị hơn là tư bản (12), mục tiêu phổ quát của tài sản thì đứng trên quyền chiếm hữu chúng (14), phẩm giá con người ở trên của cải (20).

Khía cạnh liên đới được dành một chỗ đặc biệt trong thông điệp Sollicitudo rei socialis (1987).

Sau cùng, thông điệp Centesimus Annus (1991) tổng kết giáo huấn trong một thế kỷ, nêu bật sự tiến triển dọc theo những biến chuyển xã hội (số 32). Trước đây, yếu tố quan trọng của sự sản xuất là đất đai, kế đó là tư bản, nhưng ngày nay yếu tố tất định chính là con người, nhờ tài năng tổ chức của mình. Ngoài ra, trước đây người ta đặt nặng quyền sở hữu tài sản vật chất, nhưng ngày nay còn có thứ tài sản khác quan trọng hơn nhiều, đó là kiến thức khoa học, kỹ thuật nghĩa là chính khả năng của con người chứ không phải là nguồn lợi vật chất. Chính vì thế, cần phải chú trọng đến con người như chủ thể của hoạt động kinh tế.

B.  Vài nguyên tắc của GHXH về lao động

1. Khái niệm lao động

Lao động là gì ? Đã có nhiều triết gia hay luật gia cố gắng tìm cách định nghĩa nó. Có người chỉ coi công việc chân tay nặng nhọc mới là lao động; có người cho rằng chỉ có người đi làm công cho người khác mới là lao động; có người chỉ coi là lao động khi sản xuất được cái gì hữu ích. Các văn kiện xã hội của Giáo hội không tìm cách định nghĩa lao động theo tiêu chuẩn triết lý hay pháp luật, nhưng hiểu lao động theo nghĩa rất rộng bao gồm tất cả các hoạt động của con người: lao động chân tay cũng như lao động trí óc (thí dụ: thảo kế hoạch, điều hành: LE 14), từ những nông dân, thợ mỏ thợ nề cho đến các nhà khoa học, bác sĩ, y tá và không quên các bà nội trợ (LE 9). Nhưng nhất là các văn kiện vạch ra giá trị của lao động cũng như những yêu sách của nó:

a) Lao động kiện toàn con người, vì nhờ lao động mà con người phát triển tài năng của mình (LE 9d;20).

b) Lao động cấp dưỡng cho gia đình (LE 10 a.b).

c) Lao động xây dựng xã hội (LE 8;10c; CA 31;32).

d) Lao động chinh phục vũ trụ, ghi dấu bàn tay con người trên vũ trụ (LE 4; CA 31).

2. Khía cạnh chủ thể và khách thể

Tưởng cũng nên biết là đức Gioan Phaolô II (một vị Giáo hoàng đầu tiên đã có kinh nghiệm trực tiếp với xã hội chủ nghĩa) đã dám đối chiếu quan niệm về lao động của Kitô giáo với quan niệm của Marx. Marx nói tới ba khía cạnh của lao động : a) khía cạnh chủ thể, xét như là hoạt động của con người; b) khía cạnh khách thể, nghĩa là đối thể hoạt động; c) khía cạnh công cụ, nghĩa là phương tiện dùng để hoạt động. Trong thông điệp LE, đức Gioan Phaolô II chỉ phân biệt có hai khía cạnh: chủ thể và khách thể; khía cạnh thứ ba của Marx được gộp vào trong khía cạnh khách thể.

a) Lao động nhìn dưới khía cạnh chủ thể (LE 6) là chính con người, chủ thể của lao động. Chỉ có con người, chủ thể tự do, mới biết làm việc; chứ động vật hay máy móc không biết làm việc.

b) Lao động dưới khía cạnh khách thể  là những tài sản, cơ sở, dụng cụ, phương tiện, công cuộc… dùng vào sự làm việc hoặc là kết quả của nó (LE 5). Trong hệ trật các giá trị, cần phải xếp lao động chủ thể lên trên lao động khách thể (LE 6.7.8.9.10.13.18.24…), tài năng của con người đứng trên công cụ vật chất; con người chế ra công cụ chứ không phải ngược lại.

Nguồn gốc xa xưa của sự phân biệt này là triết học Hy-lạp: sự phân biệt giữa “hành vi” (praxis, agere, agir)  và “hoạt động” (poiesis, facere, faire). “Hành vi” nhằm kiện toàn con người (thí dụ: hành vi nhân đức, hành vi luân lý), ở bên trong con người chúng ta; “hành động” tác dụng trên vật thể bên ngoài chúng ta.

Việc du nhập sự phân biệt này nhằm đề cao phẩm giá con người: con người làm việc để kiện toàn chính bản thân, trước khi nói đến thay đổi vũ trụ bên ngoài. Lao động phục vụ con người, chứ không phải con người phục vụ lao động. Lao động cần phải được nhân bản hoá.

3. Ngoài ra cũng cần nên thêm linh đạo về lao động

Lao động là một phương thế cộng tác với Đấng Tạo hóa (LE 25). Lao động là một phương thế họa lại cuộc đời lao công của đức Kitô (LE 26), cách riêng qua việc hy sinh đau khổ để cứu độ (LE 27). Lao động là phương thế cộng tác với Chúa Thánh Thần trong công tác thánh hóa và canh tân vũ trụ (GS 39; LE 27).

C. Quyền lợi và bổn phận làm việc

Như đã nói trên, các sách luân lý cổ truyền nói đến bổn phận làm việc (ai không làm việc thì đừng ăn; tay làm hàm nhai); nhưng với sự tiến triển của các cơ chế xã hội, người ta ý thức quyền làm việc như là một quyền lợi căn bản của con người.

1/ Quyền làm việc. Ngày nay hầu hết các bản Hiến pháp và Tuyên ngôn quốc tế đều nhìn nhận quyền làm việc. Đây là một quyền lợi mới được nhìn nhận trong thế kỷ XX khi nạn thất nghiệp bành trướng trong các nước kỹ nghệ. Các văn kiện của Giáo hội đòi hỏi quyền này kể từ năm 1941 (sứ điệp của đức Piô XII kỷ niệm 50 năm thông điệp RN; tiếp đến là PT 18, OA 14). Tuy nhiên, trên thực tế, trong các nền pháp chế hiện hành có ba lối giải thích quyền làm việc.

a) Theo hiến pháp Liên sô 1977 dưới chế độ Lênin, quyền làm việc được hiểu như quyền được Quốc gia bảm đảm cho một chỗ làm việc; do đó người công nhân không thể bị sa thải dù từng cá nhân hay là cả tập thể. Ngày nay ít ai hiểu quyền làm việc theo nghĩa này, bởi vì nó sẽ tiêu diệt sáng kiến cá nhân cũng như khiến các cơ cấu kinh tế trở thành cứng nhắc.

b)  Một số nước Tây phương hiểu quyền làm việc là quyền được hưởng một mức lương tối thiểu để sinh sống nhờ công việc làm. Nhà nước sẽ đứng ra bảo đảm cho các công nhân mức lương ấy.

c) Trước nạn thất nghiệp càng ngày càng lan rộng, nhiều quốc gia nhấn mạnh đến phương tiện sinh sống. Theo đó, dù người công nhân kiếm được việc làm hay không, họ cũng cần có tiền để sống. Nhà nước phải liệu cấp dưỡng món tiền tối thiểu ấy.

Dù giải thích thế nào về quyền làm việc dưới khía cạnh pháp lý đi nữa, quyền làm việc còn mang theo một chuỗi những quyền lợi khác được thông điệp LE quảng diễn ở các số 16-23: quyền được đồng lương tương xứng (GS 67; LE 19), quyền được làm việc trong điều kiện xứng với nhân phẩm (LE 15; CA 35;39;41; thí dụ: ngoài việc bảo đảm khung cảnh vệ sinh, cần làm sao để con người cảm thấy làm việc có ý thức chứ không như cái máy); quyền được tham gia vào việc quản trị xí nghiệp (MM 91; GS 68; LE 14); quyền lập nghiệp đoàn (LE 20; CA 15), quyền di cư. Ngoài ra quyền làm việc cũng cần phải nhìn nhận cho các bà nội trợ, các người tàn tật.

Tại những nước Âu châu, vấn đề nghiệp đoàn cũng kéo theo vấn đề đình công, sự tham gia của các người Kitô giáo vào những nghiệp đoàn với những màu sắc chính trị khác nhau. Quyền làm việc thường cũng đi đôi với quyền nghỉ ngơi, quyền cấp dưỡng an ninh xã hội, hưu bổng.

2/ Bổn phận làm việc là một điều được các văn kiện xã hội nói tới ngay từ đầu (LE 16b), dựa theo Kinh thánh (xc. 1Tx 4,10-11; Ep 4,27-28) và truyền thống Giáo hội. Sự làm việc là một phương tiện để kiếm ăn nuôi sống cho mình và cho gia đình, phát triển các tài năng của mình, tránh cảnh nhàn cư, đóng góp vào việc kiến thiết xã hội. Tuy nhiên, khi diễn đạt ra pháp lý, người ta thấy luật pháp của các quốc gia lúng túng khi muốn chế tài nghĩa vụ làm việc. Chỉ có các nước độc tài mới dám đề ra sự lao động cưỡng bách.

Nên biết là nghĩa vụ làm việc thì khác với nghĩa vụ của công nhân. Nghĩa vụ của công nhân phát sinh từ hợp đồng mà người thợ đã ký kết với cá nhân hay xí nghiệp. Từ hợp đồng đó nảy ra những quyền lợi và nghĩa vụ luân lý và pháp lý mà đôi bên phải thi hành theo như đã cam kết.

D. Những vấn đề nối kết với lao động

Giáo huấn xã hội móc nối lao động với nhiều vấn đề khác, được sách TLHT đem vào chương này, tuy vẫn còn trở lại trong những chương kế tiếp.

1/ Trước hết, quyền lao động được gắn với quyền lợi của người lao động (công nhân). Trong số những quyền lợi căn bản nhất là quyền được trả lương xứng đáng: tiền lương không chỉ dựa trên kết quả sản xuất, và còn liên quan đến mức sống của cá nhân và gia đình. (Lao động và nhân quyền)

2/ Trong quá khứ cũng như trong hiện tại, lao động được đặt trong tương quan với tư bản: không những là tư bản của người chủ thuê mướn nhân công, mà còn ngay với chính tư bản của chính công nhân. Lao động là một phương tiện để thủ đắc tư bản và những phương tiện sinh sống.

3/ Ngoài ra, lao động cũng đặt lên vấn đề đối với Nhà Nước.

Tóm lại, trong vấn đề lao động, chúng ta lại thấy xuất hiện những nguyên tắc căn bản của GHXH: phẩm giá con người, quyền lợi căn bản, nguyên tắc liên đới, nguyên tắc hỗ trợ.

KẾT LUẬN: NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI

1. Sách TLHT không chỉ dừng lại ở chỗ thâu tóm giáo huấn của quá khứ, nhưng cũng gợi lên những vấn đề mới (res novae, tựa đề của thông điệp đức Lêô XIII), hướng đến tương lai: hiện tượng toàn cầu hoá, với những hậu quả đối với các công nhân ở những nước kỹ nghệ cũng như ở những nước đang phát triển.

2. Chiều kích tâm linh của lao động. Chúng ta đã lướt qua linh đạo của lao động,  nhưng chiều kích tâm linh còn rộng hơn nữa: nó muốn nói đến việc đánh giá các nhu cầu của con người (không phải chỉ có nhu cầu vật chất), và hướng đến chiều hướng siêu việt. Điều này có giá trị kể cả cho những người ngoài Kitô giáo. Lao động có thể trở thành một đề tài đối thoại liên tôn.

 

 

 


1 Như vậy đối với Kinh thánh, sự làm việc là một “vinh quang” (chứ không phải là một hình phạt) bởi vì được cộng tác với Đấng Tạo hóa. Tuy nhiên, do tội lỗi, lao động thường bị tổn thương: do lòng tham lam khai thác vũ trụ cách bừa bãi, hoặc coi lao động như thần tượng, hay bóc lột sự lao động của tha nhân.

2 Đây là phương châm của luật thánh Biển Đức, phân chia thời khóa biểu giữa thời gian phụng tự và thời gian lao động. Tuy nhiên phương châm này cũng được giải thích theo nghĩa là con người cần phải biết hợp tác với ơn thánh Chúa: cần biết cầu nguyện, bởi vì tất cả mọi sự tuỳ thuộc vào Chúa; cần biết làm việc, bởi vì tất cả tuỳ thuộc vào nỗ lực của chúng ta. Xem Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo số 2834.

3 Về nguồn gốc của sự phân biệt này, xin xem Mục 2.

4 Công nhân: công là người thợ; công nhân: người thợ, người làm việc.  Cần lao: siêng năng, khó nhọc. Xc. Lê Gia, Tiếng nói nôm na, NXB Văn Nghệ, TPHCM 1999.

5 Đây là cơ sở để giải thích giới răn “kiêng việc xác ngày chủ nhật”: chỉ kiêng những công tác phần xác dành cho nô lệ.

6 Xc. ĐGH Gioan Phaolô II, thông điệp Laborem exercens (14-9-1981), số 6. TLHTXH số 270-272.

7 Thuật ngữ này được đức Gioan Phaolô II xử dụng ở số 25 của thông điệp Laborem exercens.