Giáo Huấn Xã Hội Của Giáo Hội Về Bảo Vệ Hòa Bình – 08

0
1939


DẪN NHẬP VÀO GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI

Tác giả: Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.

***

***

GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI VỀ BẢO VỆ HÒA BÌNH

 

Viết tắt:

TLHT: Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội

GHXH: Giáo huấn Xã hội của Hội thánh

GLCG: Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo

HB: Hòa bình

***

 

MỤC 1

 

TÓM TẮT SÁCH TLHT

 

 

Chương XI gồm bốn đoạn: 1/ Khía cạnh Thánh kinh. 2/ Hòa bình, kết quả của Công lý và Bác ái. 3/ Sự thất bại của hòa bình: chiến tranh. 4/ Sự đóng góp của Giáo hội vào hòa bình. Đoạn thứ nhất tìm hiểu ý nghĩa của hòa bình trong lịch sử cứu độ, từ nguyên thủy cho đến thời Chúa Giê-su và các tông đồ. Đoạn thứ hai trình bày quan điểm của Giáo hội về hòa bình. Đoạn ba bàn về chiến tranh như là mặt trái của hòa bình (đoạn này dài hơn cả). Sau cùng, sách TLHT trình bày sự đóng góp của Giáo hội (hiểu về toàn dân Thiên Chúa) cho hòa bình.
 
Trước khi vào đề, thiết tưởng nên lưu ý việc dịch thuật: cùng một danh từ trong các ngôn ngữ Âu Tây (pax trong tiếng La-tinh, paix tiếng Pháp, peace tiếng Anh) khi dịch ra tiếng Việt thì có khi dịch là “bình an” (an bình) có khi dịch là “hòa bình”. “An bình” thường ám chỉ tình trạng nội tâm; “hòa bình” ám chỉ tình trạng xã hội. Trong phụng vụ, chúng ta chúc cho nhan “bình an của Chúa Kitô” kể cả khi nhắc đến lời loan báo của các thiên sứ đêm Giáng sinh: “bình an dưới thế cho người thiện tâm” (lẽ ra phải nói là “hòa bình”). Trong bài này, chúng ta dùng từ “hòa bình” (viết tắt HB), kể cả khi hiểu về “bình an”. Như sẽ thấy, shalom trong Kinh thánh là một từ rất súc tích, bởi vì nó bao gồm tất cả những phúc lành của Thiên Chúa ban cho con người. Chúng ta sẽ còn gặp nhiều vấn đề từ ngữ trong bài này
[1].
 
I. KHÍA CẠNH THÁNH KINH
 
Trong 6 số, Sách TLHT trình bày HB theo dòng lịch sử cứu độ: kể từ HB lúc khởi nguyên, rồi sự xáo trộn do tội lỗi gây ra; tiếp theo là quan niệm về HB trong Cựu ước, và lời hứa thời kỳ đấng Mêsia được thực hiện nơi đức Kitô, rồi Người trao lại cho Hội thánh.
 
1/ Trước hết HB là một ưu phẩm thiết yếu của Thiên Chúa: Ngài là “Gia-vê HB” (Thiên Chúa bình an: Tl 6,24). Số 488. Thứ đến, HB là một món quà mà Thiên Chúa ban cho nhân loại và là một dự án của nhân loại phù hợp với Thiên Chúa. Muôn vật đều khao khát HB. HB dựa trên tương quan ngay chính giữa mỗi thụ tạo với Thiên Chúa (St 17,1).
 
Do một hành động tự tình, con người đã làm lệch lạc trật tự của Thiên Chúa, mang theo những hệ quả là sự đổ máu và chia rẽ, bạo lực trong tương quan giữa cá nhân (St 4,1-16) cũng như xã hội (St 11,1-9).
 
Thiên Chúa không thể nào ngự trị ở nơi có bạo lực (xc. Sbn 22,8-9).
 
2/ HB là kết quả của sự chúc lành của Chúa xuống trên dân Ngài: “Nguyện xin Thiên Chúa biểu lộ tôn nhan và ban hòa bình cho bạn” (Ds 6,26). (số 489)
 
HB còn là cái gì hơn cả tình trạng không có chiến tranh: HB tượng trưng cho đời sống sung mãn (Ml 2,5). HB không chỉ là kết quả của công trình con người; nó là một ân huệ cao quý mà Thiên Chúa ban cho con người.
 
Điều kiện để hưởng HB: con người phải vâng theo chương trình của Thiên Chúa.
 
Những hoa trái mà HB của Chúa mang đến: phong nhiêu (Is 48,19), sảng khoái (Is 48,18), thịnh vượng (Is 54,11), không sợ hãi (Lv 26,6) và hoan hỉ (Cn 12,20).
 
3/ Một thế giới mới của HB, bao trùm toàn thể vũ trụ, được hứa ban vào kỷ nguyên của đấng Mêsia (Is 11,6-9). (số 490).
 
Chính vị Mêsia mang danh hiệu là Thái Tử HB (Is 9,5). HB sẽ trường tồn, bởi vì một khi nhà vua cai trị theo lẽ công bình thì trật tự sẽ nở hoa và HB sẽ dồi dào cho đến “khi nào tắt ánh trăng” (Tv 72,7). “Tình yêu và chân lý hội ngộ, công lý và hòa bình giao duyên” (Tv 85,11).
 
4/ Lời hứa HB trải dài suốt Cựu ước đã hoàn tất ở nơi bản thân đức Giê-su (số 491).
 
HB là điều thiện hảo tuyệt vời nhất của đấng Mêsia. Triều đại của đấng Mêsia là triều đại HB. Đức Giê-su là “HB của chúng ta” (Ep 2,14). “Thầy để lại HB cho các con; thầy ban HB của thầy cho các con; thầy không ban HB giống như thế gian” (Ga 14,27). “HB cho các con!” (Lc 24,36).
 
5/ Phúc cho những kẻ xây dựng HB, vì họ sẽ được gọi là con cái Chúa” (Mt 5,9). (số 492).
 
HB của đức Kitô trước hết là giao hòa với Chúa Cha; kế đó là giao hòa với các anh em, bởi vì trong kinh dạy cho các môn đệ, đức Giê-su đã liên kết sự tha thứ mà ta cầu xin Thiên Chúa với sự tha thứ mà ta dành cho anh em.
 
6/ Việc loan báo Tin mừng luôn gắn kết với hoạt động cho HB (số 493).
 
Trọng tâm của “Tin mừng HB” (Ep 6,15) là mầu nhiệm Thập giá, bởi vì HB được bao hàm trong hy tế của đức Kitô (xc. Is 53,5).

II. HÒA BÌNH: KẾT QUẢ CỦA CÔNG LÝ VÀ BÁC ÁI[2]
 
1/ HB là một giá trị và là một bổn phận của tất cả mọi người (số 494).
 
HB đặt nền tảng trên trật tự xã hội dựa theo lý trí và luân lý, và cội rễ là chính Thiên Chúa.       HB không đơn thuần là không có chiến tranh.
 
HB đặt nền tảng trên một quan niệm chính xác về nhân vị, sự tôn trọng nhân phẩm, sự xây dựng một trật tự theo công lý và bác ái; một sự sống chung xã hội nhắm đến ích chung.
 
HB là hoa trái của tình yêu. HB chân chính nằm trong hệ trật của bác ái hơn là của công bình. Nhiệm vụ của công bình là dẹp tan những ngăn trở cho HB (xâm phạm, thiệt hại); còn chính HB là hành vi của yêu thương
[3].
 
2/ Tuyệt đối cần phải để cho HB sống như một giá trị sâu đậm ở trong thâm tâm của mỗi người. HB được xây dựng mỗi ngày trong việc tìm kiếm trật tự do Thiên Chúa muốn (số 495).
 
3/ Vũ lực không bao giờ là một sự giải đáp chính đáng (số 496).
 
Vũ lực là một điều xấu; không thể chấp nhận như giải pháp cho các vấn đề. Nó không xứng đáng với con người.
 
Vũ lực tàn phá điều mà nó chủ trương bảo vệ: phẩm giá, sự sống, tự do.
 
III. SỰ THẤT BẠI CỦA HÒA BÌNH: CHIẾN TRANH
 
Đoạn này dài hơn cả, nhắc lại những nguyên tắc luân lý liên quan đến chiến tranh đã được phát biểu trong sách GLCG ở các số 2302-2317. Như sẽ nói trong mục Hai, mặc dầu tựa đề của chương này là “bảo vệ HB”, nhưng trải qua dòng lịch sử, Giáo hội lên tiếng nhiều lần về chiến tranh hơn là về HB. Chiến tranh là mặt trái của HB.
 
Sau ba điều dẫn nhập, sách TLHT đề cập đến 6 vấn đề: 1) Sự tự vệ chính đáng. 2) Vai trò của quân đội. 3) Phải bảo vệ người vô tội. 4) Sự cấm vận. 5) Giải giới. 6) Khủng bố.
 
1/ Huấn quyền lên án “sự man rợ của chiến tranh (GS 77).
 
Chiến tranh là một tai ương. Nó phát sinh những tranh chấp mới và phức tạp hơn, sự tàn sát vô ích, một cuộc phiêu lưu không ngày trở về. Nó gây ra những tổn thất vật chất và luân lý. Chiến tranh là sự thất bại của nhân loại.
 
2/ Thật là khẩn trương phải đi tìm những giải pháp khác thay cho chiến tranh để giải quyết những tranh chấp (số 498).
 
– Ngày nay, khó lòng hạn chế các cuộc tranh chấp vào một lãnh thổ, bởi vì các phương tiện tàn phá hiện nằm trong tay của  nhiều nước.
 
– Cần thiết phải tìm ra những nguyên nhân của một cuộc chiến tranh (những tình trạng bất công). Vì thế sự phát triển là tên gọi mới của HB.
 
3/ Tầm quan trọng của các cơ quan toàn cầu và riêng từng vùng (số 499).
 
Nhờ những cơ quan này cổ vũ sự hợp tác ngõ hầu mang lại sự bảo vệ hữu hiệu cho những quốc gia không có phương tiện tương xứng. Các cơ quan ấy thiết lập những tương quan tín nhiệm hỗ tương đến nỗi việc sử dụng chiến tranh là điều không tưởng tượng nổi.
 
A. Sự tự vệ chính đáng
 
1/ Một cuộc chiến tranh xâm lấn là điều xấu xa tự bản chất. Một quốc gia bị xâm lấn có quyền lợi và nghĩa vụ phải tự vệ bằng cách sử dụng khí giới (GLCG 2265).
 
Để việc sử dụng vũ trang được chính đáng theo luân lý, cần có những điều kiện sau đây (mà những người có trách nhiệm đến công ích có bổn phận phải cân nhắc):
 
– Sự tổn thất do kẻ xâm lăng gây ra có tính lâu dài, trầm trọng và chắc chắn.
 
– Những phương tiện khác để chấm dứt sự xâm lấn không thể thực hiện được và không có hiệu quả.
 
– Có lý do bảo đảm rằng sự tự vệ sẽ thành công.
 
– Việc sử dụng khí giới không gây ra những sự dữ hoặc xáo trộn tệ hơn là sự dữ mà ta muốn loại trừ (GLCG 2309).
 
Sức mạnh vũ trang không biện minh cho tất cả mọi thứ sử dụng sức mạnh nhằm mục tiêu chính trị hay quân sự.
 
2/ Hiến chương LHQ với tai ương chiến tranh (số 499).
 
a) Hiến chương dựa trên sự ngăn cấm sử dụng vũ lực để giải quyết những tranh chấp giữa các quốc gia, ngoại trừ hai trường hợp: a) Sự tự vệ chính đáng. b) Các biện pháp của Hội đồng Bảo an quyết định trong khuôn khổ trách nhiệm của mình phải duy trì HB.
 
b) Các giới hạn của quyền tự vệ: sự cần thiết; sự tương xứng.
 
c) Trường hợp chiến tranh phòng ngừa (quyền can thiệp). Nó đặt ra nhiều nghi vấn nặng nề dưới khía cạnh luân lý và pháp lý. Duy chỉ một quyết định của các cơ quan có thẩm quyền mới có thể cấp cho nó tính cách hợp pháp quốc tế.
 
B. Bảo vệ hòa bình
 
1/ Những yêu sách của việc tự vệ chính đáng biện minh sự hiện hữu của quân đội trong các quốc gia (số 502).
 
Quân đội có sứ mạng bảo vệ sự thiện, sự thật và công lý trên thế giới.
 
2/ Trách nhiệm của người lính: vấn nạn lương tâm (số 503)
[4]

 
Các quân nhân có trách nhiệm hoàn toàn về những hành động vi phạm quyền lợi của các nhân thân và các dân tộc. Những hành động này không được biện mình vì lý do tuân hành lệnh của cấp trên.
 
Tuy nhiên, những người nêu vấn nạn lương tâm phải chấp nhận phục vụ cộng đồng dưới một hình thức khác.
 
C. Nghĩa vụ che chở những người vô tội
 
1/ Cần che chở các thường dân thường trở thành nạn nhân của việc sử dụng quân lực (số 504).
 
Cần phải tôn trọng những quy định của luật quốc tế về nhân đạo.
 
Những cuộc “thanh lọc chủng tộc” là điều không thể nào chấp nhận. Trong những trường hợp thảm thương, các cuộc cứu trợ nhân đạo cần phải được đưa đến các dân tộc ấy.
 
Điều thiện của nhân vị đứng trên những quyền lợi của các phe phái tranh chấp.
 
2/ Bổn phận phải đưa những thường dân tránh xa những hậu quả của cuộc chiến (số 505).
 
Cần phải tìm ra sự thỏa thuận về những nguyên tắc nhân đạo và củng cố các nền tảng của chúng để ngăn ngừa sự tái diễn những cảnh tàn ác và lạm dụng.
 
3/ Sự tiêu diệt cả một nhóm người (chủng tộc, bộ lạc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ) là trọng tội đối với Thiên Chúa và nhân loại (số 506).
 
Thế kỷ XX đã được đánh dấu bởi những cuộc diệt chủng khủng khiếp: Armenie, Ukren, Ruanda, Cambốt, Do thái.
 
Đứng trước những hành vi, ta có bổn phận phải tìm ra những sáng kiến cụ thể để giải giới kẻ tấn công. Không thể nại đến chủ quyền quốc gia để tránh sự can thiệp giúp đỡ các nạn nhân.
 
Các biện pháp này phải tôn trọng luật quốc tế và nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia.
 
Việc thiết lập Tòa án hình sự quốc tế là một điều mà Huấn quyền đã nhiều lần ủng hộ.
 
D. Biện pháp chống lại những kẻ đe dọa Hòa Bình

Sự cấm vận nhằm sửa chữa thái độ của những chính phủ vi phạm luật quốc tế hoặc đàn áp nhân dân (số 507).
 
Đặc trưng của những cuộc cấm vận (hay phong tỏa)
 
– Cần phải quy định chính xác những mục tiêu của nó (nhằm đến mở ra cuộc đối thoại và đàm phán).
 
– Cần phải được kiểm tra định kỳ bởi những cơ quan có thẩm quyền của Cộng đồng quốc tế.
 
– Sự cấm vận không bao giờ được trở thành dụng vụ trừng phạt đối với toàn thể nhân dân.
 
– Cần phải hạn chế sự cấm vận kinh tế về thời gian, và nó không được biện minh khi thấy rằng nó gây ra những hậu quả cách mù quáng, không phân biệt giữa những kẻ có lỗi và những kẻ không có lỗi.
 
E. Sự giải trừ quân bị
 
1/ GHXH đề nghị một cuộc giải giới toàn diện, quân bình và có kiểm soát (số 508).
 
Việc tăng cường vũ trang là một sự đe dọa trầm trọng cho nền an ninh và HB. Không thể nói vũ khí tương đương mới các sản phẩm khác để trao đổi trên thế giới hoặc trên thị trường trong nước (GLCG số 2316).
 
Chủ trương tăng cường binh lực để làm cho đối phương hoảng sợ là một điều đáng nghi ngờ dưới khía cạnh luân lý. Việc thi đua vũ trang không bảo đảm HB: thay vì loại bỏ chiến tranh, nó có nguy cơ làm tăng gia.
 
2/ “Tất cả mọi hành động chiến tranh nhằm đến sự tàn phá toàn thể các thành phố hoặc những miền rộng lớn cùng với dân cư là một tội ác đối với Thiên Chúa và con người” (GLCG số 2314).
 
Việc sở hữu các khí giới tàn phá hàng loạt (sinh học, hóa học, hạt nhân) mang theo một trách nhiệm to lớn trước mặt Chúa và nhân loại (số 509).
 
Những mục tiêu khẩn trương:  Không bành trướng vũ khí hạt nhân; – Những biện pháp giải trừ khí giới hạt nhân; – Đặt ra những cuộc kiểm soát hữu hiệu ở tầm quốc tế; – Phá hủy các vũ khí hóa học và sinh học.
 
3/ Việc giải giới cũng phải mở rộng đến các khí giới chống lại cá nhân (số 510).
 
Những khí giới này vô nhân đạo, gây ra những thiệt hại kể cả sau khi các cuộc xung đột đã chấm dứt từ lâu.
 
Cộng đồng quốc tế cần tiếp tục dấn thân vào công việc tháo gỡ mìn.
 
4/ Cần kiểm soát việc sản xuất và buôn bán các vũ khí nhẹ (số 511).
 
Các loại vũ khí này dễ dàng đưa đến các hành vi vũ lực. Việc buôn bán những khí giới này là một đe dọa cho nền HB: chính những vũ khí này giết người nhiều hơn cả trong các cuộc chiến.
 
5/ Cần tố giác việc sử dụng các thiếu nhi như là lính trong các cuộc giao tranh (số 512). Huấn luyện cho trẻ em chém giết là một tội các không thể dung thứ.
 
F. Lên án khủng bố
 
1/ Sự khủng bố là một trong những hình thức vũ lực thô bạo nhất hiện đang làm xáo trộn cộng đồng quốc tế (số 513).
 
Những đặc trưng của nạn khủng bố quốc tế:
 
– thảo hoạch những chiến thuật có tầm rộng lớn;
 
– gây tác hại cho những con người hoàn toàn vô tội, nạn nhân tình cờ của các hành động khủng bố;
 
– nhắm đến những nơi sinh hoạt thường nhật chứ không phải những mục tiêu quân sự;
 
– nó hoạt động ngoài những quy tắc pháp luật;
 
– nó gieo rắc hận thù, chết chóc, ước mong báo thù hay trả đũa.
 
Không nên khinh thường những nguyên nhân thúc đẩy hình thức khủng bố. Việc chống lại khủng bố giả thiết nghĩa vụ luân lý góp phần tạo ra những điều kiện không cho nó nảy sinh hoặc phát triển.
 
2/ Cần phải tuyệt đối lên án nạn khủng bố (số 514).
 
Không động lực nào có thể biện minh cho nó.
 
Việc tự bảo vệ chống lại khủng bố là một quyền lợi. Tuy nhiên quyền này không thể được hành sử mà không đếm xỉa đến các quy tắc luân lý và pháp lý: sự chống trả khủng bố cần diễn ra trong sự tôn trọng nhân quyền và những nguyên tắc của quốc gia pháp trị.
 
Sự hợp tác quốc tế để chống hoạt động  khủng bố không thể nào chỉ giới hạn vào các cuộc đàn áp và trừng phạt. Cần phải phân tích cách can đảm và sáng suốt những động lực ngầm đàng sau các cuộc tấn công khủng bố. Dấn thân trên bình diện chính trị và giáo dục để giải quyết những vấn đề có thể nuôi dưỡng nạn khủng bố. Sự khủng bố tuyển lựa thành viên tại những nơi mà quyền lợi bị chà đạp.
 
3/ Tuyên bố khủng bố nhân danh Thiên Chúa là một điều phạm thánh và phạm thượng (số 515).
 
Trong bối cảnh ấy, người ta lạm dụng không những con người mà cả Thiên Chúa nữa. Kẻ khủng bố cho rằng mình nắm giữ chân lý, thay vì tìm cách để được chân lý chiếm hữu.
 
Lạm dụng danh nghĩa “tử vì đạo”: Sự tử đạo chân chính là chứng tá của kẻ chịu giết chứ không chối bỏ Thiên Chúa và tình yêu của ngài; kẻ khủng bố thì lại giết nhân danh Thiên Chúa. Như vậy là đảo lộn ý niệm tử đạo.
 
Không tôn giáo nào có thể dung tha khủng bố, lại càng không thể rao giảng khủng bố.
 
IV. GIÁO HỘI GÓP PHẦN VÀO HÒA BÌNH
 
1/ Trong đức Kitô, Giáo hội là “bí tích”, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ HB trong thế giới và cho thế giới.
 
Sự cổ vũ HB:
 
– diễn tả đức tin Kitô giáo vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người;
 
– cho thấy một cái nhìn mới về thế giới và một cách thức mới để tiếp cận tha nhân;
 
– xúc tiến sự hợp nhất các Kitô hữu;
 
– hợp tác với các tín đồ các tôn giáo;
 
– khuyến khích các cá nhân và quốc gia tham gia vào mối quan tâm thiết lập và củng cố HB (vai trò quan trọng của luật quốc tế).
 
2/ HB chân chính chỉ có thể có được nhờ sự tha thứ và giao hòa (số 517).
 
Sự tha thứ trở thành khó khăn trước những hậu quả của chiến tranh và xung đột, khi mà chúng dẫn đến vực thẳm của tình trạng phi nhân đạo.
 
Để tha thứ, cần có sự thống hối lỗi lầm. Nó cũng mang tính hỗ tương: trao ban và nhận lãnh.
 
3/ Công lý và sự thật là những đòi hỏi cụ thể cho sự giao hòa (số 518).
 
Nên thiết lập những cơ quan tư pháp quốc tế, với thẩm quyền trên toàn thế giới, để làm sáng tỏ sự thật về những tội ác đã phạm trong các cuộc chiến, tôn trọng quyền lợi của nạn nhân và các bị cáo.
 
Cần phải đi xa hơn việc xác nhận các hành động tội phạm, và tiến tới việc thiết lập những mối bang giao đón tiếp hỗ tương giữa các dân tộc bị phân chia.
 
Cổ động việc tôn trọng “quyền HB” dựa trên sự khước từ những tương quan sức mạnh, được thay thế bằng những tương quan hợp tác nhằm đến ích chung.
 
4/ Giáo hội tranh đấu cho HB bằng việc cầu nguyện (số 519).
 
Sự cầu nguyện mở rộng tâm hồn đến mối tương quan sâu đậm với Thiên Chúa và đến sự gặp gỡ tha nhân trong tình yêu. Cầu nguyện mang lại sự can đảm và sự nâng đỡ cho tất cả các bạn hữu của HB.
 
Lời cầu nguyện phụng vụ là chóp đỉnh mà mọi hoạt động của Giáo hội nhắm đến, và là nguồn mạch mà Giáo hội múc lấy sức mạnh.
 
5/ Đức Giáo hoàng Phaolô VI thiết lập Ngày Thế Giới HB vào ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho HB và dấn thân xây dựng HB (số 520).
 
Những sứ điệp được ban hành vào cơ hội này là một nguồn mạch phong phú để canh tân và phát triển GHXH. “HB chỉ được khẳng định bằng HB, và HB không thể tách rời khỏi những đòi hỏi của công lý. Công lý được nuôi dưỡng nhờ sự hy sinh bản thân, lòng khoan nhân, lòng bác ái.

 

***

 

MỤC II

 

MỘT VÀI NHẬN XÉT

 

Khác với các bài trước, lần này chúng tôi không theo sát thứ tự các đề mục của sách TLHT, nhưng trình bày vấn đề dưới một viễn tượng khác, đó là theo dõi sự tiến triển của Huấn quyền Giáo hội về chiến tranh và hòa bình.
 
Tuy hai đề tài liên hệ mật thiết với nhau, nhưng có thể phân tách thành hai đoạn riêng biệt. Phải nhận rằng truyền thống thần học nói nhiều đến chiến tranh hơn là hòa bình. Nói thế không có nghĩa là thần học mang tính “hiếu chiến”, nhưng vì hòa bình không đặt ra nhiều vấn đề cho bằng chiến tranh. Vào thời đại chúng ta thì khác: chiến tranh trở thành quá thường xuyên, vì thế cần phải phát triển vấn đề xây dựng hòa bình. Xưa kia người Rôma chủ trương rằng: “nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh” (si vis pacem, para bellum). Ngày nay phải nói ngược lại: “nếu muốn tránh chiến tranh, hãy kiến tạo hòa bình”. Sách GLCG phản ánh tâm thức mới ấy: đoạn “bảo vệ hòa bình” (số 2302-2306) được đặt trước đoạn “tránh chiến tranh” (số 2307-2317), ở trong mục cuối cùng của điều răn thứ năm. Cũng vậy, trong chương Tám này, sách TLHT lấy tựa đề là “cỗ vũ hòa bình”, và chiến tranh được nhìn như “sự thất bại của hòa bình”.  Tuy nhiên, dựa theo tiến trình lịch sử, trước hết chúng ta hãy theo dõi đạo lý về chiến tranh.
 
I. CHIẾN TRANH
 
Chiến tranh là gì? Tìm được câu định nghĩa chính xác không phải là đơn giản. Hai người hoặc hai làng đánh nhau chưa thể gọi là “chiến tranh”. Nếu một làng nổi lên chống triều đình thì phải gọi là “nổi loạn” hoặc “khởi nghĩa”? Nếu cuộc khởi nghĩa lan rộng và triều đình đem quân dẹp loạn thì đó là “đàn áp” hay là “nội chiến”? Có nên đồng hóa “khủng bố” với “chiến tranh” không? Có gì khác biệt giữa chiến tranh “khủng bố” với chiến tranh “du kích”? Đó mới chỉ là chuyện “lộn xộn” xảy ra trong nước, còn phải nói gì đến “ngoại xâm, xâm lăng, trừng phạt”?
 
Dĩ nhiên, đàng sau những từ ngữ đặt tên cho một cuộc tranh chấp là sự phê phán chính trị. Một người đặt bom ở dưới cầu bị kết án là “khủng bố phá hoại” dưới một chế độ này, nhưng lại được tuyên dương là “anh hùng cách mạng” dưới chế độ khác! Một cách tương tự như vậy, cuộc “khởi nghĩa” đáng được ghi vào sử sách, còn cuộc “nổi loạn” đáng bị trừng trị! Được làm vua, thua làm giặc là như thế!
 
Khi bước từ khía cạnh chính trị sang khía cạnh luân lý, sự phê phán còn phức tạp hơn nữa. Thực vậy, khác với sự phê phán chính trị mang tính tùy tiện xu thời, một khó khăn được đặt ra cho luân lý Kitô giáo là nguyên tắc “mục tiêu không biện minh cho phương tiện”. Việc giết người là một tội ác; nhưng có được phép giết người dưới danh nghĩa chiến tranh không?
 
Khi đọc lại lịch sử các tôn giáo và lịch sử dân Do thái, người ta nhận thấy sự mới mẻ của Tin mừng Kitô giáo liên quan đến chiến tranh và hòa bình.
 
A. Điều mới mẻ của Kitô giáo: yêu thương chứ không chống cự kẻ thù
 
Sách TLHT đã trình bày sự xuất hiện của đức Giê-su như là mốc điểm của ơn hòa bình mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Dựa theo lời thánh Phaolô, chúng ta tin rằng đức Giê-su là “hòa bình của chúng ta”, bởi vì Người đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa và giữa nhân loại với nhau (xc. Ep 2,1-16).
 
Điều này không chỉ dừng lại ở bình diện tâm linh, nhưng còn mang theo nhiều hậu quả chính trị nữa. Thật vậy, trong đế quốc Rôma, chiến tranh được giao cho một vị thần – Thần Mars: người ta dâng lễ tế cho ngài để cầu mong cho quân đội nhà mang lại nhiều chiến thắng. Dân Do thái cũng gán cho chiến tranh một ý nghĩa tôn giáo: chính Giavê chiến đấu bên cạnh dân của ngài. Chiến thắng hay bại trận đều do ngài gây ra để ban thưởng sự trung thành hoặc trừng phạt sự bất trung với giao ước.
 
Đức Giê-su không những loan báo Tin mừng HB và trao ban HB cho các môn đệ (Lc 24,36), nhưng Người còn dạy các môn đệ xây dựng HB trên sự thương yêu: yêu mến Chúa, và yêu mến tha nhân kể cả các thù địch. Thánh Matthêu đặt điều này ngay từ tuyên ngôn khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi (Mt 5, 38-41.43-47). Kẻ xây dựng hòa bình cũng như kẻ chịu bách hại vì công lý đều được kể vào hạng người được Thiên Chúa chúc phúc (Mt 5,3-12). Chính Chúa Giê-su đã thực hiện những điều ấy nơi bản thân. Trong vườn Cây Dầu, khi các môn đệ muốn dùng vũ khí để bảo vệ, thì ngài đã nói với họ rằng: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì ai sử dụng gươm thì sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52).
 
B. Các tín hữu có được sử dụng khí giới không?
 
Tân ước có nhắc đến sự hiện diện của vài quân nhân và sĩ quan trong cuộc đời của Chúa Giê-su. Ngài có dịp ca ngợi lòng tin của họ (Lc 7,6-9), chứ không trách móc họ là phường bất nhân (“bạc như dân, bất nhân như lính”!). Viên đại đội trưởng chỉ huy cuộc hành quyết Chúa cũng thốt lên một lời tuyên xưng đức tin chuẩn mực (Mt 27,54).
 
Trong ba thế kỷ đầu tiên, các tín hữu cũng phải thi hành nghĩa vụ quân sự như bao nhiêu công dân khác
[5]. Vấn đề chính yếu đặt ra cho họ không phải là sự vi phạm luật cấm giết người, cho bằng việc tham dự vào các lễ tế các thần minh ngoại giáo. Đã có những quân nhân tử đạo vì lý do đức tin.
 
Nhưng đến khi đế quốc Rôma trở lại đạo Kitô, thì câu hỏi được đặt lên cho các giám mục về việc tham gia chiến tranh, gây ra sự giết người. Trong bối cảnh ấy mà các giáo phụ phải tìm ra câu trả lời, và thánh Augustinô đã phát biểu thành học thuyết “chiến tranh công bình”
[6].
 
1/ Thánh Augustinô (354-430)
 
Thiên Chúa muốn quy tụ nhân loại vào một xã hội tình thương và hòa bình, Chiến tranh đi ngược lại kế hoạch của Thiên Chúa. Chiến tranh phát xuất từ con tim lệch lạc của con người, từ tham vọng muốn thống trị; từ đó sinh ra chia rẽ và bạo lực. Thánh Augustinô chủ trương rằng chiến tranh là điều xấu, bởi vì gây ra nhiều tàn phá hư hỏng. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là không thể có chiến tranh công bình. Chiến tranh trở thành công bình khi có một lý do công bình, nhằm trừng trị tội ác của đối phương. Dù sao, ý chí phải nhằm đến điều thiện có thể đạt được
[7]. Tóm lại, tác giả đòi hỏi bốn điều kiện để chiến tranh được gọi là công bình:
 
a) Lý do công bình (iusta causa): đối phương đã vi phạm công lý;
 
b) việc tham chiến là điều không thể tránh được (extrema ratio);
 
c) ý chí luôn muốn đạt đến hòa bình (recta intentio);
 
d) do quyền bính hợp pháp tuyên bố (legitima potestas).
 
2/ Thánh Tôma Aquinô (1225-74)
 
Qua thời Trung cổ, thánh Tôma lấy lại tư tưởng của thánh Augustinô khẳng định rằng có thứ chiến tranh công bình, miễn là hội đủ ba điều kiện
[8]:
 
a) nhà lãnh đạo có thẩm quyền để tuyên chiến;
 
b) nguyên nhân chính đáng: nghĩa là có một lỗi phạm về phía đối phương;
 
c) ý định ngay thẳng, nghĩa là nhằm cỗ vũ điều tốt.
 
Về điều kiện thứ nhất, thánh Tôma giải thích rằng: một tư nhân không thể tuyên chiến, bởi vì ông ta có thể nại đến cấp trên để bảo vệ quyền lợi của mình. Nhưng vì một nhà lãnh đạo không có cấp trên để xét xử cho nên có quyền tuyên chiến. Mặt khác, chiến tranh được biện minh vì nhắm đến công ích, chứ không phải để bảo vệ ích lợi riêng tư của cá nhân.
 
Đừng quên rằng vào thời Trung cổ, Giáo hội tổ chức những cuộc “thánh chiến” để chống lại sự thống trị của Hồi giáo ở thánh địa hoặc Tây ban nha, hoặc để bảo vệ các tín hữu hành hương. Nhiều dòng tu được thành lập nhằm mục tiêu này, chẳng hạn: các dòng hiệp sĩ (Knight Orders), các dòng binh lính (Military Orders).
 
3/ Bổ túc cho học thuyết chiến tranh công bình
 
Vào thời cận đại, học thuyết của thánh Augustinô và thánh Tôma còn được các nhà thần học kiện toàn thêm. Chẳng hạn như linh mục Francisco De Vitoria (1483-1546) thêm vào:
 
– nguyên tắc tương xứng (những thiệt hại do chiến tranh không nặng hơn những sự dữ mà mình muốn sửa chữa) và
 
– nguyên tắc công ích của cộng đồng (không còn phương pháp nào khác để giải quyết tranh chấp).
 
C. Luân lý chiến tranh
                                                                      
Nói chung, thần học Công giáo phân biệt hai khía cạnh trong luân lý chiến tranh: cần phải giữ  công bằng khi tuyên chiến (ius ad bellum), và công bằng khi giao chiến (ius in bello).  
 
1/ Công bằng khi tuyên chiến có nghĩa là phải có lý do chính đáng để tuyên chiến, như vừa nói trên đây. Chiến tranh chỉ có thể được biện minh vì lý do tự vệ, chứ không phải để xâm lăng. Sách GLCG (số 2309) đã tóm lại vào bốn điều kiện:
 
a) Thiệt hại do kẻ xâm lược gây ra cho quốc gia hoặc cho cộng đồng các quốc gia có tính lâu dài, nghiêm trọng và chắc chắn.
 
b) Tất cả các phương thế khác để chấm dứt tình trạng này rõ ràng là bất khả hoặc vô hiệu.
 
c) Phải hội đủ các điều kiện quan trọng để thành công.
 
d) Việc sử dụng vũ khí không kéo theo những tai hại và hỗn loạn nghiêm trọng hơn tai hại mà ta đang cố loại trừ.
 
2/ Công bằng khi lâm chiến là những nguyên tắc luân lý phải tuân giữ đang khi và sau khi giao tranh.
 
Nói chung, những điều này được áp dụng tại các quốc gia công giáo (nghĩa là khi đôi bên cùng chấp nhận thẩm quyền của Giáo hội), chứ đối với những quốc gia ngoài công giáo thì không mấy giá trị. Các quy tắc liên hệ đến nhiều điểm.
 
– Về thời gian: không được đánh nhau vào các ngày chúa nhật lễ trọng
[9] (để cho các tín hữu có thể tuân hành luật đi lễ), và vào vài Mùa phụng vụ (mùa Chay và Phục sinh, mùa Vọng và Giáng sinh). Đây là nguồn gốc của cuộc hưu chiến thời nay.
 
– Về không gian: không được xâm phạm các nơi thánh (thánh đường, tu viện, bệnh viện), các địa điểm mang quy chế tị nạn.
 
– Không được thi hành các cuộc cướp bóc tài sản, hãm hiếp trong các cuộc chiến. Phải tôn trọng các thường dân vô tội.
 
– Không được phép đối xử tàn bạo với các tù nhân. Không được bắt bớ vợ con của họ.
 
Dù sao, mặc dù chấp nhận những chiến tranh “công bằng”, “thánh thiện”, nhưng Giáo hội vẫn coi nó là sự dữ, và khẩn nài xin Chúa “chữa chúng con cho khỏi thần khí, mất mùa, giặc giã” (A peste, fame et bello, libera nos Domine).
 
II. HÒA BÌNH
 
Luân lý Kitô giáo đã bàn khá nhiều về chiến tranh. Nói thế không có nghĩa là HB không có chỗ đứng. Thánh Augustinô không thiếu những bài giảng bàn về những yêu sách của HB, chẳng hạn như: HB không phải là không có chiến tranh, nhưng là kết quả của công lý
[10].  Những mầm mống này sẽ được phát triển đặc biệt do các giáo hoàng trong thế kỷ XX. Bên cạnh giáo huấn của các mục tử cũng không nên bỏ qua những tiếng nói khác.
 
A. Những khuynh hướng “chủ hòa” (pacifist)
 
1/ Đạo lý về “chiến tranh công bằng” được chấp nhận suốt thời Trung cổ
[11]. Vào thời Cải Cách Tin Lành, nhiều nhóm bắt đầu quay về bản văn Tin mừng và chống lại tất cả mọi hình thức chiến tranh. Đặc biệt là nhóm Quakers và Anabaptists nhân danh những đoạn văn Kinh thánh “chớ giết người” và “đừng chống cự sự ác” để khước từ nghĩa vụ quân sự cũng như đòi hỏi quyền đặt vấn nạn lương tâm.
 
2/ Tiếp theo các nhóm Tin Lành là những phong trào “hiếu hòa” (pacifist) chống lại chiến tranh nhân danh động lực nhân đạo. Phong trào này sẽ lớn mạnh ở thế kỷ XIX và XX.
 
3/ Mặt khác, trong thế kỷ XVII và XVIII cũng có những tác giả đưa ra đề nghị thiết lập những cơ quan bảo đảm hòa bình, chẳng hạn Abbé Saint-Pierre (1658-1743) muốn tổ chức một liên minh các nhà lãnh đạo quốc gia, với một tòa án để giải quyết những tranh chấp và tránh chiến tranh, cũng như một lực lượng quân sự quốc tế để duy trì an ninh ở những vùng bất ổn. Triết gia Emmanuel Kant (1724-1804) đề nghị các quốc gia hãy giải tán quân đội, và thành lập một bộ luật quốc tế để xét xử những tranh chấp. Những ý nghĩ này xem ra không tưởng đối với người đương thời, nhưng đã gieo mầm cho sự thành hình của Hội Quốc Liên và Liên Hợp quốc trong thế kỷ XX.
 
4/ Tuy nhiên, có lẽ chủ trương chủ hòa cực đoan nhất trong thế kỷ XIX là của ông Lev Tolstoi (1828-1910). Oâng áp dụng triệt để nguyên tắc “không kháng cự sự dữ” và “bất bạo động tuyệt đối”. Theo ông, ta chỉ nên khuyên nhủ kẻ phạm pháp chứ không chống cự y; không nên dùng vũ lực chống lại vũ lực. Ngược lại, ông coi các lực lượng quân đội và cảnh sát là trái luân lý.
 
5/ Trong thế kỷ XX, phong trào chủ hòa lớn mạnh, tuy mang nhiều hình thức và động lực khác nhau. Có phe đồng hóa Nhà Nước (cách riêng nhà nước tư bản) với giai cấp bóc lột, vì thế họ đả kích việc gia nhập quân đội. Bên cạnh đó cũng có những phong trào thấm nhuần tinh thần Phúc âm, và muốn đem ra thực hành, trong đó nổi bật nhất là phong trào Pax Christi (1945, giám mục Pierre-Marie Théas và bà Marthe Dortel Claudot).
 
Thật khó biết được ảnh hưởng của những phong trào này đối với GHXH đối với chiến tranh và hòa bình. Dù sao, chúng ta nhận thấy rằng Huấn quyền trong thế kỷ XX đã lên tiếng nhiều lần không những để lên án chiến tranh mà còn để bảo vệ hòa bình nữa. Ngoài ảnh hưởng của các tư tưởng triết học, pháp lý, tôn giáo, chúng ta không thể nào bỏ qua thực tại đau thương của những cuộc thế chiến, những vết thương luân lý và tâm lý mà các cuộc chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh đã để lại. Những điều kiện mà luân lý đặt ra cho chiến tranh công bằng khó áp dụng vào thời nay. Bên cạnh những cuộc tàn sát đại chúng (bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki) là những cuộc chiến “nhân dân”, không còn phân biệt chiến trường với hậu phương, với những cuộc trả đũa không dung tha thường dân với quân du kích! Khi nghĩ đến các hậu quả thảm khốc của chiến tranh (chiến tranh toàn diện, chiến tranh nguyên tử, chiến tranh hóa học), nhiều nhà luân lý đặt vấn đề: liệu có thể nói đến “chiến tranh công bình” vào thời đại ngày nay nữa không? Hay là phải lên án đơn thuần tất cả mọi hình thức chiến tranh?
 
B. Huấn quyền ở thế kỷ XX
 
Thế kỷ XX được đánh dấu bởi hai cuộc “thế chiến” lôi kéo nhiều quốc gia tại châu Âu và những lục địa khác. Ở mỗi phe lâm chiến đều có những người công giáo và không công giáo. Thêm vào đó là các cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối tự do và cộng sản: để giữ thế quân bình lực lượng, đôi bên đều thi đua vũ trang, và trang bị vũ khi hạt nhân.
 
Chính trong bối cảnh ấy mà các đức giáo hoàng phải lên tiếng. Ngoài ra còn thêm tiếng nói của công đồng Vaticanô II cũng như các Hội đồng giám mục của các “cường quốc”. Chúng ta chỉ ghi nhận vài thời điểm quan trọng hơn cả.
 
1/ Đức Bênêđictô XV (1914-1922). Thế chiến thứ nhất
 
– Đắc cử Giáo hoàng vào lúc thế chiến thứ nhất bùng nổ, ngài đã nói đến hòa bình trong bài diễn văn đầu tiên (8/9/1914) và trong thông điệp Ad beatissimi (1/11/1914). Đặc biệt là trong tông huấn ngày 28/7/1915 (giáp năm ngày bùng nổ thế chiến) gửi các nước lâm chiến, ngài nhấn mạnh rằng việc thực hiện công bằng là điều kiện thiết yếu để xây dựng hòa bình lâu dài.
 
– Sự can thiệp nổi tiếng nhất của ngài là văn kiện “Công hàm HB” (Note di pace) ngày 10/8/1917. Bên cạnh việc kết án chiến tranh (được định nghĩa là như cuộc “tàn sát vô ích”), ngài đề ra một dự án hòa bình như sau:  thỏa thuận giảm bớt khí giới; thiết lập cơ quan trọng tài quốc tế để giải quyết các cuộc tranh chấp giữa các quốc gia; rút lại các sự phong tỏa (cấm vận), rút lui khỏi các vùng đất chiếm đóng. Đề nghị của ngài không được các quốc gia lâm chiến quan tâm. Nhưng một cách gián tiếp, vài tháng sau đó, tổng thống Hoa kỳ Thomas Woodrow Wilson, trong diễn văn đọc tại quốc hội (ngày 8/1/1918), đã thảo ra một dự án 14 điểm, trong đó có những điều trùng hợp với Tòa Thánh.
 
– Sau khi chiến tranh chấm dứt, ngày 23/5/1920 đức Bênêđictô XV còn viết thông điệp Pacem Dei munus, trong đó ngài nhắc nhở rằng không thể có hòa bình lâu dài nếu không có tình bác ái hỗ tương, để xóa bỏ những hận thù, xoa dịu những vết thương vật chất và tinh thần của biết bao nạn nhân chiến tranh. Ngoài ra, để tán trợ một nền hòa bình công bằng, ngài còn đề nghị thành lập Liên minh các quốc gia để duy trì trật tự thế giới, và sự rút giảm nếu chưa nói là hủy bỏ các chi tiêu quân sự.
 
2/ Đức Piô XII (1939-1958). Thế chiến thứ hai
 
Ngoài những hoạt động cứu trợ các nạn nhân chiến tranh và những hoạt động ngoại giao, đức thánh cha đã nhiều lần lên tiếng qua các diễn văn, thông điệp.
 
– Sứ điệp truyền thanh ngày 24/8/1939 kêu gào các quốc gia hãy tìm kiếm công lý bằng lý trí thay vì bằng vũ lực: “Với hòa bình, chẳng có gì mất mát; với chiến tranh, có thể mất tất cả”.
 
– Dựa theo kinh nghiệm hồi thế chiến thứ nhất, lần này đức Piô XII không đưa ra một giải pháp chính trị để giải quyết thế chiến; ngài đứng trung lập giữa cả hai bên. Tuy nhiên, ngài phát triển học thuyết về hòa bình, đặc biệt là sứ điệp truyền thanh ngày 24/12/1941, ngài ước mong thiết lập một trận tự mới, dựa trên luân lý, ngõ hầu bảo đảm hòa bình lâu dài: tôn trọng các quốc gia dù là nhỏ bé; tôn trọng các nhóm thiểu số hiện diện trong lãnh thổ quốc gia; phân phối các tài nguyên, để tránh những chênh lệch kinh tế giữa các quốc gia; giảm bớt khí giới.
 
3/ Đức Gioan XXIII (1958-1963). Thời chiến tranh lạnh
 
Sau thế chiến thứ hai, thế giới bị chia thành khối, dưới quyền lãnh đạo của hai siêu cường Nga và Mỹ
[12]. Tuy không còn những chiến tranh nóng trên cấp toàn cầu, nhưng không thiếu những cuộc chiến địa phương, chẳng hạn: Palestine (1948, 1956, 1967, 1973), Triều tiên (1950-53), Việt nam (1959-1975). Thêm vào đó, hai khối thi đua vũ trang, chất đầy kho những vũ khí hạt nhân với sự tiêu diệt khủng khiếp.
 
Đức Gioan XXIII đã để lại một thông điệp về hòa bình Pacem in terris (11/4/1963) tựa như một chúc thư (bởi vì được ban hành không đầy ba tháng trước khi qua đời). Văn kiện này mang nhiều nét mới mẻ. Văn kiện này được gửi đến “tất cả mọi người thiện chí”. Thông điệp không còn nói đến những điều kiện để biện minh một cuộc chiến “công bằng”. Thay vào đó là những chương nhấn mạnh đến tôn trọng nhân quyền, những thái độ cần có để xây dựng hòa bình (giảm khí giới, tin tưởng nhau, liên đới). Nền tảng của tương quan hòa bình giữa cá nhân là tôn trọng nhân phẩm. Điều này cũng đúng cho tương quan giữa các cộng đồng: cần được điều khiển bởi chân lý, công bằng, liên đới, tự do.
 
Việc tôn trọng con người đòi hỏi phải khước từ sự kỳ thị chủng tộc. Một cách tích cực hơn, cần cổ võ tình liên đới giữa các quốc gia. Thông điệp cũng chủ trương phải giảm bớt khí giới, vì các việc chế tạo khí giới lấy mất đi bao nhiêu năng lực vật chất và tinh thần, và cuộc thi đua võ trang đặt con người sống trong tình trạng nơm nớp lo sợ. Việc giảm khí giới đòi hỏi không những là các cơ quan có thẩm quyền để giám sát, nhưng nhất là sự tin tưởng lẫn nhau thay thế cho não trạng bá quyền.
 
4/ Công đồng Vaticanô II (1962-65)
 
Công đồng đã dành chương Năm trong hiến chế mục vụ “Vui mừng và hy vọng” để bàn về HB (số 77-82). Sau đây là vài điểm nổi bật:
 
– Bản chất đích thực của HB: hoạt động của công bằng (xc. Is 32,7) và hoa trái của tình yêu. HB không chỉ là vắng chiến tranh, nhưng là sống tình huynh đệ, và đây là hoa trái của yêu thương. Sau khi đã lên án sự man rợ của chiến tranh, công đồng ca ngợi những người khước từ vũ lực khi tranh đấu cho các quyền lợi.
 
– Công đồng chấp nhận tính cách luân lý của chiến tranh tự vệ (chứ không phải là chiến tranh xâm lăng) cũng như việc tham gia quân đội để bảo vệ HB. Tuy nhiên, nguy cơ của một cuộc “chiến tranh toàn diện” đòi phải xét lại khái niệm của chiến tranh công bằng. Đồng thời công đồng cũng lặp lại sự phê phán của Pacem in terris về sự thi đua vũ khí.
 
– Để xây dựng HB, cần đến một quyền bính quốc tế được tất cả các quốc gia nhìn nhận. Tuy nhiên, sự xây dựng HB tùy thuộc vào mỗi người, qua việc giáo dục và thay đổi não trạng.
 
5/ Đức Phaolô VI (1963-1978)
 
Ngài đã thiết lập ngày Thế giới hòa bình được cử hành vào ngày đầu năm dương lịch (từ năm 1968), cũng như Hội đồng Công lý và Hòa bình tại giáo triều (1967).
 
Vài văn kiện quan trọng: diễn văn tại Liên Hợp quốc (4/10/1965); thông điệp Populorum progressio (26/3/1967). Trong thông điệp này, ngài đã tuyên bố: “Sự phát triển là tên gọi mới của HB”. Những chênh lệch bất công trong việc phân phối tài sản là mối đe dọa cho HB.
 
6/ Đức Gioan Phaolô II (1978-2005)
 
Sự sụp đổ của chế độ cộng sản đã giảm bớt sự căng thẳng giữa hai khối Nga Mỹ cùng với nguy cơ của chiến tranh nguyên tử
[13]. Tuy nhiên, nảy ra những hình thức chiến tranh mới: cuộc chiến tranh vùng Vịnh (Irak) với nguy cơ đụng độ giữa thế giới Âu Mỹ với thế giới Hồi giáo; cuộc chiến khủng bố kể từ biến cố 11/9/2001; những cuộc tranh đấu độc lập tại Bosnia (Kosovo) và Đông Timor (năm 1999) đặt lên vấn đề sự can thiệp của lực lượng từ bên ngoài vì lý do nhân đạo.
 
Những lần can thiệp của đức thánh cha về hòa bình đôi khi được chứa đựng trong các văn kiện giáo huấn xã hội, chẳng hạn: thông điệp Sollicitudo rei socialis (30/12/1987): “hòa bình là hoa trái của tình liên đới” số 39. Thông điệp Centesimus annus (1/5/1991). Đề tài hòa bình được nói đến đặc biệt trong diễn văn tại Liên hợp quốc, hoặc khi tiếp ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.
 
Vài biến cố đặc biệt: cuộc gặp gỡ các đại biểu tôn giáo tại Assisi để cầu nguyện cho HB (27/10/1986 và 24/1/2002). Sự trung gian của Tòa Thánh để giải quyết tranh chấp biên giới giữa Chile và Argentina (1979). Cuộc hòa giải bất thành của Tòa thánh trước khi bùng nổ chiến tranh Irak (2003)
 
Như đã nói, Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo do đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 11/10/1992,  bàn về hòa bình ở các số 2302-2317, phần lớn lặp lại đạo lý của công đồng Vaticanô II
[14].
 
Điều tương tự cũng có thể nói đến sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo, và cập nhật với những vấn đề mới: thanh lọc chủng tộc, khủng bố, can thiệp nhân đạo. Ngoài ra, bên cạnh quyền tự vệ của chiến tranh công bằng, ta còn gặp thấy từ ngữ “quyền hòa bình” (số 518).
 
KẾT LUẬN
 
Có lẽ không phải là vô tình khi chương cuối cùng của phần GHXH chuyên biệt được dành cho đề tài Hòa Bình. HB có thể xem như mục tiêu của tất cả mọi hoạt động mà Giáo hội nhằm đến. Các chương trước đây ra như chuẩn bị tiền đề cho HB, khi vạch ra những yêu sách của nó, chẳng hạn tôn trọng nhân phẩm, tôn trọng công bình trong lãnh vực lao động, kinh tế, thương mại.
 
Về sự đóng góp của Giáo Hội vào hòa bình, đừng kể những công tác cứu trợ nạn nhân chiến tranh hoặc hoạt động ngoại giao thương thuyết để ngăn ngừa chiến tranh, chúng ta thấy trong chương này sách TLHT nêu bật hai công tác “độc hữu” của các người môn đệ của Chúa Kitô, đó là sự tha thứ và cầu nguyện. Tha thứ là điều cần thiết để nhổ đến tận rễ những mầm mống của hận thù gây ra chiến tranh. Cầu nguyện là điều cần thiết không những vì HB là kết quả của tình yêu mà nhất là HB là hồng ân của Thiên Chúa.
 
Nhằm nêu bật sự liên lạc giữa HB với các đề tài của các chương trước đây, thiết tưởng không có gì rõ ràng hơn là nhìn lại các chủ đề của các ngày thế giới hòa bình: chúng ta thấy rằng những điều kiện để kiến tạo của hòa bình cũng là những yêu sách của luân lý xã hội.

* Chủ đề các ngày hòa bình thế giới:
1. (1968). Ngày hòa bình thế giới
2. (1969). Việc thăng tiến nhân quyền, con đường dẫn đến HB
3. (1970). Tự giáo dục về HB qua việc hòa giải
4. (1971). Mỗi người là anh em của tôi
5. (1972). Nếu muốn HB, hãy làm việc cho công lý
6. (1973). HB là điều có thể được
7. (1974). HB cũng tùy thuộc ở bạn nữa
8. (1975). Hòa giải, con đường dẫn đến HB
9. (1976). Những khí cụ thực sự của HB
10. (1977). Nếu muốn HB, hãy bảo vệ sự sống
11. (1978). KHÔNG với vũ lực. CÓ với HB
12. (1979). Giáo dục HB, để đạt được HB
13. (1980). Chân lý như là sức mạnh của HB
14. (1981).  Để phục vụ HB, hãy tôn trọng tự do
15. (1982) HB quà tặng của Thiên Chúa được ủy thác cho loài người
16. (1983) Đối thoại HB, một thách đố cho thời đại chúng ta
17. (1984) HB nảy sinh từ một con tim mới
18. (1985) HB đồng hành với giới trẻ
19. (1986) HB là giá trị không biên giới. Bắc-Nam, Đông-Tây: một HB duy nhất
20. (1987) Phát triển và liên đới, những chìa khóa của HB
21. (1988) Tự do tín ngưỡng, điều kiện cho sự sống chung hòa bình
22. (1989) Để xây dựng hòa bình, tôn trọng những nhóm dân thiểu số
23. (1990) HB với Thiên Chúa tạo thành, HB với tất cả mọi thụ tạo
24. (1991) Nếu muốn HB, hãy tôn trọng lương tâm mỗi người
25. (1992) Các tín đồ tôn giáo đoàn kết trong việc xây dựng HB
26. (1993) Nếu bạn tìm HB, hãy đi gặp những người nghèo
27. (1994) Từ gia đình phát sinh HB của gia đình nhân loại
28. (1995) Phụ nữ: nhà giáo dục HB
29. (1996) Chúng ta hãy cho các thiếu nhi một tương lai HB
30. (1997) Hãy trao sự tha thứ, hãy đón nhận HB
31. (1998) Từ đức công bằng của mỗi người nảy sinh HB cho tất cả mọi người
32. (1999) Bí quyết của HB chân chính nằm ở việc tôn trọng các nhân quyền
33. (2000) HB dưới thế cho những con người được Chúa yêu thương!
34. (2001) Đối thoại giữa các văn hóa để đạt tới một nền văn minh tình thương và HB
35. (2002) Không thể có HB nếu không có công bằng, không có công bằng nếu không có tha thứ
36. (2003) “Pacem in terris”: một cuộc dấn thân trường kỳ
37. (2004) Một cuộc dấn thân luôn hiện thực: giáo dục HB
38. (2005) Đừng chịu thua sự ác, nhưng thắng sự ác bằng sự thiện (Rm 12,21)
39. (2006) HB trong chân lý
40. (2007) Nhân vị là trọng tâm của HB
41. (2008) Gia đình nhân loại: cộng đồng HB
42. (2009) Chống lại sự nghèo khó, xây dựng HB
43. (2010) Nếu muốn vun trồng HB, hãy giữ gìn tất cả thụ tạo
44. (2011) Tự do tín ngưỡng, con đường đến HB
45. (2012) Giáo dục thanh thiếu niên về công lý và hòa bình
46. (2013) Phúc cho những ai xây dựng hòa bình

 


[1] Luôn tiện nên ghi lại những từ ngữ có họ hàng với “hòa bình”: thái bình, bình thản; an hòa, hòa giải, giao hòa, hòa hợp, hòa hảo, hòa thuận.

[2] Lưu ý về dịch thuật: “công lý và bác ái”, hoặc “công bình và yêu thương” cũng như nhau. Một cách tương tự, “công lý và hòa bình” hoặc “công bằng và bình an” cũng là “justice and peace”.

[3] Về điểm này, sách TLHT trưng dẫn tư tưởng của thánh Tôma Aquinô được quy chiếu trong thông điệp Ubi arcano của ĐGH Piô XI, và hiến chế Gaudium et spes của công đồng Vaticanô II.

[4] Sách TLHT đã có lần bàn đến “vấn nạn lương tâm” trong chương tám (số 399).

[5] Tuy rằng cũng có giáo phụ cấm các tín hữu tòng quân, hoặc buộc các quân nhân phải từ bỏ binh nghiệp thì mới được theo đạo.

[6] “Bellum iustum” quen được dịch là “chiến tranh chính đáng” (hoặc: chính nghĩa). Tuy nhiên thiết tưởng vấn đề ở đây không phải là tìm chiêu bài biện minh cho “danh chính ngôn thuận”, cho bằng đặt ra những điều kiện luân lý cho một cuộc chiến: khi nào nó phù hợp với “công lý” (hay công bằng)?

[7] Những đề tài này được bàn trong các tác phẩm De Civitate Dei, Contra Faustum Manichaeum

[8] Summa Theologica, II-II, q.40

[9] Định chế Pax Domini hay Trêve de Dieu do các giáo sĩ khởi xướng từ thế kỷ XI, ở miền Nam nước Pháp.

[10] “Pax omnium rerum, tranquillitas ordinis” (De civitate Dei, 19, 13.1).

[11] Những điều kiện để chống lại các bạo vương đã được bàn đến khi chú giải chương Tám của sách TLHT (số 400-401, trưng dẫn sách GLCG số 2243).

[12] Thường được đánh dấu do thỏa ước Yalta (4-11/2/1945) giữa tổng thống F.D. Roosevelt, thủ tướng Ư. Churchill, và Chủ tịch I. Stalin.

[13] Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, nhiều Hội đồng giám mục đã lên tiếng trước nạn leo thang chiến tranh, thi đua vũ trang, chẳng hạn HĐGM Hoa kỳ Challenge of Peace (3/5/1983), Đức, Pháp, Tây ban nha…

[14] Nên biết là trong thời gian chiến tranh lạnh, trước cuộc thi đua vũ trang hạt nhân, nhiều hội đồng giám mục đã phát hành nhiều văn kiện, chẳng hạn HĐGM Hoa kỳ