Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.
Bản Văn Tin Mừng: Ga 20,1-9 [1]
1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”.
3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 9 Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
***
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta đã sang phần II của Tin Mừng Gioan, được gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” với hai phần chính:
– 1) Đức Giêsu cáo biệt khi đến Giờ của Người (tại Bữa ăn tối cuối cùng; Ga 13–17);
– 2) Giờ của cuộc Khổ Nạn – Sự Chết – Phục Sinh của Đức Giêsu (Ga 18,1–20,29).
Phần II có cấu trúc như sau:
A (18,1-14+) : Đức Giêsu uy nghi toàn năng trước Judas Iscariot, kẻ phản bội, và nhóm đi bắt Người tại vườn Gethsemane.
B (18,12-27) : Đức Giêsu bị xử trước thượng tế và các lần Phêrô chối tư cách môn đệ.
C (18,28–19,16b) : Cuộc xử án và kết án Đức Giêsu, vua dân Do Thái, do Pontius Pilate thực hiện.
C’(19,16c-42) : Vua dân Do Thái chịu đóng đinh, chết và được an táng trên đồi Golgotha.
B’(20,1-18) : Phêrô và người môn đệ Chúa yêu tại ngôi mồ trống, và Đức Giêsu hiện ra với Maria Magdalene.
A’(20,19-29) : Các lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và với Tôma, người không tin.
2.- Bố cục
Bản văn Ga 20,1-10 có thể chia thành hai phần:
1) Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Magdalene ra mộ (20,1-2);
2) Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (20,3-10).
3.- Vài điểm chú giải
– Lúc tảng sáng (1): “Prói”, dịch sát là “lúc sớm trong buổi sáng”. Đây là canh cuối theo cách chia của người Roma, từ 3-6 giờ sáng (người Roma tính giờ bắt đầu từ nửa đêm).
– Maria Magdalene (1): Tin Mừng Gioan chỉ nêu tên một mình bà Maria Magdalene; Tin Mừng Matthew nêu tên hai bà; Tin Mừng Marco nêu ra ba bà; còn Tin Mừng Luca (Lc 24,10) nêu tên ba bà “cùng với các phụ nữ khác”.[2] Có lẽ truyền thống Nhất Lãm sát thực tế hơn, bởi vì khó mà cho rằng một phụ nữ lại dám đi một mình trong lúc trời còn nhá nhem đến nơi hành hình ở bên ngoài tường thành. Với lại, chính câu nói của bà: “và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” gợi ý là có nhiều phụ nữ ở với bà. Ngoại trừ Tin Mừng Luca 8,2 đã đặt bà Maria Magdalene vào thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai, và giới thiệu như là người được trừ khỏi bảy quỷ,[3] bà chỉ được nhắc đến trong liên hệ với cuộc đóng đinh và với mộ trống mà thôi. Biệt danh của bà cho thấy là rất có thể bà xuất thân từ thành Magdalene, ở về phía bờ biển Tây Bắc của hồ Galilee, cách Capharnaum khoảng bảy dặm về phía Tây Nam.
– Đi đến mộ (1): Tác giả Tin Mừng Gioan không xác định lý do. Còn trong Tin Mừng Marco và Tin Mừng Luca cho biết là các phụ nữ mang dầu thơm đến để tẩm liệm thi hài Đức Giêsu. Trong khi đó, Tin Mừng Matthew chỉ nói là các bà đến để nhìn xem mộ; có lẽ bởi vì Tin Mừng Matthew trước đó đã kể rằng, ngôi mộ có lính canh gác, nên các bà không thể vào mộ được.
– Bà… thấy (1): Tin Mừng thứ IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: “blepein”, “theórein”, “theasthai”, “horan [idein]”.
+ Các nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng, “thấy” ở đây là “blepein”, cấp thấp nhất, nói về cái nhìn mang tính vật chất, cái nhìn bằng mắt thịt (x. chương 9; 21,9), và như thế “blepein” không mang một ý nghĩa đặc biệt nào. Dù vậy, vẫn có những ngoại lệ: Ga 5,19: “Đức Giêsu thấy Chúa Cha” và Ga 9,39: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (hẳn là tác giả có ý chơi chữ ở đây: dùng một động từ “thấy” với hai nghĩa khác nhau).
+ “Theórein” có nghĩa là nhìn tập trung, tức là phải có nhiều thời gian hơn so với “blepein”, do đó cũng hàm ý một sự hiểu biết sâu xa hơn; cái nhìn này đưa đến chỗ chấp nhận Đức Giêsu là một con người đặc biệt, có khả năng làm các việc kỳ diệu, nhưng chưa phải là đức tin tròn đầy (x. Ga 2,23; 4,19; 6,2.19;20,12.14).[4] Tuy nhiên cũng có ngoại lệ như ở: Ga 6,40; 17,24;[5] còn ở Ga 14,17 [6] có lẽ cũng là một kiểu chơi chữ với hai nghĩa.
+ “Horan (idein)” có nghĩa là cái nhìn kèm theo sự hiểu biết đích thực, tức đưa tới đức tin (Ga 20,8.25).[7] Trong Ga 16,16 có cách dùng các động từ như thế: “Một ít nữa, anh em sẽ không thấy Thầy (= theórein), rồi một ít nữa, anh em sẽ xem thấy (= horan) Thầy”. Xem thêm: Ga 1,34.50.51; 3,11.32; 11,40; 14,7.9; 19,35.37; 20,29.[8] Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, khi động từ “horan” được dùng theo nghĩa thể lý, tức là “horan” = “theórein”: Ga 1,39; 5,6; 4,45.48; 6,14.22.24.30.36; 7,52; 12,9.[9]
+ “Theasthai” được một số nhà chú giải Thánh Kinh dịch là “chiêm ngưỡng”, với nghĩa là hiểu ý nghĩa sâu xa của các sự việc đang xảy ra (x. Ga 1,14; 4,35),[10] và nếu dựa vào 1Ga 1,1 thì dường như “horan” là cấp thấp hơn “theasthai”: “Điều chúng tôi đã thấy [horan] tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng [theasthai]” (1Ga 1,1). Tuy nhiên, ở Ga 1,38 và Ga 6,5,[11] “theasthai” dường như chỉ có nghĩa là nhìn thấy thể lý; trong khi ở Ga 1,32 (= 1,34); 11,45,[12] “theasthai” lại được dùng đồng nghĩa với “horan”. Bởi vì “theasthai” không được dùng nhiều và phong phú như “horan”, chúng tôi tạm xếp “theasthai” vào cấp độ thứ ba.
– Tảng đá (1): Tác giả viết y như thể độc giả biết rõ tảng đá này. Cũng như tác giả Tin Mừng Luca, tác giả Tin Mừng Gioan không nói đến việc niêm phong tảng đá (x. Mt 27,66)[13] hay niêm phong ngôi mộ bằng một tảng đá.
– Đã cất khỏi mồ (1):[14] Các Tin Mừng Nhất Lãm nói là “đã được lăn ra” (Mc 16,4; Mt 28,2; Lc 24,2: dùng động từ “apokylió”, “lăn đi xa”, ở thái bị động);[15] Còn Tin Mừng Gioan thì nói “đã được cất (érmenos] khỏi mồ”. Ngành khảo cổ xứ Palestine cho thấy rằng, có những ngôi mộ nằm ngang, và cửa vào các ngôi mộ này nhỏ hẹp, có khi cao chỉ gần một thước, nên người lớn thì phải trườn mà vào. Người ta có thể niêm phong mộ bằng một tảng đá chắn ngay cửa vào. Nhưng cũng có những ngôi mộ rộng hơn thì cửa được chắn bằng một tảng đá có thể lăn tròn theo một cái rãnh ở ngang cửa vào, giống như một cánh cửa lùa. Ngôi mộ rộng bên trong có thể có một gian ngoài; gian trong mới dành để mai táng người quá cố. Có nhiều cách mai táng: có khi người ta khoét những cái hầm đục vào sâu trong vách đá và đẩy thi hài vào trong đó, đầu đi trước; có khi người ta lại đẽo vào đá để làm thành những tầng có những cái ổ bán cung (như một cái kệ) cách mặt đất chừng nửa thước để đặt thi hài vào; có khi người ta đặt một băng bằng đá sát vách và đặt thi hài lên. Dường như Đức Giêsu được mai táng trong một ngôi mộ rộng và theo cách cuối cùng.
– Bà liền chạy về (2): Maria Magdalene đã nhìn vào mộ nên phát hiện ra thi hài Đức Giêsu không còn ở đó nữa, hoặc có thể là bà suy diễn ra từ sự kiện ngôi mộ không còn bị niêm phong? Người ta thường theo giả thuyết thứ nhất, bởi vì hiểu theo lẽ thường; nhưng cứ theo bản văn Tin Mừng thứ IV thì phải hiểu theo giả thuyết thứ hai, bởi vì trời còn tối và bởi thông tin là đến (câu 11), bà mới “cúi xuống nhìn vào trong mộ”. Nhiều người giải quyết khó khăn này bằng cách cho rằng lúc đầu câu 11 đi theo câu 1.
– Gặp ông Simon Phêrô (2): Người ta thường cho rằng, Maria đi tìm Phêrô vì ông là thủ lãnh các môn đệ Đức Giêsu. Nhưng đơn giản hơn, nên nhớ rằng, Phêrô không chạy trốn với các ông khác và ông ở gần Đức Giêsu khi Người bị giới chức Do Thái thẩm vấn (Ga 18,27).[16]
– Người môn đệ Đức Giêsu thương mến (2): Dung mạo bí ẩn “người môn đệ Chúa thương mến” được đưa vào đột ngột ở Ga 13,23,[17] lúc mà truyện sắp lên tới cao đỉnh, lúc mà Đức Giêsu quy tụ các môn đệ thân tín lại để chia sẻ một bữa ăn tạ từ và ban những giáo huấn cuối cùng (x. Ga chương 13–17). Điều này khiến ta hiểu rằng, người môn đệ Chúa thương mến là một dung mạo được cộng đoàn tác giả quen biết. Là người không được nêu tên và cứ tiếp tục ở trong tình trạng vô danh cho đến hết Tin Mừng, người môn đệ này được sống một tình thân mật với Đức Giêsu đặc biệt hơn cả nhóm: ông được mô tả là người môn đệ Đức Giêsu yêu thương, người nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu (“en tó kolpó tou Iésou”, Ga 13,23; x. Ga 13,25; 21,20 [epi to stéthos]). Kiểu thân mật này gợi nhớ tình thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha: Đức Giêsu, được Chúa Cha yêu thương (Ga 15,9; 18,26),[18] là người Con Một, ở trong lòng Chúa Cha (“ho ón eis ton kolpon tou patros”: Ga 1,18).[19] Đến Ga 18,15,[20] thì xuất hiện “một môn đệ khác”, có lẽ cũng vẫn là người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đã được Simon Phêrô làm hiệu hỏi Đức Giêsu trong bữa tối cuối cùng (Ga 13,24).[21] Tại Chương 19, người môn đệ ấy xuất hiện bên cạnh thân mẫu Đức Giêsu (Ga 19,26).[22] Đến Chương 20, tác giả đồng hóa “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (Ga 20,2) với “người môn đệ kia” (Ga 20,4.8). Simon Phêrô và “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” lại xuất hiện bên nhau trong chương cuối cùng (Ga 21,7.20).[23]
Người môn đệ này là ai? Tác giả Tin Mừng Gioan đã nhấn mạnh 5 lần rằng, nguồn của ngài chính là “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (Ga 13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20). Các học giả đã nghĩ tới nhiều nhân vật: Gioan, con ông Zebedee; Lazarus; Gioan Marco (x. Cv 12,12);[24] Trưởng lão Gioan; một dung mạo tượng trưng. Cho đến nay giả thuyết mạnh nhất vẫn coi người môn đệ ấy là Gioan, con ông Zebedee và cũng là tác giả Tin Mừng thứ IV (trừ hoặc kể cả chương 21).[25] J.A. Grassi đã viết một quyển sách nhỏ để chứng minh:[26]
+ 1) Dựa vào Tin Mừng Gioan, người môn đệ này là một người có thật, nhưng không phải là Gioan con ông Zebedee, và một trong Nhóm Mười Hai.
+ 2) Đây là một dung mạo vừa có những nét giống với Jacob, vừa có những điểm giống với Giuse con yêu quý của Jacob.
+ 3) Đây là người môn đệ trẻ vô danh đã cùng với Andrew đến với Đức Giêsu bên bờ sông Jordan.
+ 4) Người môn đệ này xuất thân từ miền Judea, có lẽ thuộc một gia đình tư tế ở Jerusalem.
+ 5) Người môn đệ này là “em bé” đã tặng năm chiếc bánh và hai con cá.
+ 6) Người môn đệ này có vị trí ưu tiên trong bữa tối cuối cùng, biết trước bí mật thâm sâu của Đức Giêsu về chuyện bị phản bội và phải chết, vì ông là người kế thừa thầm kín có sứ mạng giúp cho thế gian hiểu thật sâu cuộc sống và đặc biệt cái chết của Người.
+ 7) Bản văn trọng yếu là vào lúc đứng dưới chân thập giá, người môn đệ này chứng kiến và hiểu ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu.
Dù thế nào, có thể nói người môn đệ này là người thừa kế đích thực của Đức Giêsu. Chương 21 khiến chúng ta nhớ lại những bản văn có nhân vật này, và nhắc lại các điểm chính yếu: người nào phải kế tục Đức Giêsu thì phải được chọn phù hợp với ý muốn của Đức Giêsu và tương ứng với sự chọn lựa bằng tình yêu. Đến cuối chương 21, chúng ta thấy rõ ơn gọi của hai người môn đệ: người môn đệ Chúa thương mến có ơn gọi làm chứng, còn Phêrô có ơn gọi điều khiển cộng đoàn hoặc ơn gọi chăn dắt đoàn chiên.
Các học giả chưa đạt tới tiếng nói chung về nhân vật “môn đệ Chúa thương mến”. Dù sao, chúng tôi nghĩ kiểu gọi “người môn đệ Chúa thương mến” hẳn không phải là kiểu gọi của chính người môn đệ ấy, nhưng là của các môn đệ của người ấy.[27] Đến đây, cứ cho rằng đó là một người có thật, nhưng khi không có tên như thế, người môn đệ ấy đã trở thành biểu tượng cho mọi môn đệ của Đức Giêsu. Điều này được diễn tả rõ ràng trong hoạt cảnh trên Đồi Golgotha, khi Đức Giêsu ký thác “người môn đệ mình thương mến” cho thân mẫu: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Đặc biệt được đặt tương phản trong tình thế đầy kịch tính với Phêrô, người môn đệ Chúa thương mến tượng trưng đức tin tinh trong của cộng đoàn tác giả, còn Phêrô của Tin Mừng thứ IV tượng trưng các môn đệ của Đức Giêsu trong tình trạng hàm hồ về tư cách môn đệ, một đức tin còn pha trộn nơi các Hội Thánh thời các tông đồ.
– Đem Chúa (2): Có lẽ đây là bản văn được viết trong giai đoạn hậu Phục Sinh, thế nên tác giả đã sử dụng danh hiệu “Chúa” (kyrios) này như một cách diễn tả niềm tin của cộng đoàn Kitô hữu.
– Và chúng tôi (2): Chỉ có một mình Maria Magdalene ở ngoài mộ. Thế mà bà lại nói là “chúng tôi”. Người ta giải thích điểm này với nhiều cách khác nhau:
+ 1) Có các bà khác, nhưng tác giả đơn giản hóa, chỉ nói đến bà Maria Magdalene thôi;
+ 2) Từ ngữ “chúng tôi” là nhằm để dung hòa Tin Mừng thứ IV với các Tin Mừng Nhất Lãm (Wellhausen và Spitta); nhưng vấn đề là vì sao Tin Mừng thứ IV khác các Tin Mừng Nhất Lãm ở rất nhiều chi tiết, mà lại cố gắng dung hòa tại một chi tiết nhỏ nhặt, tinh tế như thế?
+ 3) Bultmann và vài tác giả khác nghĩ rằng, từ ngữ “chúng tôi” chỉ là một cách diễn tả Semite để nói “tôi”; nhưng dù sao chúng ta cũng lấy làm lạ là trong truyện tiếp theo, Maria lại nói lại câu này, mà lần này ở số ít (câu 13).
Có lẽ, cách giải thích đầu tiên là tốt nhất, tự nhiên nhất và có tính cách thuyết phục nhất.
– Chạy mau hơn (4): Cha Marie Garrigou-Lagrange, O.P. (1877–1964) cho rằng, vì “người môn đệ kia” còn trẻ hơn và nhanh nhẹn hơn Phêrô nên chạy mau hơn. Ishodad de Merv cho rằng, vì ông chưa lập gia đình! Có tác giả khác cho rằng, vì tình yêu đã làm cho ông chạy nhanh. Nhưng hợp lý hơn cả là cho rằng, vì ông biết cách chạy hơn Phêrô.
– Nhưng không vào (5): Nhiều nhà chú giải cho rằng, “người môn đệ Chúa thương mến” không vào vì kính trọng Phêrô là đàn anh, hay là vì kinh ngạc, hoặc vì sợ hãi (sợ ma!), hoặc muốn tránh sự lây nhiễm theo nghi thức (hay quan niệm của người Do Thái) khi chạm vào một xác chết. Những kiểu giải thích như thế không hòa hợp được với dung mạo đã được lý-tưởng-hóa của người môn đệ này trong Tin Mừng này. Có lẽ, cách giải thích tốt nhất là nói rằng, tác giả đã ghi lại một chi tiết không đáng kể như thế, là vì đã xảy ra đúng như thế. Khi kể lại một biến cố quan trọng, tác giả nhớ lại cả một chi tiết nhỏ bé như thế, và ghi lại trong Tin Mừng của ngài để gợi lên trung thực điều ngài đã sống (Guillemette).
– Ông cúi xuống và nhìn thấy (5): “Thấy” ở đây là “blepó”. Xin xem phần phân tích ở trên.
– Phêrô theo sau (6): Phêrô “bước theo” (akolouthón) “người môn đệ Chúa thương mến” như là môn đệ? Động từ “bước theo” (akolouthón) rất hiếm khi được dùng theo nghĩa này. Thông thường, người ta chỉ “bước theo” Đức Giêsu. Ai muốn đặt đối lập Phêrô với “người môn đệ Chúa thương mến” thì nhắm vào cách sử dụng trên. Nhưng thật ra như thế là phóng đại.
– Ông vào… thấy (6): Simon Phêrô “thấy”: động từ được dùng là “theoreó”, tương tự như cách dùng từ ngữ này cho “người môn đệ Chúa thương mến”. Xem thêm phần phân tích hạn từ “thấy” ở phần trên.
– Khăn che đầu (7): “Soudarion” là một cái khăn giống như, nhưng có lẽ to hơn cái khăn tay. Có thể người ta dùng chiếc khăn này để bọc lấy cằm và thắt lại trên đầu để cho miệng người chết khỏi mở ra.
– Các băng vải (7): Khác với Lazarus (Ga 11,43),[28] khi sống lại, Đức Giêsu không cần ai giúp cả. Sự kiện “băng vải để ở đó, và khăn che đầu xếp riêng ra một nơi” loại trừ giả thuyết là có một cuộc đánh cắp thi hài, bởi vì không kẻ nào lại còn nghĩ đến việc lột trần thi hài ra, rồi còn chu đáo gấp lại, sắp xếp cách ngăn nắp như vậy.
– Ông đã thấy và đã tin (8): “Thấy” ở đây là “horan”, một cái nhìn đưa tới đức tin. Từ cấp độ “thấy” thấp nhất bằng cặp mắt thể lý (blepó: câu 5), người môn đệ khác đã đạt tới cấp “thấy” cao nhất bằng đức tin (horan). Câu văn hẳn cho phép được hiểu: đã thấy (“eiden”, thì quá khứ aorist của “horan”) = đã tin (“episteusen”, thì aorist của “pisteuó”).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các môn đệ biết rằng, Đức Giêsu đã chết và đã được mai táng. Ngôi mộ và thi hài là dấu vết cuối cùng của Đức Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả Tin Mừng thứ IV quy chiếu đến ở đây, đều tiến đi từ ngôi mộ này và liên hệ đến thi hài của Đức Giêsu. Đối với các môn đệ, chặng cuối cùng của Đức Giêsu là ngôi mộ; các phụ nữ cũng như các ông đều không hề quay hướng về cuộc Phục Sinh của Người: chẳng hạn phản ứng của Maria Magdalene ở đây chứng tỏ bà nghĩ rằng, Đức Giêsu đã chết thật. Họ không hề hiểu những loan báo Người đã cung cấp, cũng chẳng hiểu những gì được viết trong Kinh Thánh. Ở đây, tác giả cho thấy những bước đầu đưa các môn đệ đi từ ý thức là Đức Giêsu đã chết đến hiểu biết là Người đã sống lại. Con đường đi từ nỗi kinh ngạc này đến nỗi kinh ngạc khác, và không phải tất cả các môn đệ đều đạt tới mục tiêu cùng một lúc.
* Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Magdalene ra mộ (1-2)
Trong cả bốn Tin Mừng, các môn đệ của Đức Giêsu, dù nam hay nữ, đều tỏ ra kính trọng ngày Sabbath. Chúng ta thấy các ông đã hạ thi hài Đức Giêsu khỏi thập giá trước khi bắt đầu ngày Sabbath (Ga 19,31 và các bản văn song song),[29] còn các phụ nữ chỉ đi ra mộ sau ngày Sabbath (Ga 20,1 và các bản văn song song).
Lúc tảng sáng, Maria Magdalene đã đi ra mộ Đức Giêsu. Chúng ta tự hỏi là vì sao bà lại ra mộ khi trời chưa sáng hẳn? – Tác giả trung thành với biểu tượng ánh sáng đã nói đến ngay trong Lời Tựa (Ga 1,9),[30] rồi ở Ga 8,12 khi Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian”, rồi Judas Iscariot bỏ Người là đi vào bóng tối (Ga 13,30).[31] Ở đây, vì Đức Giêsu đã chết, nên ánh sáng đã tắt. Tuy nhiên, trời đã tảng sáng như là một dấu chỉ xa xa cho biết Đức Giêsu sắp sống lại và Maria Magdalene sẽ gặp được Người.
Đến nơi, bà thấy (blepei) là tảng đá đã được lăn khỏi mộ và cửa mộ đã mở. Dựa vào điểm quan sát đó, bà giải thích: bà nghĩ rằng thi hài của Đức Giêsu đã được mang đi khỏi mộ. Đó là lời giải thích hợp lý nhất, theo những tiêu chí loài người, khi đứng trước một ngôi mộ đã mở và trống không. Một thi hài thì ở thế hoàn toàn thụ động: đã được người ta đưa vào đặt trong mộ, nay có thể lại đã được người ta đưa đi.
Vì hết sức bận tâm tìm biết là ai đã mang xác Đức Giêsu đi và nay đã đặt ở đâu, Maria đi tìm Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Lối xử sự này chứng tỏ bà rất thương yêu Đức Giêsu. Nhưng trong khi bà còn bận tâm về thi hài Đức Giêsu, thì Người đã sống lại rồi. Khởi đi từ ngôi mộ của Người, các môn đệ còn phải đến gặp Người trên nẻo đường mà chính Người đã đi qua. Hai người môn đệ đến mộ là hai người đặc biệt gắn bó với Đức Giêsu khi Người còn sống: Phêrô là người đã được Đức Giêsu đổi cho một tên mới (Ga 1,42)[32] và luôn được để ý trong nhóm các môn đệ (Ga 6,68-69; 13,6-10.35-38);[33] người môn đệ kia là người đặc biệt gần gũi với Đức Giêsu (Ga 13,23-24; 18,15-16; 21,20-23).[34]
* Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (3-10)
Tin tức Maria Magdalene đưa đến khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và người môn đệ Chúa thương mến muốn chính mình đi kiểm chứng sự việc, hai ông chạy ra mộ. Tốc độ khác nhau không có nghĩa là lòng nhiệt thành khác nhau, nhưng là khả năng thể lý khác nhau. Các hành động tiếp đó của hai ông đan quyện vào nhau và càng lúc càng vượt xa điều Maria Magdalene đã quan sát được. Người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đến mộ trước. Ông không chỉ nhìn từ bên ngoài, mà còn nghiêng mình nhìn vào bên trong và thấy (blepei) những băng vải. Phêrô đi vào trong mộ, thấy (theórei) các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc. Những gì Phêrô ghi nhận được thì đi ngược lại với cách giải thích của Maria: không thể cho rằng người ta mang một thi hài đi mà lại tháo gỡ các tấm vải bọc thi hài ra trước, và còn gấp lại để riêng ra. Gỡ mình khỏi các tấm vải liệm là hành vi ngược lại với việc bọc thi hành trong các tấm vải (x. Ga 19,40).[35] Như thế, việc tẩm liệm đã thành vô ích rồi. Ngôi mộ trống và các dải vải cuộn để riêng không phải là một bằng chứng, nhưng là một dấu chỉ cho biết rằng, Đức Giêsu đã rời bỏ ngôi mộ và đã chiến thắng cái chết.
Phêrô ghi nhận chính xác tình huống, nhưng có tin chăng, bản văn không khẳng định minh nhiên. Người môn đệ kia đi vào mộ sau ông, cũng thấy tình cảnh như thế và thực hiện được một bước xa hơn: đã thấy (eiden) và đã tin (episteusen) (câu 8). Dường như tác giả Tin Mừng thứ IV chia sẻ với Lc 24,12 ý tưởng là Phêrô không bị thuyết phục bởi cuộc thanh sát ngôi mộ trống, nhưng cách ngài trình bày về tình trạng Phêrô thiếu đức tin thì tinh tế hơn là tác giả Tin Mừng Luca. Tác giả Tin Mừng thứ IV không nói là Phêrô không tin. Ngài chỉ kể rằng, người môn đệ Chúa thương mến “đã thấy và đã tin”. Các động từ này là tiêu biểu của Tin Mừng thứ IV, nhưng đều ở số đơn, tức về ngữ pháp thì tương phản với dạng số phức ở các câu trước: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra [érchonto] mộ. Cả hai người cùng chạy [etrechon]” và ở các câu sau: “hai ông chưa hiểu [édeisan] Kinh Thánh, rằng…”. Hai môn đệ đã đi ra mộ; nay chỉ một người rời mộ như là người tin: đó là người môn đệ Chúa thương mến. So với người ấy, thì phải nói Simon Phêrô còn thiếu đức tin.
Dù sao chỉ những lần Đấng Phục Sinh hiện ra mới làm cho dấu chỉ mộ trống không còn mang tính hàm hồ nữa và sẽ đưa tất cả các môn đệ đến chỗ tin vào Người.
“Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà”: Làm sao có thể thản nhiên trở về nhà sau một kinh nghiệm như thế? Rất có thể đây là chuyện đã xảy ra. Sau một kinh nghiệm quá mạnh như vậy, các ông cần thời gian để phản ứng. Các ông không reo hò cũng không ca hát: các ông trở lại với đời sống thường ngày.
+ Kết luận
Những điều vừa được kể ở đây đã được kiểm chứng vào “lúc tảng sáng” (Ga 20,1). Trong Tin Mừng thứ IV, giờ và các biến cố tương ứng với nhau. Vào lúc tảng sáng, có nhiều điều tiên báo một sự thay đổi tận căn: đêm đang qua đi, chân trời rạng sáng dần, các sự vật rõ nét thêm. Ai chưa bao giờ thấy mặt trời, thì không thể biết điều gì đã gần kề. Mặt trời lên soi sáng tất cả và làm cho mọi điều đã được tiên báo nên sáng tỏ. Các môn đệ còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng, ở trong tình trạng gồm những dấu chỉ tiên báo và chờ đợi. Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mặt trời mới mọc lên cho họ, mọi sự mới nên sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối, cái chết và niềm đau, sự bần khốn và yếu đuối đều được ánh sáng của Đấng Phục Sinh, được vinh quang của sự sống vĩnh cửu của Người, chiếu rọi.
Không còn thi hài của Đức Giêsu trong mộ nữa. Điều này rất quan trọng đối với sự Phục Sinh: Bởi vì người ta không thể tìm ra xác ướp của Đức Giêsu hay một vài vết tích, vài mảnh rơi rớt của thi hài, mà lại khẳng định về sự Phục Sinh được. Bởi vì Phục Sinh không phải là một hiện tượng thiêng liêng nào đó chỉ liên hệ tới phần hồn, nhưng sự Phục Sinh đặt dấu ấn lên trên toàn thể con người: thân xác và linh hồn, và biến đổi cách vĩnh viễn toàn thể con người. Vậy không bao giờ được hiểu Phục Sinh chỉ là sự hồi sinh của một người chết, chẳng hạn như trường hợp Lazarus, vì sau này ông cũng lại đã chết. Sự Phục Sinh là việc chuyển sang một cuộc sống bên kia cái chết, sang một cuộc sống không cùng, nghĩa là một đời sống vĩnh cửu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trong cuộc sống, có lắm phen chúng ta nếm cảm những thất bại đau đớn, chúng ta muốn buông xuôi, y như ngôi mộ đã được một tảng đá niêm phong lại, chẳng còn gì để hy vọng, ngoài một niềm nuối tiếc khôn nguôi. Nhưng “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”! Chính Thiên Chúa đã lăn tảng đá ra khỏi mộ Đức Giêsu, thì Ngài cũng lăn được những tảng đá đang chắn cuộc đời chúng ta lại, miễn là chúng ta đừng nhất định bám cứng vào những tảng đá đó.
2. Tác giả Tin Mừng thứ IV viết: “Ông đã thấy và đã tin”. Đó là một lời chứng, nhưng cũng là một lời thú nhận là ngài đã không thể hiện được trọn vẹn mối phúc Đức Giêsu công bố: “Phúc thay kẻ không thấy mà tin” (Ga 20,29). Chỉ có Đức Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, mới đạt được mức độ đức tin ấy: tại Cana, trước khi Đức Giêsu làm phép lạ đầu tiên, Mẹ đã tin cách nào đó, nên mới cho Con biết là tiệc hết rượu. Quả thật, tin không phải là một chuyện dễ dàng hay dễ dãi, trốn tránh trách nhiệm, như nhiều người vẫn nghĩ.
3. Các Tông Đồ chỉ có thể làm chứng rằng các ông đã biết Đức Giêsu trước khi chịu chết, đã gặp lại Người đang sống; nhưng các ông không thể nói về cách thức Đức Giêsu đã sống lại. Niềm tin của Kitô hữu hôm nay cũng khẳng định Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, nhưng không thể trả lời những câu hỏi về cách thức diễn tiến sự Phục Sinh. Nhưng không thể phủ nhận được sự Phục Sinh, bởi vì chính sự hiện diện và hoạt động của Đức Kitô Phục Sinh trong đời người Kitô hữu đang làm thay đổi con người họ, và họ đang trải nghiệm điều đó. Họ có thể làm chứng, chứ họ không thể giải thích, vì đây là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm làm cho sống.
4. Nếu như hai môn đệ đã ghi nhớ và tin những lời Đức Giêsu đã nói trước về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, các ông đã chẳng phải chạy trên nẻo đường đưa tới mộ, đưa tới cõi chết, đưa tới sự tuyệt vọng, trong khi Thầy của các ông đã sống lại, và nay đã “lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Tuy nhiên, thái độ của hai ông lại là bài học quý cho chúng ta hôm nay, vì chúng ta cũng vẫn có thể rơi vào tình trạng tiêu cực ấy.
5. Trong một Bài giảng được gán cho thánh Gioan Kim Khẩu (? 345-407), có đoạn:
“Xin đừng có một ai buồn sầu về sự nghèo khó của mình, bởi vì Vương Quốc đã hiện ra cho tất cả mọi người; xin đừng có một ai than thở về các lỗi lầm của mình, bởi vì ơn tha thứ đã trào vọt ra từ ngôi mộ; xin đừng có một ai sợ hãi cái chết, bởi vì cái chết của Đấng Cứu thế đã giải thoát chúng ta. Người đã tiêu diệt cái chết, Đấng mà cái chết đã bóp nghẹt, Người đã tước đoạt hỏa ngục, Đấng đã xuống âm phủ…
Isaia đã tiên báo điều này khi nói: “Vì ngươi, âm phủ dưới vực sâu cũng rung động để ra đón ngươi vào” (Is 14,9). Âm phủ đã ngập tràn cay đắng,… vì nó đã bị đánh ngã; bị sỉ nhục, vì nó đã bị giết chết; bị quỵ ngã, vì nó đã bị triệt tiêu. Nó đã bắt lấy một thân xác và đã ra trước nhan Thiên Chúa; nó đã nắm lấy trái đất và đã gặp trời; nó đã bắt lấy cái gì nó thấy, và đã té ngã vì Đấng Vô Hình. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của người? Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?” (1Cr 15,55). Chúa Kitô đã sống lại và người bị đánh bại! Chúa Kitô đã sống lại và ma quỷ đã ngã xuống! Chúa Kitô đã sống lại và các thiên thần hân hoan vui mừng! Chúa Kitô đã sống lại và đây sự sống hiển trị! Chúa Kitô đã sống lại và không còn kẻ chết trong mồ nữa, bởi vì Chúa Kitô, sống lại từ kẻ chết, đã trở thành hoa quả đầu mùa của những ai đã an giấc. Vinh quang và uy quyền thuộc về Người đến muôn thuở muôn đời. Amen”.
[1]Bản văn Thánh Kinh do nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ chuyển ngữ
[2]Lc 24,10: 10 Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy.
[3] Lc 8,2: 2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ.
[4]x. Ga 2,23; 4,19; 6,2.19;20,12.14: 23 Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. 4 19 Người phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ…”. 6 2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 19 Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. 20 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su.
[5]Ga 6,40; 17,24: 40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”. 17 24 Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.
[6] Ga 14,17: 17 Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.
[7]Ga 20,8.25: 8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 25 Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”. Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
[8]Ga 1,34.50.51; 3,11.32; 11,40; 14,7.9; 19,35.37; 20,29: 34 Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. 50 Đức Giê-su đáp: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa”. 51 Người lại nói: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người”. 3 11 Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi. 32 Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. 11 40 Đức Giê-su bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”. 14 7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”. 9 Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?. 19 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu. 20 29 Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
[9]Ga 1,39; 5,6; 4,45.48; 6,14.22.24.30.36; 7,52; 12,9: 39 Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. 4 45 Khi Người đến Ga-li-lê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã được chứng kiến tất cả những gì Người làm tại Giê-ru-sa-lem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi dự lễ. 48 Đức Giê-su nói với ông: “Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!”. 5 6 Đức Giê-su thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: “Anh có muốn khỏi bệnh không?”. 6 14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” 22 Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền và Đức Giê-su lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông đi mà thôi. 24 Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Người. 30 Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? 36 Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin. 7 52 Họ đáp: “Cả ông nữa, ông cũng là người Ga-li-lê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Ga-li-lê cả”. 12 9 Một đám đông người Do-thái biết Đức Giê-su đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Đức Giê-su, nhưng còn để nhìn thấy anh La-da-rô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết.
[10]x. Ga 1,14; 4,35: 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 4 35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!
[11]Ga 1,38: 38 Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?”.
Ga 6,5: 5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”.
[12]Ga 1,32 (= 1,34); 11,45: 32 Ông Gio-an còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. 33 Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. 34 Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. 11 45 Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.
[13]x. Mt 27,66: 66 Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ.
[14]Thánh Kinh, Nguyễn Thế Thuấn chuyển ngữ.
[15]Mc 16,4: 4 Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
Mt 28,2: 2 Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên.
Lc 24,2: 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ.
[16]Ga 18,27: 27 Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
[17]Ga 13,23: 23 Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giê-su thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giê-su.
[18]Ga 15,9; 18,26: 9 Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. 18 26 Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: “Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?”.
[19]Ga 1,18: 18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
[20]Ga 18,15: 15 Ông Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế.
[21]Ga 13,24: 24 Ông Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy và bảo: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?”.
[22]Ga 19,26: 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà”.
[23]Ga 21,7.20: 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 20 Ông Phê-rô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su trong bữa ăn tối và hỏi: “Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?”.
[24]x. Cv 12,12: 12 Ý thức được như vậy, ông đi đến nhà bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gio-an, cũng gọi là Mác-cô; ở đó có khá đông người đang tụ họp và cầu nguyện.
[25]Xem: R.E. Brown, The Gospel according to John, I, xciii-xcviii.
[26]J.A. Grassi, The Secret Identity. Có thể xem chương 13, từ trang 115.
[27]Dù người môn đệ này là ai, rất có thể tác giả của chương 21 trong Tin Mừng Gioan cũng là tác giả của thư thứ hai và thứ 3 Gioan. Ngoài ra, chúng ta thấy dấu vết của cùng một bàn tay tác giả ở thư thứ 3 Gioan chương 12; Ga 19,35 và Ga 21,24 (x. Ga 15,27: “anh em”).
[28]Ga 11,43: 43 Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”.
[29]Ga 19,31: 31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống.
[30]Ga 1,9: 9 Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.
[31]Ga 13,30: 30 Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối.
[32]Ga 1,42: 42 Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: “Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).
[33]Ga 6,68-69; 13,6-10.35-38: 68 Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. 13 6 Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” 7 Đức Giê-su trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu”. 8 Ông Phê-rô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!”. Đức Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”. 9 Ông Si-môn Phê-rô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa”. 10 Đức Giê-su bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!”. 35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”. 36 Ông Si-môn Phê-rô nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?”. Đức Giê-su trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo”. 37 Ông Phê-rô thưa: “Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy!”. 38 Đức Giê-su đáp: “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần”.
[34]Ga 13,23-24; 18,15-16; 21,20-23: 23 Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giê-su thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giê-su. 24 Ông Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy và bảo: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?”. 18 15 Ông Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16 Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. 21 20 Ông Phê-rô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su trong bữa ăn tối và hỏi: “Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?”. 21 Vậy khi thấy người đó, ông Phê-rô nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?”. 22 Đức Giê-su đáp: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy”. 23 Do đó, mới có tiếng đồn giữa anh em là môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giê-su đã không nói với ông Phê-rô là: “Anh ấy sẽ không chết”, mà chỉ nói: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?”.
[35]x. Ga 19,40: 40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái.