Ga 1, 1-18: “Thấy” Và “Nghe” Lời Nhập Thể

0
297


Lm. Giuse Lê Minh Thông, O.P.

 

I. BẢN VĂN TIN MỪNG

1,1 Lời [1] có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa.

2 Người [2] ở với Thiên Chúa lúc khởi đầu.

3 Nhờ Người, mọi sự được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành

4 ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho loài người,

5 và ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng.

6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gio-an.

7 Ông ấy đến làm chứng. Ông làm chứng về ánh sáng, để nhờ ông ấy, mọi người tin.

8 Ông ấy không phải là ánh sáng, nhưng làm chứng về ánh sáng.

9 Người là ánh sáng thật, ánh sáng [3] chiếu soi mọi người, đến trong thế gian.

10 Người ở trong thế gian, nhờ Người thế gian được tạo thành và thế gian đã không nhận biết Người.

11 Người đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về Người đã không đón nhận Người.

12 Nhưng những ai đón nhận Người, Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ là những người tin vào danh của Người,

13 Họ được sinh ra không bởi khí huyết, cũng không bởi ước muốn của người phàm, cũng không bởi ước muốn của đàn ông, nhưng bởi Thiên Chúa.

14 Lời đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người, vinh quang bên Cha như là Con Một, đầy tràn ân sủng và sự thật.

15 Gio-an làm chứng về Người, ông ấy hô lên rằng: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.”

16 Từ sự sung mãn của Người, tất cả chúng tôi đã lãnh nhận ân sủng này đến ân sủng khác.

17 Vì Lề Luật đã được ban nhờ Mô-sê, ân sủng và sự thật đã có nhờ Đức Giê-su Ki-tô.

18 Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ; Con Một Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha, chính Đấng ấy đã kể cho chúng ta.

II. CẤU TRÚC LỜI TỰA Ga 1, 1-18

Lời tựa Tin Mừng Gio-an có lối hành văn đặc biệt. Các ý tưởng triển khai bằng sự lấy lại từ đã nói trước đó để trình bày ý tưởng mới. Có thể dùng hình ảnh của những đợt sóng biển lúc thuỷ triều đang lên. Các từ ngữ được lặp lại nhưng ý tưởng càng lúc càng dâng cao. Nhìn chung, lời tựa Ga 1,1-18 chia làm hai phần: (1) 1,1-13 và (2) 1,14-18. Dấu hiệu văn chương để chia hai phần là sự xuất hiện từ “Logos” (Lời) ở 1,14: “Lời đã trở thành xác phàm”. Thực vậy, danh từ “Logos” (Lời) xuất hiện 4 lần trong lời tựa (1,1-18); trong đó, có 3 lần ở 1,1 (1,1a.1b.1c) và 1 lần ở 1,14. Sự lặp lại từ “Logos” (Lời) ở 1,14 đánh dấu bước triển khai mới trong bản văn. Trong phần thứ nhất (1,1-13) xuất hiện những dấu hiệu về sự hiện diện của Logos trong thế gian như: (a) Lời chứng của Gio-an Tẩy giả (1,6-8). (b) Logos đến thế gian và chiếu soi mọi người (1,9). (c) Kiểu nói “những ai đón nhận Người” (1,12), trong mạch văn là “đón nhận Lời”, ám chỉ những người tin vào Đức Giê-su trong Tin Mừng.

Thực vậy, các lối diễn tả: “Không đón nhận” (1,11), “đón nhận” và “tin vào Danh Người” (1,12) được dùng trong sách Tin Mừng để nói đến lòng tin vào Đức Giê-su. Logos (Lời) đã hiện diện trong trần gian trong phần thứ nhất của lời tựa (1,1-13). Điều này không mâu thuẫn với khẳng định Logos (Lời) trở thành xác phàm ở 1,14. Hình như mỗi phần trình bày những đề tài khác nhau, tạo nên lời tựa cho toàn bộ nội dung sách Tin Mừng Gio-an.

Phần thứ nhất (1,1-13) giới thiệu niềm tin của Ki-tô hữu trong toàn bộ lịch sử cứu độ, từ khởi đầu cho đến ngày kết thúc lịch sử. Nội dung 1,1-13 là lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô là Logos (Lời), đã hiện hữu từ khởi đầu, Lời ở với Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa (1,1). Lời ấy đã đến thế gian và chiếu soi thế gian. Đối diện với Lời của Thiên Chúa, nhân loại phải lựa chọn một trong hai: (1) Đón nhận Lời hay (2) không đón nhận Lời (1,11-13).

Phần thứ hai (1,14-18) bắt đầu với “Lời đã trở thành xác phàm” (người phàm), nhằm trình bày cụ thể hơn vai trò và hoạt động của Đức Giê-su trong lịch sử, điều này sẽ được trình bày chi tiết trong nội dung sách Tin Mừng. Chính “Lời làm người” (1,14) sẽ kể cho chúng ta nghe về Cha, sẽ mặc khải cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa (1,18). Ý định của Thiên Chúa là gì sẽ được thuật lại từ 1,19 đến hết sách Tin Mừng.

Như thế, phần thứ nhất của lời tựa (1,1-13) là dẫn nhập tổng quát (tuyên xưng niềm tin), còn phần thứ hai (1,14-18) là dẫn nhập vào nội dung sách Tin Mừng: Hoạt động của Đức Giê-su. Hai phần của lời tựa liên kết chặt chẽ với nhau qua cấu trúc đồng tâm như sau:

Hai yếu tố trung tâm f và f’ song song với nhau về ý tưởng “đón nhận” (f: 1,10-11) hay “không đón nhận” (f’: 1,12-13) Logos (Lời). Đây là đối lập giữa “không tin” và “tin”, đối lập giữa “bước đi trong bóng tối” và “bước đi trong ánh sáng”. Toàn bộ nội dung Tin Mừng sẽ trình bày sự đối lập này như một vụ kiện giữa “Ánh Sáng” (Thiên Chúa, Đức Giê-su và các môn đệ của Người) và “Bóng tối” (Xa-tan, quỷ và những kẻ chống đối).

Lời tựa Tin Mừng Gio-an (1,1-18) thuật lại hành trình của Logos (Lời). Từ “logos” lấy từ văn hoá Hy Lạp, nhưng tác giả Tin Mừng Gio-an đã xây dựng thần học về Logos (Lời) dựa trên văn chương khôn ngoan trong Cựu Ước và dựa trên suy tư của cộng đoàn tín hữu tiên khởi về căn tính và nguồn gốc của Đức Giê-su. Danh từ Logos (Lời) trong lời tựa Tin Mừng Gio-an chỉ Lời của Thiên Chúa là một Ngôi vị và Nhập thể nơi Đức Giê-su Ki-tô. Danh từ Logos (Lời) áp dụng cho Đức Giê-su chỉ xuất hiện trong lời tựa sách Tin Mừng. Đây là Logos (Lời) theo nghĩa: Chính Đức Giê-su là Lời có từ lúc khởi đầu, Người ở với Thiên Chúa và Người là Thiên Chúa (1,1). Logos đã trở nên người phàm (1,14), Người là “Con Một Thiên Chúa, là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha” (1,18b), nên Người có đủ mọi tư cách để mặc khải về Thiên Chúa cho con người (1,18c).

Từ Logos (Lời) ở Kh 19,13 và 1Ga 1,1 không có nghĩa tuyệt đối như trong lời tựa sách Tin Mừng Gio-an vì logos (lời) ở Kh 19,13 và 1Ga 1,1 không đứng một mình mà có một danh từ ở thuộc cách (génitif) đi kèm để nói lên một đặc tính của danh từ logos (lời). Tác giả 1Ga 1,1 viết: “Tay chúng tôi đã chạm đến lời sự sống”. Danh từ “sự sống” nói lên đặc tính của logos (lời): “về lời của sự sống”. Ở Kh 19,13, tác giả viết về thị kiến “Người cưỡi ngựa trắng” (ám chỉ Đức Giê-su): “Người khoác một áo choàng đẫm máu và danh hiệu của Người là ‘Lời của Thiên Chúa’).” Trong câu này danh từ “Thiên Chúa” ở thuộc cách: “tou theou” (của Thiên Chúa) chỉ đặc tính của logos (lời). Cách dùng từ logos (lời) ở 1Ga 1,1 và Kh 19,13 khác với lời tựa Tin Mừng Gio-an (Ga 1,1-18): Logos (Lời) đứng một mình làm chủ từ, và đồng hoá với Đức Giê-su trong Tin Mừng.

Có thể nội dung lời tựa Tin Mừng Gio-an có nguồn gốc từ một thánh ca của các Ki-tô hữu (hymne chrétien) và được tác giả Tin Mừng sử dụng để làm lời tựa cho sách Tin Mừng. Từ Logos trong lời tựa được viết hoa “Lời” để chỉ Lời Nhập Thể là Đức Giê-su. Biến cố này quan trọng vì khởi đầu một giai đoạn mới trong tiến trình mặc khải: Con người có thể “thấy” và “nghe” Lời Nhập Thể.

III. “LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM” (1, 14a)

Ngay câu đầu tiên của Tin Mừng Gio-an, tác giả đã khẳng định căn tính và nguồn gốc của Logos (Lời): “Lời có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa.” Kiểu nói “lúc khởi đầu” (en arkhê) gợi đến sự khởi đầu tuyệt đối trong sách Sáng thế: “Lúc khởi đầu Thiên Chúa tạo dựng trời và đất.”

Logos (Lời) trình bày ở Ga 1,1 đã nhập thể, đã đi vào lịch sử nhân loại từ 1,14a: “Lời đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng tôi.” Động từ “trở nên” (ginomai) chia ở thì aoriste: “egeneto” (đã trở thành) vừa xác định Lời đã đi vào lịch sử, vừa cho biết cách thức hiện diện của Lời: “Lời nên xác phàm (sarx)”. Lời đã trở thành một con người bằng xương bằng thịt. Chiều kích nhập thể được nhấn mạnh bằng từ “sarx” (xác thịt, xác phàm, người phàm).

Sự hiện diện của Lời Nhập Thể trong thế gian thực hiện lời Đức Chúa hứa qua lời ngôn sứ I-sai-a trong Cựu Ước: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Em-ma-nu-en.” Từ nay, sự hiện diện của Lời Nhập Thể là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại. Cách diễn tả sự hiện diện của Lời Nhập Thể rất đặc biệt: “Người cư ngụ giữa chúng tôi”. Động từ “skênoô” có nghĩa: “sống”, “ở”, “cư ngụ”, “cắm lều”. Câu trên có ý tưởng: “Người đã cắm lều giữa chúng tôi”. Điều này gợi đến việc dựng Lều Hội Ngộ trong sách Xuất Hành. Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Vào ngày mồng một tháng giêng, ngươi sẽ dựng Nhà Tạm Lều Hội Ngộ” (Xh 40,2), dịch sát là “Lều của sự làm chứng”, “Lều chứng ước” (skênên tou marturiou). Trong cụm từ này có danh từ “skênê” (lều) cùng gốc từ với động từ “skênoô” (dựng lều, cắm lều) ở Ga 1,14.

Nếu như, trong sách Xuất Hành, lúc thánh hiến Nhà Tạm “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang (doxa) ĐỨC CHÚA đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,34) thì khi Lời Nhập Thể đến với nhân loại, tác giả sách Tin Mừng Gio-an khẳng định: “Chúng tôi đã thấy vinh quang (doxa) của Người, vinh quang (doxa) bên Cha như là Con Một, đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14b).

Các ý tưởng song song giữa Xh 40,2.34 và Ga 1,14 cho thấy hai ý nghĩa:

(1) Lều Hội Ngộ trong Cựu Ước là nơi gặp gỡ Đức Chúa, là dấu chỉ Đức Chúa ở với dân Người, thì với Logos (Lời) dựng lều giữa nhân loại, Lời Nhập Thể trở thành nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Lời Nhập Thể là dấu chỉ cụ thể Thiên Chúa ở với loài người.

(2) “Vinh quang ĐỨC CHÚA đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 14,34b) nay ở lại nơi Lời Nhập Thể. Nói cách khác, Lời Nhập Thể là nơi bày tỏ vinh quang (doxa) của Thiên Chúa; và vinh quang của Lời Nhập Thể sẽ tỏ lộ trong suốt Tin Mừng, cũng chính là vinh quang của Thiên Chúa.

Lời khẳng định “Lời đã trở nên người phàm” (1,14a) khởi đầu phần thứ hai (1,14-18) của lời tựa bằng cách lặp lại từ Logos (Lời) đã xuất hiện trong ở 1,1. Khẳng định này khó hiểu theo suy nghĩ bình thường của con người. Đối với những người Do Thái ý tưởng “Thiên Chúa làm Người” là nghịch lý và không thể chấp nhận. Đối với họ, Đức Giê-su phạm thượng vì một con người mà đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa (5,18; 10,33). “Lời là Thiên Chúa” (1,1c) “đã trở nên xác phàm” (1,14) và Lời ấy đã sống thân phận làm người với sự mong manh, lệ thuộc vào không gian và thời gian. Đó là một con người đã được sinh ra và lớn lên trong một gia đình, một dân tộc và một nền văn hóa riêng. Khẳng định “Lời đã trở nên xác phàm” là tuyên xưng thần học của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi. Điều này khó chấp nhận đối với Do Thái giáo. Qua lời khẳng định trên, độc giả thoáng thấy phía sau tranh luận thần học về nhân tính và thiên tính của Đức Giê-su giữa Do Thái giáo và Ki-tô giáo.

“Lời đã trở thành xác phàm” (1,14a) là đỉnh cao của lời tựa sách Tin Mừng Gio-an, mở đầu một giai đoạn mang tính quyết định trong lịch sử cứu độ. “Lời ở với Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa” trở thành đối tượng của việc “thấy” bằng mắt và “nghe” bằng tai của mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng thực sự “thấy” và “nghe” Lời Nhập Thể. Vậy làm thế nào để “thấy” và “nghe”.

IV. “CHÚNG TÔI ĐÃ THẤY VINH QUANG…” (1,14b)

Tác giả lời tựa xác quyết ở 1,14b: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người, vinh quang bên Cha như là Con Một, đầy tràn ân sủng và sự thật.” Động từ “theaomai” (thấy) trong câu trên không chỉ hoàn toàn là chiêm ngắm một thực tại thiêng liêng (une pure contemplation des réalités invisibles). Ngược lại đây là “thấy” Lời đã trở thành người phàm. Động từ “theaomai” (thấy) chia ở lối trình bày thì aoriste: “etheasametha” (đã thấy), xác định Lời Nhập Thể đã đến và ở với loài người vào một thời điểm cụ thể trong lịch sử nhân loại. Những dấu hiệu văn chương trên cho phép hiểu khẳng định: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người” là thấy bằng con mắt thể lý. Nói cách khác, vinh quang của Lời Nhập Thể được tỏ lộ trong lịch sử và con người có thể thấy được. Trước hết, “sự thấy” này dựa trên một thực tế lịch sử: Đức Giê-su là một con người bằng xương bằng thịt đã xuất hiện trong lịch sử nhân loại. Hành động thấy này liên quan đến “sarx” (xác thịt, xác phàm, người phàm).

Chính hành động “thấy thể lý” này làm cho đại từ ngôi thứ nhất số nhiều “Chúng tôi” ở 1,14 trở thành những chứng nhân nhãn tiền (témoins oculaires) về Lời Nhập Thể. Để đánh dấu bước ngoặt quan trọng của Lời Nhập Thể trong lịch sử cứu độ, tác giả Tin Mừng đã dành một vị trí quan trọng cho hành động “thấy” và “nghe” thể lý. Vì thế, không nên tách rời “thấy tâm linh” (la vue spirituelle) và “thấy thể lý” (la vue physique) hay đề cao “thấy tâm linh” mà xem nhẹ “thấy thể lý”.

Nơi các môn đệ, hành động thấy khác với những người Do Thái. Thần học Tin Mừng Gio-an nối kết kinh nghiệm thấy thể lý với những thực tại tâm linh. Sự thấy đích thực bao hàm vừa thấy thể lý vừa nhận thức tâm linh siêu việt. “Thấy” theo thần học Gio-an không thể tách rời khỏi hành động “tin”. Như thế, thấy thể lý trở thành một dấu chỉ (signe) để khám phá ra căn tính của Đức Giê-su: Người là ai? Người từ đâu tới? Các môn đệ “thấy” và “nghe” Đức Giê-su, từ đó họ dần dần nhận ra vinh quang của Con Một Thiên Chúa.

Đối tượng của động từ “thấy” (theaomai) ở 1,14a là một điều bí ẩn: “vinh quang” (doxa). Trong truyền thống Cựu Ước, đề tài vinh quang thường được dùng để nói về việc Thiên Chúa tự tỏ mình ra cho dân, để ở với dân, để cứu độ hay để giáo huấn dân. Tin Mừng Gio-an đề cao đề tài “vinh quang của Đức Giê-su” và “vinh quang của Thiên Chúa” nối kết với “hành động tin”. Người thuật chuyện kết luận dấu lạ (sêmeion) nước hoá thành rượu như sau: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, Ga-li-lê, Người đã tỏ vinh quang (doxa) của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người ” (2,11).

Tin Mừng Gio-an dùng từ “dấu lạ” (sêmeion). Tiếng Hy Lạp “sêmeion” có nghĩa là “dấu chỉ” (signe). Trong Tin Mừng Gio-an, “sêmeion” chỉ những hành động quyền năng của Đức Giê-su. Tin Mừng Nhất Lãm dùng từ “dunamis” (quyền năng) để chỉ những phép lạ (miracles) Đức Giê-su làm, trong khi Tin Mừng Gio-an lại dùng từ “sêmeion” (dấu chỉ). Vì các “sêmeion” trong Gio-an lạ lùng, khác thường, nên dịch là “dấu lạ”. Ý nghĩa và cách dùng từ “dấu lạ” là đặc điểm riêng của Tin Mừng Gio-an và có những hàm ẩn khác với “phép lạ” trong Tin Mừng Nhất Lãm.

Sự bày tỏ vinh quang của Đức Giê-su qua dấu lạ nước hoá thành rượu dẫn đến việc các môn đệ tin vào Người (2,11). Đức Giê-su không chỉ bày tỏ vinh quang của mình mà Người làm lộ ra vinh quang của Thiên Chúa. Trong câu chuyện La-da-rô, Đức Giê-su nói với Mác-ta trước khi gọi La-da-rô ra khỏi mồ: “Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang (doxa) của Thiên Chúa sao?” (11,40). Như thế, vinh quang của Đức Giê-su là vinh quang Người đã có trước khi có thế gian, như Người đã khẳng định ở 17,5: “Vậy giờ đây, lạy Cha, xin Cha tôn vinh Con bên Cha, vinh quang mà Con đã có bên Cha trước khi có thế gian.” Đức Giê-su định nghĩa vinh quang của Người với những người Do Thái: “Nếu Tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của Tôi chẳng là gì cả. Cha của Tôi là Đấng tôn vinh Tôi ” (8,54).

Trong mạch văn lời tựa Tin Mừng Gio-an có thể hiểu: từ nay vinh quang của Thiên Chúa được bày tỏ trong Con Một của Người là Đức Giê-su Ki-tô.

Trong Tin Mừng Gio-an, sự bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa đi vào chiều sâu. Thiên Chúa bày tỏ vinh quang của Người không bằng những yếu tố lạ lùng theo kiểu thần hiện, gây hoảng sợ như mô tả trong sách Xuất Hành: “Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ” (Xh 19,16). Những dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng được mô tả cách nhẹ nhàng và kín đáo. Bởi vì mục đích của dấu lạ là người chứng kiến tin vào Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.

Tin Mừng Gio-an còn xây dựng thần học về đề tài vinh quang một cách nghịch lý. Vinh quang của Đức Giê-su không chỉ bày tỏ trong những dấu lạ mà chỉ một mình Người mới có thể thực hiện được. Đỉnh cao của vinh quang theo thần học Gio-an chính là biến cố thập giá. Giờ chết của Người trên thập giá được gọi là giờ tôn vinh, giờ Người được giương cao, giờ Người đi về với Cha. Đức Giê-su nói về giờ Thương Khó của Người như sau: “Giờ đã đến để Con Người được tôn vinh” (12,23). Giờ chết trên thập giá là giờ Người tôn vinh Cha và cũng là giờ Cha tôn vinh Người. Đức Giê-su ngỏ lời với Cha trước khi bước vào cuộc Thương Khó ở 17,1: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin tôn vinh Con của Cha để Con tôn vinh Cha.”

Như thế, đề tài vinh quang được tác giả khẳng định trong lời tựa: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người” (1,14b) sẽ được bày tỏ trong suốt Tin Mừng qua các dấu lạ, qua những lời giáo huấn và mặc khải của Đức Giê-su, đặc biệt là vinh quang bày tỏ trên thập giá, đó là lúc người chiến thắng sự chết, chiến thắng thế gian (16,33), và là giờ mà thủ lãnh thế gian bị xét xử (16,11).

Sâu xa hơn, lời xác tín: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người” (1,14b) muốn diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian được bày tỏ qua Con của Người. Thực vậy, khởi đầu sứ vụ công khai Đức Giê-su khẳng định ở 3,16: “Vì Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng có sự sống đời đời.” Tình yêu này được thể hiện qua vai trò mục tử hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên. Đức Giê-su nói: “Chính Tôi là mục tử tốt. Mục tử tốt hy sinh mạng sống của mình vì đàn chiên” (10,11). Đức Giê-su đã bày tỏ tình yêu này cho các môn đệ khi Người nói với họ: “Chưa ai có tình yêu cao cả hơn tình yêu này, người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu của mình” (15,13). Đức Giê-su đã trao ban vinh quang của Người cho các môn đệ vào cuối sứ vụ. Người nói với Cha ở 17,22: “Phần Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con, Con đã ban cho họ để họ nên một như Chúng Ta là Một.” Các môn đệ được chia sẻ vinh quang của Đức Giê-su để sống hiệp nhất với nhau, như sự hiệp nhất nên một giữa Cha và Đức Giê-su.

Đến lượt các môn đệ, sống trọn vẹn tư cách người môn đệ đã là tôn vinh Đức Giê-su và tôn vinh Thiên Chúa. Người nói với Cha của Người ở 17,10: “Mọi sự của Con là của Cha, mọi sự của Cha của Con và Con được tôn vinh nơi họ.” Trở thành môn đệ của Đức Giê-su và sinh nhiều hoa trái là cách tôn vinh Thiên Chúa. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,8: “Trong điều này Cha của Thầy được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.”

Cái chết tử đạo của Phê-rô khi thi hành sứ vụ là cách thức ông ấy tôn vinh Thiên Chúa. Đức Giê-su nói với Phê-rô ở 21,18: “A-men, a-men, Thầy bảo anh: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người thuật chuyện giải thích cho độc giả biết: “Người nói điều đó để cho biết bằng cái chết nào ông ấy sẽ tôn vinh Thiên Chúa” (21,19). Nối kết với lời tựa Tin Mừng, các môn đệ tôn vinh Đức Giê-su bằng cách tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su, xác tín và làm chứng là mình đã thấy vinh quang của Người (1,14).

Như thế, vinh quang của Đức Giê-su và của Thiên Chúa bày tỏ trong sứ vụ của Đức Giê-su và trong sứ vụ của các môn đệ. Khẳng định của tác giả trong lời tựa: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người, vinh quang bên Cha như là Con Một, đầy tràn ân sủng và sự thật” (1,14b) đã là lời tóm kết toàn bộ sách Tin Mừng.

Tuy nhiên, “thấy vinh quang của Lời Nhập Thể” là điều không hiển nhiên. Không phải ai cũng thấy được điều này. Vinh quang này như thể được giấu kín. Về phía Đức Giê-su, Người sẽ mặc khải và giáo huấn để con người biết cách “nghe” và “thấy”; về phía con người, họ cần mở lòng ra đón nhận giáo huấn mới có thể “nghe” và “thấy” Đức Giê-su như bản văn muốn.

Trong viễn cảnh này, lời chứng của “Chúng tôi” (1,14) có vai trò quan trọng. Họ là các chứng nhân nhãn tiền (témoins oculaires), là những người đã thấy tận mắt “vinh quang của Lời Nhập Thể” và lời chứng ấy được thuật lại trong Tin Mừng qua những gì Đức Giê-su đã nói, đã làm và đã sống. Câu kết của lời tựa (1,18) cho biết hai điều: (1) Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ và (2) Lời Nhập Thể sẽ kể cho chúng ta biết về Thiên Chúa trong nội dung sách Tin Mừng. Hai ý tưởng này dùng hai động từ: “horaô” (thấy) và “exêgeomai” (kể, giải thích, làm cho biết). Hai động từ này diễn tả hai lãnh vực “nghe” và “thấy” trong Tin Mừng thứ tư sẽ được phân tích sau đây.

V. “CHƯA AI THẤY THIÊN CHÚA BAO GIỜ” (1,18a)

Trong truyền thống Cựu Ước, có hai cách giải thích về việc “không thể thấy Thiên Chúa”. Xavier LéON-DUFOUR viết: “Ý kiến phổ biến cho rằng con người ‘không thể thấy Thiên Chúa’ vì tính chất tội lỗi của con người (xem Es 6,5 ; Ex 33,20) […]. Một truyền thống khác cho rằng con người ‘không thể thấy Thiên Chúa’ vì sự siêu việt tuyệt đối của Thiên Chúa (xem Ex 33,22s)” (Xavier LÉON-DUFOUR, Lecture de l’Évangile selon Jean, t. I, Seuil,1998, p. 133). Trong Cựu Ước, có một số trường hợp ngoại lệ: Đức Chúa đã hiện ra với Áp-ra-ham (St 18) và Mô-sê (Xh 24,9-11; Tl 13,22). Thực ra, không phải Áp-ra-ham và Mô-sê thấy (voir) Thiên Chúa mà Thiên Chúa tỏ mình ra (se faire voir) cho các ông.

Ý tưởng “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ” được nhấn mạnh trong thần học Gio-an. Lời khẳng định này được lặp lại ở Ga 6,46; 1Ga 4,12.20. Trong mạch văn của lời tựa sách Tin Mừng, khẳng định “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ” (1,18a) không phải là do tình trạng tội lỗi của con người, nhưng vì con người là loài thụ tạo, bị giới hạn trong không gian và thời gian. Con người thuộc về hạ giới nên không có khả năng thấy Thiên Chúa là Đấng thuộc về thượng giới, Đấng siêu việt. Đức Giê-su nói với những người Do Thái: “Các ông, các ông thuộc về hạ giới; còn Tôi, Tôi thuộc về thượng giới. Các ông, các ông thuộc về thế gian này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này” (8,23). Như thế, “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ” (1,18a) là lời khẳng định sự siêu việt tuyệt đối của Thiên Chúa. Tất cả mọi ý định và cố gắng “thấy Thiên Chúa” bị loại trừ. Tuy nhiên, con người vẫn có thể biết Thiên Chúa và hiệp thông với Người nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, sẽ mặc khải cho chúng ta biết về ý định của Thiên Chúa, về tình yêu của Người dành cho nhân loại.

VI. CON MỘT KỂ VỀ THIÊN CHÚA (1,18b)

Trong câu 1,18b: “Con Một Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha, chính Đấng ấy đã kể (exêgêsato) cho chúng ta” xuất hiện động từ “exêgeomai”. Động từ này có ý nghĩa phong phú nên có thể dịch nhiều kiểu khác nhau. Bible de Jérusalem (BJ) dịch động từ “exêgêsato” (thì aoriste của động từ “exêgeomai”) là “a dévoilé” (đã tỏ lộ); Traduction Oecuménique de la Bible (TOB) dịch là “a fait connaître” (đã làm cho biết); Maurice CARREZ trong Nouveau Testament interlinéaire grec / français, Swindon, Bristish and Foreign Biblique Society, 1993, dịch: “a présenté” (đã trình bày). Động từ “exêgeomai” diễn tả ý tưởng hướng dẫn từng bước, từng bước cho đến lúc người thụ huấn có thể hiểu biết vấn đề. Vì thế, có thể diễn tả ý động từ “exêgeomai” theo nhiều cách như “trình bày chi tiết” (exposer en détail), “cắt nghĩa” (expliquer), “giải thích” (interpréter), “giới thiệu” (présenter), “chú giải” (faire l’exégèse), “kể ra” (raconter), “làm cho biết” (faire connaître)…

Có thể phân biệt động từ “exêgeomai” với các động từ liên hệ đến sự bày tỏ, sự mặc khải có liên quan đến thị giác: “apokaluptô”: mặc khải, tỏ bày (dévoiler, révéler), “deiknumi”, “keiknuô”: chỉ ra, chỉ dẫn (montrer, indiquer). Theo văn chương khải huyền (genre littéraire apocalyptique), các động từ “apokaluptô”, “deiknumi”, “keiknuô” có liên hệ tới ý tưởng “thấy” (voir). Trong khi, mạch văn Ga 1,18 cho phép hiểu động từ “exêgeomai” nhắm đến ý tưởng “nghe” hơn là “thấy”. Bởi vì “không ai có thể thấy Thiên Chúa” nên chỉ còn cách là “nghe” Con Một của Thiên Chúa nói về Thiên Chúa. Vì không thể thấy Thiên Chúa nên chỉ có thể “thấy” và “nghe” Đức Giê-su: “thấy” vinh quang của Lời Nhập Thể (1,14) và “nghe” lời mặc khải của Người nói về Thiên Chúa (1,18).

Những phân tích trên cho thấy, dịch động từ “exêgeomai” là “kể” theo nghĩa kể cho biết, mặc khải ra cho biết, phù hợp hơn với bối cảnh của mạch văn và gợi lên những ẩn ý sau:

1) “Kể chuyện” thuộc về lãnh vực thính giác: “người kể” cần có “người nghe”. Lời Nhập Thể là Lời để nghe, Lời Thiên Chúa trở thành lời của Đức Giê-su nói về Thiên Chúa.

2) Đức Giê-su là người “kể câu chuyện về Thiên Chúa”, Người mặc khải về Thiên Chúa bằng lời rao giảng và giáo huấn của Người. Đức Giê-su trở thành Đấng mặc khải tuyệt vời về Thiên Chúa (le Révélateur par excellence).

3) Trên bình diện soạn thảo bản văn Tin Mừng, “kể về Thiên Chúa” là nội dung sách Tin Mừng. Nên lời cuối cùng của lời tựa 1,18 hướng về nội dung trình thuật trong Tin Mừng về sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Đối với tác giả, toàn bộ sách Tin Mừng là “lời kể về Thiên Chúa”.

4) Trên bình diện nội dung sách Tin Mừng, Đức Giê-su “kể về Thiên Chúa” bằng chính cuộc sống và tất cả những hoạt động của Người như: Những dấu lạ, những lời tranh luận, những lời giáo huấn, những lời mặc khải, những lời khích lệ động viên. Cách người bày tỏ tình yêu dành cho mọi người, đặc biệt qua biến cố hy sinh mạng sống cho những kẻ thuộc về mình là “lời kể về tình yêu”. Có thể nói cuộc đời Đức Giê-su là “lời kể” sống động về chính Người và về Thiên Chúa.

Với những gợi ý trên, tuy động từ “exêgeomai” có thể dịch nhiều kiểu khác nhau, nhưng hiểu là “kể” (raconter) là thích hợp hơn cả. Vì là “kể về Thiên Chúa” bằng chính cuộc đời mình nên trong từ “kể” đã hàm ẩn ý tưởng “thấy” (thấy những gì Đức Giê-su làm) và “nghe” (nghe những gì Người nói).

Đứng trước thực tế “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ” (1,18a), căn tính và nguồn gốc của Con Một Thiên Chúa có vị trí trung tâm trong việc “kể về Thiên Chúa” cho loài người. Lời tựa nhấn mạnh nguồn gốc của Lời Nhập Thể bằng nhiều kiểu nói khác nhau để nói về cùng một nhân vật. Chẳng hạn “Lời là Thiên Chúa” (1,1c), “Lời đã trở nên người phàm” (1,14a), “Con Một” (1,14b.18), “Đức Giê-su Ki-tô” (1,17). Những danh xưng và tước hiệu này xác định căn tính và nguồn gốc của Đức Giê-su trước khi bắt đầu Tin Mừng.

Trong Tin Mừng Gio-an, lời tuyên xưng của Tô-ma cuối sách Tin Mừng (20,28) là lời khẳng định tư cách Thiên Chúa của Đức Giê-su và nối kết với lời tựa (1,1-18) để kết thúc sách Tin Mừng. Tô-ma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (20,28). Tuyên xưng Đức Giê-su là Thiên Chúa (theos) là điều không thể tưởng tượng được trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Nhưng điều này đã nói đến trong lời tựa: “Lời là Thiên Chúa (theos)” (1,1c).

VII. TƯƠNG QUAN “CHA” – “CON MỘT”

Lời tựa Tin Mừng Gio-an giới thiệu tương quan mật thiết giữa “Lời” và “Thiên Chúa”, giữa “Cha” và “Con Một” của Người. Mối tương quan này được diễn tả qua các giới từ và qua động từ “eimi” (là, thì, ở, có).

Về cách dùng giới từ (préposition), hai lần bản văn dùng giới từ “pros” + đối cách (accusatif) có nghĩa là “về hướng”, “[ở] với”: “Lời ở với Thiên Chúa)” (1,1b) và “Lời ở với Thiên Chúa lúc khởi đầu)” (1,2). Ở 1,14, dùng giời từ “para” + thuộc cách (génitif) có nghĩa “[ở] bên”, “[ở] nơi”: “Vinh quang như là Con Một bên Cha.” Ở 1,18 dùng giới từ “eis” + đối cách (accusatif) diễn tả một chiều hướng cụ thể: “nơi”, “trong”, “vào”: “Con Một Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha” (1,18).

Cách dùng ba giới từ “pros”, “para” và “eis” như trên, diễn tả tương quan sâu xa và mật thiết giữa Cha và Con. Giới từ “pros” xuất hiện ở đầu lời tựa (1,1-2), giới từ “para” xuất hiện ở giữa lời tựa (1,14) và giới từ “eis” xuất hiện ở cuối lời tựa Tin Mừng (1,18) làm nên một bức tranh cân đối. Đồng thời cho thấy: Biến cố “Lời trở thành người phàm” (1,14a) không hề làm thay đổi tương quan giữa “Lời” và “Thiên Chúa”, và tương quan giữa “Cha” và “Con”.

Về cách dùng động từ “eimi” (là, thì, ở, có), ở 1,1 động từ này được chia ở thì chưa hoàn thành: “ên” để nhấn mạnh sự kéo dài trong thời gian (l’idée de la durée). Nét đẹp của Ga 1,1 là ba lần động từ “eimi” ở thì chưa hoàn thành “ên” có thể dịch theo ba cách khác nhau trong tiếng Việt: “có”, “ở”, “là”. Có thể dịch ở thì hiện tại trong tiếng Việt để cho biết hàm ý thời gian: Lời đã có từ khởi đầu, Lời hiện đang có và Lời mãi mãi có. Ga 1,1 có ba vế:

“Lời có (ên) lúc khởi đầu,
và Lời ở (ên) với Thiên Chúa
và Lời là (ên) Thiên Chúa”

Ở 1,18, động từ “eimi” được chia ở lối động tính từ, thì hiện tại “ôn” diễn tả một thực tế có giá trị thường hằng: “Con Một Thiên Chúa là (ôn) Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha” (1,18).

Cách dùng động từ “eimi” để diễn tả tương quan giữa “Lời” và “Thiên Chúa” (1,1), tương quan giữa “Cha” và “Con” (1,18) giúp xác định các nhân vật: Lời là Con Một và Thiên Chúa là Cha. Tương tự như cách dùng giới từ, cách dùng động từ “eimi” ở đầu (1,1) và cuối lời tựa (1,18) cho phép hiểu sự hiệp thông mật thiết và sâu xa giữa “Lời” và “Thiên Chúa”, giữa “Cha” và “Con” không bị ảnh hưởng bởi biến cố Nhập Thể. Lời Nhập Thể bị giới hạn vào không gian và thời gian, nhưng tương quan giữa Cha và Con vẫn rất sâu xa qua các lối diễn tả của Đức Giê-su trong Tin Mừng. Đức Giê-su dùng ba kiểu diễn tả để khẳng định sự hiệp thông sâu xa giữa Người và Cha:

1) “Tôi và Cha, Chúng Tôi là một” (10,30).

2) “Cha trong Tôi và Tôi trong Cha” (10,38)

3) “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (14,9)

Trong kiểu diễn tả thứ ba: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (14,9) gợi lại khẳng định của tác giả ở 1,18: “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ”. Nhưng con người vẫn có thể “thấy Cha” qua việc “thấy Đức Giê-su”.

VIII. KẾT LUẬN

Những phân tích trên cho thấy, lời tựa Tin Mừng có tầm quan trọng đặc biệt trong thần học Gio-an. Lời tựa nhắm đến hai mục đích: Trước hết, nội dung lời tựa là lời tuyên xưng niềm tin của tác giả- và qua tác giả, là niềm tin của cộng đoàn- vào căn tính của Đức Giê-su, nguồn gốc và sứ vụ của Người. Thứ đến, lời tựa dẫn vào nội dung sách Tin Mừng. Độc giả cần đọc Tin Mừng với sự soi sáng của lời tựa mới có thể đón nhận được ý nghĩa mặc khải trong sách Tin Mừng.

Lời tựa (1,1-18) và kết luận sách Tin Mừng (20,30-31) cho biết ba điểm chính yếu của sách Tin Mừng Gio-an:

1) Mặc khải căn tính của Đức Giê-su: Người là ai? Người từ đâu tới?

2) Trình bày sứ vụ của Đức Giê-su: Người đã làm gì? Người đã nói gì? Người đã sống như thế nào?

3) Mục đích của sách Tin Mừng. Tác giả nói trực tiếp với độc giả như sau: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác trước các môn đệ của Người; chúng không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được ghi chép là để anh em tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa; và nhờ tin, anh em có sự sống trong danh của Người” (Ga 20,30-31).

Mục đích của Tin Mừng là “tin”, là lời mời gọi tin, lời mời gọi vững tin, để có sự sống. Nếu chưa tin vào nội dung của lời tựa sách Tin Mừng thì chưa đạt được mục đích. Nếu đã tin rồi, thì lời tựa là một bức tranh đẹp và nhiều ý nghĩa, cần chiêm ngắm để làm cho niềm tin đã có, được nuôi dưỡng và trở nên mạnh mẽ và sống động hơn./.

 

 

Chú thích

[1] Từ Hy Lạp “logos” có nghĩa “lời nói”. Tuy nhiên, trong lời tựa Tin Mừng, logos có nghĩa thần học quan trọng. Từ “Lời” (Logos) viết hoa, vì vừa gợi đến Lời tạo dựng của Thiên Chúa (St 1,1), vừa giới thiệu ngôi vị, nguồn gốc và căn tính của Đức Giê-su theo nghĩa: “Ngôi Lời”. Chuyển ngữ: “Lời” (logos) giữ được những hàm ẩn độc đáo của thần học Gio-an.

[2] Đại từ “Người” dịch từ đại từ houtos (ngôi thứ ba, giống đực, số ít, chủ cách) thay thế cho “ho logos” (Lời). Ở đây tạm dịch: “Người” (chỉ Đức Giê-su); Logos (Lời) trở thành sarx (xác phàm, người phàm) từ 1,14 và tên Đức Giê-su xuất hiện lần đầu tiên trong Tin Mừng ở 1,17.

[3] Các từ in nghiêng là lặp lại danh từ mà đại từ thay thế, hay thêm vào để giải thích.