“Lời Chứng” Và “Làm Chứng” Của Gioan Tẩy Giả Trong Tin Mừng Gioan

0
983


Lm. Giuse Lê Minh Thông, O.P.

 

Trong bài viết “Danh từ “lời chứng” (marturia) và động từ “làm chứng” (martureô) trong Tin Mừng Gioan” đã trình bày số lần xuất hiện và cách dùng danh từ “lời chứng” (marturia) và động từ “làm chứng” (martureô) trong Tin Mừng thứ tư. Bài viết này sẽ bàn về “lời chứng” và nội dung việc “làm chứng” của Gio-an Tẩy Giả. Đề tài lời chứng của Gio-an được trình bày trong Tin Mừng thứ tư qua cách dùng 2 lần danh từ “lời chứng” (marturia) ở 1,7.19 và 7 lần động từ “làm chứng” (martureô) ở 1,7.8.15.32.34; 3,26; 5,33. Dựa vào các nơi xuất hiện danh từ “lời chứng” và động từ “làm chứng” liên quan đến Gio-an Tẩy Giả, bài viết sẽ trình bày ba mục: (I) Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (1,7.19; x. 5,36); (II) Gio-an làm chứng về ai và về điều gì? (III) Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của Gio-an (5,33).

I. LỜI CHỨNG CỦA GIO-AN TẨY GIẢ (1,7.19; x. 5, 36)

Hai lần trong Tin Mừng thứ tư (1,7.19) nói về “lời chứng” (marturia) của Gio-an Tẩy Giả. Lần thứ nhất nói đến “lời chứng” (marturia) của Gio-an ở trong lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18). Tác giả long trọng giới thiệu Gio-an Tẩy Giả và vai trò làm chứng của ông ở 1,6-8: “6 Có một người được sai đến từ Thiên Chúa, tên ông là Gio-an. 7 Ông ấy đến làm chứng. Ông làm chứng về ánh sáng, để mọi người tin nhờ ông ấy. 8 Ông ấy không phải là ánh sáng, nhưng làm chứng về ánh sáng.”  Trong câu 7, xuất hiện 1 lần danh từ “lời chứng” ở 1,7a: “Ông ấy đến làm chứng”, dịch sát: “Ông ấy đến vì (cho) lời chứng (he came for testimony).”

Lần thứ 2, “lời chứng” (marturia) của Gio-an xuất hiện ngay sau khi kết thúc lời tựa Tin Mừng (1,18). Người thuật chuyện viết câu mở đầu phần lời chứng của Gio-an ở 1,19: “Và đây là lời chứng của Gio-an…” (1,19a). Lời chứng của Gio-an được trình bày trong bối cảnh: “Những người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử các tư tế và các Lê-vi đến [với ông ấy] để họ hỏi ông ấy: “Ông là ai?” (1,19b).

Đến Ga 5, Đức Giê-su gián tiếp nhắc lại lời chứng của Gio-an trong bối cảnh tranh luận với những người Do Thái ở 5,33-36. Trong đoạn văn này, bản văn không dùng danh từ “lời chứng” để nói đến “lời chứng của Gio-an” mà dùng danh từ này để nói về “lời chứng của Đức Giê-su”. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 5,26: “Nhưng Tôi, Tôi có lời chứng lớn hơn (lời chứng) của Gio-an, đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng.”

Nội dung “lời chứng” của Gio-an sẽ được triển khai trong mạch văn và trong cách dùng động từ “làm chứng”.

II. GIO-AN LÀM CHỨNG VỀ AI VÀ VỀ ĐIỀU GÌ?

Trước khi làm chứng về Đức Giê-su, Gio-an đã làm chứng về chính mình để mọi người biết ông là ai và đến để làm gì. Đặc biệt Gio-an làm chứng về Đức Giê-su trong đoạn văn 3,31-36.

1. Gioan làm chứng về mình

Trước hết, Gio-an làm chứng bằng cách nói không về mình và xác định rõ vai trò của ông. Gio-an làm chứng về mình như sau:

1.1. Gio-an không phải là Đấng Ki-tô (1,20), không phải là Ê-li-a (1,21a), không phải là vị ngôn sứ (1,21).

Sau lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18), người thuật chuyện mở đầu đoạn văn về lời chứng của Gio-an như sau: “Và đây là lời chứng của Gio-an, khi những người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử các tư tế và các Lê-vi đến [với ông ấy] để họ hỏi ông ấy: ‘Ông là ai?’” (1,19). Gio-an đã tuyên xưng về ông với ba lần phủ định: Ông không phải là Đấng Ki-tô (1,20), không phải là Ê-li-a (1,21a), không phải là vị ngôn sứ (1,21).

1.2. Gio-an là “tiếng kêu trong hoang mạc: Làm cho thẳng con đường của Chúa”.

Sau đó, Gio-an khẳng định với những người chất vấn ông: “Tôi là tiếng kêu trong hoang mạc, hãy làm cho thẳng con đường của Chúa, như ngôn sứ I-sai-a đã nói” (1,23).

Gio-an khẳng định mình là tiếng kêu trong hoang mạc. Tiếng kêu đó là lời mời gọi “làm cho thẳng con đường của Chúa” theo như ngôn sứ I-sai-a đã viết ở Is 40,3-5: “3 Có tiếng hô:

“Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. 4 Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. 5 Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán.” Trong bối cảnh này, Gio-an xuất hiện như là người làm phép rửa sám hối để mọi người có thể đón nhận và tin vào Đức Giê-su.

1.3. Gio-an làm phép rửa trong nước.

Ba lần (1,26.31.33a) Gio-an khẳng định ông là người “làm phép rửa trong nước” để phân biệt với Đức Giê-su là “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (1,33b). Gio-an nói với những người chất vấn ông: “26 Chính tôi làm phép rửa trong nước. Người đang đứng giữa các ông mà các ông không biết, 27 Người đến sau tôi và [chính tôi] không xứng đáng cởi quai dép của Người” (1,26-27).

Trong ngày làm chứng thứ hai (1,29-34), Gio-an nói với mọi người ở 1,31: “Phần tôi, tôi đã không biết Người [Đức Giê-su], nhưng để Người được tỏ ra cho Ít-ra-en, vì điều này, chính tôi đến làm phép rửa trong nước.” Sau đó Gio-an nói tiếp ở 1,33: “Phần tôi, tôi đã không biết Người. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước, Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’”

2. Gioan làm chứng về Đức Giêsu

Như tác giả sách Tin Mừng cho biết vai trò của Gio-an đến là để làm chứng (1,6-8), nội dung việc làm chứng của Gio-an về Đức Giê-su trong Ga 1 có thể được tóm kết qua 8 mục sau:

2.1. Làm chứng về ánh sáng (1,7.8).

Hai lần người thuật chuyện khẳng định: Gio-an đến làm chứng về “ánh sáng” ở 1,7.8. “Ánh sáng” ở đây chính là Lời (Logos) (1,4-5) và là Đức Giê-su như Người đã khẳng định ở 8,12; 9,5. Đức Giê-su nói với những kẻ chống đối Người: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống” (8,12). Đến 9,5, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian” (9,5). Như thế, Đức Giê-su chính là ánh sáng được nói đến trong lời tựa sách Tin Mừng (1,4-9).

2.2. Làm chứng rằng Đức Giê-su đến sau, nhưng vượt trước, và có trước Gio-an (1,15 // 1,27.30).

Người thuật chuyện kể ở 1,15: “Gio-an làm chứng về Người [Đức Giê-su], ông ấy hô lên rằng: ‘Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’”

Ý tưởng này còn được Gio-an Tẩy Giả nói đến 2 lần nữa ở 1,27.30. Gio-an nói về Đức Giê-su với những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu: “Người [Đức Giê-su] đến sau tôi và [chính tôi] không xứng đáng cởi quai dép của Người” (1,27). Ngày hôm sau, Gio-an giới thiệu Đức Giê-su cho mọi người rằng: “Chính Người là Đấng mà tôi đã nói: ‘Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’” (1,30). Xem phân tích về ý nghĩa lời chứng này trong bài viết: Ga 1,6-8.19-28: Làm chứng và giới thiệu Đức Giêsu

2.3. Đức Giê-su là người ở giữa những người được sai tới với Gio-an, nhưng họ không biết Đức Giê-su.

Gio-an nói với họ ở 1,26-27: “26 Chính tôi làm phép rửa trong nước. Người đang đứng giữa các ông mà các ông không biết, 27 Người đến sau tôi và [chính tôi] không xứng đáng cởi quai dép của Người.”

Lời chứng này cho thấy, trước khi Đức Giê-su xuất hiện và hoạt động công khai, giới lãnh đạo Do Thái không biết đến Đức Giê-su. Cụ thể là Na-tha-na-en, người được Đức Giê-su gọi là “một người Ít-ra-en, nơi ông ấy không có gian dối” (1,47). Vậy mà khi “Phi-líp-phê gặp Na-tha-na-en và nói với ông ấy: ‘Đấng mà Mô-sê trong sách Luật và các ngôn sứ đã viết, chúng tôi đã gặp, đó là Đức Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét’” (1,45), Na-tha-na-en đã trả lời: “Từ Na-da-rét, có thể có gì tốt?” (1,46a). Xem ra không ai biết gì về Đức Giê-su trước khi Người xuất hiện và thi hành sứ vụ công khai.

2.4. Đức Giê-su là Chiên của Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội thế gian.

Trong ngày làm chứng thứ hai của Gio-an (1,29-34), Người thuật chuyện kể ở 1,29-31: “29 Hôm sau, ông ấy [Gio-an] thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, ông ấy nói: ‘Đây là Chiên của Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội thế gian. 30 Chính Người là Đấng mà tôi đã nói: ‘Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’ 31 Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho Ít-ra-en, vì điều này, chính tôi đến làm phép rửa trong nước.’”

Tước hiệu “Chiên của Thiên Chúa” được Gio-an nhắc lại lần thứ hai trong ngày làm chứng thứ ba (1,35-42). Câu chuyện kể ở 1,35-37: “35 Hôm sau, Gio-an lại đứng với hai người trong các môn đệ của ông ấy 36 Và chăm chú nhìn Đức Giê-su đang đi qua, ông ấy nói: “Đây là Chiên của Thiên Chúa.” 37 Hai môn đệ của ông ấy nghe nói thế, họ đi theo Đức Giê-su.”

Lời chứng cuối cùng của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giê-su được thuật lại ở 1,36: “Đây là Chiên của Thiên Chúa”. Tiếp theo là phần hai môn đệ của Gio-an gặp và trao đổi với Đức Giê-su. Đức Giê-su lên tiếng lần đầu tiên trong Tin Mừng Gio-an ở 1,38 và Người nói với hai môn đệ của Gio-an: “Các anh tìm gì?” (1,38b). Gio-an Tẩy Giả không xuất hiện trong đoạn văn 1,37-42, phần này nói về các môn đệ đầu tiên của Đức Giê-su.

2.5. Gio-an làm chứng là Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở lại trên Đức Giê-su.

Người thuật chuyện kể ở 1,32: “Gio-an làm chứng và nói rằng: ‘Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở lại trên Người.’” Trong câu này xuất hiện động từ “làm chứng” xác định rõ nội dung việc làm chứng của Gio-an. Ngay từ đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su, “Thần Khí” (pneuma) đã “xuống” (katabainô) và “ở lại” (menô) trên Đức Giê-su. Ý tưởng Thần Khí xuống và ở lại trên Đức Giê-su được Gio-an nhấn mạnh trong câu tiếp theo (1,33). Gio-an nói ở 1,33b: “Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’”

2.6. Đức Giê-su là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.

Trong ngày làm chứng thứ hai (1,29-34) và tiếp theo lời chứng ở 1,32 trên đây, Gio-an làm chứng về Đức Giê-su ở 1,33 như sau: “Phần tôi, tôi đã không biết Người. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước, Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần’” (1,33). Như thế, Đức Giê-su là “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”, phân biệt với Gio-an là người “làm phép rửa trong nước” (1,26.31.33a).

2.7. Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.

Cuối ngày thứ hai (1,29-34), Gio-an làm chứng về một trong những tước hiệu quan trọng của Đức Giê-su qua hai động từ “thấy” và “làm chứng”. Ông ấy nói: “Phần tôi, tôi đã thấy và đã làm chứng rằng: Chính Người là Con Thiên Chúa” (1,34). Trong câu này, không phải người thuật chuyện nói về việc làm chứng của Gio-an mà chính Gio-an dùng động từ “làm chứng” để nói về lời chứng của ông ấy: “Tôi đã thấy và đã làm chứng rằng:…”  (1,34a).

2.8. Đức Giê-su là Đấng là mà Gio-an “không biết”.

Điều lạ là Gio-an làm chứng về Đức Giê-su nhưng lại khẳng định là không biết Đức Giê-su. Gio-an nói điều này hai lần ở 1,31.33. Lần thứ nhất Gio-an nói: “Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho Ít-ra-en, vì điều này, chính tôi đến làm phép rửa trong nước” (1,31). Lần thứ hai Gio-an nói: “Phần tôi, tôi đã không biết Người. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước, Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần’” (1,33).

Có thể hiểu việc Gio-an không biết về Đức Giê-su như sau: Không biết nhưng vẫn làm chứng vì nội dung lời chứng của Gio-an về Đức Giê-su là được Thiên Chúa mặc khải cho ông biết. Trong bản văn, Thiên Chúa được gọi là “Đấng sai Gio-an làm phép rửa trong nước” (1,33b). Trong lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18) tác giả sách Tin Mừng đã khẳng định ở 1,6: Thiên Chúa là Đấng sai Gio-an đến làm chứng. Tác giả giới thiệu Gio-an ở 1,6-7: “6 Có một người được sai đến từ Thiên Chúa, tên ông là Gio-an. 7 Ông ấy đến làm chứng. Ông làm chứng về ánh sáng, để mọi người tin nhờ ông ấy.” Như thế vai trò của Gio-an là làm chứng về những gì ông đã được Thiên Chúa mặc khải cho biết về Đức Giê-su.

Hơn nữa, lời khẳng định: “Tôi đã không biết Người” là cách thức Gio-an đề cao nguồn gốc huyền nhiệm của Đức Giê-su. Gio-an là người phàm làm sao biết được Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa” (1,34), là “Chiên của Thiên Chúa” (1,29a.36), là “Đấng xoá bỏ tội thế gian” (1,29b)? Tuy nhiên, những lời chứng của Gio-an là xác thực và đáng tin cậy, bởi vì đó là những sự thật Thiên Chúa mặc khải cho Gio-an và chính ông đã được Thiên Chúa sai đến để làm chứng về Đức Giê-su qua những điều đã trình bày trên đây.

3. Lời chứng của Gio-an về Đức Giê-su ở 3,31-36

Trong cuộc đối thoại giữa Gio-an và các môn đệ của ông ấy ở 3,26-30, các môn đệ của Gio-an nhắc lại việc Gio-an làm chứng về Đức Giê-su. Họ nói với Gio-an: “Thưa Ráp-bi, người đã ở với thầy bên kia Gio-đan, người mà chính thầy đã làm chứng, xem kìa, Ông ấy làm phép rửa, và mọi người đến với Ông ấy” (3,26). Để trả lời các môn đệ của mình, Gio-an tự so sánh mình với Đức Giê-su về ba điều: (1) Gio-an không phải là Đấng Ki-tô mà là người được sai đi trước Đấng ấy (3,28). (2) Ai có cô dâu mới là chú rể, còn Gio-an là bạn của chú rể, là người hớn hở vui mừng vì tiếng nói của chú rể (3,29), (3) Gio-an là người phải suy giảm để Đấng ấy được lớn lên (3,30).

Trong mạch văn, phần tiếp theo là lời chứng của Gio-an về Đức Giê-su (3,31-36). Vì đoạn văn này có nhiều liên hệ với lời chứng của Đức Giê-su ở 3,13-21, có tác giả cho đây là phần thứ hai của lời chứng của Đức Giê-su. Tuy nhiên, trong tình trạng hiện tại của bản văn, có thể hiểu “lời chứng của Đức Giê-su” (3,13-21) được đặt song song với “lời chứng của Gio-an” (3,31-36) để đề cao vai trò của Đức Giê-su trong tương quan với Thiên Chúa. Gio-an, với tư cách là người được Thiên Chúa sai đến làm chứng về Đức Giê-su (1,6-7), ông có đầy đủ thẩm quyền để làm chứng về Đức Giê-su như trình bày trong đoạn văn 3,31-36:

“31 Đấng đến từ trên thì ở trên tất cả; kẻ bởi đất thì thuộc về đất và nói chuyện thuộc về đất. Đấng đến bởi trời [thì ở trên tất cả]; 32 điều Người đã thấy và đã nghe, Người làm chứng về điều ấy, và lời chứng của Người chẳng ai đón nhận. 33 Ai đón nhận lời chứng của Người thì xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân thật. 34 Vì Đấng Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Người ban Thần Khí vô ngần vô hạn. 35 Cha yêu mến Con và đã ban mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời; còn ai không vâng phục Con thì sẽ không thấy sự sống, nhưng sự thịnh nộ của Thiên Chúa ở lại trên kẻ ấy” (3,31-36).

III. ĐỨC GIÊSU NHẮC LẠI LỜI CHỨNG CỦA GIOAN (5,33)

Trong diễn từ của Đức Giê-su trước những kẻ chống đối Người ở Ga 5, có một đoạn văn nói về các lời chứng. Trong đó Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của Gio-an Tẩy Giả đã nói ở ch. 1 và ch. 3. Đức Giê-su nói về Gio-an với những người Do Thái ở 5,33-36 như sau:

“33 Chính các ông đã cử người đến với Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời chứng do người phàm, nhưng Tôi nói những điều này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên và toả sáng, chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy. 36 Nhưng Tôi, Tôi có lời chứng lớn hơn lời chứng của Gio-an, đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng. Chính những việc Tôi làm, làm chứng về Tôi rằng: Cha đã sai Tôi” (5,33-36).

Ở 5,33 Đức Giê-su nói là Gio-an “đã làm chứng cho sự thật” (5,33). Sự thật đó là “sự thật về Đức Giê-su” và “sự thật là chính Đức Giê-su” như Người đã mặc khải cho các môn đệ ở 14,6: “Chính Thầy là con đường và sự thật và sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Hơn nữa sứ vụ của Đức Giê-su không khác gì hơn là “làm chứng cho sự thật”. Đức Giê-su nói với Phi-la-tô ở 18,37: “Chính ngài nói rằng Tôi là Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến thế gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi.”

Như thế, khi Đức Giê-su nói Gio-an “đã làm chứng cho sự thật” (5,33), Người vừa đề cao lời chứng của Gio-an vừa nêu lên lời chứng vượt lên trên lời chứng của Gio-an. Đức Giê-su nói ở 5,36: “Tôi có lời chứng lớn hơn lời chứng của Gio-an, đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng.” Trong phần nói về các lời chứng ở 5,31-39, Đức Giê-su còn nói về lời chứng của chính Người, lời chứng của Chúa Cha và lời chứng của Kinh Thánh. Những lời chứng này sẽ được phân tích trong bài viết khác.

IV. KẾT LUẬN

Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả về mình và về Đức Giê-su là đề tài quan trọng trong Tin Mừng thứ tư. Về số lần xuất hiện trong sách Tin Mừng, “lời chứng” của Gio-an (xuất hiện 2 lần: 1,7.19) và hành động “làm chứng” của Gio-an (xuất hiện 7 lần: 1,7.8.15.32.34; 3,26; 5,33), đứng thứ hai, sau “lời chứng” của Đức Giê-su (xuất hiện 6 lần: 3,11.32.33; 5,31; 8,13.14) và hành động “làm chứng” của Đức Giê-su (xuất hiện 10 lần: 3,11.32; 4,44 ; 5,31; 7,7; 8,13.14.18a; 13,21; 18,37).

Lời chứng của Gio-an có uy thế và đáng tin cậy, bởi vì Gio-an dựa vào uy thế của Đấng sai mình đến làm chứng. Thực vậy, Thiên Chúa đã sai Gio-an đến làm chứng (1,6) về Đức Giê-su là “Con của Thiên Chúa” (1,34). Điểm độc đáo của Gio-an là ông làm chứng về chính mình trước khi làm chứng về Đức Giê-su. Có thể tóm tắt nội dung “lời chứng” và “làm chứng” của Gio-an Tẩy Giả như sau:

(A) Gio-an làm chứng về chính mình:

1. Gio-an không phải là Đấng Ki-tô (1,20).

2. Gio-an không phải là Ê-li-a (1,21a).

3. Gio-an không phải là vị ngôn sứ (1,21).

4. Gio-an là “tiếng kêu trong hoang mạc” (1,23a).

5. Gio-an “làm cho thẳng con đường của Chúa” (1,23b).

6. Gio-an “làm phép rửa trong nước” (1,26.31.33a).

(B) Gio-an làm chứng về Đức Giê-su:

1. Làm chứng về ánh sáng (1,7.8).

2. Đức Giê-su đến sau, nhưng vượt trước, và có trước Gio-an (1,15 // 1,27.30).

3. Đức Giê-su là Chiên của Thiên Chúa (1,29.36).

4. Đức Giê-su là Đấng xoá bỏ tội thế gian (1,29).

5. Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở lại trên Đức Giê-su (1,32).

6. Đức Giê-su làm phép rửa trong Thánh Thần (1,33).

7. Đức Giê-su là Con Thiên Chúa (1,34).

8. Làm chứng về nguồn gốc và sứ vụ của Đức Giê-su trong đoạn văn 3,31-36.

Nội dung “lời chứng” và việc “làm chứng” của Gio-an là mặc khải quan trọng về Đức Giê-su. Nhờ đó độc giả biết phần nào về Đức Giê-su: Người là ai? Người từ đâu đến? Sứ vụ của Người là gì? Trong sứ vụ công khai, Đức Giê-su sẽ làm rõ hơn những gì Gio-an đã làm chứng về Người. Tuy nhiên, Tin Mừng thứ tư còn đặc biệt nhấn mạnh “lời chứng của chính Đức Giê-su” và “lời chứng của Chúa Cha”, đồng thời sách Tin Mừng đề cao “lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến”, những lời chứng này sẽ được phân tích trong các bài viết khác./.

***

MỤC TỪ NGỮ

 

– marturia, -as, hê, dt., lời chứng

– martureô, đt., làm chứng

1. Marturia, dt.,  lời chứng

Danh từ “marturia” (lời chứng) xuất hiện 14 lần ở các nơi: 1,7.19; 3,11.32.33; 5,31.32.34.36; 8,13.14.17; 19,35; 21,24. Các nơi này nói về 7 lời chứng:

1) Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (2 lần): 1,7.19.

2) Lời chứng của Đức Giê-su (6 lần): 3,11.32.33; 5,31; 8,13.14.

3) Lời chứng của Chúa Cha (1 lần): 5,32.

4) Lời chứng của người phàm (1 lần): 5,34.

5) Lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm (1 lần): 5,36.

6) Lời chứng của hai người: Đức Giê-su và Cha (1 lần): 8,17.

7) Lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến (2 lần): 19,35; 21,24.

2. Martureô, đt., làm chứng

Động từ “martureô” (làm chứng) xuất hiện 33 lần và phân bổ như sau:

Ch. 1–4 (12 lần): 1,7.8.15.32.34; 2,25; 3,11.26.28.32; 4,39.44.

Ch. 5–8 (12 lần): 5,31.32a.32b.33.36.37.39; 7,7; 8,13.14.18a.18b.

Ch. 9–12 (2 lần): 10,25; 12,17.

Ch. 13–17 (3 lần): 13,21; 15,26.27.

Ch. 18–21 (4 lần): 18,23.37; 19,35; 21,24.

Trong 33 lần trên có 11 nhân vật và 2 điều là chủ từ của động từ “martureô”:

+ 11 nhân vật làm chủ từ của động từ “martureô”:

1) Gio-an Tẩy Giả (7 lần): 1,7.8.15.32.34; 3,26; 5,33.

2) Người ta (1 lần): 2,25.

3) Đức Giê-su (10 lần): 3,11.32; 4,44; 5,31; 7,7; 8,13.14.18a; 13,21; 18,37.

4) Các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả (1 lần): 3,28.

5) Người phụ nữ Sa-ma-ri (1 lần): 4,39.

6) Chúa Cha (4 lần): 5,32a.32b.37; 8,18b.

7) Đám đông dân chúng (1 lần): 12,17.

8) Đấng Pa-rác-lê, Thần Khí sự thật (1 lần): 15,26.

9) Các môn đệ của Đức Giê-su (1 lần): 15,27.

10) Thuộc hạ của thượng tế (1 lần): 18,23.

11) Môn đệ Đức Giê-su yêu mến (2 lần): 19,35; 21,24.

+ 2 điều làm chứng cho Đức Giê-su:

1) Kinh Thánh (1 lần): 5,39.

2) Những việc Đức Giê-su làm (2 lần): 5,36; 10,25.

***

Bài viết liên quan:

1- Lời chứng” (marturia) và “làm chứng” (martureô) trong Tin Mừng Gio-an.

2- Lời chứng” và “làm chứng” của Gio-an Tẩy Giả trong Tin Mừng Gio-an.

3- Ga 21,20-25. Vận mệnh, bút tích và lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.

4- Ga 19,35; 21,24. Lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng Gio-an.

5- Lời chứng của Đức Giêsu và của Chúa Cha trong Tin Mừng Gioan.