“Lời Chứng” Và “Làm Chứng” Của Đức Giêsu Và Của Chúa Cha Trong Tin Mừng Gioan

0
658


Lm. Giuse Lê Minh Thông, O.P.

 

I. DẪN NHẬP

Bài viết “Danh từ lời chứng” (marturia) và động từ “làm chứng” (martureô) trong Tin Mừng Gioan” đã liệt kê và trình bày khái quát về đề tài “lời chứng” và “làm chứng” trong tin mừng Gio-an. Hai bài viết khác đã trình bày về lời chứng” và “làm chứng” của Gio-an Tẩy Giả và của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến. Bài viết này sẽ tập trung phân tích lời chứng của Đức Giê-su và của Chúa Cha. Các lời chứng này xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an như sau:

Danh từ “lời chứng” (marturia) liên quan đến Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an, xuất hiện 6 lần ở 3,11.32.33; 5,31; 8,13.14. Danh từ “lời chứng” nói về lời chứng của Chúa Cha, xuất hiện 2 lần ở 5,34; 8,17. Động từ “làm chứng” (martureô) liên quan đến Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an, xuất hiện 10 lần ở 3,11.32; 4,44; 5,31; 7,7; 8,13.14.18a; 13,21; 18,37. Động từ này diễn tả việc làm chứng của Chúa Cha, xuất hiện 4 lần ở 5,32a.32b.37; 8,18b.

Đề tài “lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su tập trung vào các chương: Ch. 3, 5 lần ở 3,11.32.33 (danh từ) và 3,11.32 (động từ); ch. 4, 1 lần ở 4,44 (động từ); ch. 5, 2 lần ở 5,31 (danh từ) và 5,31 (động từ); ch. 7, 1 lần ở 7,7 (động từ); ch. 8, 5 lần ở 8,13.14 (danh từ) và 8,13.14.18a (động từ); ch. 13, 1 lần ở 13,21 (động từ); ch. 18, 1 lần ở 18,37 (động từ). Như thế, đề tài “lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su xuất hiện chủ yếu trong Sách Các Dấu Lạ (Ga 1–12): 14 lần. Sách Giờ Tôn Vinh (Ga 13–21) chỉ có 2 lần (13,21; 18,37).

“Lời chứng” và “làm chứng” của Chúa Cha được nói đến ở hai chương: Ch. 5, xuất hiện 4 lần ở 5,34 (danh từ) và 5,32a.32b.37 (động từ); ch. 8, 2 lần ở 8,17 (danh từ) và 8,18b (động từ).

Dựa vào những lần danh từ “lời chứng” và động từ “làm chứng” xuất hiện trên đây bài viết này sẽ tìm hiểu:

+ “Lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su ở Ga 3.

+ “Lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su và Chúa Cha ở Ga 5 và 8.

Hành động làm chứng của Đức Giê-su ở các chương 4; 7; 13; 18, chỉ xuất hiện 1 lần động từ “làm chứng” với Đức Giê-su là chủ từ (4,44; 7,7; 13,21; 18,37). Những câu này sẽ được tìm hiểu trong một bài viết khác.

II. “LỜI CHỨNG” VÀ “LÀM CHỨNG” CỦA ĐỨC GIÊ-SU Ở  Ga 3, 11.32-33

Trong Ga 3, lời chứng của Đức Giê-su được chính Người  nói với Ni-cô-đê-mô ở 3,11. Còn ở 3,32-33 là lời của Gio-an Tẩy Giả nói về lời chứng của Đức Giê-su.

1. “Lời chứng” và “làm chứng” ở Ga 3,11

Sau khi, Đức Giê-su mặc khải cho Ni-cô-đê-mô biết: “Nếu ai không được sinh ra một lần nữa, thì không thể thấy vương quốc Thiên Chúa” (3,3), Ni-cô-đê-mô đã hiểu lầm về lời nói của Đức Giê-su. Đức Giê-su giải thích nhưng Ni-cô-đê-mô vẫn chưa hiểu, ông ấy nói với Đức Giê-su: “Làm sao những điều ấy có thể xảy ra được?” (3,9) Đức Giê-su trả lời Ni-cô-đê-mô bằng hai câu hỏi khác (3,10.12). Giữa hai câu hỏi này là lời Đức Giê-su nói về lời chứng của Người, nhưng Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ nhất số nhiều: “chúng tôi”. Người thuật chuyện kể ở 3,10-12:

“10 Đức Giê-su trả lời và nói với ông [Ni-cô-đê-mô]: ‘Ông là bậc thầy của Ít-ra-en, mà không biết những điều ấy sao? 11 A-men, a-men, Tôi nói cho ông: Điều chúng tôi đã biết, chúng tôi nói và điều chúng tôi đã thấy, chúng tôi làm chứng (marturoumen), và lời chứng (marturian) của chúng tôi, các ông không đón nhận. 12 Nếu những chuyện dưới đất Tôi nói với các ông mà các ông không tin, thì nếu Tôi nói với các ông về những chuyện trên trời làm sao các ông tin?’” (3,10-12).

Đoạn văn tiếp theo (3,13-21) là phần độc thoại của Đức Giê-su về sứ vụ của Người. Kể từ 3,10, nhân vật Ni-cô-đê-mô không còn lên tiếng trong trình thuật. Phần độc thoại (3,13-21) gồm ba ý chính, liên quan đến sứ vụ của Đức Giê-su: (1) Nguồn gốc của Người (3,13-14), (2) Tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian (3,16-17), (3) Sự xét xử dành cho những ai không tin vào Đức Giê-su (3,18-21).

Sự kiện Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ nhất số nhiều (chúng tôi) ở 3,11 có thể hiểu là “lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su được đồng hóa với “lời chứng” và “làm chứng” của cộng đoàn các môn đệ. Đức Giê-su đứng về phía cộng đoàn, nói cùng với cộng đoàn, nói thay các môn đệ (chúng tôi). Đức Giê-su nói với Ni-cô-đê-mô, người đại diện cho những người Do Thái, nên Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ hai số nhiều: “các ông” (3,11).

Ý mở đầu 3,11 gợi đến lời rao giảng của Đức Giê-su và của các môn đệ: “Điều chúng tôi đã biết, chúng tôi nói” (3,11a). Ý tiếp theo là việc “làm chứng” của Đức Giê-su và của cộng đoàn dựa trên những điều đã “thấy”: “Điều chúng tôi đã thấy, chúng tôi làm chứng” (3,11b). Cuối cùng nói đến sự “khước từ lời chứng” của những người Do Thái mà người đại diện là Ni-cô-đê-mô: “Lời chứng của chúng tôi, các ông không đón nhận” (3,11c). Sự khước từ này sẽ được làm rõ trong suốt nội dung sách Tin Mừng qua sự xung đột và chống đối của những người Pha-ri-sêu, những người Do Thái và các thượng tế.

2. “Lời chứng” và “làm chứng” ở Ga 3, 32-33

Phần “lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su ở 3,32-33 thuộc về diễn từ độc thoại của Gio-an Tẩy Giả (3,31-36). Trong mạch văn, Gio-an Tẩy Giả nói về nguồn gốc và sứ vụ của Đức Giê-su với các môn đệ của ông ấy. (xem mục 3. “Lời chứng của Gio-an về Đức Giê-su” ở 3,31-36 trong bài viết: Lời chứng” và “làm chứng” của Gio-an Tẩy Giả). Gio-an Tẩy Giả mở đầu diễn từ về Đức Giê-su ở 3,31-33:

“31 Đấng đến từ trên thì ở trên tất cả; kẻ bởi đất thì thuộc về đất và nói chuyện thuộc về đất. Đấng đến bởi trời [thì ở trên tất cả]; 32 điều Người đã thấy và đã nghe, Người làm chứng về điều ấy, và lời chứng của Người chẳng ai đón nhận. 33 Ai đón nhận lời chứng của Người thì xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân thật” (3,31-33).

Gio-an Tẩy Giả nói về “lời chứng” và làm chứng” của Đức Giê-su với đại từ ngôi thứ ba số ít: “Người”. Việc làm chứng này dựa trên điều Đức Giê-su “đã thấy” và “đã nghe”: “Điều Người đã thấy và đã nghe, Người làm chứng về điều ấy” (3,32a). Tin Mừng Gio-an cho phép hiểu đây là điều Đức Giê-su “đã thấy” và “đã nghe” từ nơi Cha của Người như Người khẳng định với những người Do-thái ở 8,26: “Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; và Tôi, những điều Tôi đã nghe nơi Người, Tôi nói những điều đó trong  thế gian.”

Đức Giê-su tóm kết sứ vụ công khai của Người ở 12,49-50: “49 Vì chính Tôi đã không nói tự mình, nhưng là Cha, Đấng đã sai Tôi, Chính Người cho Tôi mệnh lệnh để Tôi nói điều gì và tuyên bố điều gì. 50 Và Tôi biết rằng: Mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy những điều Tôi nói, thì như Cha đã nói với Tôi thế nào, Tôi nói như vậy.”

Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giê-su nhắc lại ý tưởng trên với các môn đệ ở 14,24: “Ai không yêu mến Thầy thì không giữ những lời của Thầy; và lời mà anh em nghe không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy.” Như thế, tất cả những gì Đức Giê-su mặc khải và làm chứng là dựa trên những gì Người “đã thấy” và “đã nghe” từ nơi Chúa Cha.

Vế thứ hai của 3,32 là 3,32b, song song với 3,11c, cùng nói về sự khước từ lời chứng: “Lời chứng của Người chẳng ai đón nhận” (3,32b). Tuy nhiên, câu 3,33 nói về “lời chứng của Đức Giê-su” theo hướng tích cực: “Ai đón nhận lời chứng của Người thì xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân thật” (3,33).

Kiểu hành văn “đón nhận” hay “không đón nhận”, “tin” hay “không tin”, “hư mất” hay “không hư mất”, “bị xét xử” hay “không bị xét xử” là kiểu hành văn đặc thù của Tin Mừng Gio-an. Chúng ta gặp những cặp đối lập này trong diễn từ độc thoại của Đức Giê-su và của Gio-an Tẩy Giả. Chẳng hạn Đức Giê-su nói: “Ai tin vào Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa” (3,18). Gio-an Tẩy Giả kết thúc lời độc thoại như sau: “Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời; còn ai không vâng phục Con thì sẽ không thấy sự sống, nhưng sự thịnh nộ của Thiên Chúa ở lại trên kẻ ấy” (3,36).

III. “LỜI CHỨNG” VÀ “LÀM CHỨNG” CỦA ĐỨC GIÊ-SU VÀ CHÚA CHA Ở Ga 5 và 8

Đề tài “lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su và Chúa Cha thuật lại trong hai đoạn văn: 5,30-40 và 8,13-19. Điểm chung của hai đoạn văn này là cùng nói về các đề tài “xét xử”, “lời chứng” và “làm chứng”. Sau đây là trích dẫn hai đoạn văn trên.

1. Bản văn Ga 5, 30-40 và 8, 13-19

a) Ga 5, 30-40

Trích lời độc thoại của Đức Giê-su nói với những người Do Thái:

+ 5,30: Đức Giê-su xét xử công minh: 30 Tôi không thể làm điều gì tự mình. Tôi xét xử theo như Tôi nghe, và sự xét xử của Tôi là công minh, vì Tôi không tìm kiếm ý của Tôi nhưng ý của Đấng đã sai Tôi.

+ 5,31-32: Chúa Cha làm chứng về Đức Giê-su: 31 Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật. 32 Có Đấng khác là Đấng làm chứng về Tôi và Tôi biết rằng: Lời chứng mà Người làm chứng về Tôi là thật.

+ 5,33-35: Gio-an Tẩy Giả làm chứng cho sự thật: 33 Chính các ông đã cử người đến với Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời chứng do người phàm, nhưng Tôi nói những điều này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên và toả sáng, chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy.

+ 5,36: Việc Đức Giê-su làm, làm chứng về Người: 36 Nhưng Tôi, Tôi có lời chứng lớn hơn lời chứng của Gio-an, đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng. Chính những việc Tôi làm, làm chứng về Tôi rằng: Cha đã sai Tôi.

+ 5,37-38: Chúa Cha làm chứng về Đức Giê-su: 37 Và Cha, Đấng đã sai Tôi, chính Người đã làm chứng về Tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng của Người, cũng chẳng thấy tôn nhan của Người; 38 và các ông không có lời của Người ở lại trong các ông, vì Đấng Người đã sai đến, chính các ông không tin vào Đấng ấy.

+ 5,39-40: Kinh Thánh là lời chứng về Đức Giê-su: 39 Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì chính các ông nghĩ rằng trong đó có sự sống đời đời. Chính Kinh Thánh là những lời chứng về Tôi, 40 và các ông không muốn đến với Tôi để có sự sống.

b) Ga 8,13-19

Trích phần Đức Giê-su tranh luận với những người Pha-ri-sêu:

+ 8,13-14: Lời chứng của Đức Giê-su là thật: 13 Những người Pha-ri-sêu nói với Người [Đức Giê-su]: “Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của Ông là không thật.” 14 Đức Giê-su trả lời và nói với họ: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là thật, bởi vì Tôi biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu. Nhưng các ông, các ông không biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu.

+ 8,15-16: Sự xét đoán của Đức Giê-su là thật: 15 Các ông, các ông xét đoán theo người phàm, phần Tôi, Tôi không xét đoán ai cả. 16 Mà nếu chính Tôi xét đoán, sự xét đoán của Tôi là thật, vì không chỉ một mình Tôi, nhưng Tôi và Cha, Đấng đã sai Tôi.

+ 8,17-18: Lời chứng của hai người: 17 Trong Lề Luật của các ông có chép rằng: ‘Lời chứng của hai người là thật.’ 18 Chính Tôi là người làm chứng về mình,  và Cha, Đấng đã sai Tôi, làm chứng về Tôi.”

+ 8,19: Người Pha-ri-sêu không biết Đức Giê-su và Chúa Cha: 19 Vậy họ nói với Người: “Cha của Ông ở đâu?” Đức Giê-su trả lời: “Các ông không biết Tôi, cũng chẳng biết Cha của Tôi. Nếu các ông biết Tôi, các ông cũng biết Cha của Tôi.”

c) Giống nhau, khác nhau giữa Ga 5, 30-40 và 8, 13-19

Những chi tiết giống nhau và khác nhau trong hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19 được trình bày qua bảng sau:

Ga 5,30-40 không nhấn mạnh “lời chứng của Đức Giê-su” (5,31) mà tập trung vào các “lời chứng về Đức Giê-su”. Đó là lời chứng của Chúa Cha (5,32.37-38), lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (5,33-35), lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm (5,36) và lời chứng của Kinh Thánh (5,39). Còn đoạn văn Ga 8,13-19 lại nhấn mạnh đến lời chứng của hai người: Lời chứng của Đức Giê-su và của Chúa Cha. Dưới đây là những chi tiết giống nhau và khác nhau trong hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19.

+ Ba đề tài chung của hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19.

(1) Sự xét xử và xét đoán của Đức Giê-su là công minh và đúng theo sự thật (5,30 // 8,15-16). Danh từ “krisis” và động từ “krinô” tiếng Hy Lạp có ba nghĩa: “xét xử”, “kết án”, “xét đoán”, hiểu theo nghĩa nào còn tùy mạch văn. Ở 5,30 có nghĩa “xét xử” và ở 8,15-16 có thể hiểu theo nghĩa “xét đoán”.

(2) Lời chứng của Cha, Đấng đã sai Đức Giê-su (5,31-32; 37-38 // 8,17-18).

(3) Những kẻ chống đối Đức Giê-su (những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu) “không có” và “không biết” nhiều điều liên quan đến Chúa Cha và Đức Giê-su (5,37b.38.40; 8,14c.19).

+ Sáu chi tiết riêng của đoạn văn 5,30-40:

(1) Đức Giê-su không làm chứng về mình (5,31).

(2) Nhắc lại lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (5,33-35).

(3) Việc Đức Giê-su làm, làm chứng về Người (5,36).

(4) Kinh Thánh là lời chứng về Đức Giê-su (5,39).

(5) Những người Do Thái đã không bao giờ nghe tiếng Chúa Cha, cũng chẳng thấy tôn nhan Người (5,37b).

(6) Những người Do Thái không có lời của Chúa Cha nơi mình, vì họ không tin vào Đấng Người đã sai đến (5,38).

+ Sáu ý tưởng riêng của đoạn văn 8,13-19:

(1) Đức Giê-su làm chứng về Người và lời chứng của Người là thật (8,13-14a).

(2) Đức Giê-su biết Người từ đâu tới và đi đâu (8,14b).

(3) Lời chứng của hai người theo quy định Lề Luật: Đức Giê-su và Chúa Cha (8,17-18).

(4) Những người Pha-ri-sêu không biết Đức Giê-su từ đâu tới và đi đâu (8,14c).

(5) Những người Pha-ri-sêu không biết Cha của Đức Giê-su ở đâu (8,19a).

(6) Những người Pha-ri-sêu không biết Chúa Cha và Đức Giê-su (8,19b).

Với những đặc điểm trên đây của hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19, phần sau sẽ phân tích các đề tài liên quan đến “lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su và của Chúa Cha:

+ Lời chứng của Đức Giê-su là “thật” (8,14) hay “không thật” (5,31)?

+ Lời chứng của Chúa Cha về Đức Giê-su (5,31-32; 37-38).

+ Lời chứng của hai người: Đức Giê-su và Chúa Cha (8,17-18).

+ Nội dung lời chứng về Đức Giê-su.

+ Sự “không biết” và “không đón nhận” của những kẻ chống đối Đức Giê-su.

2. Lời chứng của Đức Giê-su là “thật” (8,14) hay “không thật” (5,31)?

Đức Giê-su đã nói với những người Do Thái 5,31: “Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật”, sau đó Đức Giê-su nói đến một loạt lời chứng về Người. Ở 8,13, những người Pha-ri-sêu sử dụng câu Đức Giê-su nói ở 5,31 để chất vấn Người. Họ nói với Đức Giê-su: “Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của Ông là không thật” (8,13). Lần này, Đức Giê-su trả lời: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là thật, bởi vì Tôi biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu. Nhưng các ông, các ông không biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu” (8,14).

Như vậy, việc Đức Giê-su làm chứng về mình là “thật” (8,14) hay “không thật” (5,31)? Ở 5,31, Đức Giê-su nói: “Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật” (5,31), nhưng ở 8,14 Người lại nói: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là thật.” Giải thích thế nào về hai lời trái ngược này? Để hiểu ý nghĩa, cần tìm hiểu bối cảnh văn chương.

a) Nguồn gốc câu: “Làm chứng về chính mình thì không thật”

Lời Đức Giê-su ở 5,31: “Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật” gợi lại một số khoản luật trong Cựu Ước: Đnl 17,6; 19,15; Ds 35,30.

Theo Sách Đệ Nhị Luật (Đnl 17,2-7), ai vi phạm Giao Ước, thờ lạy tà thần sẽ bị xử tử. Cách thức tiến hành như sau: “Căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay ba nhân chứng, mà người đáng chết sẽ bị xử tử; người ấy sẽ không bị xử tử nếu chỉ căn cứ vào lời của một nhân chứng” (Đnl 17,6). (Các trích dẫn Cựu Ước lấy theo bản dịch Kinh Thánh, ấn bản 2011 của Nhóm CGKPV). Sách Dân Số (Ds 25,30) quy định: “Trong mọi trường hợp đánh chết người, người ta sẽ dựa vào lời khai của các chứng nhân mà xử tử kẻ sát nhân. Nhưng lời khai của một chứng nhân duy nhất sẽ không thể làm cho ai bị kết án tử hình” (Ds 25,30).

Sách Đệ Nhị Luật chỉ thị về việc làm chứng trong những tranh tụng trước tòa ở Đnl 19,15: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.” Ai làm chứng gian sẽ bị xử phạt theo cách: “Anh em sẽ xử với nó, như nó đã định xử với anh em mình” (Đnl 16,19).

Như thế, theo Cựu Ước, lời của một nhân chứng thì chưa đủ giá trị. Tuy nhiên trong những trích dẫn Cựu Ước trên đây là trường hợp một người làm chứng về người khác, chứ không phải trường hợp “làm chứng về chính mình” như ở Ga 5,31; 8,13-14.

Có thể lời nói của Đức Giê-su về “làm chứng về chính mình” ở Ga 5,31 và được những người Pha-ri-sêu lặp lại ở 8,13, gợi đến một số câu trong văn chương Do Thái. Mishnah Ketubot, chương 2 câu 9 viết: “Không ai có thể làm chứng cho chính mình (No one may testify regarding himself).” (Xem http://www.emishnah.com/sedarim.html).

Trong bộ Talmud Babylon, tract Rosh Hashana (HaSahanah), chương 3 đoạn 1 viết: “Một cá nhân không thể căn cứ trên chính mình (An individual is not authorized by himself).” (Xem http://halakhah.com/).

b) Ga 5,31; 8,13 trong mạch văn 5,30-40; 8,13-19

Ở 5,31, lời Đức Giê-su nói: “Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật” được đặt trong bối cảnh quan niệm Do Thái thời đó và đã được xác định trong Cựu Ước và trong văn chương Do Thái. Dựa trên quy định của Lề Luật, Đức Giê-su đưa ra một loạt lời chứng về Người: Lời chứng của Chúa Cha (5,32.37-38), lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (5,33-35), lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm (5,36) và lời chứng trong Kinh Thánh (5,39).

Ngược lại ở 8,13, những người Pha-ri-sêu chất vấn Đức Giê-su bằng chính câu Đức Giê-su đã nói với những người Do Thái ở 5,31. Họ nói với Đức Giê-su: “Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của Ông là không thật” (8,13). Đức Giê-su đã trả lời ngược lại với lời Người đã nói ở 5,31. Người trả lời họ: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là thật, bởi vì Tôi biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu. Nhưng các ông, các ông không biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu” (8,14a).

Lý do “lời chứng của Đức Giê-su là thật” là vì Đức Giê-su biết Người từ đâu tới và sẽ đi đâu (8,14b); còn những người Pha-ri-sêu thì không biết Đức Giê-su từ đâu tới và đi đâu (8,14b). Vì thế, họ chỉ xét đoán theo người phàm (8,15a). Như vậy, chỉ một mình Đức Giê-su là người có thể làm chứng về chính mình mà lời chứng của Người là thật, vì Người có nguồn gốc thần linh. Người là Đấng từ trời xuống và Người sẽ lại lên trời. Trong lời chứng của Đức Giê-su ở 3,13, Người đã nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Đấng từ trời xuống là Con Người.”

Tóm lại, khi Đức Giê-su nói: “Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật” là nói trong trường hợp khái quát áp dụng cho tất cả mọi người. Còn khi Đức Giê-su nói: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là thật” là nói về trường hợp đặc thù, chỉ áp dụng cho Đức Giê-su mà thôi. Bởi vì Đức Giê-su là Đấng Thiên Chúa sai đến để nói lời Thiên Chúa, nên lời chứng của chính Người là thật. Nói cách khác, khi nói đến các lời chứng ở 5,30-39, Đức Giê-su tự đặt mình như là “con người”, còn khi nói đến lời chứng ở 8,13-19, Đức Giê-su tự đặt mình như là “Con Thiên Chúa”. Cũng trong viễn cảnh này, Đức Giê-su nói về lời chứng của hai người ở 8,17-18: Lời chứng của Đức Giê-su và Chúa Cha. Trước khi phân tích lời chứng này, phần tiếp theo sẽ tìm hiểu lời chứng của Chúa Cha về Đức Giê-su ở 5,31-32; 37-38.

3. Lời chứng của Chúa Cha (5,31-32.37-38)

Như đã trình bày, Đức Giê-su không làm chứng về chính mình trong đoạn văn 5,30-40 mà Người nói đến các lời chứng khác. Trong đó, lời chứng quan trọng là lời chứng của Chúa Cha về Đức Giê-su. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 5,31-32: “31 Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật. 32 Có Đấng khác là Đấng làm chứng về Tôi và Tôi biết rằng: Lời chứng mà Người làm chứng về Tôi là thật.”

“Đấng khác” ở 3,32a sẽ được làm rõ ở 5,37a. Đó là Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giê-su đến. Người nói ở 5,37a: “Cha, Đấng đã sai Tôi, chính Người đã làm chứng về Tôi.” Trong câu 32b, Đức Giê-su xác nhận lời chứng của Cha của Người là đúng sự thật. Đức Giê-su nói: “Tôi biết rằng: Lời chứng mà Người làm chứng về Tôi là thật” (5,32b). Như thế, đoạn văn 5,30-39 nhấn mạnh uy thế lời chứng của Chúa Cha về Đức Giê-su. Còn trong đoạn văn 8,13-19 nhấn mạnh đến lời chứng của hai người.

4. Lời chứng của hai người (8,17-18)

Đoạn văn 8,17-18 triển khai ý tưởng lời chứng của hai người theo quy định trong các bản văn Cựu Ước trích dẫn trên đây (Đnl 17,6; 19,15; Ds 35,30). Trước hết Đức Giê-su cho biết tại sao Người làm chứng về chính mình và lời chứng của Người là lời chứng thật (xem mục 2 trên đây). Kế đến, Đức Giê-su dựa trên quy định của Lề Luật, Người nói với những người Pha-ri-sêu: “17 Trong Lề Luật của các ông có chép rằng: ‘Lời chứng của hai người là thật.’ 18 Chính Tôi là người làm chứng về mình, và Cha, Đấng đã sai Tôi, làm chứng về Tôi” (8,17-18). Các bản văn Đnl 17,6; 19,15 và Ds 35,30 nói rằng: Lời chứng của hai người mới có giá trị. Ở đây Đức Giê-su nói đến lời chứng của chính Người và của Chúa Cha. Đây không phải là hai lời chứng của người phàm mà là lời chứng của Thiên Chúa và của Con Thiên Chúa. Vì thế, mức độ tin cậy là tuyệt đối. Người phàm có thể làm chứng gian để hại nhau, nhưng lời chứng của Thiên Chúa và Đấng Người sai đến thì luôn là lời chứng trung thực.

5. Nội dung lời chứng về Đức Giê-su

Hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19 tập trung vào tính xác thực của lời chứng nên không nói nhiều về nội dung lời chứng. Lời chứng của Đức Giê-su là thật (8,14a), lời chứng của Chúa Cha là thật (5,32b), Gio-an Tẩy Giả là người “đã làm chứng cho sự thật” (5,33). Ngoài ra còn có lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm (5,36) và lời chứng của Kinh Thánh (5,39). Tất cả đều làm chứng về Đức Giê-su.

Câu nói về lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm (5,36) có xác định nguồn gốc của những việc ấy. Đức Giê-su nói: “Đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng” (5,36b). Như thế, không phải là “công việc của Đức Giê-su” mà là “công việc của Chúa Cha”. Chúa Cha trao cho Đức Giê-su công việc của Người và Đức Giê-su là người thực hiện những công việc đó. Vì vậy, “những việc Đức Giê-su thực hiện” làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Người đến thế gian. Đức Giê-su khẳng định: “Chính những việc Tôi làm, làm chứng về Tôi rằng: Cha đã sai Tôi” (5,36c). Tóm lại, nội dung lời chứng về Đức Giê-su ở 5,36c nhằm khẳng định hai điều: (1) Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su, (2) Chính Thiên Chúa đã sai Đức Giê-su đến thi hành sứ vụ trong thế gian.

Theo nghĩa rộng, nội dung lời chứng về Đức Giê-su là tất cả những gì Tin Mừng Gio-an trình bày về căn tính, nguồn gốc và sứ vụ của Người. Có thể nói, tất cả những gì Đức Giê-su đã nói và đã làm, tất cả những gì tác giả nói về Đức Giê-su trong sách Tin Mừng đều là những lời xác thực và đáng tin.

6. Sự “không biết”, “không đón nhận” của những kẻ chống đối

Đề tài “lời chứng” và “làm chứng” trong hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19 đặt trong bối cảnh tranh luận với những kẻ chống đối Đức Giê-su. Cụ thể là đoạn văn 5,30-40 là một phần của diễn từ của Đức Giê-su nói với những người Do Thái. Họ là những người đang tìm cách giết Đức Giê-su (5,18). Sau khi Người chữa lành một người bị bệnh 38 năm tại hồ nước Bết-da-tha vào ngày sa-bát (5,1-15), người thuật chuyện cho biết: “Vậy, vì điều này, những người Do Thái lại càng tìm Người để giết, vì Người không chỉ phá ngày sa-bát, nhưng còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa” (5,18). Tiếp theo là một diễn từ dài (5,19-47), trong đó có đoạn văn về các lời chứng (5,30-40).

Về Ga 8, đoạn văn 8,12-59 gồm ba cuộc tranh luận: (1) Tranh luận thứ nhất giữa Đức Giê-su với những kẻ chống đối (8,12-30). (2) Tranh luận thứ hai với những người Do Thái đã tin (8,31-47). (3) Tranh luận thứ ba với những người Do Thái không tin (8,48-59). Những cuộc tranh luận ngày càng dữ dội này được kết thúc bằng hành động ném đá Đức Giê-su. Câu cuối cùng của ch. 8: “Họ [những người Do Thái] liền lượm đá để ném Người [Đức Giê-su]. Nhưng Đức Giê-su ẩn mình và đi ra khỏi Đền Thờ” (8,59).

Bầu khí tranh luận và xung đột này giải thích tại sao những kẻ chống đối đã không đón nhận lời chứng của Đức Giê-su (xem  mục II. “‘Lời chứng’ và ‘làm chứng’ của Đức Giê-su” ở Ga 3,11.32-33). Trong bối cảnh tranh luận, Đức Giê-su trong hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19 đã cho biết tình trạng của những kẻ chống đối: Họ thiếu mười điều sau:

(1) KHÔNG NGHE tiếng Thiên Chúa (5,37b).

(2) KHÔNG THẤY tôn nhan Thiên Chúa (5,37c).

(3) KHÔNG CÓ lời Thiên Chúa ở lại trong mình (5,37d).

(4) KHÔNG TIN vào Đấng Thiên Chúa sai đến (5,37e).

(5) KHÔNG MUỐN đến với Đức Giê-su để có sự sống (5,40).

(6) KHÔNG BIẾT Đức Giê-su từ đâu tới (8,14e).

(7) KHÔNG BIẾT Đức Giê-su sẽ đi đâu (8,14f).

(8) KHÔNG BIẾT Cha của Đức Giê-su ở đâu (8,19a).

(9) KHÔNG BIẾT Chúa Cha (8,19b).

(10) KHÔNG BIẾT Đức Giê-su (8,19c).

Như thế, những kẻ chống đối Đức Giê-su (những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu trong Tin Mừng Gio-an) đã “không nghe”, “không thấy”, “không có”, “không tin”, “không muốn” và “không biết”. Không biết nhiều điều như thế, thiếu sót nhiều như thế, thì việc họ tìm giết Đức Giê-su cũng không có gì lạ!

Những lời trên đây không chỉ thuần túy là những lời kết tội, nhưng nên hiểu đây là những lời có ý nghĩa giáo huấn và mặc khải. Nghĩa là Đức Giê-su cho những kẻ chống đối biết tại sao họ không hiểu và không đón nhận lời giáo huấn của Đức Giê-su. Qua đó, Đức Giê-su mời gọi các nhân vật trong câu chuyện và nhất là trình thuật mời gọi độc giả nhận ra Thiên Chúa là ai, nhận ra Đức Giê-su là ai và tin vào Người.

IV. KẾT LUẬN

Bài viết đã tìm hiểu những đoạn văn nói về “lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su và của Chúa Cha. Trước hết là “lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su ở 3,11 và 3,32-33. Đức Giê-su làm chứng về điều Người “đã thấy” và “đã nghe” từ nơi Cha của Người. Nghĩa là tất cả những gì Đức Giê-su “nói” và “làm” là Người thực hiện công việc Cha của Người giao phó (8,36).

Lời chứng của Đức Giê-su không được nói đến trong đoạn văn 5,30-40, bởi vì theo thuyền thống Do Thái “người làm chứng về chính mình thì không thật.” Từ đó, Đức Giê-su đưa ra một loạt lời chứng về Người: Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả, lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm, lời chứng của Kinh Thánh. Đặc biệt đoạn văn Ga 5,30-40 nhấn mạnh lời chứng của Chúa Cha về Đức Giê-su ở 5,31-32 và 5,37-38.

Sang đoạn văn 8,13-19, Đức Giê-su lại cho biết: Nếu Người làm chứng về chính mình, lời chứng của Người là thật, bởi vì Đức Giê-su biết Người từ đâu tới và đi đâu (8,13-14). Như thế, theo Lề Luật quy định: “Lời chứng của hai người là thật” thì Đức Giê-su đã có hai lời chứng: (1) Đức Giê-su làm chứng về mình và (2) Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giê-su, làm chứng về Người (8,17-18). Đây là lời chứng của Thiên Chúa và của Con Thiên Chúa chứ không phải của người phàm.

Trong tất cả những đoạn văn nói về lời chứng của Đức Giê-su và của Chúa Cha, đều gặp sự khước từ của những kẻ chống đối. Ở 3,11.32-33, lời chứng của Đức Giê-su không được đón nhận. Lý do làm cho những kẻ chống đối không đón nhận lời chứng của Đức Giê-su là vì họ đã “không nghe”, “không thấy”, “không có”, “không tin”, “không muốn” và “không biết” về 10 điều trên đây. Giọng văn tranh luận trong Tin Mừng Gio-an nhằm mục đích giáo huấn. Đức Giê-su mời gọi những kẻ chống đối nhận ra sự thiếu sót của họ để mở lòng đón nhận sự sống đích thực. Qua câu chuyện tác giả mời gọi độc giả tin và xác tín vào “lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su và của Chúa Cha. Từ đó, biết lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su.

Bài viết này chưa phân tích hành động làm chứng của Đức Giê-su ở các chương 4; 7; 13; 18. Trong các chương này, động từ “làm chứng” chỉ xuất hiện 1 lần ở các nơi: 4,44; 7,7; 13,21; 18,37. Những câu này sẽ được tìm hiểu trong một bài viết riêng. Còn hai đề tài: “Những việc Đức Giê-su làm, làm chứng về Người” (5,36) và “Kinh Thánh làm chứng về Đức Giê-su” (5,39) sẽ được trình bày trong các bài viết khác./.

***

MỤC TỪ NGỮ

 

– marturia, -as, hê, dt., lời chứng

– martureô, đt., làm chứng

1. Marturia, dt.,  lời chứng

Danh từ “marturia” (lời chứng) xuất hiện 14 lần ở các nơi: 1,7.19; 3,11.32.33; 5,31.32.34.36; 8,13.14.17; 19,35; 21,24. Các nơi này nói về 7 lời chứng:

1) Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (2 lần): 1,7.19.

2) Lời chứng của Đức Giê-su (6 lần): 3,11.32.33; 5,31; 8,13.14.

3) Lời chứng của Chúa Cha (1 lần): 5,32.

4) Lời chứng của người phàm (1 lần): 5,34.

5) Lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm (1 lần): 5,36.

6) Lời chứng của hai người: Đức Giê-su và Cha (1 lần): 8,17.

7) Lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến (2 lần): 19,35; 21,24.

2. Martureô, đt., làm chứng

Động từ “martureô” (làm chứng) xuất hiện 33 lần và phân bổ như sau:

Ch. 1–4 (12 lần): 1,7.8.15.32.34; 2,25; 3,11.26.28.32; 4,39.44.

Ch. 5–8 (12 lần): 5,31.32a.32b.33.36.37.39; 7,7; 8,13.14.18a.18b.

Ch. 9–12 (2 lần): 10,25; 12,17.

Ch. 13–17 (3 lần): 13,21; 15,26.27.

Ch. 18–21 (4 lần): 18,23.37; 19,35; 21,24.

Trong 33 lần trên có 11 nhân vật và 2 điều là chủ từ của động từ “martureô”:

+ 11 nhân vật làm chủ từ của động từ “martureô”:

1) Gio-an Tẩy Giả (7 lần): 1,7.8.15.32.34; 3,26; 5,33.

2) Người ta (1 lần): 2,25.

3) Đức Giê-su (10 lần): 3,11.32; 4,44; 5,31; 7,7; 8,13.14.18a; 13,21; 18,37.

4) Các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả (1 lần): 3,28.

5) Người phụ nữ Sa-ma-ri (1 lần): 4,39.

6) Chúa Cha (4 lần): 5,32a.32b.37; 8,18b.

7) Đám đông dân chúng (1 lần): 12,17.

8) Đấng Pa-rác-lê, Thần Khí sự thật (1 lần): 15,26.

9) Các môn đệ của Đức Giê-su (1 lần): 15,27.

10) Thuộc hạ của thượng tế (1 lần): 18,23.

11) Môn đệ Đức Giê-su yêu mến (2 lần): 19,35; 21,24.

+ 2 điều làm chứng cho Đức Giê-su:

1) Kinh Thánh (1 lần): 5,39.

2) Những việc Đức Giê-su làm (2 lần): 5,36; 10,25.

***

Bài viết liên quan:

1- Lời chứng” (marturia) và “làm chứng” (martureô) trong Tin Mừng Gio-an.

2- Lời chứng” và “làm chứng” của Gio-an Tẩy Giả trong Tin Mừng Gio-an.

3- Ga 21,20-25. Vận mệnh, bút tích và lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.

4- Ga 19,35; 21,24. Lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng Gio-an.

5- Lời chứng của Đức Giêsu và của Chúa Cha trong Tin Mừng Gioan.