Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.
DẪN NHẬP
Danh từ Hy Lạp “sêmeion” có nghĩa là “dấu chỉ”, riêng trong Tin Mừng Gio-an có thể dịch sang tiếng Việt: “dấu lạ” (tiếng Anh: sign; Pháp: signe). Thông thường, “sêmeion” có nghĩa là “dấu chỉ” (signe, sign). Dựa vào “dấu chỉ”, cho phép kết luận một điều gì đó mà dấu chỉ nhắm tới. Chẳng hạn, hiện tượng sốt là dấu chỉ bị viêm nhiễm. Từ “dấu chỉ” (signe, sign) còn dùng trong các ký hiệu ngôn ngữ hay toán học. Nói chung, “dấu chỉ” (signe, sign) chỉ có ý nghĩa khi được đặt trong một hệ thống.
Trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca), các trình thuật “phép lạ” Đức Giê-su thực hiện chiếm phần quan trọng và làm nên thể văn đặc thù của Tin Mừng Nhất Lãm. Đức Giê-su thực hiện phép lạ chữa lành, phép lạ trên thiên nhiên, phép lạ trừ quỷ, đặc biệt phép lạ làm cho người chết sống lại. Đây là cách thức Đức Giê-su mặc khải quyền năng của Người trên bệnh tật, trên thiên nhiên và trên sự chết. Tin Mừng Nhất Lãm dùng danh từ Hy Lạp “dunamis” (quyền năng) để chỉ các phép lạ. Thông thường các bản dịch dùng từ “phép lạ” để dịch danh từ “dunamis”. Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Mc 9,39b: “Không ai làm phép lạ (dunamin) nhờ danh của Thầy và ngay sau đó có thể nói xấu Thầy.” Người thuật chuyện cho biết cảm nhận của dân chúng về Đức Giê-su ở Mc 6,2: “Đến ngày sa-bát, Người [Đức Giê-su] bắt đầu giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên nói rằng: “Bởi đâu Ông ta được như thế? Sự khôn ngoan được ban cho Ông ấy và những phép lạ (hai dunameis) như thế nhờ tay Ông ấy nghĩa là gì?”
Tin Mừng Gio-an thuật lại một số phép lạ có trong Tin Mừng Nhất Lãm và một số phép lạ không có trong Tin Mừng Nhất Lãm. Điều đáng chú ý là Tin Mừng Gio-an không dùng từ “phép lạ” (dunamis) mà dùng từ “dấu lạ” (sêmeion) để nói đến “các phép lạ” Đức Giê-su thực hiện. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong thần học Tin Mừng Gio-an: Đức Giê-su là người thực hiện các dấu lạ và chính Người cho biết ý nghĩa của dấu lạ. Chẳng hạn ý nghĩa của dấu lạ bánh hoá nhiều (Ga 6,1-15) sẽ được Đức Giê-su giải thích trong diễn từ bánh sự sống (Ga 6,25-59). Ở Ga 11, Đức Giê-su mặc khải cho Mác-ta ở 11,25a: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” là trước khi gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,43). Tin Mừng Gio-an thuật lại bao nhiêu dấu lạ? Người thuật chuyện sử dụng từ “dấu lạ” (sêmeion) như thế nào? Các nhân vật trong câu chuyện nhận định ra sao về “các dấu lạ” Đức Giê-su đã làm? Bài viết sẽ trả lời những câu hỏi này.
Từ “dấu lạ” (sêmeion) xuất hiện 17 lần trong Tin Mừng Gio-an ở các nơi: 2,11.18.23; 3,2; 4,48.54; 6,2.14.26.30; 7,31; 9,16; 10,41; 11,47; 12,18.37; 20,30. Trong đó, có 11 lần ở số nhiều: “sêmeia” (những dấu lạ) ở 2,11.23; 3,2; 4,48; 6,2.26; 7,31; 9,16; 11,47; 12,37; 20,30; và 6 lần ở số ít: “sêmeion” (dấu lạ) ở 2,18; 4,54; 6,14.30; 10,41; 12,18. Phần sau sẽ tìm hiểu từ “sêmeion” (dấu lạ) trong Tin Mừng Gio-an qua ba mục: (I) Dấu lạ Đức Giê-su làm; (II) Nói về các dấu lạ của Đức Giê-su; (III) Cách dùng khác của từ “dấu lạ”.
I. DẤU LẠ ĐỨC GIÊSU LÀM
Từ “sêmeion” (dấu lạ) xuất hiện 7 lần để xác định những dấu lạ Đức Giê-su làm (2,11; 4,54; 7,31; 6,14.26; 9,16; 12,18). Trong mạch văn, có thể nói đến 8 dấu lạ. Trong đó, sáu dấu lạ được xác định bằng từ “sêmeion” (dấu lạ): (1) Nước hoá thành rượu ở Ca-na (2,1-12); (2) Cứu sống con trai quan chức nhà vua (4,43-54); (3) Chữa người 38 năm đau ốm tại hồ Bết-da-tha (5,1-18); (4) Bánh hoá nhiều (6,1-15); (5) Chữa lành người mù từ thuở mới sinh (9,1-41); (6) Gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46). Hai dấu lạ không được xác định bằng từ “sêmeion” (dấu lạ) nhưng có những chi tiết lạ lùng nên có thể gọi là dấu lạ: Dấu lạ thứ 7 là Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ti-bê-ri-a (6,16-20) và dấu lạ thứ 8 là mẻ cá lạ lùng ở Ga 21,1-14. Sau đây là chi tiết 8 dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an.
1. Nước lã hoá thành rượu ngon ở Ca-na (2,1-12)
Sau khi Đức Giê-su hoá nước thành rượu ngon trong tiệc cưới ở Ca-na (2,1-10), người thuật chuyện cho biết: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, miền Ga-li-lê, Người đã tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người” (2,11). Câu “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này” (2,11a) dịch sát tiếng Hy Lạp: “Đây là lần đầu tiên của các dấu lạ (tôn sêmeiôn) Đức Giê-su đã làm” (2,11a). Từ “tôn sêmeiôn” là danh từ sêmeion ở thuộc cách (genitive) số nhiều (sêmeiôn) có mạo từ (tôn). Như thế, dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su làm tại Ca-na là dấu lạ thứ nhất trong một chuỗi các dấu lạ (số nhiều) Đức Giê-su thực hiện. Dấu lạ đầu tiên đã gợi đến những dấu lạ khác kế tiếp trong trình thuật Tin Mừng.
2. Cứu sống con trai quan chức nhà vua (4,43-54)
Dấu lạ thứ hai được nói rõ trong Tin Mừng Gio-an là trình thuật Đức Giê-su cứu sống con trai một quan chức nhà vua (4,43-54). Trình thuật này kết luận như sau: “Đó là dấu lạ (sêmeion) thứ hai Đức Giê-su đã làm, khi Người từ Giu-đê đến Ga-li-lê” (4,54). Dấu lạ thứ hai xảy ra ở Ca-na (4,46), gợi lại dấu lạ thứ nhất ở Ca-na: Nước lã hoá thành rượu ngon (2,1-12).
3. Chữa người đau ốm tại hồ Bết-da-tha (5,1-18)
Trong trình thuật (5,1-18) Đức Giê-su chữa lành người 38 năm đau ốm (5,5) không xuất hiện từ “dấu lạ”. Tuy nhiên, những tranh luận giữa Đức Giê-su với những người Do Thái ở 7,14-29 có nhắc đến việc Đức Giê-su chữa lành một bệnh nhân vào ngày sa-bát. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 7,23: “Nếu người ta chịu phép cắt bì trong ngày sa-bát để luật Mô-sê không bị vi phạm, sao các ông nổi giận với tôi, vì tôi đã làm cho toàn thân một người được khoẻ mạnh trong ngày sa-bát?” Chi tiết: “Làm cho toàn thân một người được khoẻ mạnh trong ngày sa-bát?” (7,23b) gợi lại trình thuật chữa lành người 38 năm đau ốm vào ngày sa-bát ở 5,1-18.
Khi tóm kết tranh luận trong phần 7,14-29, người thuật chuyện kể lại lời đám đông nói đến các dấu lạ Đức Giê-su làm ở 7,31: “Trong đám đông, nhiều người đã tin vào Người (Đức Giê-su), họ nói: ‘Khi Đấng Ki-tô đến, Người sẽ làm nhiều dấu lạ hơn dấu lạ Ông này đã làm không?’” Mạch văn (7,14-36) cho phép hiểu từ “các dấu lạ” (số nhiều) trong câu nói trên của đám đông (7,31b), bao gồm cả dấu lạ Đức Giê-su chữa lành người đau ốm ở 5,1-18.
4. Hoá bánh ra nhiều (6,1-15)
Dấu lạ thứ tư là bánh hoá nhiều (6,1-15). Người thuật chuyện kể ở 6,14: “Khi thấy dấu lạ (sêmeion) Người (Đức Giê-su) làm, người ta nói: ‘Ông này thực sự là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian.’” Sau đó, dân chúng đi tìm và gặp Đức Giê-su vào ngày hôm sau (6,22) ở bên kia Biển Hồ (6,25a), họ nói với Người ở 6,25b: “Thưa Ráp-bi, Thầy đến đây bao giờ?” Đức Giê-su trả lời họ: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Các ông tìm Tôi không phải vì đã thấy những dấu lạ (sêmeia), nhưng vì các ông đã ăn bánh và đã được no nê” (6,26). Trong câu này, Đức Giê-su dùng từ “dấu lạ” ở số nhiều, Người nói về dấu lạ bánh hoá nhiều và những dấu lạ khác Người đã làm. Điều trớ trêu là đám đông chỉ thấy sự kiện lạ lùng qua việc bánh hoá nhiều chứ không thấy dấu lạ, nghĩa là không hiểu điều dấu lạ muốn nhắm tới. Ý nghĩa của dấu lạ bánh hoá nhiều sẽ được Đức Giê-su mặc khải trong diễn từ bánh sự sống (6,25-59).
5. Chữa lành người mù từ thuở mới sinh (9,1-41)
Dấu lạ thứ năm là Đức Giê-su cho người mù từ thuở mới sinh được thấy (9,1-41). Trình thuật chữa lành (9,6-7) không nói rõ đây là dấu lạ, nhưng trong phần tranh luận (9,8-34), nhận định của những người Pha-ri-sêu ở 9,16 cho thấy việc “người mù từ thuở mới sinh được thấy” là một dấu lạ. Người thuật chuyện kể ở 9,16: “Vậy một số người trong nhóm Pha-ri-sêu nói: ‘Ông ta (Đức Giê-su) không phải là người đến từ Thiên Chúa, vì Ông ta không giữ ngày sa-bát.’ Những người khác nói: ‘Làm sao một người tội lỗi có thể làm được những dấu lạ (sêmeia) như thế?’ Và đã có sự chia rẽ giữa họ.” Danh từ “dấu lạ” ở số nhiều “những dấu lạ” (9,16), vừa nói đến dấu lạ ngay trước đó (người mù từ thuở mới sinh được thấy), vừa gợi đến các dấu lạ khác Đức Giê-su đã làm.
6. Gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46)
Dấu lạ thứ sáu là Đức Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46). Câu chuyện này được bản văn xác định là “dấu lạ” trong trình thuật Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem (12,12-19). Trong đoạn văn này đám đông cầm nhành lá thiên tuế đón Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và làm chứng về dấu lạ La-da-rô sống lại (x. 11,41-45). Người thuật chuyện kể ở 12,17-18: “17 Vậy đám đông làm chứng, họ là những người đã có mặt với Người (Đức Giê-su), khi Người gọi La-da-rô ra khỏi mồ và làm cho anh ấy trỗi dậy từ giữa những kẻ chết. 18 Vì lẽ đó, đám đông đến đón Người, bởi họ nghe biết Người làm dấu lạ (sêmeion) đó.” Dấu lạ này có tầm quan trọng đặc biệt, vì là dấu lạ cuối cùng trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Người thực hiện dấu lạ này để mặc khải về ý nghĩa “sự chết” và “sự sống lại” của Người cũng như “sự chết” và “sự sống” của người tin qua mọi thời đại. Thật vậy, Đức Giê-su mặc khải cho Mác-ta ở 11,25-26a: “25 Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26a và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không chết.”
7. Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ga-li-lê (6,16-20)
Trình thuật Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ga-li-lê (6,16-20) tiếp nối dấu lạ bánh hoá nhiều (6,1-15) và chỉ có các môn đệ được chứng kiến. Bản văn không nói rõ biến cố này là dấu lạ. Tuy nhiên trình thuật có hai chi tiết lạ lùng: (1) Đức Giê-su đi trên Biển Hồ và đến với các môn đệ. Người thuật chuyện kể ở 6,19-20: “19 Khi đã chèo được khoảng 25 đến 30 dặm, các ông (các môn đệ) thấy Đức Giê-su đi trên Biển Hồ và đang tới gần thuyền, các ông sợ hãi. 20 Nhưng Người nói với các ông: ‘Chính là Thầy, đừng sợ!’” (2) Chi tiết lạ lùng thứ hai là cách thức thuyền được đưa vào bờ. Người thuật chuyện kể ở 6,21: “Các ông (các môn đệ) muốn đưa Người (Đức Giê-su) lên thuyền, và ngay lúc đó thuyền đã tới đất liền nơi các ông đi đến.” Qua hai chi tiết lạ lùng này, có thể xem trình thuật Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ti-bê-ri-a (6,16-20) như một dấu lạ.
8. Mẻ cá lạ lùng, 153 con (21,1-14)
Tương tự như trình thuật Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ (6,16-20), trình thuật mẻ cá lạ lùng ở ch. 21, cuối sách Tin Mừng (21,1-14), cũng ở biển hồ Ti-bê-ri-a, không được bản văn nói rõ là dấu lạ. Tuy nhiên câu chuyện xảy ra cách lạ lùng như sau: Các môn đệ đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì (21,3d). Khi trời sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển và nói với họ: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, và anh em sẽ tìm thấy” (21,6a). Sự lạ lùng đã xảy ra qua lời kể của người thuật chuyện ở 21,6b: “Vậy các ông thả lưới, và rồi không sao kéo lên nổi vì đầy cá.” Có thể xem trình thuật này là dấu lạ thứ 8 trong Tin Mừng Gio-an.
Tóm lại, Tin Mừng dùng 7 lần từ “sêmeion” (2,11; 4,54; 7,31; 6,14.26; 9,16; 12,18), ở số ít và số nhiều, để nói đến 6 dấu lạ Đức Giê-su đã thực hiện. Trong đó bốn trình thuật được xác định rõ ràng là “dấu lạ”: (1) Nước hoá thành rượu ngon (2,11); (2) Chữa lành con trai viên quan chức nhà vua (4,54); (3) Bánh hoá nhiều (6,14) (4) Gọi La-da-rô ra khỏi mồ (12,18). Hai dấu lạ được nói đến gián tiếp chứ không xác định rõ: (5) Chữa lành người 38 năm đau ốm (7,31); (6) Chữa người mù từ thuở mới sinh (9,16). Riêng hai dấu lạ cuối cùng: (7) Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ti-bê-ri-a (6,16-20) và (8) Mẻ cá lạ lùng (21,1-14) có thể gọi là dấu lạ vì sự lạ lùng của sự kiện.
II. NÓI VỀ CÁC DẤU LẠ CỦA ĐỨC GIÊSU
Từ “sêmeion” (dấu lạ) xuất hiện 6 lần trong Tin Mừng Gio-an để nói về các dấu lạ Đức Giê-su đã làm (3,2; 11,47; 2,23; 6,2; 12,37; 20,30). Cụ thể là (1) Ni-cô-đê-mô nói về dấu lạ của Đức Giê-su (3,2); (2) Thượng Hội Đồng Do Thái nói về dấu lạ (11,47); (3) Người thuật chuyện nói về dấu lạ 4 lần ở 2,23; 6,2; 12,37; 20,30.
1. Ni-cô-đê-mô nói về dấu lạ (3,2)
Trong trình thuật 3,1-12, Ni-cô-đê-mô đến gặp Đức Giê-su ban đêm, ông ấy đã nói với Đức Giê-su về các dấu lạ Người đã làm. Ni-cô-đê-mô nói với Đức Giê-su ở 3,2: “Thưa Ráp-bi, chúng tôi biết rằng: Ngài là một vị Thầy đến từ Thiên Chúa, vì không ai có thể làm được những dấu lạ (sêmeia) Ngài làm, nếu Thiên Chúa không ở với người ấy.” Ngay từ đầu sách Tin Mừng (ch. 3), Ni-cô-đê-mô là một người trong những người Pha-ri-sêu và là một thủ lãnh của những người Do Thái, đã biết đến Đức Giê-su như là “Người thực hiện các dấu lạ.” Dấu lạ là đề tài quan trọng trong Tin Mừng Gio-an, trong sứ vụ công khai, Đức Giê-su làm nhiều dấu lạ, và cũng vì các dấu lạ mà Người bị kết án chết (11,47-53).
2. Thượng Hội Đồng nói về dấu lạ (11,47)
Nhóm nhân vật “các thượng tế và những người Pha-ri-sêu” xác nhận Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ. Sau khi Đức Giê-su thực hiện dấu lạ làm cho La-da-rô sống lại (11,1-46), nhóm này đã triệu tập Thượng Hội Đồng và nói với nhau về Đức Giê-su ở 11,47b-48: “47b Chúng ta làm gì đây vì người này (Đức Giê-su) làm nhiều dấu lạ (polla sêmeia)? 48 Nếu chúng ta cứ để Ông ấy như thế tất cả sẽ tin vào Ông ấy, và người Rô-ma sẽ đến, họ sẽ huỷ diệt nơi thánh và dân tộc chúng ta.” Sau đó họ đã theo lời đề nghị của Cai-pha ở 11,49b-50: “49b Các ông không biết gì cả, 50 các ông cũng chẳng nghĩ rằng: Điều lợi cho các ông là một người chết cho dân và toàn thể dân tộc không bị tiêu diệt.” Người thuật chuyện cho biết quyết định cuối cùng của Thượng Hội Đồng Do Thái ở 11,53: “Vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người (Đức Giê-su).” Như thế, Đức Giê-su đã bị kết án chết vì những dấu lạ Người đã thực hiện và dấu lạ Người vừa làm ngay trước quyết định trên đây (11,53) là gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46).
3. Người thuật chuyện nói về dấu lạ
Người thuật chuyện dùng từ “sêmeion” (dấu lạ) bốn lần (2,23; 6,2; 12,37; 20,30) để nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm. Lần thứ nhất ở phần tóm kết cuối ch. 2 (2,23-25). Người thuật chuyện kể ở 2,23-25: “23 Trong lúc Người (Đức Giê-su) ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì Người biết tất cả, 25 và Người không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết có gì nơi con người.” Nhiều người đã tin vào Đức Giê-su khi thấy những dấu lạ (sêmeia) Người làm, nhưng Đức Giê-su đã không tin vào niềm tin của họ. Đây là trường hợp tin nhờ dấu lạ nhưng chưa phải là lòng tin đích thực. Niềm tin được củng cố thêm qua việc lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su. (Xem bài viết: “Tin (pisteuô) trong Tin Mừng Gio-an”).
Lần thứ hai xuất hiện ở đầu ch. 6. Đây là chương từ “dấu lạ” xuất hiện nhiều nhất (4 lần: 6,2.14.26.30) trong Tin Mừng Gio-an. Dấu lạ bánh hoá nhiều (6,4-15) mở đầu bằng việc nhắc lại “những dấu lạ Đức Giê-su đã làm” (6,2). Người thuật chuyện kể ở 6,1-3: “1 Sau những điều đó, Đức Giê-su đi qua bên kia biển hồ Ga-li-lê, gọi là Ti-bê-ri-a. 2 Một đám đông lớn đi theo Người, vì họ đã thấy những dấu lạ (sêmeia) Người làm cho những kẻ đau ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và ngồi ở đó với các môn đệ của Người.” Như thế, dấu lạ bánh hoá nhiều Đức Giê-su sắp thực hiện được nối kết với các dấu lạ khác, đặc biệt là hai dấu lạ chữa lành trước đó: Cứu sống con trai quan chức nhà vua (4,43-54) và chữa người đau ốm tại hồ Bết-da-tha (5,1-18).
Lần thứ ba người thuật chuyện dùng từ “dấu lạ” là ở 12,37. Những dấu lạ Đức Giê-su làm không nhất thiết làm cho người chứng kiến tin vào Người. Người thuật chuyện tóm kết sứ vụ công khai của Đức Giê-su ở 12,37: “Người (Đức Giê-su) đã làm quá nhiều dấu lạ (sêmeia) trước mặt họ, mà họ không tin vào Người.” Nhận xét này vừa đề cao sự xung đột trong Tin Mừng Gio-an, vì Tin Mừng Gio-an được trình bày như một vụ kiện giữa ánh sáng và bóng tối; vừa hướng về biến cố Giờ của Đức Giê-su: Biến cố Thương Khó – Phục Sinh, vì biến cố này giúp nhận ra Đức Giê-su thực sự là ai. Vì không đón nhận, không tin vào Đức Giê-su mà những kẻ chống đối đã tìm cách giết Người. Tuy nhiên giờ Thương Khó của Đức Giê-su theo thần học Tin Mừng Gio-an là giờ Người được tôn vinh (12,23; 13,31-32; 17,1).
Lần thứ tư, người thuật chuyện kết luận sách Tin Mừng bằng “những dấu lạ Đức Giê-su đã làm” ở 20,30-31: “30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ (sêmeia) khác trước mặt các môn đệ [của Người]; chúng không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được ghi chép là để anh em tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa; và nhờ tin, anh em có sự sống trong danh của Người.”
Tóm lại, sách Tin Mừng Gio-an mở đầu bằng dấu lạ (2,11), nội dung Tin Mừng thuật lại các dấu lạ (ch 4–9), sứ vụ công khai của Đức Giê-su kết thúc bằng dấu lạ (ch. 11) và cuối cùng, kết luận sách Tin Mừng nói đến dấu lạ (20,30). Như thế, “dấu lạ” là một trong những đề tài chính của Tin Mừng Gio-an. Ngoài ra còn có một số cách dùng khác của từ “dấu lạ”.
III. CÁCH DÙNG KHÁC NHAU CỦA TỪ “DẤU LẠ”
Từ “sêmeion” (dấu lạ) trong Tin Mừng Gio-an còn được nói đến theo quan điểm của người khác và theo nghĩa khác. Phần sau sẽ tìm hiểu ba ý: (1) Hai lần người ta xin Đức Giê-su làm dấu lạ (2,18; 6,30); (2) Một lần Tin Mừng cho biết Gio-an Tẩy Giả không làm dấu lạ (10,41). (3) Một lần, Đức Giê-su dùng kiểu nói: “Các dấu lạ và những điềm thiêng (sêmeia kai terata)” ở 4,48a.
1. Xin Đức Giê-su làm dấu lạ (2,18; 6,30)
Hai lần từ “dấu lạ” (ở số ít) ở 2,18 và 6,30 cho biết các khán thính giả đòi Đức Giê-su làm dấu lạ. Sau khi Đức Giê-su đuổi những kẻ buôn bán khỏi Đền Thờ (2,13-17), những người Do Thái chất vấn Đức Giê-su ở 2,18: “Bằng dấu lạ (sêmeion) nào Ông chứng tỏ cho chúng tôi là Ông có quyền làm những điều đó?” Lần thứ hai được thuật lại trong diễn từ bánh sự sống (6,25-59). Sau khi đám đông chứng kiến dấu lạ bánh hoá nhiều ở 6,1-15, họ gặp lại Đức Giê-su ngày hôm sau (6,25) và tiếp theo là diễn từ bánh sự sống (6,25-59). Trong phần đối thoại, đám đông hỏi Đức Giê-su ở 6,30: “Vậy chính Ông, Ông làm dấu lạ (sêmeion) nào để chúng tôi thấy và chúng tôi tin Ông? Ông sẽ làm việc gì?” Cả hai trường hợp xin Đức Giê-su làm dấu lạ trên đây (2,18; 6,30) đều đặt trong bối cảnh thách thức và xung đột, vì thế Đức Giê-su đã không thực hiện dấu lạ nào cho họ.
2. Gio-an Tẩy Giả không làm dấu lạ (10,41)
Trong lần tranh luận cuối cùng giữa Đức Giê-su và những người Do Thái ở 10,22-38, họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng người thuật chuyện cho biết ở 10,39b-40: “39b Người (Đức Giê-su) đã thoát khỏi tay họ. 40 Người lại ra đi, sang bên kia Gio-đan, đến chỗ trước kia Gio-an đã làm phép rửa, và Người ở lại đó.” Người thuật chuyện kể tiếp về thái độ của dân chúng ở 10,41-42: “41 Nhiều người đến với Người (Đức Giê-su) và họ nói rằng: ‘Gio-an đã không làm một dấu lạ (sêmeion) nào cả, nhưng mọi điều Gio-an nói về người này là thật.’ 42 Ở đó, nhiều người đã tin vào Người.” Nhận định này gợi đến những dấu lạ Đức Giê-su đã làm theo nghĩa là Gio-an Tẩy Giả không làm dấu lạ, nhưng Đức Giê-su thì làm nhiều dấu lạ. Điều này được minh chứng qua sáu dấu lạ Đức Giê-su đã thực hiện trước đó (từ ch. 2 đến ch. 9).
3. “Các dấu lạ và những điềm thiêng” (4,48)
Trong Tin Mừng Gio-an, từ “dấu lạ” (sêmeion) xuất hiện 1 lần trong cụm từ “Các dấu lạ và những điềm thiêng” (sêmeia kai terata) ở 4,48. Khi viên quan chức nhà vua xin Đức Giê-su chữa bệnh cho đứa con trai ở Ca-phác-na-um (4,46-47), Đức Giê-su nói với ông ấy ở 4,48: “Nếu các ông không thấy dấu lạ, điềm thiêng (sêmeia kai terata), chắc chắn các ông không tin.” Tuy nhiên, sau đó Đức Giê-su đã chữa lành con trai của viên quan chức nhà vua bằng một lời nói. Người thuật chuyện kể ở 4,50: “Đức Giê-su nói với ông ấy: ‘Ông hãy đi về, con ông sống.’ Người này tin vào lời Đức Giê-su nói với mình và đi về.”
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, cụm từ “Các dấu lạ và những điềm thiêng” (sêmeia kai terata) xuất hiện trong diễn từ cánh chung ở Mc 13,22 // Mt 24,24. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Mc 13,22: “Vì sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, làm những dấu lạ và những điềm thiêng (sêmeia kai terata) để lừa gạt những người được tuyển chọn, nếu có thể.” Từ “dấu lạ” (sêmeion) trong cụm từ “Các dấu lạ và những điềm thiêng” (sêmeia kai terata) có nghĩa khác với từ “dấu lạ” (sêmeion) theo thần học Tin Mừng Gio-an để nói về những hành động quyền năng Đức Giê-su đã thực hiện.
KẾT LUẬN
Tóm lại, 17 lần từ “sêmeion” trong Tin Mừng Gio-an xuất hiện trong ba trường hợp sau:
(1) Các dấu lạ Đức Giê-su thực hiện (7 lần)
– Dấu lạ nước hoá thành rượu ngon, 1 lần 2,11.
– Dấu lạ cứu sống con trai một viên quan chức, 1 lần: 4,54.
– Dấu lạ chữa người 38 năm đau ốm, 1 lần: 7,31.
– Dấu lạ bánh hoá nhiều, 2 lần: 6,14.26.
– Dấu lạ chữa người mù từ thuở mới sinh, 1 lần: 9,16.
– Dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ, 1 lần: 12,18.
(2) Người khác nói về dấu lạ của Đức Giê-su (6 lần)
– Ni-cô-đê-mô nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm, 1 lần: 3,2.
– Thượng Hội Đồng Do Thái nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm, 1 lần: 11,47.
– Người thuật chuyện nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm, 4 lần: 2,23; 6,2; 12,37; 20,30.
(3) Cách dùng khác của từ “sêmeion” (4 lần)
– Xin Đức Giê-su làm dấu lạ, 2 lần: 2,18; 6,30.
– Gio-an Tẩy giả không làm dấu lạ, 1 lần: 10,41.
– Kiểu nói: “Các dấu lạ và những điềm thiêng”, 1 lần: 4,48.
Những cách dùng khác nhau của từ “dấu lạ” (sêmeion) trong Tin Mừng Gio-an như trên cho thấy ý nghĩa của đề tài “dấu lạ” khá phức tạp. Cần đặt từ “dấu lạ” trong bối cảnh của từng đoạn văn để hiểu ý nghĩa của chúng. Các nhân vật trong Tin Mừng nói đến “dấu lạ” với cách hiểu khác nhau. Các thượng tế và những người Pha-ri-sêu nói về dấu lạ (11,47), nhưng họ không hiểu dấu lạ theo nghĩa như Đức Giê-su muốn. Vì nếu họ thực sự hiểu ý nghĩa của dấu lạ Đức Giê-su làm thì họ đã tin vào Người.
Trong kết luận thứ nhất (20,30-31), tác giả muốn người đọc nhận ra tầm quan trọng của các dấu lạ Đức Giê-su đã làm. Cách thức tác giả Tin Mừng thuật lại các dấu lạ kèm với diễn từ giải thích của Đức Giê-su, giúp độc giả lĩnh hội ý nghĩa của dấu lạ để tin vào Người. Chẳng hạn, diễn từ sau dấu lạ chữa lành người 38 năm đau ốm (ch. 5), diễn từ sau dấu lạ bánh hoá nhiều (ch. 6), tranh luận sau dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh (ch. 9). Ở ch. 11, Đức Giê-su mặc khải ý nghĩa dấu lạ ở 11,25-26 trước khi gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,43). Với cách trình bày “dấu lạ – diễn từ” như trên, cần xác định rõ: “dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an” (les signes johanniques) để phân biệt với nghĩa khác của từ “sêmeion” (signe) trong Tin Mừng Nhất lãm hay trong các bản văn khác của Tân Ước.
Tin Mừng Gio-an thuật lại bảy dấu lạ trong 12 chương đầu (Ga 1–12) và một dấu lạ trong chương cuối (ch. 21). Dựa vào đặc điểm này, người ta thường gọi 12 chương đầu của sách Tin Mừng (Ga 1–12) là “Sách Các Dấu Lạ”, phần còn lại: Ga 13–21 là “Sách Giờ Tôn Vinh”, bởi vì Ga 13–21 cho biết ý nghĩa (ch. 13–17) và diễn tiến (ch. 18–21) của biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Hai phần này liên kết chặt chẽ với nhau và soi sáng cho nhau. Một số tác giả xem hai trình thuật Đức Giê-su thanh tẩy đền thờ (2,13-22) và Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ (13,1-19) là dấu chỉ (sêmeion). Tuy nhiên, hai đoạn văn này không nói rõ các biến cố thuật lại là “sêmeion” (dấu lạ). Tin Mừng Gio-an dùng từ “sêmeion” để nói về những hành động quyền năng Đức Giê-su thực hiện, và chỉ một mình Đức Giê-su là Đấng mặc khải mới có thể cho biết ý nghĩa của dấu lạ.
Mỗi dấu lạ mặc khải một số khía cạnh liên quan đến ba câu hỏi quan trọng: Đức Giê-su từ đâu tới? Người là ai? Sứ vụ của Người là gì? Các dấu lạ của Đức Giê-su liên hệ mật thiết với biến cố thập giá, vì chính vì những dấu lạ Đức Giê-su đã thực hiện mà Thượng Hội Đồng Do Thái đã quyết định giết Đức Giê-su (11,47-53). Nói cách khác, các dấu lạ trong Tin Mừng dẫn Đức Giê-su đến biến cố “Giờ của Người” và ngược lại biến cố nghịch lý: “Giờ tôn vinh trên thập giá” giúp các môn đệ và độc giả hiểu ý nghĩa đích thực các dấu lạ Đức Giê-su đã làm trong sứ vụ công khai. Biến cố thập giá là biến cố nền tảng giúp hiểu căn tính của Đức Giê-su và nhờ dấu lạ, độc giả có thể tin vào Người, đây là mục đích của sách Tin Mừng, được nói đến trong kết luận thứ nhất ở 20,30-31.
Về phương diện ý nghĩa thần học, có thể nói trong Tin Mừng Gio-an chỉ có “dấu lạ”, chứ không có “phép lạ”. Người thuật chuyện cố ý không dùng từ “phép lạ” (dunamis) mà chỉ dùng từ “dấu lạ” (sêmeion), vì thế nếu dùng từ “phép lạ” để nói về các “dấu lạ” trong Tin Mừng Gio-an là chưa cảm nhận được nét độc đáo của thần học Gio-an về “dấu lạ”./.
***
MỤC TỪ NGỮ
sêmeion, -ou, to, dt., dấu lạ
Danh từ tiếng Hy Lạp “sêmeion” (tiếng Việt: dấu lạ, dấu chỉ; Anh: sign; Pháp: signe) xuất hiện 17 lần trong Tin Mừng Gio-an ở các nơi: 2,11.18.23; 3,2; 4,48.54; 6,2.14.26.30; 7,31; 9,16; 10,41; 11,47; 12,18.37; 20,30. Trong đó, có 11 lần ở số nhiều: “sêmeia” (những dấu lạ) ở 2,11.23; 3,2; 4,48; 6,2.26; 7,31; 9,16; 11,47; 12,37; 20,30; và 6 lần ở số ít: “sêmeion” (dấu lạ) ở 2,18; 4,54; 6,14.30; 10,41; 12,18.
Trong 17 lần trên,
– 7 lần từ “sêmeion” xác định những dấu lạ Đức Giê-su làm: 2,11; 4,54; 7,31; 6,14.26; 9,16; 12,18.
– 6 lần các nhân vật dùng từ “sêmeion” (dấu lạ) nói về các dấu lạ Đức Giê-su đã làm: Ni-cô-đê-mô (3,2), Thượng Hội Đồng Do Thái (11,47) và người thuật chuyện (2,23; 6,2; 12,37; 20,30).
– 4 lần từ “sêmeion” nói về cách dùng khác: người ta xin Đức Giê-su làm dấu lạ (2,18; 6,30), Gio-an Tẩy Giả không làm dấu lạ (10,41) và kiểu nói: “Các dấu lạ và những điềm thiêng (sêmeia kai terata)” (4,48).