Lc 10,1-12.17-20: Sứ Mạng Của Bảy Mươi [Hai] Môn Đệ

0
1063


Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

 

Bản Văn Tin Mừng: Lc 10,1-12.17-20 [1]

1 Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông:

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”. 10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: 11 “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. 12 Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó”.

17 Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”. 18 Đức Giê-su bảo các ông: “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. 20 Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.

***

1.- Ngữ cảnh

Vừa bắt đầu phần tường thuật cuộc hành trình lên Giêrusalem (Lc 9,51),[2] tác giả Luca đưa vào truyện Đức Giêsu cử bảy mươi [hai] môn đệ đi để dọn đường cho Người (Lc 10,1-12). Trước đây, ta thấy Người đã phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng và chữa lành (Lc 9,1-6).[3] Bây giờ đến lượt bảy mươi [hai] môn đệ được sai đi. Bản văn kết thúc với những lời Đức Giêsu chúc dữ cho các thành thuộc miền Galilê và nhận xét của Người về các môn đệ như là đại diện cho chính Người và cho Đấng sai phái Người (Lc 10,13-15.16). Bản văn phụng vụ không đọc đoạn này.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

          1) Đức Giêsu chỉ định và sai phái bảy mươi [hai] môn đệ (Lc 10,1);

          2) Đức Giêsu ban chỉ thị cho bảy mươi [hai] môn đệ (Lc 10,2-12);

          3) Những nhận định sau khi bảy mươi [hai] môn đệ đi giảng về (Lc 10,17-20).

3.- Vài điểm chú giải

– Chúa (1): Danh hiệu “kyrios” được tác phẩm Tin Mừng Luca – Công Vụ Tông Đồ dùng cho cả Đức Chúa (Yhwh) và Đức Giêsu. Dùng cho Đức Chúa (Yhwh) thì đã có trước Luca (x. Mc 11,9; 12,11.29.30.36; Lc 4,8//Mt 4,10 [thuộc Q]; Lc 4,12//Mt 4,7; Lc 10,27 [thuộc L]; 2Cr 3,17-18).[4] Đây là cách dịch Yhwh của Bản LXX. Tại Palestin tiền Kitô giáo, người Do Thái gọi Yhwh bằng tiếng Hipri là ’âdôn, “Chúa”, tiếng Aram là mârê’ hoặc mâryâ’, và tiếng Hy Lạp là kyrios. Rất có thể các Kitô hữu gốc Do Thái tại Palestin đã chuyển danh hiệu “Đức Chúa” này từ “Yhwh” sang cho Đức Giêsu, đặc biệt trong tư cách Đấng Phục Sinh. Và như thế, điều này có nghĩa là lời tuyên xưng tiên khởi “Giêsu là Chúa” (1Cr 12,3; Rm 10,9) [5] là một câu đáp lại kérygma tiên khởi. Dùng danh hiệu kyrios cho Đức Giêsu có nghĩa là đặt Người trên cùng một bình diện với với Yhwh, mà không đồng hóa Người với Yhwh, do chỗ không bao giờ Người được gọi là ’abbâ’.

Khi so sánh với Marco (chỉ một lần dùng danh hiệu này cho Đức Giêsu: Mc 11,3),[6] ta thấy Luca dùng thường xuyên (Lc 7,13.19; 10,1.39.41; 11,39; 12,42a; 13,15; 17,5.6; 18,6; 19,8a.31.34; [20,44]; 22,61 [2x]; 24,3.34);[7] điều này khiến phải lưu ý. Ở đây, đơn giản là Luca sử dụng một danh hiệu nay đã thành thông dụng vào thời ngài, như phần tường thuật của sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy (vd: Cv 1,21; 4,33; 514; 8,16…).[8] Trong thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai, nhiều người gọi Người bằng từ kyrios ở hô-cách [9] “kyrie” (Lc 5,8.12; 6,46 [2x]; 7,6; 9,54.59.61; 10,17.40; 11,1; 12,41; 13,23.25; 17,37; 18,41; 22,33.38.49).[10] Trong các ví dụ này, không dễ gì mà xác định được từ nào phải dịch là “ngài” (theo nghĩa trần thế) và từ nào phải dịch là “Chúa” (theo nghĩa tôn giáo). Rất có thể vào lúc viết, tác giả Luca nhắm đến nghĩa tôn giáo, kể cả cho từ ở hô-cách.

Đàng khác, ta phải ghi nhận rằng Luca còn trở ngược lại mà gán danh hiệu “kyrios” cho giai đoạn đầu của cuộc sống trần thế của Đức Giêsu: lời các sứ thần loan báo cho các mục đồng về “Chúa” ở Bethlehem (Lc 2,11);[11] lời bà Elisabeth chào Đức Maria là “Thân Mẫu Chúa tôi” (Lc 1,43);[12] lời Đức Maria tự nhận mình là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38).[13] Các danh hiệu này đúng ra nhắm đến Yhwh.

Khi sử dụng “kyrios” cho cả Yhwh lẫn Đức Giêsu trong tác phẩm, tác giả Luca nhận danh hiệu này theo nghĩa lâu nay vẫn được hiểu trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, tức là coi Đức Giêsu Phục Sinh ở trên cùng một bình diện với Yhwh. Khi rọi phóng danh hiệu này, một danh hiệu phát sinh từ cuộc Phục Sinh, ngược lại sau cho những phần đầu của truyện về Đức Giêsu, tác giả bao trùm tính cách của Đức Giêsu bằng một ảnh hưởng thật ra thuộc về giai đoạn ba của cuộc đời Người.

– Bảy mươi hai người khác (1): nghĩa là khác với Nhóm Mười Hai, nhưng cũng rất có thể khác với cả những sứ giả ở Lc 9,52.[14] “Bảy mươi” hay “bảy mươi hai”? Dù có áp dụng phương pháp phê bình văn bản, chúng ta vẫn không thể quyết định dứt khoát cho con số nào. Các thủ bản quan trọng hỗ trợ cho cả hai bên. Đọc vào các tác phẩm Kinh Thánh, ta thấy dường như số bảy mươi có ưu thế hơn: bảy mươi kỳ mục được Môsê chọn (Xh 24,1; Ds 11,16.24);[15] bảy mươi con cháu của Giacob (Xh 1,5; Đnl 10,22);[16] bảy mươi năm (Dcr 7,5 [?]).[17] Con số bảy mươi hai chỉ xuất hiện chính thức một lần khi sách Dân Số (Ds 31,38) [18] nói đến số bò bê phải dâng cho Đức Chúa. Tuy nhiên, dường như bản văn Cựu Ước nằm đàng sau con số là St 10,2-31,[19] là danh sách các dân trên thế giới: bản văn Hipri thì đọc là “bảy mươi”, còn Bản LXX lại đọc là “bảy mươi hai”. Dù sao, tác giả Tin Mừng thứ III đặt sứ mạng phổ quát của Hội Thánh của ông trên nền tảng là sứ mạng của Đức Giêsu.

– Cứ từng hai người một (1): Người ta nói rằng tập tục đi hai người với nhau là của người Do Thái, nhưng ta không thấy trong Cựu Ước có tập tục này. Đi từng cặp có thể là để nâng đỡ lẫn nhau trên đường; nhưng theo nghĩa mạnh hơn, đó là để làm chứng (vì pháp luật đòi phải có chứng của hai người: Đnl 19,15; Ds 35,30.[20] Xem trường hợp Phaolô và Banaba: Cv 13,1;[21] Phaolô và Xila: Cv 15,40;[22] Phêrô và Gioan: Cv 8,14;[23] Banaba và Marco: Cv 15,40; Giuđa và Xila: Cv 15,32).[24]

– Lúa chín đầy đồng (2): Theo Tin Mừng Luca, đây là một hình ảnh của thời gian trong đó việc rao giảng về Nước Thiên Chúa được thực hiện (x. Lc 8,15.16-17).[25] Đã đến giờ loan báo Nước Thiên Chúa cách rộng rãi và con số người chấp nhận sứ điệp sẽ đông. Trong Cựu Ước, mùa gặt là một hình ảnh nói về việc Thiên Chúa xét xử muôn dân vào thời cánh chung (Ge 4.1-13; Is 27,11-12).[26]

– Hãy xin chủ mùa gặt (2): Chỉ thị này hàm ý là công việc của Đức Giêsu và sứ mạng của các môn đệ nằm dưới sự quan phòng của chính Thiên Chúa: Ngài đang tạo ra một giai đoạn mới trong việc rao giảng nhằm cứu độ và Ngài sẽ là thẩm phán vào “ngày ấy” (câu 12).

– Như chiên con đi vào giữa bầy sói (3): Hình ảnh này gợi ra những nguy hiểm, chống đối, thù nghịch, đi theo hoạt động của các môn đệ, cũng như hoạt động của chính Đức Giêsu.

– Đừng chào hỏi ai dọc đường (4): Người ta giải thích lệnh này nhiều cách.

+ (1) Các môn đệ không được mất giờ vào việc nói chuyện với dân chúng vì mùa màng cần phải gặt gấp. Họ chỉ nên gửi lời chào đến các nhà và các thành thôi (x. 2V 4,29).[27]

+ (2) Các môn đệ phải tập trung vào việc rao giảng và chữa lành, chứ không vào những vấn đề trần thế. Quan hệ do việc rao giảng về Nước Thiên Chúa đòi hỏi không được đo lường bằng thái độ lịch sự hay những lời chào hỏi.

+ (3) Đây là một lưu ý về thái độ thù nghịch mà các môn đệ Đức Giêsu, trong tư cách là những tiền hô của Người, phải sẵn sàng đối mặt.

– Bình an (5): Cần hiểu “bình an” này theo nghĩa của từ “shalôm” trong Cựu Ước (do ngữ căn shlm, có nghĩa là “sự đầy đủ, sự toàn vẹn”), diễn tả lòng quảng đại của Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nhằm cứu độ. Và diều này được thực hiện cụ thể nhờ công trình cứu độ của Đức Giêsu (x. Lc 7,50; 8,48; 24,36).[28]

– Ai đáng hưởng bình an (6): dịch sát là “con cái của sự bình an”, tức là một người mở ra và có thể đón nhận hoa trái ơn cứu độ do Đức Giêsu mang đến.

– Bình an của anh em (6): nghĩa là sự bình an anh em mang đến trong tư cách sứ giả của Thầy.

– Vào bất cứ thành nào (10): Cả thành phải đối diện với lời rao giảng và việc chữa lành. Các môn đệ phải làm một hành vi công khai.

– Nghe đến danh Thầy (17): dịch sát là “trong/với danh Thầy”, nghĩa là khi kêu cầu danh Thầy. Viêc dùng danh Đức Giêsu trở thành một đề tài quen thuộc trong Công Vụ Tông Đồ (Cv 3,6; 4,10.17-18.30; 5,40; 9,27).[29]

– Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống (18): Ta có thể hiểu câu văn này theo hai cách:

+ (a) “Thầy đã thấy Satan sa xuống như một tia-chớp-từ-trời”: “từ trời” bổ nghĩa cho “chớp”“trời” là nơi xuất phát “chớp”;[30]

+ (b) “Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống”: cách dịch này gợi đến kiểu Cựu Ước mô tả Satan như “kẻ đối lập”, một công chức của triều đình thiên quốc của Yhwh có nhiệm vụ tố cáo loài người (G 1,6-12; 2,1-7; Dcr 3,1-2);[31] vậy cách dịch này muốn nói rằng Satan đã bị trục xuất khỏi vai trò đó (Fitzmyer). Cách dịch này hợp lý hơn.

Đây không phải là một thị kiến của Đức Giêsu tiền hữu, bởi vì sự tiền hữu của Người không được Luca để ý đến trong Tin Mừng, cũng không phải là một thị kiến Đức Giêsu có trong một lúc xuất thần trong thời gian đi hoạt động. Đây cũng không phải là một thị kiến báo trước về một điều sẽ xảy ra trong cuộc phán xét cuối cùng. Đúng hơn, Đức Giêsu “thấy” đây là một cách nói biểu tượng nhằm tóm tắt các hiệu quả mà các môn đệ đã đạt được khi đi thi hành sứ vụ.

– Rắn rết, bọ cạp (19): Ở Palestin, ai cũng biết rắn và bọ cạp là nguồn gây ra sự dữ thể lý, nhưng Cựu Ước dùng như biểu tượng để nói về mọi thứ sự dữ (x. Đnl 8,15; Ds 21,6-9; Hc 21,2; 1 V 12,11.14; Hc 39,30).[32]

– Tên anh em đã được ghi trên trời (20): Lời này gợi ý tới một hình ảnh của Cựu Ước: quyển sách sự sống ở trên trời, ghi tên những người thuộc về dân Thiên Chúa (Xh 32,32-33; Tv 69,28; 56,9; 87,6; Is 4,3; 34,16; Đn 12,1; Ml 3,16-17;[33] Tân Ước dùng lại: Pl 4,3; Dt 12,23; Kh 3,6; 13,8; 17,8; 20,12.15; 21,27).[34]

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu chỉ định và sai phái bảy mươi [hai] môn đệ (1)

Ngoài việc sai phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng và chữa lành (Lc 9,1-6), Tin Mừng thứ III kể rằng Đức Giêsu có chọn và cử một nhóm môn đệ khác (bảy mươi hay bảy mươi hai người) đi trước để dọn đường cho Người (10,1-12). Tuy Luca mô tả Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, tác giả không bao giờ cho biết các môn đệ được sai phái đi đâu và sau đó từ đâu trở về. Nhưng qua việc sai phái nhóm môn đệ này, ta hiểu là Đức Giêsu và sứ điệp của Người nhắm đến toàn thể nhân loại.

* Đức Giêsu ban chỉ thị cho bảy mươi [hai] môn đệ (2-12)

Đây là bản văn nhắc lại những chỉ thị ban cho Nhóm Mười Hai ở Lc 9,1-6, nhưng nêu bật hai điểm quan trọng: tính cấp bách và thái độ thù nghịch. Các môn đệ phải đi từng hai người một vì phải hành động trong tư cách chứng nhân. Các ông không được để cho các trở ngại làm chùn bước khi đi rao giảng về Nước Thiên Chúa. Việc chữa lành và loan báo phải làm nhanh như những thợ gặt phải nhanh tay thu hoạch lúa chín về kho. Các ông phải hiểu rằng các ông không được cử đi để làm những bổn phận xã hội, bởi vì những gì các ông phải giảng và phải làm sẽ đặt các ông ra một bên. Các ông sẽ không có giờ mà chào hỏi như quen làm, hay để ý tới loại lương thực các ông sẽ dùng, hoặc tìm nơi trú ngụ tiện nghi hơn. Sứ điệp các ông phải truyền đạt là: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”. Cung cách các ông làm việc là cung cách của các thợ gặt đang vội gặt lúa kẻo lúa bị hư đi. Tuy nhiên, các ông được cử đi như chiên con đi vào giữa bầy sói, nghĩa là không có phương thế tự vệ, như những thọ tạo yếu đuối đứng trước những tấn công gần kề.

Các câu 5-7 bàn đến cách cư xử của các môn đệ trong các nhà; còn câu 8-9 bàn đến lối sống của các ông trong các thành phố.

Dường như lý do khiến tác giả Luca viết bản văn lặp lại này (“điệp văn”) là sứ mạng rao giảng không chỉ dành riêng cho Nhóm Mười Hai; những “người khác” cũng sẽ tham gia vào việc làm chứng cho Đức Giêsu và cho Lời của Người. Đây là chiều hướng của sách Công Vụ Tông Đồ.

Đức Giêsu không tức khắc truyền các môn đệ rao giảng và chữa lành. Vừa ghi nhận “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, xong Ngài bảo các ông hãy cầu nguyện để xin Thiên Chúa sai thợ gặt đến. Việc gặt lúa là công việc của Thiên Chúa; các môn đệ chỉ là những người thợ được cử đến làm việc mà thôi. Như thế, kết quả của công việc thu hoạch không những lệ thuộc vào sự cộng tác của các ông, mà còn tùy thuộc vào lời cầu nguyện của các ông nữa. Chủ ruộng là Thiên Chúa (người ta phải rao giảng Nước của Ngài). Ở Lc 8,11,[35] Lời của Ngài được ví với hạt giống gieo vào lòng đất. Bây giờ việc rao giảng về Nước được gián tiếp so sánh với một mùa gặt. Đến đây ta ghi nhận rằng Đức Giêsu nhấn mạnh trên nhu cầu có các môn đệ như là các cộng sự viên; còn bản thân Người là người được sai đi rao giảng (Lc 4,18) [36] nay sai những “người khác” đi, và đi đông người (Lc 10,1); các ông sẽ là những đại diện của Người (Lc 10,16).

Các chỉ thị kết thúc bằng một ghi nhận mang giọng đe dọa so sánh các thành đã từ chối các môn đệ tương tự thành quê hương Người là Nadarét, đã từ chối sứ điệp của Người, hoặc làng Samari nọ đã không tiếp đón Người khiến các môn đệ muốn xin lửa trời xuống thiêu hủy (Lc 9,53-54),[37] với một thành Cựu Ước trứ danh, là Xơđom, đã bị lửa và diêm sinh thiêu rụi (St 19,24).[38] Vào ngày phán xét, Xơđom với tất cả sự gian ác của thành lại được xử khoan hồng hơn các thành kia vì họ đã loại trừ những đặc sứ của Thiên Chúa. Lời đe dọa này trở thành điểm tựa cho những lời nguyền rủa sau đó (nhưng Phụng vụ không đọc ở đây).

Đến đây, cộng đoàn Kitô hữu thời tác giả Luca thấy những nỗ lực truyền giáo của họ được liên kết với sứ mạng của chính Đức Giêsu. Như vậy, công việc rao giảng của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi được bén rễ trong giáo huấn và lệnh truyền này của Đức Giêsu.

* Những nhận định sau khi bảy mươi [hai] môn đệ đi giảng về (17-20)

Tác giả đã gắn vào truyện Đức Giêsu sai phái “bảy mươi [hai] người khác” một lời tường thuật về việc các ông trở về, phần báo cáo của các ông về kết quả mỹ mãn, và ba lời bình của Đức Giêsu về báo cáo của các ông cho biết những hiệu quả đạt được trong tư cách đại diện của Người. Người ta không thể bỏ qua một bên, sự tương phản giữa sự việc Xatan từ trời rơi xuống và việc tên các môn đệ được ghi trên trời, và bên kia, sự tương phản giữa điều đi theo “danh” Người và hậu quả của công việc họ làm, là “tên” của họ thực sự được ghi trên trời.

Đức Giêsu tóm các hiệu quả của sứ vụ của bảy mươi [hai] ông bằng hình ảnh Satan bị trục xuất khỏi ngai (câu 18). Sau đó (câu 19), Người giải thích thêm sự thất bại của tà thần: trong tư cách đại diện của Đức Giêsu, các môn đệ có “quyền” trên mọi dạng biểu lộ của tà thần (thể lý, biểu tượng, và nhân học). Nhận xét cuối cùng của Đức Giêsu (câu 20) đưa sứ vụ của các môn đệ vào đúng viễn tượng thiên giới: lý do khiến các ông vui mừng là vì chính Thiên Chúa đã ghi tên các ông vào sổ hằng sống, vào danh sách những kẻ được Ngài ưu ái. Đức Giêsu lái sự chú ý của các môn đệ ra khỏi những tư tưởng về một thành công lẫy lừng, gây cảm giác mạnh, để đi đến một nhận định về tư cách của họ trên trời. Có quyền lực trên ma quỷ không bảo đảm cho có sự sống; được ghi tên vào sổ sự sống mới là điều đáng kể.

+ Kết luận

Các đòi hỏi của Đức Giêsu với bảy mươi [hai] môn đệ giống với những đòi hỏi đối với Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6). Hẳn đây cũng là những yêu cầu mà các nhà thừa sai mọi thời phải đáp ứng: loan báo hòa bình thiên sai và Nước Thiên Chúa đang đến, trong sự dịu êm và nghèo khó, nhân ái và phục vụ, vô vị lợi và chấp nhận nếp sống bấp bênh, thiếu tiện nghi và an toàn. Chỉ với cái giá này, các môn đệ mới đạt được chiến thắng trên Thần Dữ và công trạng được Thiên Chúa ghi nhớ.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Giêsu đã ghi nhận: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Tuy nhiên, Người lại mời các môn đệ cầu xin chủ mùa gặt gửi thợ đến. Như thế, Ngài nhắc các ông nhớ rằng Thiên Chúa là Chúa của dân chúng và tất cả những gì liên hệ đến dân chúng thì đều ở dưới quyền chúa tể của Thiên Chúa. Ai muốn thật sự giúp đỡ dân chúng, thì không thể tự mình đi theo sáng kiến riêng và nhân danh mình, nhưng phải được chủ mùa gặt sai đi.

2. Chính Đức Giêsu đã sai các môn đệ đi. Người xử sự như là chủ mùa gặt. Thật ra Người làm nhân danh Thiên Chúa và làm vì lòng từ bi thương xót đối với dân. Các môn đệ ra đi phải chu toàn sứ mạng theo chiều hướng này.

3. Hành lý các môn đệ mang theo chẳng có gì, ngoài sứ điệp phải truyền đạt. Các ông không là gì khác ngoài tư cách sứ giả của sứ điệp này và các ông không mang theo gì ngoài sứ điệp này. Rõ ràng các ông cần một hành trang và một nơi cư ngụ. Tuy nhiên, các ông không được đòi hỏi gì và bận tâm gì cả. Các ông chỉ phải hoàn toàn quan tâm đến sứ điệp của các ông mà thôi. Một đòi hỏi phải nghèo khó, khiêm nhường và chấp nhận yếu đuối như thế, thì ngược lại với cám dỗ muốn đạt hiệu năng bằng mọi giá.

4. Việc loan báo Tin Mừng không thể là chuyện của một cá nhân riêng lẻ mà là việc của một cộng đoàn, cho dù ở dạng phôi thai. Không người môn đệ nào có thể tự cho rằng mình có sứ điệp Kitô giáo và có thể phản ảnh được hết sự phong phú của sứ điệp. Chính là trong đối thoại mà tôi sẽ nói về một vị Thiên Chúa đã chấp nhận đối thoại với loài người cho đến độ trở thành một người trong loài người.

5. Chúng ta không phải là những người bảo thủ. Chúng ta cảm phục những lời dạy bảo của Đức Giêsu khi đi đường với hành lý gọn nhẹ; Người dạy phải tin tưởng vào Người và tin tưởng sứ điệp mà chúng ta mang theo. Tuy nhiên, có những nơi và những tình huống đòi buộc, thì chúng ta phải dùng đến những nguồn vật chất để cung cấp cho những nhu cầu thể lý của người dân. Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ chúng ta cả thân xác lẫn linh hồn. Vì vậy, các Kitô hữu phải gây quỹ để xây dựng bệnh viện, trại mồ côi, trường học, nhà cửa cho những ai lâm cảnh khốn khó.

Có những Kitô hữu gương mẫu đã thực hiện những công việc tốt lành này, trong số đó, có những người được phong thánh, có những người được biết đến như là những người tốt lành và là những người yêu thương kẻ bần cùng. Họ có thể giỏi với gạch vữa. Nhưng trong tim, họ không đặt tin tưởng vào “túi tiền”, “bao bị” hay “giày dép”, nhưng họ đặt tin tưởng vào Đấng đã sai họ đi với những lời, “Hãy ra đi…”. Nhiều người đã đối diện với “những con sói” tham mồi, tham vọng và uy quyền đang chống lại họ. Họ đã vượt qua những thế lực tiêu cực này, không phải bằng việc đọ súng với nhau, nhưng vượt qua bằng cách nhớ lại Đức Giêsu đã nói rằng họ sẽ có Thánh Thần cùng đồng hành (Siciliano).

 

 

 


[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh

[2] Lc 9,51: Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem.

[3] Lc 9,1-6: 1 Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. 2 Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. 3 Người nói: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. 4 Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi. 5 Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”. 6 Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.

[4] x. Mc 11,9; 12,11.29.30.36: 9 Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! 12 11 Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta! 29 Đức Giê-su trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. 36 Chính vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng đã nói: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con.

Lc 4,8: Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

Mt 4,10 [thuộc Q]: Đức Giê-su liền nói: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

Lc 4,12: Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.

Mt 4,7: Đức Giê-su đáp: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.

Lc 10,27 [thuộc L]: Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”.

2Cr 3,17-18: 17 Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do. 18 Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.

[5] 1Cr 12,3: Vì thế, tôi nói cho anh em biết: chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: “Giê-su là đồ khốn kiếp!”; cũng không ai có thể nói rằng: “Đức Giê-su là Chúa”, nếu người ấy không ở trong Thần Khí; Rm 10,9: Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ.

[6] Mc 11,3: Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?”, thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay”.

[7] Lc 7,13.19; 10,1.39.41; 11,39; 12,42a; 13,15; 17,5.6; 18,6; 19,8a.31.34; [20,44]; 22,61 [2x]; 24,3.34: 13 Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” 19 sai họ đến hỏi Chúa rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” 10 1 Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 39 Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. 41 Chúa đáp: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! 11 39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng: “Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 12 42 Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? 13 15 Chúa đáp: “Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? 17 5 Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. 6 Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em. 18 6 Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! 19 8 Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. 31 Nếu có ai hỏi: ‘Tại sao các anh cởi lừa người ta ra’, thì cứ nói: ‘Chúa có việc cần dùng!’ 34 Hai ông đáp: “Chúa có việc cần dùng”. 22 61 Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”. 24 3 Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. 34 Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”.

[8] Cv 1,21; 4,33; 514; 8,16: 21 “Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta. 4 33 Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng. 8 16 Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su.

[9] Vocative

[10] Lc 5,8.12; 6,46 [2x]; 7,6; 9,54.59.61; 10,17.40; 11,1; 12,41; 13,23.25; 17,37; 18,41; 22,33.38.49: 8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” 12 Khi ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia; có một người đầy phong hủi vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. 6 46 “Tại sao anh em gọi Thầy:’Lạy Chúa! Lạy Chúa!”, mà anh em không làm điều Thầy dạy? 7 6 Đức Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với Người: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. 9 54 Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” 59 Đức Giê-su nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”. 61 Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. 10 17 Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”. 40 Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” 11 1 Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông”. 12 41 Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?” 13 23 Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: 25 “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói:’Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!”, thì ông sẽ bảo anh em:’Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!” 17 37 Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ở đâu vậy?” Người nói với các ông: “Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó”. 18 41 “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được”. 22 33 Ông Phê-rô thưa với Người: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng”. 38 Các ông nói: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây”. Người bảo họ: “Đủ rồi!”. 49 Thấy việc sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: “Lạy Chúa, chúng con tuốt gươm chém được không?”.

[11] Lc 2,11: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.

[12] Lc 1,43: Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?

[13] Lc 1,38: Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

[14] Lc 9,52: Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến.

[15] Xh 24,1: Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Hãy lên với ĐỨC CHÚA, ngươi cùng với A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en. Các ngươi sẽ phủ phục ở đằng xa.

Ds 11,16.24: 16 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy tập họp lại cho Ta bảy mươi người trong số kỳ mục Ít-ra-en, những kẻ ngươi biết là kỳ mục và ký lục trong dân. Ngươi sẽ đem chúng đến Lều Hội Ngộ, để chúng đứng đó với ngươi. 24 Ông Mô-sê ra nói lại với dân những lời của ĐỨC CHÚA. Ông tập họp bảy mươi người trong số kỳ mục của dân và đặt họ đứng chung quanh Lều.

[16] Xh 1,5: Dòng giống ông Gia-cóp tính tất cả là bảy mươi người; ông Giu-se thì đang ở bên Ai-cập.

Đnl 10,22: Cha ông của anh (em) chỉ có bảy mươi người khi xuống Ai-cập, mà bây giờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã làm cho anh (em) nên nhiều như sao trên trời.

[17] Dcr 7,5: Hãy nói với toàn dân trong xứ và các tư tế rằng: “Các ngươi ăn chay và than khóc vào tháng năm và tháng bảy, từ bảy mươi năm nay, có phải vì Ta, vì chính Ta mà các ngươi ăn chay?

[18] Ds 31,38: 36.000 bò bê, trong số đó, thuế nộp cho ĐỨC CHÚA là 72 con.

[19] St 10,2-31: 2 Con của ông Gia-phét là: Gô-me, Ma-gốc, Mê-đi, Gia-van, Tu-van, Me-séc, Ti-rát. 3 Con của ông Gô-me là: Át-cơ-nát, Ri-phát, Tô-gác-ma. 4 Con của ông Gia-van là: Ê-li-sa, Tác-sít, Kít-tim, Đô-đa-nim. 5 Con cháu họ đã phân tán thành các dân tộc trên các đảo. Mỗi người có đất riêng tuỳ theo tiếng nói, dòng họ và dân tộc của mình. 6 Con của ông Kham là: Cút, Mít-ra-gim, Pút, Ca-na-an. 7 Con của ông Cút là: Xơ-va, Kha-vi-la, Xáp-ta, Ra-ơ-ma, Xáp-tơ-kha. Con của ông Ra-ơ-ma là: Sơ-va, Đơ-đan. 8 Ông Cút sinh ra ông Nim-rốt; ông này là người anh hùng đầu tiên trên mặt đất. 9 Ông là thợ săn dũng cảm trước mặt ĐỨC CHÚA. Vì thế có câu: “Như Nim-rốt, thợ săn anh hùng trước mặt ĐỨC CHÚA”. 10 Khởi điểm vương quốc ông là Ba-ben, E-réc, Ác-cát, Can-nê, trong đất Sin-a. 11 Từ đất ấy, ông rời đến Át-sua và xây các thành Ni-ni-vê, Rơ-khô-vốt, Ia, Ca-lác, 12 và Re-xen, giữa Ni-ni-vê và Ca-lác, thành phố lớn. 13 Mít-ra-gim sinh ra các người ở Lút, A-nam, Lơ-háp, Náp-tu-khin, 14 Pát-rốt, Cát-lúc và Cáp-to; từ dân này mới có dân Phi-li-tinh. 15 Ca-na-an sinh ra Xi-đôn, là con đầu lòng, rồi sinh Khết, 16 người Giơ-vút, E-mô-ri, Ghia-ga-si, 17 Khi-vi, Ác-ki, Xi-ni, 18 Ác-vát, Xơ-ma-ri, Kha-mát; sau đó các dòng họ người Ca-na-an phân tán đi. 19 Biên giới của người Ca-na-an đi từ Xi-đôn, về phía Gơ-ra thì đến tận Ga-da, về phía Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim thì đến Le-sa. 20 Đó là các con ông Kham, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ. 21 Cả ông Sêm cũng sinh được những người con, ông là ông tổ của mọi người con của ông Ê-ve và là anh cả của ông Gia-phét. 22 Con của ông Sêm là: Ê-lam, Át-sua, Ác-pắc-sát, Lút, A-ram. 23 Con của ông A-ram là Út, Khun, Ghe-the, Ma-sơ. 24 Ác-pắc-sát sinh Se-lác, Se-lác sinh Ê-ve. 25 Ê-ve sinh được hai con trai; người thứ nhất tên là Pe-léc, vì thời ông đất được phân chia, người em tên là Gióc-tan. 26 Gióc-tan sinh An-mô-đát, Se-lép, Kha-xa-ma-vét, Gie-rác, 27 Ha-đô-ram, U-dan, Đích-la, 28 Ô-van, A-vi-ma-ên, Sơ-va, 29 Ô-phia, Kha-vi-la, Giô-váp. Tất cả những người đó là con ông Gióc-tan. 30 Vùng họ ở trải rộng từ Mê-sa cho đến Xơ-pha, ngọn núi phía đông. 31 Đó là các con ông Sêm, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ.

[20] Đnl 19,15: Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.

Ds 35,30: Trong mọi trường hợp đánh chết người, người ta sẽ dựa vào lời khai của các chứng nhân mà xử tử kẻ sát nhân. Nhưng lời khai của một chứng nhân duy nhất sẽ không thể làm cho ai bị kết án tử hình.

[21] Cv 13,1: Trong Hội Thánh tại An-ti-ô-khi-a, có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Ba-na-ba, Si-mê-ôn biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô.

[22] Cv 15,40: Còn ông Phao-lô thì chọn ông Xi-la và lên đường, sau khi đã được các anh em giao phó cho ân sủng Chúa.

[23] Cv 8,14: Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón nhận lời Thiên Chúa, thì cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ.

[24] Cv 15,32: Ông Giu-đa và ông Xi-la, vì cũng là ngôn sứ, đã nói chuyện lâu với các anh em mà khuyên nhủ và làm cho họ được vững mạnh.

[25] x. Lc 8,15.16-17: 15 Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả. 16 “Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng. 17 Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng.

[26] Ge 4.1-13: 1 “Này đây, trong những ngày ấy, cũng vào thời ấy, khi Ta phục hồi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, 2 Ta sẽ tập hợp mọi nước mọi dân, đưa xuống cánh đồng Giô-sa-phát. Ở đó, Ta sẽ tranh tụng với chúng về vấn đề Ít-ra-en là dân Ta và sản nghiệp của Ta: chúng đã phân tán dân Ta giữa các dân các nước, đã chia cắt đất đai của Ta. 3 Chúng đã đem dân Ta ra bắt thăm, đổi bé trai lấy kỹ nữ, bán bé gái mua rượu mà uống”. 4 “Ngay cả các ngươi nữa, hỡi dân Tia và Xi-đôn cũng như dân mọi vùng xứ Phi-li-tinh, các ngươi muốn làm gì Ta? Muốn trả thù Ta sao? Mà nếu các ngươi trả thù Ta, lập tức Ta sẽ lấy hành động trả thù của các ngươi mà quật lại các ngươi. 5 Các ngươi là những kẻ đã lấy bạc lấy vàng, lấy những vật quý giá của Ta mà đem vào đền thờ của các ngươi, 6 đã bán con cái Giu-đa và con cái Giê-ru-sa-lem cho con cái Gia-van, khiến chúng phải xa rời phần lãnh thổ của chúng. 7 Từ nơi các ngươi đã bán chúng, Ta sẽ khiến chúng vùng dậy. Ta sẽ lấy hành động trả thù của các ngươi mà quật lại các ngươi. 8 Con trai con gái của các ngươi, Ta sẽ bán cho con cái Giu-đa. Con cái Giu-đa sẽ bán lại cho người Sơ-va, cho một nước ở xa. ĐỨC CHÚA đã phán như vậy”. 9 Giữa các dân các nước, hãy cao giọng loan báo điều sau đây: Hãy thánh hoá mình để sẵn sàng ứng chiến, hãy động viên tinh thần các dũng sĩ. Hết mọi người lính chiến, cứ tiến tới, cứ xông lên! 10 Hãy lấy cuốc lấy cày đúc thành gươm đao, lấy hái lấy liềm rèn nên giáo mác. Kẻ yếu nhược cũng nói: “Ta đây trang dũng sĩ!” 11 Mọi dân nước chung quanh, hãy mau mau chạy lại, đến tập hợp ở đó. Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài gửi xuống các dũng sĩ của Ngài. 12 “Các dân nước hãy bắt đầu di chuyển, tiến lên cánh đồng Giô-sa-phát, vì tại đó Ta sẽ ngự toà xét xử mọi dân nước chung quanh. 13 Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín. Hãy đến mà đạp nho vì bồn ép đã đầy, bồn chứa đã trào ra, vì sự gian ác của chúng quá nhiều”.

Is 27,11-12: 11 Cành héo khô thì bị bẻ gãy, và các bà đến châm lửa đốt đi. Vì bọn dân này không chịu hiểu, nên Đấng tác thành chẳng thương xót, Đấng nặn ra chúng chẳng dung tha. 12 Rồi ngày kia ĐỨC CHÚA sẽ đập lúa từ sông Cả cho tới suối Ai-cập. Và anh em, hỡi con cái Ít-ra-en, từng người một, anh em sẽ được Chúa mót nhặt về.

[27] x. 2V 4,29: Ông Ê-li-sa bảo Giê-kha-di: “Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại. Ngươi sẽ đặt gậy của ta trên mặt cậu bé”.

[28] x. Lc 7,50; 8,48; 24,36: 50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”. 8 48 Đức Giê-su nói với bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi bình an”. 24 36 Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!”.

[29] Cv 3,6; 4,10.17-18.30; 5,40; 9,27: 6 Bấy giờ ông Phê-rô nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!” 4 10 Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. 17 Nhưng để cho việc đó khỏi lan rộng thêm trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm họ từ nay không được nói đến danh ấy với ai nữa”. 18 Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giê-su nữa. 30 Xin giơ tay chữa lành, và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su”. 5 40 Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi thả các ông ra. 9 27 Ông Ba-na-ba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Sao-lô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giê-su tại Đa-mát thế nào.

[30] P. Joüon; F.W. Lewis.

[31] G 1,6-12; 2,1-7: 6 Vậy một ngày kia, các con cái Thiên Chúa đến trình diện ĐỨC CHÚA; Xa-tan cũng đến trong đám họ. 7 Bấy giờ ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Ngươi từ đâu tới?” Xa-tan thưa với ĐỨC CHÚA: “Rảo quanh cõi đất và lang thang khắp đó đây”. 8 ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác!” 9 Nhưng Xa-tan thưa lại với ĐỨC CHÚA: “Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng? 10 Chẳng phải chính Ngài đã bao bọc, chở che nó tư bề, nó cũng như nhà cửa và tài sản của nó sao? Ngài đã ban phúc lành cho công việc do tay nó làm, và các đàn súc vật của nó lan tràn khắp xứ. 11 Ngài cứ thử giơ tay đánh vào mọi tài sản của nó xem, chắc chắn là nó nguyền rủa Ngài thẳng mặt!” 12 ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Được, mọi tài sản của nó thuộc quyền ngươi, duy chỉ có con người của nó là ngươi không được đưa tay đụng tới”. Rồi Xa-tan rút lui khỏi nhan ĐỨC CHÚA. 2 1 Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến trình diện ĐỨC CHÚA; Xa-tan cũng đến trong đám họ, để trình diện ĐỨC CHÚA. 2 Bấy giờ, ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Ngươi từ đâu tới?” Xa-tan thưa với ĐỨC CHÚA: “Rảo quanh cõi đất và lang thang khắp đó đây”. 3 ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác! Nó vẫn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của nó, dù ngươi đã vô cớ xúi giục Ta chống lại, để tiêu diệt nó”. 4 Và Xa-tan thưa lại với ĐỨC CHÚA: “Da đổi da! Tất cả những gì người ta có, người ta đều sẵn sàng cho đi để cứu mạng sống mình. 5 Ngài cứ thử giơ tay đánh vào xương vào thịt nó xem, chắc chắn là nó sẽ nguyền rủa Ngài thẳng mặt!” 6 ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Được, nó thuộc quyền ngươi, nhưng ngươi phải tôn trọng mạng sống nó”. 7 Rồi Xa-tan rút lui khỏi nhan ĐỨC CHÚA. Vậy Xa-tan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu.

Dcr 3,1-2: 1 Người lại cho tôi thấy thượng tế Giê-su-a đang đứng trước mặt thần sứ của ĐỨC CHÚA;còn Xa-tan đứng bên phải ông để tố cáo ông. 2 Thần sứ của ĐỨC CHÚA nói với Xa-tan: “Ước gì ĐỨC CHÚA trừng phạt ngươi, hỡi Xa-tan;ước gì ĐỨC CHÚA, Đấng đã tuyển chọn Giê-ru-sa-lem, trừng phạt ngươi, hỡi Xa-tan;ước gì ĐỨC CHÚA, Đấng đã tuyển chọn Giê-ru-sa-lem, trừng phạt ngươi. Người này lại chẳng phải là thanh củi đã được kéo ra khỏi lửa sao?”.

[32] x. Đnl 8,15: Người đã dẫn anh (em) đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh (em) uống.

Ds 21,6-9: 6 Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. 7 Dân đến nói với ông Mô-sê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách ĐỨC CHÚA và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu ĐỨC CHÚA để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi”. Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. 8 ĐỨC CHÚA liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. 9 Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.

Hc 21,2: Con hãy tránh tội như tránh rắn, vì nếu con tới gần, nó sẽ cắn con. Răng nó khác nào răng sư tử cướp mạng sống con người.

1V 12,11.14: 11 Vậy phụ vương ta đã đặt ách nặng trên các ngươi, còn ta, ta chất cho nặng hơn nữa; phụ vương ta trừng phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp. 14 nhưng nói với họ theo ý kiến đám người trẻ rằng: “Phụ vương ta đã đặt ách nặng trên các ngươi, còn ta, ta chất nặng hơn nữa trên các ngươi; phụ vương ta trừng phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp”.

Hc 39,30: Răng thú dữ, bò cạp, rắn hổ mang cùng với lưỡi gươm để trừng phạt và để tiêu huỷ phường gian ác.

[33] Xh 32,32-33: 32 Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết”. 33 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Kẻ nào phạm tội làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá tên nó khỏi cuốn sách của Ta.

Tv 69,28; 56,9; 87,6: 9 Bước đường con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi. Xin lấy vò mà đựng nước mắt con. Nào Ngài đã chẳng ghi tất cả vào sổ sách? 69 28 Xin đổ lên đầu chúng hết tội này đến tội kia và chẳng hề kể chúng là công chính trước mặt Ngài. 87 6 CHÚA ghi vào sổ bộ các dân: “Kẻ này người nọ đều sinh ra tại đó”.

Is 4,3; 34,16: 3 Những người sống sót ở Xi-on và những kẻ còn sót lại ở Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là thánh. Tất cả được ghi tên vào sổ để sống tại Giê-ru-sa-lem. 34 16 Hãy tìm trong sách của ĐỨC CHÚA và đọc: sẽ không thiếu một con nào trong chúng, con nào cũng có bạn có đôi. Bởi vì chính miệng Chúa đã phán truyền, chính thần khí Người quy tụ lại.

Ml 3,16-17: 16 Bấy giờ những người kính sợ ĐỨC CHÚA sẽ nói với nhau: ĐỨC CHÚA đã để ý và Người đã nghe: một cuốn sổ được viết trước nhan Người, ghi tên những kẻ kính sợ ĐỨC CHÚA và tôn kính Danh Người. 17 Vào ngày Ta hành động, chúng sẽ thuộc về Ta như sở hữu riêng, – ĐỨC CHÚA các đạo binh phán, Ta sẽ xót thương chúng như người cha xót thương đứa con phụng dưỡng mình.

[34] Pl 4,3: Tôi xin cả anh Xi-di-gô nữa, người bạn chân thành đã đồng lao cộng khổ với tôi, xin anh giúp đỡ các chị ấy. Các chị đã giúp tôi chiến đấu cho Tin Mừng, cũng như anh Cơ-lê-men-tê và các cộng sự viên khác mà tên tuổi đã được ghi trong Sổ Trường Sinh.

Dt 12,23: Dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện.

Kh 3,6; 13,8; 17,8; 20,12.15; 21,27: 6 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh. 13 8 Mọi người sống trên mặt đất sẽ thờ lạy nó; đó là những người từ thuở tạo thiên lập địa không được ghi tên trong Sổ Trường Sinh của Con Chiên đã bị giết. 17 8 Con Thú ông vừa thấy, nó đã có nhưng không còn nữa. Nó sắp từ Vực thẳm đi lên và đang tới chỗ diệt vong. Các người sống trên mặt đất, mà từ thuở tạo thiên lập địa không được ghi tên trong Sổ Trường Sinh, sẽ ngạc nhiên khi thấy Con Thú, vì nó đã có, nó không còn nữa, nhưng sẽ trở lại. 20 12 Rồi tôi thấy những người chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách. 15 Ai không có tên ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng vào hồ lửa. 21 27 Tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được vào thành, mà chỉ có những người có tên ghi trong Sổ trường sinh của Con Chiên mới được vào.

[35] Lc 8,11: “Đây là ý nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa”.

[36] Lc 4,18: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức.

[37] Lc 9,53-54: 53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54 Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?”.

[38] St 19,24: ĐỨC CHÚA làm mưa diêm sinh và lửa từ ĐỨC CHÚA, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra.