Tìm Hiểu Tin Mừng Thứ Hai: “Bí Mật Công Khai” – Cấm Không Được Nói Mà Ai Cũng Biết!

0
848


Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.

 

DẪN NHẬP

Người đọc sẽ ngạc nhiên trong cách trình bày của Tin Mừng Mác-cô về đề tài tương phản và nghịch lý: “Bí mật công khai.” Làm thế nào “bí mật” lại có thể đi với sự đối lập là “công khai”? Điều lạ lùng là Đức Giê-su đã nhiều lần cấm các nhân vật trong Tin Mừng Mác-cô nói về Người, nhưng lệnh cấm đó thường là không được tuân giữ. Một đàng thì “càng cấm càng nói” (x. Mc 7,36); một đàng thì điều Đức Giê-su cấm, mọi người đều biết. Đây có thể là điểm độc đáo và riêng biệt của Tin Mừng Mác-cô: Dùng cách trình bày nghịch lý để chuyển tải những mặc khải thần học thú vị.

Trong Tin Mừng Mác-cô, một số đoạn văn nói đến việc Đức Giê-su cấm thính giả nói về Người: Mc 1,25.44; 3,12; 5,43; 7,36; 8,30; 9,9. Người ta thường gọi đây là đề tài “Bí mật về tư cách Mê-si-a của Đức Giê-su trong Tin Mừng Mác-cô” và giải thích rằng: Đức Giê-su cấm không cho tiết lộ về tư cách Mê-si-a để tránh hiểu lầm. Người cần thời gian để làm rõ vai trò Mê-si-a của Người.

Cách hiểu này có tính lịch sử và nếu chỉ hiểu như thế thì chưa lột tả hết ý nghĩa thần học của Tin Mừng Mác-cô liên quan đến đề tài “bí mật công khai”. Khi Tin Mừng Mác-cô trình bày cách nghịch lý: “Bí mật nhưng ai cũng biết”, “càng cấm càng loan truyền về Đức Giê-su”, có thể đề tài này muốn nói với độc giả điều gì đó.

Để phân tích đề tài “bí mật công khai”, phần sau trả lời các câu hỏi: Đức Giê-su đã cấm những đối tượng nào nói về Người? Cấm trong hoàn cảnh nào? Cấm điều gì? Lệnh cấm có được thực hiện hay không? Để từ đó có thể tìm ra ý nghĩa thần học của đề tài “bí mật công khai” trong Tin Mừng Mác-cô. Đức Giê-su cấm ba nhóm nhân vật nói về Người:

1. Thần ô uế và quỷ.

2. Những người được chữa lành.

3. Các môn đệ.

I. ĐỨC GIÊSU CẤM THẦN Ô UẾ VÀ QUỶ NÓI VỀ NGƯỜI

Ngay từ lần rao giảng đầu tiên trong hội đường, Đức Giê-su đã trục xuất thần ô uế và cấm thần ô uế nói về Người. Câu chuyện Đức Giê-su giảng dạy và trục xuất thần ô uế (Mc 1,21-28) được trình bày cách lạ lùng và nghịch lý như sau:

Bản Văn Tin Mừng: Mc 1, 21 – 28 [1]

21 Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. 22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.

23 Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên 24 rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” 25 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” 26 Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. 27 Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” 28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.

Tại sao Đức Giê-su ra lệnh cho thần ô uế “câm đi” (1,25), không được nói, trong khi thần ô uế nói đúng về Người: “Tôi biết Ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa”? (1,24). Tại sao Đức Giê-su ra lệnh “câm đi” khi thần ô uế đã nói rồi? Nghĩa là cử toạ trong trình thuật và độc giả đều biết rõ thần ô uế nói gì. Đức Giê-su cấm thần ô uế nói điều mà ai cũng đã nghe, đã biết, điều này có ý nghĩa gì?

Đức Giê-su ra lệnh cho thần ô uế câm đi, vì tự bản chất, thần ô uế đối lập với Đấng Thánh. Thần ô uế không có tư cách để nói sự thật về Đức Giê-su. “Thần ô uế” (to pneuma to akatharton) ở đây thuộc về “quỷ” (ho diabolos), vì trong trình thuật song song giữa Tin Mừng Mác-cô và Lu-ca (Mc 1,23 // Lc  4,33), Lu-ca ghép chung “thần ô uế”  (to pneuma to akatharton) với “quỷ” (to daimonion) khi viết Lc 4,33 viết: “Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập (pneuma daimoniou akathartou).” Tin Mừng Gio-an định nghĩa về quỷ như sau: “Quỷ không đứng trong sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói, nó nói theo bản tính của nó là sự gian dối, vì nó là kẻ nói dối, và là cha của sự gian dối” (Ga 8,44). Bởi vì quỷ không có sự thật nơi mình, nên thần ô uế không có khả năng nói sự thật, nhất là sự thật về Đức Giê-su.

Hơn nữa, thần ô uế tự cho mình “biết” khi nó nói với Đức Giê-su: “Tôi biết Ông là ai” (Mc 1,24b). Thực ra, chỉ có người của Thiên Chúa, chỉ có người thuộc về Thiên Chúa mới thực sự “biết” Đức Giê-su. Thần ô uế không thuộc về Thiên Chúa, thần ô uế nhập vào con người, làm cho con người bị tha hoá và xa rời Thiên Chúa, nên nó không thực sự biết Đức Giê-su. Vì thế, Người ra lệnh “hãy câm đi”. Thần ô uế không được nói, vì nó không thể nói sự thật. Đúng hơn, nó không có sự thật để nói. Sâu xa hơn, thần ô uế không có “lời” để nói, không có phương tiện để nói, vì nó phải nhập vào con người và mượn tiếng con người để nói.

Đặc biệt trong đoạn văn 1,21-28, thần ô uế phải câm, vì nó không thể là nhân vật đầu tiên nói về Đức Giê-su trong Tin Mừng Mác-cô. Đối với độc giả, lời của thần ô uế (1,24) là một thông tin quan trọng và đúng, nhưng tư cách của người nói lại không xứng đáng. Qua lời của thần ô uế, người thuật chuyện cung cấp cho độc giả một thông tin chính xác về Đức Giê-su, nhưng sau đó lại phủ nhận tư cách của người cung cấp thông tin đó. Qua cách hành văn như thế, người thuật chuyện muốn cho độc giả biết rằng chỉ có thông tin đúng mà thôi thì chưa đủ, điều quan trọng là tuyên xưng điều đó với lòng tin vào Đức Giê-su.

Nói đúng về Đức Giê-su với lòng tin là một hành trình dài. Con người cần học hỏi và lắng nghe giáo huấn của Đức Giê-su để dần dần khám phá ra Người là ai, từ đó sám hối và tin vào Người. Nói cách khác, chỉ con người mới có cơ may thực sự biết Đức Giê-su và nói đúng về Người.

Để nói đúng sự thật về Đức Giê-su, Người đã chọn một con đường khác. Đó là Đức Giê-su giải thoát con người khỏi thần ô uế, và mặc khải cho con người biết Người là ai. Cho dù, đối với con người, tiến trình học biết Đức Giê-su không đơn giản. Sự không hiểu của các môn đệ trong suốt Tin Mừng cho thấy rõ điều đó. Trong thực tế, loài người không biết rõ Đức Giê-su như thần ô uế, nhưng nếu con người đón nhận và tin vào Người thì có thể biết đúng và nói đúng về Người.

Tiến trình “quỷ nói rồi cấm” như trên được lặp lại ở Mc 3,11-12 như một lời tóm kết: “11 Còn các thần ô uế, hễ thấy Người thì sấp mình dưới chân của Người và kêu lên rằng: ‘Ông là Con Thiên Chúa.’ 12 Và Người cấm ngặt chúng để chúng không làm Người bị lộ.” Nhiều lần Đức Giê-su cấm thần ô uế nói, nhưng nội dung điều cấm thì ai cũng biết: “Đức Giê-su là Con Thiên Chúa” (3,11). Lối hành văn độc đáo của Tin Mừng Mác-cô vừa cho độc giả biết Đức Giê-su là ai, vừa mời gọi độc giả đón nhận và tin vào Đức Giê-su để có thể nói về Người.

II. CẤM NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỮA LÀNH NÓI VỀ ĐỨC GIÊSU

Một số trường hợp, Đức Giê-su cấm những người được chữa lành nói về Người. Tuy nhiên, sự cấm đoán này không thành công, vì Đức Giê-su càng cấm, họ càng loan truyền (1,44-45; 7,36). Vậy ý nghĩa của việc “không vâng lời” này là gì?

Sau khi chữa người phong hủi, Đức Giê-su nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay và nói: “Coi chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện với tư tế, và vì anh đã được sạch, anh hãy tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ” (1,44). Người thuật chuyện kể tiếp: “Nhưng vừa đi khỏi, anh ta đã bắt đầu rao giảng khắp nơi và loan truyền lời ấy, đến nỗi Người không thể công khai đi vào thành, Người đành ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người” (1,55).

Câu chuyện Đức Giê-su chữa người điếc và ngọng cũng tương tự như trường hợp trên. Người thuật chuyện kể ở 7,34-36: “34 Đức Giê-su ngước mắt lên trời, thở dài và nói với anh ta: ‘Ép-pha-tha’, nghĩa là ‘Hãy mở ra!’ 35 Và ngay Lập tức tai của anh ta mở ra, sự trói buộc lưỡi của anh ta được tháo ra, và anh ta nói được rõ ràng. 36 Người căn dặn họ là không được nói với ai. Nhưng Người càng căn dặn họ, họ càng loan truyền hơn nữa.”

Một vài trường hợp khác, Đức Giê-su cấm những người được chữa lành nói về Người, nhưng chỉ nói cấm mà không cho biết người ta có tuân giữ hay không (5,43; 8,26). Người thuật chuyện kể việc Đức Giê-su cứu sống con gái ông trưởng hội đường ở 5,41-43 như sau: “41 Người cầm lấy tay đứa bé và nói với nó: ‘Ta-li-tha kum’, dịch ra là ‘Này cô bé, Thầy bảo con: Hãy trỗi dậy!’ 42 Và lập tức cô bé đứng dậy và đi lại, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta sửng sốt kinh ngạc vô cùng. 43 Người căn dặn họ nhiều lần là không được để một ai biết việc ấy, và Người nói cho con bé ăn.” Trong câu chuyện chữa anh mù (8,24-26), Đức Giê-su chỉ dặn anh ta: “Anh đừng có vào làng” (8,26).

Tóm lại, cách trình bày độc đáo của Tin Mừng Mác-cô là kiểu hành văn nói về việc “không vâng lời Đức Giê-su”. Thực vậy, khi Người dặn đừng nói với ai về phép lạ Người đã làm thì họ lại “rao giảng khắp nơi” (1,55) và “Người càng căn dặn họ, họ càng loan truyền hơn nữa” (7,36). Lối hành văn độc đáo về sự “không vâng lời” này nói lên nhiều điều thú vị. Qua sự “không vâng lời”, người được chữa lành và những người chứng kiến phép lạ đã đề cao Đức Giê-su vì họ nhận ra việc Đức Giê-su làm là quá lớn lao, quá sức tưởng tượng. Niềm vui và hạnh phúc lớn đến nỗi họ không thể giữ kín và chỉ còn một cách duy nhất để diễn tả niềm vui  đó là “Càng cấm càng nói.” Họ làm thế để ca tụng Thiên Chúa và để nói cho mọi người biết Đức Giê-su là ai và Người đã làm gì. Họ mời gọi mọi người đến với Đức Giê-su để đón nhận sự sống đích thực ở nơi Người.

Kiểu hành văn lạ lùng như trên muốn nói với độc giả rằng khi tin vào Đức Giê-su, khi đón nhận sự sống từ nơi Người, khi được Người yêu thương và chữa lành các bệnh tật của tâm hồn và chữa lành con người khỏi cội rễ bệnh tật thân xác là sự chết, liệu độc giả có cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc lớn lao như những nhân vật trong Tin Mừng hay không? Liệu độc giả có dám thực hiện điều họ đã làm: “Càng cấm càng nói” để ca tụng Thiên Chúa và chia sẻ niềm vui lớn lao cho mọi người hay không? Như thế, trong Tin Mừng Mác-cô, “cấm” không phải để “giữ kín”, không phải để “không nói” mà là để làm cho “bí mật” trở thành “công khai”, và “rao giảng” cho mọi người biết điều Đức Giê-su “cấm nói”. Lối hành văn độc đáo và nghịch lý của Tin Mừng Mác-cô tạo sức mạnh cho bản văn và nói được nhiều điều thú vị với độc giả.

III. CẤM CÁC MÔN ĐỆ NÓI VỀ ĐỨC GIÊSU

Đức Giê-su cấm các môn đệ nói về Người ở 8,30; 9,9. Lần thứ nhất ở Mc 8,29-30: “29 Đức Giê-su hỏi các môn đệ: ‘Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?’ Phê-rô lên tiếng nói với Người: ‘Thầy là Đấng Ki-tô.’ 30 Đức Giê-su căn dặn các ông để các ông không nói với ai về Người.” Tiếp theo là trình thuật biến hình (9,2-8), sau khi ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an được chứng kiến Đức Giê-su biến đổi hình dạng ở trên núi cao, người thuật chuyện kể: “9 Trong khi họ xuống núi, Người căn dặn họ để họ đừng kể lại cho ai những điều họ thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. 10 Các ông giữ lời dặn, tuy họ tranh luận với nhau: ‘Từ cõi chết sống lại’ nghĩa là gì” (Mc 9,9-10).

Theo bối cảnh của mạch văn, Đức Giê-su căn dặn các môn đệ đừng nói về Người, bởi lẽ, chính các môn đệ cũng chưa biết rõ Đức Giê-su là ai. Chỉ sau biến cố Thương Khó – Phục Sinh và khi các môn đệ đã lãnh nhận Thánh Thần, họ mới biết Đức Giê-su và biết tư cách Mê-si-a của Người. Đây là lúc họ rao giảng cho mọi người biết điều trước đây Đức Giê-su dặn họ đừng nói.

Như thế, Đức Giê-su căn dặn các môn đệ không được nói với ai, không phải là để giữ “bí mật” mà là để đến lúc thuận tiện thì “công khai” ra cho mọi người biết. Mục đích của “bí mật” là để “công khai”, để công bố, để rao giảng cho mọi người viết về căn tính của Đức Giê-su.

KẾT LUẬN

Đối với độc giả, trong tất cả các nơi Đức Giê-su cấm nói về Người trong Tin Mừng Mác-cô, độc giả đều biết nội dung điều cấm là gì, kể cả biến cố Đức Giê-su biến đổi hình dạng trên núi (9,2-8), độc giả cũng “có mặt” với ba môn đệ trên núi cao, được “chiêm ngưỡng” những gì ba môn đệ thấy và được “nghe” tiếng phát ra từ trời như ba môn đệ. Và lời Đức Giê-su dặn “đừng kể lại cho ai những điều đã thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại” cũng dành cho độc giả để mời gọi độc giả nối kết hoạt động công khai của Đức Giê-su với biến cố Thương Khó – Phục Sinh của Người.

Qua câu chuyện, người thuật chuyện đã cho độc giả tham dự vào những gì riêng tư nhất trong câu chuyện về Đức Giê-su. Chẳng hạn, chuyện mà không một nhân vật nào trong Tin Mừng biết, chỉ có người thuật chuyện và độc giả biết, đó là lúc Đức Giê-su cầu nguyện một mình trong vườn Ghết-sê-ma-ni (14,36). Khi ấy ba môn đệ đang ở đằng kia và đang ngủ (14,37).

Trong tương quan tác giả – độc giả, không có “bí mật” trong Tin Mừng Mác-cô. Khi mà mọi người đều biết nội dung điều “bí mật”, thì không còn là “bí mật” nữa. Nói theo kiểu hành văn nghịch lý của Tin Mừng Mác-cô, đó là “bí mật công khai”. Các cách trình bày đề tài “bí mật công khai” trong Tin Mừng Mác-cô đều liên quan đến căn tính của Đức Giê-su. Đề tài này nhằm cho độc giả biết: Đức Giê-su là ai và Người đến trần gian để làm gì. Kiểu hành văn lạ lùng và độc đáo này trình bày ba ý nghĩa sau đây cho độc giả:

– Thần ô uế và quỷ nói đúng về Đức Giê-su nhưng bị Người cấm không được nói. Điều này vừa cho độc giả biết Đức Giê-su là ai. “Người là Con Thiên Chúa”, nhưng để có thể nói điều đó thì cần đón nhận và tin vào Đức Giê-su. Quỷ biết đúng về Đức Giê-su nhưng không có tư cách để nói về Đức Giê-su vì quỷ chống lại Thiên Chúa và làm con người bị tha hoá. Như thế, chỉ các môn đệ mới có đủ tư cách để nói sự thật về Đức Giê-su.

– Khi niềm vui và hạnh phúc của những người được Đức Giê-su chữa lành là quá lớn, lớn đến nỗi phải diễn tả bằng kiểu nói tương phản: “càng cấm, càng nói”, “càng cấm, càng rao giảng” về Đức Giê-su và về những gì Người đã thực hiện cho mình. Qua đó độc giả được mời gọi hãy sống niềm vui ấy, hãy làm theo cách thức của mình để tôn vinh Thiên Chúa, loan báo cho mọi người biết Đức Giê-su là ai và nói cho mọi người biết những gì Đức Giê-su đã làm cho mình.

– Đức Giê-su căn dặn các môn đệ không được nói với ai là vì lúc đó các môn đệ chưa thực sự biết Đức Giê-su là ai. Đây cũng là lời căn dặn dành cho độc giả để độc giả đừng vội đánh giá Đức Giê-su theo bề ngoài, hay chỉ dựa vào những phép lạ của Đức Giê-su trong sứ vụ công khai của Người, cần đọc Tin Mừng cho đến biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Chính biến cố nền tảng này sẽ bày tỏ sự thật về tư cách Mê-si-a của Đức Giê-su. Để từ đó, điều được “giữ kín” sẽ được công bố, được rao giảng “công khai”. Độc giả được mời học biết về Đức Giê-su, biết đúng, hiểu đúng, nói đúng về Người; từ đó, lên đường rao giảng về Đức Giê-su như các môn đệ đã làm.

Có thể nói, trong Tin Mừng Mác-cô không có đề tài “bí mật”. Tin Mừng Mác-cô không muốn giữ bí mật điều gì cả, ngược lại, điều Tin Mừng Mác-cô nhắm tới là “sự công khai”. Nhưng ai là người có đủ tư cách để “công khai” và “công khai” điều gì? Qua lối hành văn độc đáo của Tin Mừng Mác-cô về đề tài “bí mật công khai”, độc giả nhận ra ba điều kiện để rao giảng về Đức Giê-su:

1) Tư cách của người nói (tin và đón nhận Đức Giê-su).

2) Nhận ra niềm vui và hạnh phúc sâu xa trong tâm hồn để không thể im lặng, mà ra đi loan báo điều Đức Giê-su đã làm cho mình.

3) Đón nhận biến cố Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giê-su như là cách duy nhất để thực sự biết Đức Giê-su là ai. Đồng thời, độc giả cũng được mời gọi sống biến cố Vượt Qua đó.

“Bí mật công khai” là đề tài độc đáo riêng của Tin Mừng Mác-cô, được mệnh danh là Tin Mừng của “sự ngạc nhiên”, “lạ lùng” và “nghịch lý”. Qua đó Tin Mừng Mác-cô đã chuyển tải được những nét thần học đặc sắc và thú vị cho độc giả./.

 


[1] Bản văn Tin Mừng do nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ chuyển ngữ