Thông Điệp Centesimus Annus (Bách Chu Niên) Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 01-05-1991) – (1)

0
2887


THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS

(BÁCH CHU NIÊN)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

NHÂN DỊP KỶ NIỆM MỘT TRĂM NĂM THÔNG ĐIỆP TÂN SỰ

1891 – 1991

***

 

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

***

GIỚI THIỆU CHUNG

 

Thông điệp Quan Tâm Đến Các Thực Tại Xã Hội vừa mới ráo mực – cũng cần nhắc lại rằng thông điệp thứ hai về sự phát triển này, đề ngày 31/12/1987, đã được công bố ngày 19/2/1988 – trong các hành lang các cung điện Rôma, người ta bắt đầu nghe nói tới một thông điệp xã hội mới đang được chuẩn bị. Sau bao nhiêu lần kỷ niệm, thông điệp “Rerum Novarum” (1891) đã được mừng bằng các thông điệp xã hội mới (“Quadragesimo Anno” vào năm 1931, “Mater et Magistra” vào năm 1961, “Laborem Exercens” vào năm 1981) hoặc bằng các văn kiện Giáo hoàng khác cùng một tầm cỡ (Sứ điệp trên truyền thanh dịp Lễ Hiện Xuống 1941 của Đức Pio XII, tông thư “Octogesima adveniens” của Đức Phaolo VI gởi Đức Hồng Y Roy vào năm 1971), thì lẽ nào vào dịp kỷ niệm một trăm năm lại không có một văn kiện chính thức nào mới sao? Dần dần, người ta thấy xuất hiện lại một thông điệp nữa.

“Năm 1989”

Những việc chuẩn bị đã hoàn tất, những “thực tại mới” đầy ấn tượng (dùng lại những chữ đầu của thông điệp 1891 về “điều kiện sống và làm việc của giới công nhân”) đã bắt đầu xuất hiện ở Đông Au – trước hết là ở Ba lan (hẳn nhiên được quan tâm đến rất nhiều bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, người Ba lan) -, kế đến trong toàn thế giới các nước Cộng sản ở Trung và Đông Au. Trước mốc thời gian 1991, cũng là năm đã trở thành lịch sử đánh dấu bởi sự kiện đảo chính ngày 19/8 tại Moscou bị dập tắt, và bởi sự tan rã và bị cấm nắm chính quyền của Đảng Cộng Sản Liên Xô, thì năm 1989 đã như một năm tuyệt diệu đối với một bộ phận lớn của Au Châu vì được tự do và giải phóng. “Bức tường” Bá Linh được mở toang, và rồi sụp đổ.

Đó cũng là thời kỳ không ổn đối với những người đã ít nhiều tin tưởng, nếu không phải là Liên Xô và Chủ Nghĩa Cộng Sản thì cũng là tin vào ý nghĩa của toàn thể các biến cố đã diễn ra kể từ 1917 thuận lợi cho giới công nhân, cho sự giải phóng của họ, cho sự công bằng… “ở Tây Phương, nhiều lực lượng cánh tả – không phải là tất cả – đã có thái độ đồng cảm, có khi đậm nồng hơn, đối với các chế độ phía Đông Au. Trong những nước thế giới thứ ba, những giải pháp do những nhà thực dân cũ đặt để vốn rất khó được chấp nhận để theo, nên người ta ít ra cũng đã thường để ý tới đường lối của những nước Cộng Sản…nhưng do sự kiện này, mọi sự đã trở nên đảo lộn”.[1]

Thông điệp mới này đã không bỏ qua những biến cố lớn lao đó. Quả thực, Đức Giáo hoàng đã đề tựa cho cả một chương, chương thứ ba, của thông điệp, là “năm 1989”. Vả chăng đã từng có một năm nào khác được dành cho một ưu thế tương tự? Trong chương đó Đức Gioan PhaoLo II đã giải thích sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và những nguyên nhân sâu xa của nó. Ngài cũng lưu ý ta về sự góp phần “quan trọng” của Giáo hội đối với những biến cố vừa xảy ra này, “nhờ Giáo hội đã dấn thân đấu tranh để bảo vệ và phát triển các quyền con người” (số 22).

Trong chương trước Ngài đã lưu ý quả thực lịch sử của Châu Au, đặc biệt là của chủ nghĩa xã hội mác-xit, ở thế kỷ XX, hàm chứa lịch sử những cuộc chiến tranh tàn khốc và những cuộc tàn xác của thế kỷ, đã chứng thực những nỗi e sợ, những linh cảm mà Đức Lê-Ô XII đã bày tỏ trong thông điệp Rerum Novarum. Như lời Đức Gioan Phaolo II nói ở đầu thông điệp, “những dự đoán ấy tỏ lộ một sự chính xác đến không ngờ, dưới ánh sáng của tất cả các biến cố sau cùng này” (số12). Cũng theo lời ngài, Đức Lê-Ô XIII, giữa các sự việc khác đã lượng định một cách xác đáng “mối nguy hiểm của cái giải pháp có vẻ hấp dẫn vừa đơn giản lại vừa triệt để cho vấn đề giới công nhân lúc bấy giờ” như chủ nghĩa.

Xã hội đã tham vọng chủ xướng. (Thực ra, ở đây Đức Giáo hoàng chủ yếu nghĩ tới hình thức xã hội chủ nghĩa cực đoan, mà ngài thường chỉ bằng danh từ “chủ nghĩa xã hội đích thực”, tên mà chính chủ nghĩa xã hội này đã tự gọi mình).

Vấn đề chủ nghĩa tư bản

Nhưng chưa hết. Thông điệp mới này còn đề cập rộng rãi, và thậm chí tới ngay tâm điểm của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tự do kinh tế. Thật ra chủ nghĩa này đã mạnh mẽ quay lại Trung và Đông Âu và thường tỏ vẻ như mình là chọn lựa duy nhất để thay thế chế độ cộng sản sụp đổ.

Thật ra, những biến cố ở Trung và Đông Au không phải là lý do duy nhất khiến Đức Giáo Hoàng đề cập lần nữa đến vấn đề này. Vấn đề ấy cũng đã đặt ra cho phương Tây. Rõ ràng là vào năm 1971, Đức Phaolô VI đã nói đến vấn đề này trong thông điệp Octogesima adveniens được viết cùng trong năm ấy. Sau đó, năm 1988 vấn đề ấy lại là đối tượng của cuộc tranh luận chú giải, sau thông điệp Sollicitudo Rei Socialis. Hơn nữa, những năm sau đó Tòa Thánh có chiều hướng cho rằng Đức Giáo Hoàng chấp nhận một thái độ cởi mở hơn đối với chủ nghĩa tư bản tự do trong hình thức mới, như người ta nói đã vượt xa rất nhiều chủ nghĩa tự do “triết học” cổ điển.

Theo lời giải thích của Đức cha Jorge Mejia, phó chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình, thì chính Đức Giáo hoàng có sáng kiến tổ chức một Hội thảo chuyên đề qui tụ các nhà kinh tế học chính danh, chủ yếu của thế giới tự do phương Tây; hội thảo đã được tổ chức vào ngày 5/11/1990 do Hội Đồng Giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình nhằm tạo ra một “cuộc đối thoại liên ngành” về đề tài liên hệ tới học thuyết xã hội của Giáo hội. Giữa các nhân vật danh tiếng khác tham gia cuộc hội thảo còn có ông Jeffrey D.Sachs đại học Harvard, Amartya Sen người gốc An Độ, cũng là giáo sư tại Harvard, Anthony B.Atkinson của London School of Economics, Edmond Malinvaud của Collège de France. Tập biên bản của hội thảo đã được xuất bản bằng Anh ngữ dưới tựa đề là “Social and ethical aspects of economics (những khía cạnh xã hội và đạo đức của kinh tế ). A colluqiuon at the Vatican (1992)”. Đức Giáo hoàng đã đón tiếp khách tham dự tại bàn của ngài và trao đổi hết sức nghiêm túc với họ, như thói quen ngài vẫn thường làm trong những trường hợp tương tự. Có thể nói chắc chắn rằng đó là một nhân tố thứ nhất đã tác động đến công việc biên soạn thông điệp này.

Chương lớn nhất của thông điệp Centesimus Annus phát hành ngày 1/06/1991, cuối cùng đã thành chương thứ tư: chương về kinh tế. Đầu đề của chương này là “Vấn đề tư hữu và của cải dành cho mọi người”; chương này đặc biệt nói về “kinh tế của doanh nghiệp hiện nay”, về những đóng góp của nó, và đồng thời những giới hạn của nó (là sự loại trừ và gạt ra bên lề xã hội vô vàn con người), rồi về “thị trường tự do”, với những lợi thế chắc chắn của nó nhưng chỉ thích dụng đối với những nhu cầu “có thể thanh toán được bằng tiền” và đối với những của cải “có thể bán được”, còn đối với, đặc biệt là, vô số những của cải tập thể thì không áp dụng được. Chương này cũng đề cập đến vấn đề lợi nhuận, xem đó có giá trị hay đúng hơn là “thích hợp” như một chỉ dẫn bộc lộ tình trạng doanh nghiệp được vận hành tốt đẹp, nhưng không hề là “chỉ dẫn duy nhất của tình trạng doanh nghiệp”… Tóm lại, Đức Giáo hoàng có lẽ chấp nhận một kiểu chủ nghĩa tư bản nào đó, hay đúng hơn là một nền “kinh tế thị trường” hay “kinh tế tự do”, biết phát huy tính hữu trách và sáng tạo chứ không phải là “một hệ thống trong đó sự tự do về kinh tế không bị chi phối bởi một khuôn khổ pháp lý vững chắc nào, một pháp lý nhằm phục vụ cho sự tự do toàn vẹn của con người” (số 42).[2]

Những vấn đề về cộng đồng chính trị

Nội dung chính yếu của thông điệp do lịch sử của việc biên soạn nó mà ra, được phác sơ lại như trên. Nhưng chúng ta còn phải thêm vào đó chương V có tựa đề là “Nhà nước và văn hóa”, trong đó có đề cập tới vấn đề dân chủ, gần giống với cách thức đã đề cập đến nền kinh tế tự do ở chương trước. Quả thực, dân chủ được Giáo hội “đánh giá cao” “như một hệ thống chính trị bảo đảm cho người công dân được quyền tham gia vào các lựa chọn chính trị và đồng thời bảo đảm cho những người ở dưới quyền cai trị vừa được quyền chọn lựa và kiểm soát những người cai trị mình, vừa được quyền thay đổi họ bằng những phương thế ôn hòa khi điều đó thuận lợi.” (số 46); nhưng trong quan hệ giữa dân chủ và chân lý, công ích, không phải là không có vấn đề. Hơn nữa, Giáo hội không phải không biết đến nguy cơ của thái độ cuồng tín hoặc chủ trương bảo thủ tôn giáo… Chân lý Kitô giáo không phải thuộc loại này… Giáo hội, trong khi thường xuyên tái khẳng định phẩm giá siêu việt của con người, đã coi sự tôn trọng tự do như quy luật hành động của mình (số 46).

Thông điệp Centesimus annus quả là một thông điệp “hợp hoàn cảnh” duy nhất, nếu nói được như vậy. Tuy nhiên, chúng ta phải ý thức đến tầm quan trọng, chính tính chất tạo ấn tượng đặc biệt của hoàn cảnh, cũng như tính khẩn thiết của một lời nói nhận định đúng lúc trong thời điểm quyết định này. Nhìn lại, người ta có thể xác nhận thông điệp này của Đức Gioan Phaolô II đã mang đúng cái vai trò ấy. Ban đầu, thông điệp được đón nhận bởi một số người theo chủ thuyết tự do, nhìn nhận Giáo hội thẳng thắn, cởi mở hơn xưa kia đối với các giá trị như sáng kiến, tính sáng tạo, sự tự do có ở trong nền kinh tế doanh nghiệp và thị trường hiện nay. Dần dần, với các biến cố, người ta ngày càng chú ý nhận ra chúng cũng hợp với những dự phòng của Đức Gioan Phaolô II thậm chí hợp với cả những lời cảnh báo, trên bình diện kinh tế lẫn chính trị, mà thông điệp đã nói đến. Từ đó người ta thấy thông điệp này là một sự cập nhật hóa chính xác nhất của giáo huấn Giáo hội về tổ chức nền kinh tế cũng như về cộng đồng chính trị.

***

LỜI GIỚI THIỆU

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

 

Dịch theo bản tiếng Pháp CENTESIMUS ANNUS

La Documentation Catholique n.2029, 02.6.1991

Libreria Editrice VATICANA 1991.

THÔNG ĐIỆP MỚI MUỐN ĐÁP ỨNG NHỮNG NIỀM MONG ĐỢI CỦA XÃ HỘI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

1. Trong tháng 5 này, chúng ta sẽ mừng kỷ niệm bách chu niên ngày công bố thông điệp Rerum Novarum (RN). Như anh chị em đã biết, tôi muốn đánh dấu ngày kỷ niệm đó bằng một văn kiện, một thông điệp mới mà tôi sẽ cho công bố vào ngày mai. Khi soạn thảo văn kiện này, tôi đã kín múc từ kho tàng truyền thống và từ đời sống của Giáo hội để vạch ra một số đường hướng và viễn tượng khả dĩ đáp ứng được những vấn đề xã hội ngày một nghiêm trọng hơn như thấy trong thời đại chúng ta. Quả thực, Giáo hội nhìn lại quá khứ không phải để tránh né những thách đố của hiện tại, nhưng để từ những giá trị đã được tôi luyện và từ sự suy niệm về những gì Truyền thống đã làm và hiện vẫn còn đang làm trong Giáo hội, Giáo hội rút ra được một nguồn năng lực mới và một niềm xác tín mới cho hoạt động mà Giáo hội phải tiếp tục đảm nhận giữa con người. Giáo hội đang đối diện với những thách đố của thời đại, một thời đại khác xa so với thời của Đức Lêô XIII, nhưng Giáo hội luôn hành động theo cùng một Thần Khí: Thần khí của Thiên Chúa, Thần khí mà Vị tiền nhiệm của tôi đã vâng theo khi Người cố gắng trả lời cho những niềm hy vọng và mong đợi của thời đại Ngài. Cả tôi nữa, trước những hy vọng và mong đợi của thời đại ngày nay, tôi cũng cố gắng làm như Vị tiền nhiệm của tôi.

2. Một biến cố hình như chi phối thời điểm gay go mà chúng ta đang sống: Châu Âu và thế giới đang bước vào giai đoạn cuối của một chu kỳ lịch sử.

Hệ thống Mác xít đã bị phá sản, lý do của sự phá sản này lại đúng là những lý do mà thông điệp RN đã nêu ra một cách đanh thể gần như có tính cách tiên tri. Trong sự phá sản của cái quyền lực về ý thức hệ và kinh tế ấy, thứ quyền lực làm như muốn đè bẹp, thậm chí loại trừ cảm thức tôn giáo ra khỏi ý thức của con người, bên trên tất cả những nguyên nhân xã hội và chính trị, Giáo hội nhìn thấy nơi đó sự can thiệp của Thiên Chúa Quan phòng, Đấng mà duy một mình Người dẫn dắt và điều hành lịch sử.

Tuy nhiên, công cuộc giải phóng liên hệ đến biết bao dân tộc, biết bao Giáo hội lẫy lừng và những cá nhân không được biến thành một niềm tự mãn tai hại hay một thái độ đắc thắng không chính đáng.

Hệ thống nói trên đã tỏ ra lỗi thời ít là một phần; nhưng trong những miền khác nhau trên thế giới, sự nghèo khổ cùng cực nhất vẫn tiếp tục hoành hành; có những dân tộc mà toàn bộ bị tước mất những quyền sơ đẳng và không làm sao có được những phương tiện cần thiết để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người. Ngay tại những nước giàu, người ta cũng nhận thấy một sự rối loạn về cuộc sống, một sự bất lực để sống và đánh giá đúng đắn về ý nghĩa của cuộc sống và ngay khi sung túc về của cải vật chất, vẫn thấy có một sự vong thân và đánh mất nhân cách ở rất nhiều người; những con người này cảm thấy mình bị giản lược thành chức phận của một bánh xe trong cơ chế sản xuất và tiêu thụ và không tìm được phương thế để khẳng định phẩm giá của mình là những con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa.

Một hệ thống đã đến ngày tàn, phải; nhưng cũng không vì thế mà giải quyết được những vấn đề, những hoàn cảnh bất công và đau khổ là những điều trước đây đã từng nuôi dưỡng hệ thống ấy. Sau sự thất bại của một giải pháp không thỏa đáng, vấn đề mà giải pháp nói trên đã tìm cách giải quyết vẫn luôn hiện thực và cấp bách hơn.

Trong thông điệp mới này, Giáo hội không chỉ trình bày vấn đề ấy cho lương tâm của toàn thể nhân loại, nhưng còn đưa ra một đề nghị nhằm đạt tới những giải pháp tương xứng. Đó là lặp lại lời yêu cầu phải có công bình xã hội, tình liên đới giữa những người lao động, phẩm giá của nhân vị, không cam chịu cảnh bóc lột và sự nghèo khổ, không bao giờ chối bỏ chiều kích siêu việt của con người, vốn ước muốn, lại còn phải được quyền đầu tư công sức của mình vào công cuộc kiến tạo xã hội.

3. Học thuyết của Giáo hội về vấn đề xã hội vẫn luôn luôn nhìn nhận quyền tư hữu của mỗi cá nhân đối với những phương tiện sản xuất, và Giáo hội đã nhận thấy một quyền tư hữu như thế sẽ giúp bảo vệ được quyền tự do trước mọi hình thức đàn áp có thể xảy ra. Lại nữa, sự phân chia quyền sở hữu cho nhiều người giúp cho mọi người muốn thỏa mãn những nhu cầu của mình, phải dựa vào sự hợp tác với người khác, đang khi đó sự trao đổi cần thiết trong xã hội sẽ được điều phối bằng những khế ước mà trong đó ý muốn tự do của người này phù hợp với ý muốn tự do của người kia. Khác với nền kinh tế độc tài, được hoạch định và tập trung, nền kinh tế tự do và vận hành theo những động lực xã hội giả thiết là các chủ thể thực sự có tự do và chính họ phải là những người đảm nhận những trách nhiệm rõ ràng, phải thành thực tôn trọng những hợp đồng đối với những người cộng tác và lúc nào cũng phải để ý đến công ích.

Bởi vậy, thật phải lẽ khi nhìn nhận giá trị luân lý của quyền tự do buôn bán và trong đó bao hàm cả quyền tự do kinh doanh, quyền “tổ chức nhịp cầu gặp gỡ” giữa nhu cầu của người tiêu thụ va những nguồn cung cấp có thể đáp ứng được những nhu cầu đó nhờ việc tự do thương lượng. Về điểm này, để đối lại với những lý thuyết tập thể hóa, Đức Lêô XIII đã đòi phải có quyền sáng kiến cá nhân trong khuôn khổ của việc phục vụ cần đem lại cho cộng đồng.

4. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo đã luôn luôn và hiện vẫn còn từ khước việc đề cao thương mại như một bộ máy điều hòa tối thượng và như kiểu mẫu hay tổng hợp của đời sống xã hội. Có một điều gì đó cần phải được trả cho con người bởi lẽ họ là con người, bởi phẩm giá của họ và bởi họ được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, không cần biết họ có mặt trên thị trường hay không, họ sở hữu những gì, và do đó có thể bán những gì, và có phương thế nào để mua sắm. “Cái điều gì đó” mà tôi vừa nói không bao giờ được phép lãng quên, trái lại nó đòi hỏi sự tôn trọng và liên đới; hai điểm này là biểu hiện xã hội của tình yêu và là thái độ duy nhất thích hợp trước một nhân vị. Có những nhu cầu của con người không tiếp cận được với thị trường đó vì những ngăn trở tự nhiên hay xã hội, nhưng lại chính là những nhu cầu cần được thỏa mãn.

Thực vậy, cộng đồng quốc gia và quốc tế có bổn phận giải đáp cho những nhu cầu này bằng cách trả lời thẳng, chẳng hạn trong trường hợp có một ngăn trở không thể vượt qua được, hoặc nếu có thể, thì tạo ra những phương thế giúp tiếp xúc trực tiếp với thị trường, với thế giới sản xuất và tiêu thụ.

Quyền tự do kinh tế là một khía cạnh của tự do con người, không được tách rời khía cạnh này khỏi những khía cạnh khác và nó phải góp phần làm cho các nhân vị được thể hiện trọn vẹn nhằm thiết lập một cộng đồng nhân loại đích thực.

5. Hẳn nhiên phải khẳng định quyền tư hữu cùng một trật với quyền hưởng dùng mà mọi người đều có đối với những của cải trên mặt đất. Những ai đang sở hữu của cải phải luôn nhớ rằng của cải đó là để cho mọi người cùng hưởng và vì thế, đang khi những của cải này bảo đảm tự do của họ, thì các của cải đó cũng bảo vệ và làm triển nở tự do của những người khác nữa. Ngược lại, khi một người làm mất đi chức năng bổ túc những thiết yếu của của cải thì như thế họ đánh cắp những của cải này từ tài sản chung, tức là đi ngược lại với mục đích mà vì đó của cải đã được trao cho họ. Không một nền kinh tế tự do nào có thể vận hành lâu bền và đáp ứng được những điều kiện của một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn, nếu nó không được quy định bởi những cấu trúc chặt chẽ về mặt pháp lý và chính trị, và nhất là, nếu nó không được nâng đỡ và “tiếp sức” bởi một lương tâm vững vàng về luân lý và tôn giáo.

Lập trường này vừa lý tưởng lại vừa thực tế, ăn rễ sâu nơi chính bản chất con người. Thật vậy, “con người là một tạo vật chỉ có thể hoàn thành chính mình cách trọn vẹn nhờ việc tự do trao hiến chính mình” (GS, 24). Con người là một chủ thể độc đáo mà người ta không sao chép lại được và cũng không bao giờ có thể nhận chìm trong một khối nhân loại mơ hồ dù rằng con người chỉ hoàn thành trọn vẹn vận mệnh của mình một khi họ biết vượt lên trên những lợi lộc hẹp hòi của cá nhân để liên kết với những con người khác bằng rất nhiều liên hệ. Gia đình đã nẩy sinh theo cách đó. Xã hội cũng đã nẩy sinh theo cách đó.

Trong cấu trúc nội tại của mình, chính việc lao động đề cao cả quyền tự lập của nhân vị lẫn nhu cầu gắn bó cùng người khác trong lao động. Con người lao động cùng với người khác, con người thiết lập tương quan với người khác bằng lao động. Nhưng tương quan này có thể là đối nghịch, cạnh tranh hoặc đàn áp, nhưng bên cạnh đó còn có tương quan hợp tác và cùng thuộc về một cộng đồng liên đới.

Hơn nữa, con người không chỉ lao động cho riêng mình nhưng còn cho người khác, khởi đầu từ chính gia đình của mình rồi đến cộng đồng địa phương, lan rộng đến quốc gia và toàn nhân loại. Chính thực tại đó là điều mà lao động phải phục vụ: chính trong lao động, sự trao hiến mình cách tự do và phong phú được biểu lộ. Bởi vậy, trong khi khẳng định mối liên hệ hỗ tương chặt chẽ giữa quyền tư hữu và quyền hưởng dùng của mọi người đối với của cải, học thuyết của Giáo hội về xã hội không làm gì khác hơn là khôi phục hoạt động kinh tế trong khung cảnh cao đẹp và bao quát hơn của ơn gọi chung của loài người.

6. Lịch sử đã luôn luôn chứng kiến những nỗ lực mới nhằm kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn và công bình hơn trong khung cảnh hợp nhất, cảm thông và liên đới. Nhiều nỗ lực trong số đó đã thất bại trong khi một số khác chống lại chính con người.

Bản chất con người vốn có khuynh hướng liên kết thành xã hội, nhưng đồng thời hình như cũng bộc lộ những dấu hiệu chia rẽ, thiếu sót trong bổn phận và thù hận. Nhưng cũng chính vì thế mà Thiên Chúa, Cha của hết thảy mọi người, đã sai Con Độc Nhất của Người, Đức Giêsu Kitô, đến trần gian để vượt thắng những nguy cơ đe dọa ấy và để làm biến đổi tâm trí con người bằng việc tặng ban ân sủng.

Anh chị em thân mến,

Để kiến tạo một xã hội công bằng hơn và xứng đáng với con người hơn, một sự dấn thân qui mô trên bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa quả là cần thiết. Nhưng như thế chưa đủ ! Sự dấn thân có tính chất quyết định phải xuất phát từ chính cõi lòng của con người, đụng chạm đến chỗ thâm sâu nhất của lương tâm con người, là nơi mà con người tự mình quyết định. Chỉ với mức độ như thế, con người mới có thể tiến hành một cuộc thay đổi sâu xa và tích cực nơi chính bản thân mình và đó là bước khởi đầu vững chắc để góp phần làm biến đổi và cải thiện toàn xã hội.

Trong tháng này là tháng được dành riêng để tôn sùng Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng ta hãy nguyện xin Mẹ nâng đỡ những nỗ lực của mọi người chúng ta, cũng như sự dấn thân liên đới của hết thảy chúng ta, đồng thời xin Mẹ trợ giúp chúng ta kiến tạo được trong thế giới này những cơ cấu công bằng hơn và đầy tình huynh đệ nhằm đạt đến một nền văn minh mới: nền văm minh của tình liên đới và yêu thương.

GIOAN PHAOLÔ II

***

THÔNG ĐIỆP BÁCH CHU NIÊN

(Centesimus Annus)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

GỬI CHƯ HUYNH TRONG HÀNG GIÁM MỤC,

CÁC LINH MỤC, CÁC GIA ĐÌNH TU TRÌ,

CÁC TÍN HỮU THUỘC GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

VÀ MỌI NGƯỜI THIỆN CHÍ

NHÂN DỊP KỶ NIỆM MỘT TRĂM NĂM

BAN HÀNH THÔNG ĐIỆP TÂN SỰ (Rerum Novarum)

1891 – 1991

Gioan Phaolô II, giáo hoàng, kính chào và gửi phép lành Tòa thánh đến chư huynh đáng kính và các con thân mến !

NHẬP ĐỀ

1. Tầm quan trọng lịch sử của thông điệp RN.

Bách chu niên kỷ niệm ngày ban hành thông điệp bắt đầu bằng những từ “Tân sự” (RN)[3] của vị tiền nhiệm của tôi, Đức Cố Giáo hoàng khả kính Lêô XIII, đánh dấu một thời điểm rất quan trọng trong thông điệp hiện nay của lịch sử Giáo hội cũng như trong triều đại Giáo hoàng của tôi. Thực vậy, thông điệp đó đã được đặc biệt lưu ý kỷ niệm trong thời gian từ giáp năm 40 cho đến 90, qua các văn kiện long trọng của các vị Giáo hoàng: có thể nói vận mệnh lịch sử của thông điệp RN đã được đánh dấu từng giai đoạn qua các văn kiện khác, hướng sự chú ý đến RN và đồng thời hiện đại hóa thông điệp đó[4].

Cũng thế, nhân kỷ niệm 100 năm, thể theo nguyện vọng của đông đảo Giám Mục, các cơ quan của Giáo hội, các trung tâm đại học, các vị lãnh đạo nghiệp đoàn và người lao động với tư cách cá nhân, hoặc như phần tử của các hiệp hội trước tiên tôi muốn cùng với toàn thể Giáo hội tuyên dương công nghiệp của vị Giáo hoàng khả kính này và “văn kiện bất tử”[5] của Người. Tôi cũng muốn nói lên rằng dòng nhựa sống dồi dào dâng lên từ gốc rễ đó đã không cạn khô theo năm tháng, nhưng ngược lại, trở nên phong phú hơn. Điều đó được minh chứng qua các sáng kiến thuộc nhiều lãnh vực khác nhau được thực hiện trước, đồng thời, hoặc theo sau cuộc lễ này, những sáng kiến của các Hội đồng Giám Mục, các tổ chức quốc tế, các đại học và các viện hàn lâm, các nghiệp đoàn và các tổ chức hay các nhân khác trong nhiều miền trên trái đất.

2. Kỷ niệm bách chu niên.

Thông điệp này góp phần vào các cuộc lễ đó để tạ ơn Thiên Chúa, Đấng mà “mọi ân huệ tốt lành, mọi phúc lộc hoàn hảo từ Người ban xuống” (Gc 1,17), vì Người đã sử dụng một văn kiện Tòa Thánh Phêrô cách đây 100 năm để thực hiện nhiều việc tốt lành và tỏa chiếu nhiều luồng sáng trên Giáo hội cũng như trên thế giới. Cuộc lễ chúng ta cử hành hôm nay liên hệ tới thông điệp của Đức Lêô XIII, nhưng đồng thời cũng liên hệ tới các thông điệp và các văn kiện khác của các vị tiền nhiệm của tôi, đã góp phần hướng sự chú ý tới thông điệp đó và khai triển ảnh hưởng của nó qua nhiều năm, tạo thành một học thuyết được gọi là “học thuyết xã hội”, “giáo huấn xã hội” hay còn được gọi là “huấn giáo về xã hội” của Giáo hội.

Hai thông điệp được ban hành trong triều đại giáo hoàng của tôi đã qui hướng về giáo huấn đó, giáo huấn vẫn giữ được giá trị của nó: Laborem exercens về lao động của con người, và Sollicitudo rei socialis về những vấn đề hiện nay trong việc phát triển con người và của dân tộc[6].

3. Đọc lại thông điệp RN.

Giờ đây tôi muốn đề nghị “đọc lại” thông điệp của Đức Lêô XIII, và mời gọi “nhìn lại quá khứ” về chính bản văn thông điệp để tái khám phá các nguyên tắc nền tảng phong phú đã được thành hình trong thông điệp này nhằm giải quyết những vấn đề người lao động. Nhưng tôi cũng mời gọi giờ đây hãy nhìn về những “sự việc mới” quanh chúng ta và, có thể nói, chúng ta đang chìm ngập trong đó. Những sự việc mới này rất khác với những “sự việc mới” ở thập niên cuối thế kỷ trước. Sau cùng tôi mời gọi “hướng về tương lai” khi mà chúng ta đã thoáng thấy thiên niên kỷ thứ ba của kỷ nguyên kitô giáo, tuy đầy dẫy những ẩn số, nhưng cũng đầy hứa hẹn. Những ẩn số, những điều còn chưa hiểu và những hứa hẹn mời gọi chúng ta vận dụng trí tưởng tượng và sáng tạo, đồng thời thúc đẩy chúng ta, các môn đệ Chúa Kitô, Đấng là người “Thầy duy nhất” (x. Mt 23,8), lãnh nhận trách nhiệm tỏ bày con đường công bố sự thật, và thông ban sự sống là chính Người (x. Ga 14,6).

Làm như thế, chúng ta không chỉ tái khẳng định giá trị vĩnh cửu của giáo huấn đó, nhưng còn cho thấy ý nghĩa đích thực của truyền thống Giáo hội, một truyền thống luôn sống động và tích cực, xây dựng trên nền tảng bởi các tổ phụ của chúng ta trong đức tin, và đặc biệt trên điều mà “các tông đồ truyền lại cho Giáo hội”[7] nhân danh Đức Kitô: Người là nền tảng, và “không ai có thể đặt nền tảng nào khác” (x. 1Cr 3,11).

Chính vì ý thức sứ vụ kế vị Thánh Phêrô mà Đức Lêô XIII đã quyết định lên tiếng, và cũng chính ý thức đó ngày hôm nay đang thúc đẩy kẻ kế vị Người. Cũng như Người và các Đức Giáo hoàng trước và sau Người, tôi cảm hứng từ hình ảnh trong Tin Mừng về “người kinh sư trở nên môn sinh Nước Trời” mà Đức Kitô ví “như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho mình cả cái cũ lẫn cái mới” (Mt 13,52). Kho tàng đó là dòng chảy cuồn cuộn của truyền thống Giáo hội chứa đựng những “điều cũ” luôn được đón nhận và truyền lại, nhờ đó hiểu được những “điều mới”, trong đó đang diễn ra đời sống của Giáo hội và của thế giới.

Những điều mới này khi hội nhập vào truyền thống, trở thành kỳ cựu và cung cấp chất liệu và cơ hội để phong phú hóa truyền thống cũng như phong phú hóa đời sống đức tin. Góp phần vào đó, còn có hoạt động phong phú của hàng triệu triệu con người được khích lệ bởi giáo huấn của Giáo hội về vấn đề xã hội, đã cố gắng cảm hứng từ giáo huấn đó để dấn thân vào thế giới. Khi hành động một cách cá nhân, hay qui tụ bằng nhiều cách khác nhau thành những nhóm, hiệp hội và tổ chức, họ đã làm thành một phong trào lớn bênh vực con người và bảo vệ phẩm giá của con người. Qua những thăng trầm của lịch sử, điều đó đã góp phần làm nên một xã hội công bằng hơn, hay ít là chặn đứng và hạn chế những bất công.

Thông điệp này nhằm làm sáng tỏ sự phong phú của các nguyên tắc mà Đức Lêô XIII đã diễn tả, những nguyên tắc này thuộc về gia sản đạo lý của Giáo hội, và theo danh nghĩa đó, có thế giá của quyền giáo huấn. Nhưng mặt khác, ưu tư mục vụ cũng khiến tôi đưa ra việc phân tích mấy sự kiện lịch sử gần đây. Không cần phải nhấn mạnh rằng việc cẩn thận nhận định những nhu cầu mới của sứ vụ loan báo Tin mừng là trách nhiệm của người mục tử. Tuy nhiên, khi khai triển những nhận định đó, chúng tôi không nhằm trình bày những phán quyền dứt khoát bởi vì tự nó, các nhận định này không thuộc phạm vi riêng của quyền giáo huấn.

CHƯƠNG I

NHỮNG NÉT TIÊU BIỂU CỦA THÔNG ĐIỆP TÂN SỰ

4. Một kiểu thức xã hội mới.

Khoảng cuối thế kỷ trước, Giáo hội phải đối diện với một tiến trình lịch sử đã bắt đầu từ ít lâu trước đó và đang lên tới mức độ nguy kịch. Trong các yếu tố xác định tiến trình này, có một tổng thể những thay đổi từ căn bản xảy ra trong lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội, và cả trong khuôn khổ khoa học và kỹ thuật, ngoài ra, còn có nhiều thứ ảnh hưởng của các ý thức hệ bá chủ. Trong lãnh vực chính trị, những thay đổi này làm nẩy sinh một quan niệm mới về xã hội và nhà nước, và do đó cả về quyền bính nữa. Một xã hội truyền thống đã biến mất trong khi một xã hội mới bắt đầu xuất hiện, được ghi dấu bằng niềm hy vọng những quyền tự do mới, nhưng đồng thời cũng có nguy cơ sa vào những hình thức bất công và nô lệ mới.

Trong lãnh vực kinh tế, nơi hội tụ những khám phá và ứng dụng khoa học, người ta dần dần đạt được những cơ cấu mới trong việc sản xuất của cải tiêu dùng. Người ta đã chứng kiến sự xuất hiện một hình thức tư hữu mới, tức là nguồn vốn, và một hình thức lao động mới, lao động trả lương, lao động này được xác định bằng nhịp độ làm việc cực nhọc, không lưu ý đến mọi khác biệt về phái tính, tuổi tác hay tình trạng gia đình mà chỉ căn cứ vào hiệu năng để gia tăng lợi nhuận.

Như thế, lao động trở thành một món hàng có thể được tự do mua bán trên thị trường, và giá cả của nó chỉ được qui định tùy vào luật cung cầu, mà không để ý tới nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống của người công nhân và gia đình họ. Hơn nữa, người lao động thậm chí không chắc có bán được “món hàng” của mình hay không, và họ thường xuyên bị đe dọa thất nghiệp; nếu không có xã hội bảo trợ, họ sẽ lâm vào nguy cơ chết đói.

Hậu quả của việc biến đổi đó là “chia cắt xã hội thành hai giai cấp cách nhau một trời một vực”[8]. Tình trạng này thêm vào những biến đổi thuộc lãnh vực chính trị đã nhấn mạnh ở trên. Như vậy, lý thuyết chính trị nổi bật ở thời đại đó có khuynh hướng cổ võ sự tự do tuyệt đối về kinh tế bằng những luật lệ được thích nghi cho phù hợp, hay ngược lại cố ý tranh mọi sự can thiệp. Đồng thời, dưới hình thức có tổ chức và bằng cách thức nhiều khi có bạo lực, đã bắt đầu xuất hiện một quan niệm khác về tư hữu và đời sống kinh tế, kéo theo một cơ câu mới về chính trị và xã hội.

Ở thời điểm cực độ của sự đối kháng này, khi mà sự bất công trở nên trầm trọng trong thực tại xã hội ở nhiều nơi, và nguy cơ một cuộc cách mạng được cổ võ bởi những ý tưởng mà lúc đó được gọi là “xã hội chủ nghĩa”, đã xuất hiện rõ ràng, thì Đức Lêô XIII đã can thiệp bằng cách ban hành một văn kiện bàn về “vấn đề thợ thuyền” một cách có hệ thống. Thông điệp này đã được chuẩn bị bằng những thông điệp khác đề cập nhiều hơn đến những giáo huấn về chính trị, và còn có những thông điệp khác ban hành sau đó nữa[9]. Trong bối cảnh như vậy, đặc biệt nên nhắc lại thông điệp Libertas Praestantissimum, trong đó nhắc tới mối liên hệ thiết yếu giữa tự do của con người với chân lý, mối liên hệ này bền chặt đến nỗi nếu tự do từ chối nối liền với chân lý, nó sẽ trở thành độc tài, và cuối cùng, chính mình sẽ lệ thuộc những đam mê hạ đẳng nhất và sẽ tự hủy diệt. Thực vậy, tất cả những điều tệ hại mà thông điệp RN muốn loại trừ đó phát xuất từ đâu, nếu không phải là từ một thứ tự do mà trong lãnh vực hoạt động kinh tế và xã hội, đã xa rời chân lý về con người?

Mặt khác, Đức Lêô XIII đã cảm hứng từ giáo huấn của các vị tiền nhiệm cũng như từ các văn kiện khác của các Đức Giám Mục, từ những nghiên cứu có tính khoa học của người giáo dân, từ hoạt động của các phong trào và các hiệp hội Công giáo và từ những thực hiện cụ thể trong lãnh vực xã hội đã ghi đậm nét trên đời sống Giáo hội trong hậu bán thế kỷ XIX.

5. Giải đáp của Giáo hội.

Những “sự việc mới” được Đức Giáo hoàng nghiên cứu đều là những vấn đề không tích cực chút nào. Đoạn đầu của thông điệp trình bày bằng những từ ngữ mạnh mẽ về những “sự việc mới” đó cũng là tên gọi của thông điệp: “Vào thời điểm phát triển ước vọng những sự việc mới mà từ lâu đã khuấy động các nhà nước, phải chú ý nhận ra nỗi khát vọng thay đổi, chuyển từ lãnh vực chính trị sang lãnh vực kế cận là kinh tế. Thực vậy, nền kỹ nghệ đã phát triển và các phương pháp kỹ nghệ cũng đã được canh tân hoàn toàn. Nhưng tương quan giữa chủ nhân và thợ thuyền đã thay đổi, tiền bạc, của cải tập trung vào tay một thiểu số, còn đa số sống trong nghèo đói. Người thợ đã có ý thức cao hơn về chính mình và đã liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Tất cả những điều đó, không kể sự suy đồi về thuần phong mỹ tục, rốt cuộc đã làm bùng nổ một cục xung đột”[10].

Đức Giáo hoàng và Giáo hội cũng như xã hội dân sự đang đối diện với một xã hội bị chia cắt do sự xung đột ngày càng gay gắt và bất nhân, đến nỗi nó không còn biết đến lề luật, qui tắc nào nữa, đó là sự xung đột giữa tư bản và lao động, hay theo kiểu nói của thông điệp, đó là vấn đề thợ thuyền. Đức Giáo hoàng không ngần ngại đưa ra phán quyết về chính cuộc xung đột này trong những hoàn cảnh bi đát mà người ta đã nhận thấy thời đó.[11]

Ở đây tôi muốn đưa ra suy nghĩ đầu tiên mà thông điệp gợi ra cho thông điệp chúng ta. Đối diện với cuộc xung đột giữa con người với nhau, có thể nói là giữa những “con chó sói”, ngay chính trên bình diện những điều kiện vật chất tối thiểu đủ sống của những người này và sự giàu có dư thừa của những người khác, Đức Giáo hoàng không ngần ngại can thiệp nhân danh “trách vụ tông đồ”, nghĩa là nhân danh sứ vụ người đã lãnh nhận nơi chính Đức Giêsu Kitô để “chăn dắt đoàn chiên” (x Ga 21,15-17), để cầm buộc và tháo cởi dưới đất “vì nước trời” (x Mt 16,19). Ý định của Người rõ ràng là để tái lập hòa bình, và độc giả ngày nay phải nhận ra sự kết án nghiêm khắc không khoan nhượng của Người chống lại cuộc đấu tranh giai cấp[12]. Nhưng Người rất ý thức sự kiện là hòa bình được xây dựng trên nền tảng công lý: rõ ràng nội dung chủ yếu của thông điệp là công bố những điều kiện nền tảng của công lý trong bối cảnh kinh tế và xã hội của thời đó[13].

Như thế, tiếp theo các vị tiền nhiệm, Đức Lêô XIII đã thiết lập một mô hình vững bền cho Giáo hội. Thực vậy, đứng trước những tình huống cụ thể của con người, cá nhân và cộng đoàn, từng quốc gia và quốc tế, Giáo hội lên tiếng, và vì họ, Giáo hội công bố một giáo lý đích thực, một học thuyết giúp Giáo hội phân tích những thực tại xã hội, cũng như đề ra những nhận định của mình về các thực tại đó, và đưa ra những đường hướng để giải đáp một cách chính đáng các vấn đề do những thực tại đó đặt ra.

Vào thời Đức Lêô XIII, một quan niệm như thế về quyền hạn và trách nhiệm của Giáo hội chưa hề được mọi người chấp nhận. Thực vậy, có hai khuynh hướng nổi bật: một là hướng về trần thế và cuộc sống đời này mà đức tin không được can thiệp vào; khuynh hướng thứ hai hướng về ơn cứu độ hoàn toàn đặt ở đời sau, và ơn cứu độ đó không đem lại áng sáng hay hướng đi nào cho cuộc sống trần thế này cả. Khi ban hành thông điệp Tân Sự, có thể nói là Đức Giáo hoàng đã trao cho Giáo hội “quyền công dân” trong những thực tại đang thay đổi của đời sống công cộng. Điều này sẽ được xác định rõ hơn nữa trong các văn kiện sau đó. Thực vậy, giáo huấn của Giáo hội về vấn đề xã hội cũng như việc truyền bá giáo huấn đó thuộc về sứ vụ loan báo tin mừng của Giáo hội; đó là một phần cốt yếu của sứ điệp Kitô giáo, bởi vì giáo lý này đưa ra những hệ luận trực tiếp của sứ điệp đó trong đời sống xã hội, và đặt lao động thường nhật và cuộc đấu tranh cho công bằng vào khung cảnh việc làm chứng cho Đức Kitô, Đấng cứu độ. Giáo lý đó đồng thời cũng là nguồn hiệp nhất và hòa bình trước những xung đột không tránh khỏi trong lãnh vực kinh tế và xã hội. Như vậy ta có thể hòa mình vào những tình trạng mới mà không làm giảm bớt phẩm giá siêu việt của con người nơi chính bản thân mình, cũng như nơi những đối thủ của mình, và tìm được con đường dẫn tới những giải quyết đúng đắn.

Sau 100 năm, giá trị của một đường hướng như vậy đã tạo cho tôi cơ hội đóng góp vào việc soạn thảo một giáo lý kitô giáo về xã hội. Trong số những yếu tố cốt yếu của việc “tái loan báo tin mừng”, hiện đang hết sức cần thiết cho thế giới, và nhiều lần tôi đã nhấn mạnh, phải kể đến việc loan báo một giáo lý của Giáo hội về vấn đề xã hội thích hợp, hôm nay cũng như thời Đức Lêô XIII, hầu đưa ra một hướng đi tốt đẹp giải đáp được những thách đố lớn lao của thời đại hiện nay trong bối cảnh các ý thức hệ đang dần dần mất đi ảnh hưởng. Cũng như thời đó, hiện nay phải lập lại rằng không có một giải pháp đích thực cho “vấn đề xã hội” ở ngoài tin mừng, và mặt khác, “những vấn đề mới” có thể tìm được trong tin mừng, là môi trường sự thật cho mình và sự thẩm định luân lý thích hợp.

6. Quyền lợi của người lao động.

Khi chủ trương chiếu một ánh sáng vào cuộc xung đột giữa tư bản và lao động, Đức Lêô XIII khẳng định những quyền căn bản của người lao động. Vì thế, chìa khóa để đọc bản văn của Đức Giáo hoàng là chính phẩm giá của người lao động, và do đó phẩm giá của lao động được định nghĩa là “hoạt động của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu của cuộc sống, đặc biệt để duy trì sự sống”[14]. Đức Giáo hoàng xác định tính cách “cá vị” của lao động, bởi vì “sức mạnh của lao động gắn liền với con người, và thuộc riêng về con người thực hiện lao động đó, và là sở hữu của họ”[15]. Như thế, lao động nằm trong ơn gọi của mọi người, con người tự bày tỏ và tự thể hiện qua hoạt động lao tác, đồng thời lao động có một chiều kích xã hội, do mối tương quan mật thiết với gia đình cũng như với công ích, “bởi vì người ta có thể khẳng định không sai lầm rằng lao động của thợ thuyền là nguồn gốc sự giàu có của nhà nước”[16]. Đó là những điều mà tôi đã lấy lại và khai triển trong thông điệp LE (lao động)[17].

Chắc chắn có một nguyên tắc quan trọng khác, đó là nguyên tắc về “quyền tư hữu”[18]. Thông điệp đã khai triển nhiều về vấn đề này, điều đó cho thấy vấn đề có tầm quan trọng riêng. Đức Giáo hoàng ý thức rõ ràng quyền tư hữu không phải là một giá trị tuyệt đối và Người không quên công bố những nguyên tắc bổ sung không thể thiếu, chẳng hạn nguyên tắc tài nguyên trái đất phải dành cho mọi người[19].

Vả lại, nếu thực sự kiểu tư hữu mà Đức Giáo hoàng đã đặc biệt đề cập đến là sở hữu đất đai[20], thì ngày nay, các lý lẽ đưa ra để bảo vệ quyền tư hữu, vẫn giữ được giá trị của nó, nghĩa là để khẳng định quyền chiếm hữu những gì cần thiết cho việc phát triển cá nhân và gia đình, cho dù hình thức thực sự của quyền này như thế nào. Phải khẳng định quyền đó một lần nữa trước những thay đổi mà chúng ta đang chứng kiến trong những hệ thống xã hội đã chấp nhận nguyên tắc sở hữu tập thể các phương tiện sản xuất, và cả trước những tình trạng ngày càng gia tăng tình trạng nghèo khổ, hay đúng hơn, trước những sự chối bỏ quyền tư hữu tại nhiều miền trên thế giới. Kể cả những miền trong đó những hệ thống xã hội xây dựng trên sự khẳng định quyền tư hữu đang chiếm ưu thế. Tiếp theo những thay đổi đó, và sự nghèo khổ triền miên, cần phải có sự phân tích vấn đề một cách sâu xa hơn, điều này sẽ được đề cập đến sau.

7. Sự cần thiết của các nghiệp đoàn

Thông điệp của Đức Lêô XIII cũng khẳng định những quyền khác tương quan mật thiết với quyền tư hữu, khi Đức Giáo hoàng quả quyết chúng vốn có trong con người và bất khả di nhượng. Trong số những quyền này, “quyền tự nhiên của con người” trong các việc lập các hiệp hội tư chiếm địa vị hàng đầu, vì Đức Giáo hoàng đã khai triển rộng rãi quyền đó và dành cho nó một tầm mức quan trọng, trước hết, đó là quyền sáng lập các nghiệp đoàn giữa các chủ nhân xí nghiệp và thợ thuyền hay giữa các thợ thuyền mà thôi[21]. Ở đây, người ta nắm được động lực khiến Giáo hội bênh vực và phê chuẩn việc sáng lập những tổ chức quen gọi là nghiệp đoàn, chắc chắn không do thành kiến mang tính ý thức hệ hay chiều theo não trạng giai cấp, nhưng vì liên hiệp với nhau là một quyền tự nhiên của con người, và do đó, là một quyền có trước khi được xã hội chính trị nhìn nhận. Thực vậy, “nhà nước được lập ra là để bảo vệ, chứ không phải để tiêu diệt quyền tự nhiên. Khi ngăn cấm những Hiệp hội như thế, nhà nước tự chống lại chính mình”[22].

Ngoài việc đã minh nhiên nhìn nhận quyền nói trên – nên nhấn mạnh điều này – đối với người thợ, hay nói theo từ ngữ của Đức Giáo hoàng: “dành cho những người vô sản”, Đức Giáo hoàng còn khẳng định rõ rệt những quyền như “giới hạn giờ lao động”, nghỉ ngơi chính đáng và đối xử đặc biệt đối với trẻ em và phụ nữ[23] trong những gì liên hệ đến loại công việc và thời gian làm việc.

Nếu chúng ta nhớ lại những gì lịch sử đã cho chúng ta biết về những thực hành đã được chấp nhận, hay ít là không bị luật pháp ngăn cấm trong lãnh vực các khế ước đã được thông qua, mà không chút bảo đảm về thời khóa biểu, về điều kiện vệ sinh của công việc, cũng không tôn trọng tuổi tác hay phái tính của những ứng viên xin việc làm, thì chúng ta sẽ hiểu rõ những nghiêm khắc trong lời của Đức Giáo Hoàng. Người viết: “Thật không công bình, cũng chẳng có nhân bản, nếu đòi hỏi con người một công việc làm cho lý trí đần độn và có thể ra yếu nhược do mệt mỏi quá sức”. Và một cách chi tiết hơn, khi bàn đến khế ước có mục đích thể hiện “những tương quan lao động” nói trên, Người quả quyết: “Trong mọi hợp đồng giữa chủ và thợ, cần phải ghi điều kiện minh nhiên hay mặc nhiên” rằng cần sắp xếp một thời gian nghỉ ngơi thích hợp tương ứng với “sức lực tiêu hao trong lao động”, rồi Người kết luận: “Một khế ước đi ngược lại sẽ là vô luân”[24].

8. Quyền có đồng lương chính đáng.

Ngay sau đó, Đức Giáo hoàng công bố một quyền khác của người lao động với tư cách là con người. Đó là quyền có “đồng lương chính đáng”, quyền này không thể để tùy “sự tự do đồng ý của các bên đến nỗi người chủ thuê thợ, sau khi đã trả tiền lương như đã thỏa thuận, dường như đã xong hợp đồng và không còn trách nhiệm nào khác nữa”[25]. Nhà nước – như thời đó người ta nói – không có quyền can thiệp vào việc quyết định các khế ước đó, ngoài việc bắt thực hiện những gì đã thỏa thuận rõ ràng. Một quan niệm như thế trong tương quan giữa chủ và thợ, hoàn toàn có tính cách thực dụng và bị thúc đẩy do cá nhân chủ nghĩa hẹp hòi đã bị thông điệp phê phán nặng nề là đi ngược lại hai đặc tính của lao động, tức là có tính cá vị và cần thiết. Thực vậy, nếu lao động xét như của con người, thì thuộc về khả năng và sức lực mà mọi người được tự do sử dụng; xét như là điều cần thiết, lao động được chi phối do bổn phận nặng nề của mỗi người là “duy trì sự sống”; “từ bổn phận này, Đức Giáo hoàng kết luận, thiết yếu nảy sinh quyền tìm kiếm những gì giúp mình có thể sống, những cái mà người nghèo chỉ có thể kiếm được nhờ đồng lương do lao động của mình”[26].

Tiền lương phải đủ để nuôi sống người thợ và gia đình của họ. Nếu người lao động “bị ép buộc do sự cần thiết hay bị thúc đẩy do sợ hãi một điều xấu hơn, phải chấp nhận những điều kiện rất khắc nghiệt, mà họ không thể từ chối vì những điều kiện do ông chủ hay người tạo công ăn việc làm cho họ áp đặt, khi ấy, họ phải chịu cưỡng bức ngược với lẽ công bằng”[27].

Ước mong rằng những dòng chữ đó, được viết vào lúc đang phát triển cái mà người ta gọi là “chủ nghĩa tư bản dã man”, ngày nay không cần phải lấy lại và lặp lại với cùng một giọng nghiêm khắc ! Đáng tiếc, cả ngày hôm nay nữa, vẫn còn những bản khế ước giữa ông chủ và thợ không biết đến sự công bằng sơ đẳng nhất trong vấn đề lao động của người thợ vị thành niên hay của phụ nữ về thời gian làm việc, về những điều kiện vệ sinh trong nơi làm việc và về đồng lương chính đáng. Điều đó vẫn xảy ra cho dù đã có các tuyên ngôn và các công ước quốc tế[28], và cả luật pháp của nhiều nhà nước. Đức Giáo hoàng đã quy cho “chính quyền” “bổn phận khắt khe” phải chăm sóc phúc lợi của người lao động cho chu đáo, bởi vì nếu chính quyền không thực hiện điều đó, sẽ xúc phạm đến công lý, và Người không ngần ngại gọi là “công bằng phân phối”[29].

9. Quyền tự do tôn giáo

Thêm vào những quyền đó, Đức Lêô XIII còn nêu ra một quyền khác nữa, vẫn luôn liên quan đến thân phận người lao động mà tôi muốn nhắc lại do tầm quan trọng của nó: quyền tự do thi hành nhiệm vụ tôn giáo của mình. Đức Giáo hoàng đã tuyên bố rõ ràng quyền này trong bối cảnh những quyền lợi và nhiệm vụ khác của thợ thuyền, cho dù, trong bầu không khí chung, ngay từ thời đó, người ta đã cho rằng có một số vấn đề hoàn toàn thuộc về lãnh vực đời sống riêng tư. Đức Thánh cha khẳng định sự cần thiết của việc nghỉ ngày chủ nhật, để nhắc cho con người nhớ tới những thiện hảo thiêng liêng và trách nhiệm tôn thờ Đấng Tối Cao[30]. Không ai được tước quyền đó của con người, một quyền bắt nguồn từ giới luật nền tảng, Người viết: “Không một ai được xúc phạm tới phẩm giá đó của con người mà không bị trừng phạt, một phẩm giá mà chính Thiên Chúa cũng đã hết sức tôn trọng”. Vì thế, Nhà Nước phải bảo đảm cho thợ thuyền được thể hiện quyền tự do đó[31].

Trong khẳng định rõ ràng trên đây, người ta không lầm khi nhận thấy hàm chứa nguyên lý về quyền tự do tôn giáo, là quyền mà kể từ đó đã trở thành đối tượng của nhiều tuyên ngôn và công ước quốc tế trang trọng[32], không kể Tuyên ngôn nổi tiếng của Công Đồng Vatican II và nhiều giáo huấn của tôi[33]. Về điều này, chúng ta phải tự hỏi những qui định luật pháp hiện hành và các thực hành trong các xã hội kỹ nghệ hôm nay có giúp thực sự bảo đảm thi hành quyền căn bản được nghỉ ngày chủ nhật hay không?

10. Vai trò của nhà nước.

Một dữ kiện quan trọng khác là, rất phong phú về giáo huấn cho thời đại chúng ta, đó là quan niệm về tương quan giữa Nhà nước và các công dân. Thông điệp Tân Sự phê phán hai hệ thống xã hội và kinh tế, tức là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tự do. Thông điệp dành phần mở đầu để phê phán chủ nghĩa xã hội khi tái khẳng định quyền tư hữu. Ngược lại không có đoạn nào dành riêng cho chủ nghĩa tự do, nhưng – và điều này đáng cho chúng ta lưu ý – những phê phán về chủ nghĩa tự do nằm ở phần bàn về đề tài những bổn phận của Nhà Nước[34]. Nhà Nước không thể chỉ quan tâm đến việc “bảo vệ một số công dân”, những người giàu có và sung túc, mà bỏ rơi “số công dân khác”, là những người chắc chắn đại diện cho đa số lớn lao trong xã hội. Nếu không sẽ làm tổn thương đến sự công bằng đã phải trả cho mọi người những gì thuộc về họ. “Nhưng trong khi bảo vệ quyền lợi riêng phải quan tâm đặc biệt đến những người hèn kém, nghèo khổ. Giới giàu có, mạnh thế về của cải, ít cần sự bảo vệ của chính quyền hơn; còn giới nghèo, vì không có tiền bạc để che chở cho mình, nên nương tựa nhiều vào sự che chở của nhà nước. Vì thế, Nhà nước phải chăm sóc và lưu tâm đặc biệt đến những người lao động thuộc đám đông những người thua thiệt”[35].

Những đoạn văn này ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị, nhất là khi đối diện với những hình thức nghèo nàn mới đang hiện hữu trong thế giới, vì lẽ những khẳng định quan trọng như thế hoàn toàn không tùy thuộc vào một quan niệm nhất định về nhà nước, cũng không lệ thuộc vào một lý thuyết chính trị đặc thù nào. Đức Giáo hoàng nhắc lại nguyên lý sơ đẳng của mỗi tổ chức chính trị lành mạnh: trong một xã hội, cá nhân nào càng dễ tổn thương thì họ càng cần được những người khác giúp đỡ và lưu tâm, nhất là được sự giúp đỡ của chính quyền.

Như thế, Nguyên tắc liên đới, như người ta thường nói ngày nay, mà trong thông điệp SRS tôi đã nhắc tới[36], giá trị của nó trong trật tự của mỗi quốc gia cũng như trật tự quốc tế, là một trong những nguyên tắc nền tảng của quan niệm kitô giáo về tổ chức chính trị và xã hội. Nguyên tắc đã nhiều lần được Đức Lêô XIII phát biểu với từ ngữ “tình bạn”, mà chúng ta đã thấy trong triết học Hy lạp. Đức Piô XI đã gọi bằng một danh từ ý nghĩa không kém là “bác ái xã hội”, trong lúc Đức Giáo hoàng Phaolô VI, khi mở rộng quan điểm đó theo những chiều kích hiện đại khác nhau của vấn đề xã hội, đã gọi là “văn minh của tình yêu”[37].

11. Giáo hội đứng về phía người nghèo.

Khi đọc lại thông điệp RN trong bối cảnh thời đó chúng ta có thể lưu ý đến mối quan tâm cũng như hành động liên lỷ của Giáo hội nhằm nâng đỡ những lớp người được Chúa Giêsu yêu thương hơn. Nội dung của bản văn này là một chứng từ tuyệt vời về tính liên tục trong Giáo hội, của điều mà người ta gọi là “lựa chọn ưu tiên về phía người nghèo”, một sự lựa chọn được định nghĩa như là một “hình thức ưu tiên đặc biệt trong thực hành Đức Ái kitô giáo” [38]. Như thế, thông điệp về “vấn đề thợ thuyền” là một thông điệp về người nghèo, và về điều kiện thê thảm mà tiến trình mới trong kỹ nghệ hóa thường là tàn bạo, đã dồn một số rất đông con người vào tình trạng đó. Cả ngày nay nữa, trong phần lớn thế giới, những tiến trình như thế trong biến chuyển kinh tế, xã hội, chính trị vẫn nảy sinh ra những tai ương tương tự.

Nếu Đức Lêô XIII phải lêu gọi tới nhà nước để cứu vãn hoàn cảnh của người nghèo theo sự công bằng, thì Người làm điều đó cũng vì Người nhìn nhận một cách chính đáng rằng Nhà Nước có bổn phận lo lắng cho công ích, và liệu sao cho mỗi lãnh vực trong sinh hoạt xã hội, kể cả lãnh vực kinh tế, đều góp phần vào việc cổ võ công ích, trong khi vẫn tôn trọng sự tự lập chính đáng của mỗi lãnh vực. Tuy nhiên, theo Đức Lêô XIII, không nên kết luận rằng, giải pháp cho vấn đề xã hội trong mọi trường hợp đều do nhà nước. Ngược lại, Đức Giáo hoàng nhiều lần nhấn mạnh tới những giới hạn cần thiết trong sự can thiệp của nhà nước, và nhấn mạnh tới bản chất công cụ của nhà nước, vì cá nhân, gia đình và xã hội là những thành phần có trước nhà nước, và Nhà Nước hiện hữu là để bảo vệ những quyền lợi riêng của họ mà không khi nào được đàn áp họ[39].

Ai cũng biết tính cách thời sự của những suy tư này. Cần bàn lại đề tài quan trọng này liên quan đến những giới hạn vốn thuộc về bản chất của nhà nước ở một đoạn sau. Các điểm được nhấn mạnh, mặc dù không phải là những điểm duy nhất được thông điệp bàn tới, nằm trong tính liên tục của giáo huấn Giáo hội về vấn đề xã hội, và được soi sáng do một quan niệm lành mạnh về quyền tư hữu, về lao động, về phát triển kinh tế, về bản chất của nhà nước, và nhất là về chính con người. Những đề tài khác sẽ được đề cập tiếp theo khi bàn đến một số khía cạnh của thực tại hiện nay, nhưng ngay bây giờ, cần lưu ý rằng, điều làm nên cái nền, và một cách nào đó, hướng dẫn cho thông điệp RN và cho toàn bộ giáo lý của Giáo hội về vấn đề xã hội, đó là quan niệm đúng đắn về con người, về giá trị độc nhất của họ, trong tầm mức con người là tạo vật duy nhất trên trái đất được Thiên Chúa muốn vì chính họ[40]. Trong con người, Thiên Chúa đã khắc ghi hình ảnh của Người, tạo dựng họ giống như Người (x St 1,26) khi ban cho con người một phẩm giá vô song, thông điệp nhiều lần nhấn mạnh tới điều đó. Thực vậy, bên trên những quyền lợi mà con người được hưởng khi làm việc còn có những quyền lợi không tương ứng với bất cứ hoạt động nào của con người, nhưng phát xuất từ phẩm giá chính yếu của con người.

CHƯƠNG II

HƯỚNG TỚI NHỮNG ĐIỀU MỚI MẺ CỦA NGÀY HÔM NAY

12. Những dữ kiện của Đức Giáo hoàng Lêô XIII

Thông điệp RN sẽ không được kỷ niệm một cách xứng hợp nếu chúng ta không để ý đúng mức đến hoàn cảnh hiện tại. Nội dung của thông điệp đã gợi lên suy tư đó; thực vậy, bối cảnh lịch sử và những dữ kiện của thông điệp đã tỏ ra chính xác lạ lùng, dưới ánh sáng của những biến cố sau này.

Những dữ kiện xảy ra vào những tháng cuối năm 1989 và đầu năm 1990 đã đặc biệt xác nhận điều đó. Những sự kiện này kể cả những biến đổi triệt để theo sau, chỉ có thể giải thích được nhờ dựa vào những hoàn cảnh có trước, là những hoàn cảnh đã cô đọng hay thể chế hóa cách nào đó, những tiên liệu của Đức Lêô XIII và những dấu chỉ ngày càng gây lo ngại mà các Vị kế nghiệp của Người đã nhận ra. Quả thật, Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã thấy trước những hậu quả tiêu cực dưới mọi khía cạnh: chính trị, xã hội và kinh tế – của một cơ chế xã hội như “chủ thuyết xã hội” đề nghị; chủ thuyết này lúc bấy giờ còn là một triết thuyết xã hội và một phong trào ít nhiều cơ cấu hóa. Người ta có thể ngạc nhiên vì Đức Giáo hoàng đã khởi đầu từ “chủ thuyết xã hội” để phê bình những giải pháp được đề nghị về “vấn đề thợ thuyền”, lúc mà chủ thuyết xã hội chưa có được hình thức một nhà nước mạnh mẽ và đầy thế lực, có quyền sử dụng mọi tài nguyên như sau này. Tuy nhiên Đức Giáo hoàng đã lượng định rất đúng mối nguy cơ đối với quần chúng, do lối trình bày hấp dẫn về một giải pháp vừa đơn giản vừa triệt để cho “vấn đề thợ thuyền” thời ấy. Điều đó càng đúng hơn nữa nếu để ý đến tình trạng bất công đang dồn ép những đám đông quần chúng vô sản tại những quốc gia mới được kỹ nghệ hóa.

Ở đây cần ghi nhận hai điều: một đàng là sự sáng suốt đặc biệt để có thể nhận thức một cách sâu sắc, tình cảnh thực sự của những người vô sản gồm đàn ông, đàn bà và trẻ em…; đàng khác là một nhận định không kém phần minh bạch, để có thể phân biệt được cái xấu trong một giải pháp mà bên ngoài là đảo ngược tình trạng người giàu người nghèo, nhưng trong thực tế lại gây thiệt hại cho chính những người mà người ta hứa giúp đỡ. Hóa ra vị thuốc còn tệ hơn căn bệnh. Khi nêu rõ bản tính của chủ thuyết xã hội thời ấy vốn chủ trương tước bỏ quyền tư hữu, Đức Lêô XIII đã đề cập đến trọng tâm của vấn đề.

Chúng ta chú ý đọc lại lời Đức Giáo hoàng: “Để sửa chữa một điều xấu là việc phân phối các của cải một cách bất công, và sự khốn cùng của những người vô sản, những người chủ trương thuyết xã hội đã thúc đẩy người nghèo đến chỗ ghen tị với những người giàu có. Họ chủ trương dẹp bỏ quyền tư hữu, của cải đều là của chung mọi người… Thế nhưng một lý thuyết như vậy nếu được áp dụng, thay vì có thể chấm dứt sự xung đột, thì lại làm hại cho người thợ thuyền. Vả lại chủ trương này cũng hoàn toàn bất công, vì xâm phạm đến những sở hữu chủ hợp pháp, làm biến tính chức năng của nhà nước và đảo lộn tận gốc rễ toàn bộ cơ cấu xã hội”[41]. Không thể nào vạch rõ hơn nữa những tai họa xảy ra do việc thiết lập loại chủ thuyết xã hội này như một hệ thống nhà nước, với tên gọi là “chủ thuyết xã hội hiện thực”.

13. Sai lầm căn bản của chủ thuyết xã hội.

Bây giờ chúng ta đào sâu suy tư và cũng quy chiếu với tất cả những gì đã được đề cập đến trong các thông điệp LE và SRS, ta phải thêm rằng sai lầm căn bản của “chủ thuyết xã hội” là ở quan niệm về con người. Thực vậy, chủ thuyết này coi cá nhân chỉ đơn giản là một yếu tố, một phần tử trong cấu trúc xã hội, đến nỗi điều thiện hảo của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc vào hoạt động của bộ máy kinh tế và xã hội, trong khi mặt khác, chủ thuyết đó cho rằng chính thiện hảo cá nhân ấy cũng có thể có được mà không cần đến lựa chọn tự do của cá nhân, không cần quyết định duy nhất, tuyệt đối và có trách nhiệm trước điều thiện hay điều ác. Như thế, con người chỉ còn là một tổng hợp những tương quan xã hội, và lúc ấy không còn quan niệm con người như một chủ thể có quyền tự quyết về luân lý, nhờ đó con người xây dựng nên trật tự xã hội. Từ quan niệm sai lầm về con người như thế đã đi đến sự lầm lạc về luật xác định lãnh vực thực hiện tự do, cũng như phủ nhận quyền tư hữu. Thực vậy, con người bị tước mất những gì có thể gọi là “của mình”, mất khả năng mưu sinh nhờ sáng kiến của mình, đi đến chỗ lệ thuộc vào bộ máy xã hội và vào những người kiểm soát bộ máy đó, điều này khiến cho con người gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận thức phẩm giá của mình và cản trở việc tiến tới sự thiết lập một cộng đồng nhân loại đích thực.

Ngược lại, quan niệm của kitô giáo về con người tất yếu đưa đến cái nhìn đúng đắn về xã hội. Theo thông điệp RN và toàn bộ học thuyết của Giáo hội về xã hội, thì tính chất xã hội của con người không bị tiêu tan đi trong nhà nước nhưng được thể hiện trong những nhóm trung gian khác nhau, từ gia đình đến những nhóm kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa. Những nhóm này, phát xuất từ chính bản chất con người, vẫn có quyền tự quyết riêng – luôn luôn trong khuôn khổ lợi ích chung. Đó là điều chúng tôi gọi là tính “ngôi vị” của xã hội, tính cách này đã bị “chủ nghĩa xã hội hiện thực” xóa bỏ cùng với tính ngôi vị của cá nhân[42].

Nếu sau đó, người ta hỏi từ đâu nảy sinh quan niệm sai lầm như thế về tính cách ngôi vị của con người và tính cách ngôi vị của xã hội, thì phải trả lời rằng nguyên nhân đầu tiên là thuyết vô thần. Chính qua việc đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa hàm ngụ trong các sự vật, mà con người ý thức được phẩm giá siêu việt của mình. Mỗi người phải đáp trả vì trong lời đáp trả ấy con người đạt tới đỉnh cao nhân tính của mình, và không một bộ máy xã hội hay một chủ thể cộng đồng nào có thể thay thế được. Việc phủ nhận Thiên Chúa cắt đứt con người khỏi gốc rễ của mình, và vì vậy khuyến khích việc tổ chức lại trật tự xã hội mà không đếm xỉa gì đến phẩm giá và trách nhiệm của ngôi vị.

Vả lại thuyết vô thần mà ta nói đến ở đây, có liên hệ mật thiết với chủ trương duy lý của nền triết học ánh sáng, chủ trương này quan niệm thực tại con người và xã hội một cách máy móc. Như vậy người ta phủ nhận trực giác chung cuộc về tầm mức vĩ đại thực sự của con người, phủ nhận siêu việt tính của con người trong tương quan với thế giới sự vật, phủ nhận sự mâu thuẫn con người cảm thấy trong tâm hồn giữa ước vọng sự thiện sung mãn và sự bất lực của mình để đạt được sự thiện đó, và nhất là phủ nhận sự cần thiết của ơn cứu độ phát xuất từ đó.

14. Thuyết vô thần là nguồn gốc đấu tranh giai cấp.

Cũng chính do nguồn gốc thuyết vô thần này đã phát sinh sự lựa chọn những phương thế riêng biệt của chủ nghĩa xã hội mà thông điệp RN đã lên án. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp. Dĩ nhiên, Đức Giáo hoàng không chủ trương kết án mọi xung đột xã hội dưới bất cứ hình thức nào: Giáo hội hiểu rằng những xung đột về quyền lợi giữa những nhóm xã hội khác nhau vốn không thể tránh được trong lịch sử, và kitô hữu phải thường xuyên coi lập trường về vấn đề đó một cách dứt khoát và hợp lý. Vả lại, thông điệp LE đã công nhận vai trò tích cực của xung đột khi nó mang tính chất của một cuộc “đấu tranh vì công bình xã hội”[43], và trong thông điệp Quadragesimo anno (năm thứ 40) chúng ta đọc thấy: “Thật thế, sự đấu tranh giai cấp, khi gạt bỏ những hành vi bạo lực và thù ghét lẫn nhau, sẽ dần dần biến thành một cuộc tranh luận chính đáng, đặt nền tảng trên việc tìm kiếm công lý”[44].

Đúng hơn, điều bị kết án trong cuộc đấu tranh giai cấp đó là quan niệm về sự xung đột, mà không lưu ý đến đạo đức hay pháp lý, từ chối tôn trọng phẩm giá người khác (và vì thế không tôn trọng phẩm giá của chính mình); do đó loại trừ sự dung hòa hợp lý, không tìm điều thiện chung của xã hội, mà chỉ tìm kiếm lợi ích của đảng phái, và muốn triệt hạ những ai chống đối mình. Tóm tắt, đó là lập lại trong lãnh vực xung đột nội bộ giữa các nhóm xã hội – chủ trương “chiến tranh toàn diện” mà chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa đế quốc đã đề cao trong lãnh vực các mối tương giao quốc tế. Chủ thuyết này thay vì tìm kiếm sự quân bình chính đáng giữa lợi ích của các quốc gia khác nhau, thì lại tìm kiếm ưu thế tuyệt đối cho phe đảng của mình bằng cách tiêu diệt sức đề kháng của đối phương, dùng đủ mọi phương thế, kể cả dối trá khủng bố thường dân và những vũ khí hủy diệt (được chế tạo vào đúng những năm ấy). Vậy đấu tranh giai cấp theo thuyết Mác – xít và chủ nghĩa quân phiệt có chung một nguồn gốc: vô thần và chủ trương khinh miệt nhân vị, vốn đề cao nguyên tắc sức mạnh hơn lẽ phải và quyền lợi.

15. Bổn phận của nhà nước

Như đã nói, thông điệp RN chống lại việc quốc hữu hóa các phương tiện sản xuất vì làm cho mọi công dân chỉ còn là một bộ phận trong guồng máy nhà nước, thông điệp cũng dứt khoát phê phán quan niệm nhà nước chủ trương đặt lãnh vực kinh tế hoàn toàn ra ngoài phạm vi quan tâm và hoạt động của mình. Chắc chắn có một phạm vi hợp pháp để các hoạt động kinh tế co quyền tự trị, nhà nước không nên can dự vào đó. Tuy nhiên, nhà nước có bổn phận xác định khuôn khổ pháp luật giúp triển khai các tương giao kinh tế, và như thế bảo vệ được những điều kiện tiên quyết của nền kinh tế tự do, một nền kinh tế gia đình và sự bình đẳng giữa các thành phần, làm sao để thành phần này không vượt trổi hơn thành phần kia đến độ trong thực tế biến nó thành nô lệ[45].

Về vấn đề này, thông điệp RN đề ra những cải tổ chính đáng, khả dĩ phục hồi giá trị cho lao động như một hoạt động tự do của con người. Những cải cách này giả thiết rằng xã hội và nhà nước lãnh trách nhiệm của mình đặc biệt là để bảo vệ người lao động thất nghiệp trong một lịch sử điều này được thực hiện theo hai được đồng quy: hoặc do những chính sách kinh tế nhằm bảo đảo một sự phát triển quân bình và hoàn cảnh có công ăn việc làm đầy đủ, hoặc bằng những bảo đảm chống lại nạn thất nghiệp và những chính sách thất nghiệp thích hợp, để các công nhân trong những ngành nghề đang bị khủng hoảng dễ dàng chuyển sang những hoạt động khác đang trên đà phát triển.

Ngoài ra, xã hội và nhà nước phải bảo đảm mức lương cân xứng để người lao động và gia đình họ có thể sống được, cũng như có thể dành dụm để tiết kiệm. điều này đòi hỏi phải nỗ lực bồi dưỡng cho công nhân nâng cao kiến thức và khả năng, giúp cho công việc của họ thêm chất lượng và tăng sản phẩm hơn nhưng cũng phải thường xuyên giám sát và có biện pháp thích hợp và pháp luật để ngăn chặn những hiện tượng bóc lột đáng xấu hổ, nhất là gây thiệt hại cho những người lao động thiếu thốn nhất, những người di cư hay những người sống bên lề xã hội. Trong lãnh vực này, vai trò của các nghiệp đoàn có tính cách quyết định, vì đoàn có nhiệm vụ thương thảo mức lương tối thiểu và những điều kiện lao động.

Sau cùng, phải tôn trọng thời khóa biểu sinh sống của “con người” trong việc lao động và nghỉ ngơi cũng như quyền bày tỏ nhân cách của họ trong những môi trường lao động mà không được xâm phạm đến lương tâm và phẩm giá của họ bất cứ cách nào. Cũng nên nhắc đến vai trò của các nghiệp đoàn, không chỉ là những phương thế để thương lượng, mà còn là những “môi trường” bày tỏ nhân cách: các nghiệp đoàn hữu ích cho việc phát triển một nền văn hóa đích thực về lao động, và giúp cho người lao động tham gia vào sinh hoạt của xí nghiệp một cách hoàn toàn nhân bản[46].

Nhà nước phải góp phần vào việc thực thi những mục tiêu này các trực tiếp hoặc gián tiếp. Cách gián tiếp và theo nguyên tắc hỗ trợ, là tạo điều kiện thuận lợi cho tự do hoạt động kinh tế, nhờ đó có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm và nguồn tài sản phong phú. Cách trực tiếp và theo nguyên tắc liên đới, để bảo vệ những người yếu kém nhất, là hạn chế phần nào quyền tự trị của các thành phần nắm quyền quyết định về những điều kiện làm việc, và trong mỗi trường hợp, bảo đảm cho người lao động thất nghiệp mức sống tối thiểu[47].

Thông điệp và giáo huấn về xã hội sau thông điệp đã gây nhiều ảnh hưởng khác nhau và những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ảnh hưởng này là nguồn gốc cho nhiều cuộc canh tân trong lãnh vực dự phòng xã hội, nghỉ hưu, bảo hiểm, dự phòng tai nạn, tất cả đều nằm trong bối cảnh nhằm tôn trọng quyền của người lao động nhiều hơn nữa[48].

16. Hoạt động của phong trào công nhân.

Các nhà nước đã thực hiện được một phần những cuộc cải tổ, nhưng trong cuộc đấu tranh để đạt được những cải tổ ấy, hoạt động của phong trào công nhân có một vai trò quan trọng. Phát sinh từ phản ứng của ý thức luân lý chống lại những tình trạng bất công và tác hại, phong trào ấy phát triển thành một hoạt động nghiệp đoàn và canh tân rộng rãi. Phong trào đó không phải là những ý thức hệ xa vời, nhưng thiết thực đối với những nhu cầu thường ngày của người lao động, và trong lãnh vực này nỗ lực của họ thường liên kết với nỗ lực của kitô hữu nhằm nâng cao điều kiện sống của những người lao động.

Về sau, trong một mức độ nào đó, phong trào nói trên rõ ràng đã bị ý thức hệ Mác – xít chi phối, thông điệp RN đã chống lại ý thức hệ này.

Chính những cuộc cải tổ này cũng là kết quả của một tiến trình tự do nhằm tự tổ chức xã hội, với việc điều chỉnh những phương thế tăng cường sự liên đới, thích hợp để nâng đỡ một sự tiến triển kinh tế tôn trọng những giá trị của con người nhiều hơn. Ở đây, cần nhắc lại những hoạt động đa dạng, với phần đóng góp đáng kể của các kitô hữu, từ đó đã đưa đến việc thành lập những hợp tác xã sản xuất, tiêu thụ và tín dụng, thúc đẩy việc giáo dục cho dân chúng và huấn nghệ, thử nghiệm những hình thức khác nhau để tham gia vào sinh hoạt của xí nghiệp, và nói chung của xã hội.

Như vậy, khi nhìn lại quá khứ, nếu như có những lý do để tạ ơn Thiên Chúa vì thông điệp quan trọng đã có âm hưởng mạnh mẽ nơi các tâm hồn, và đã thúc đẩy tới lòng quảng đại tích cực, thì cũng phải nhìn nhận rằng, lời tiên báo có tính ngôn sứ mà thông điệp phát biểu đã không được con người thời ấy đón nhận trọn vẹn, và do đó đã phát sinh nhiều tai họa rất lớn lao.

17. Quan niệm về tự do.

Khi nối kết thông điệp này với toàn bộ giáo huấn phong phú của Đức Giáo hoàng Lêô XIII[49], người ta sẽ thấy, từ ăn bản, thông điệp vạch rõ những hậu quả do sự sai lầm có tầm mức rất lớn trên lãnh vực kinh tế và xã hội. Như đã nói, sai lầm đó hệ tại một quan niệm về tự do của con người muốn trốn tránh bổn phận tôn trọng quyền lợi của người khác. Khi ấy, ý nghĩa tự do được hiểu là lòng yêu chính mình, đi đến việc khinh thường Thiên Chúa và tha nhân, đó là một thứ tình yêu hướng đến sự khẳng định lợi ích riêng tư vô giới hạn, và không để mình bị chi phối bởi bất cứ nghĩa vụ nào về công lý.[50]

Những hệ quả ghê gớm của sai lầm này hiện rõ trong chu kỳ bi đát của những cuộc chiến tranh làm rung chuyển cả Châu âu và cả thế giới từ 1914-1945. Đó là những cuộc chiến do chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa quốc gia quá khích, và do những hình thức của chế độ cực quyền có liên cất với những chủ nghĩa trên gây nên, đó là những cuộc chiến phát sinh từ cuộc đấu tranh giai cấp, những cuộc nội chiến và chiến tranh ý thức hệ. Không có tác động ghê gớm của lòng ghen ghét và thù hận, tích tụ do biết bao bất công trên bình diện quốc tế, lẫn bên trong các quốc gia, thì đã không xảy ra những cuộc chiến khốc liệt như thế, trong đó các cường quốc tham gia với tất cả sức mạnh, trong đó người ta không ngần ngại xâm phạm đến các quyền thiêng liêng nhất của con người, và trong đó người ta thảo kế hoạch và thực hiện việc tận diệt nhiều dân tộc và toàn bộ những nhóm xã hội. Ở đây chúng ta đặc biệt nhớ đến Dân tộc Do thái mà số phận kinh hoàng của họ đã trở thành một biểu tượng của sự điên rồ mà con người có thể sa vào khi họ chống lại Thiên Chúa.

Tuy nhiên, thù hận và bất công chỉ bao trùm toàn thể các quốc gia, và chỉ thúc đẩy họ hành động một khi chúng được hợp thức hóa và được tổ chức do các ý thức hệ đặt nền tảng trên chúng hơn là trên sự thật về con người[51]. Thông điệp RN chống lại các ý thức hệ chủ trương thù hận, và đã trình bày các cách thức dùng công lý để chấm dứt bạo lực và oán giận. Ước mong ký ức về những biến cố khủng khiếp ấy hướng dẫn hoạt động của tất cả mọi người, nhất là của các vị lãnh đạo các dân tộc ở thời đại chúng ta, trong lúc những bất công khác đang nuôi dưỡng những mối thù hận mới, và ở chân trời đang xuất hiện những ý thức hệ mới đề cao bạo lực.

18. Nguồn gốc của chiến tranh

Chắc chắn từ 1945, trên lục địa Châu đã im tiếng súng, tuy nhiên chúng ta cần nhớ lại rằng hòa bình thực sự không bao giờ là kết quả của chiến thắng quân sự, nhưng giả thiết phải loại bỏ những nguyên nhân gây ra chiến tranh và đòi hỏi sự hòa giải đích thực giữa các dân tộc. Ngược lại trong suốt nhiều nhiều năm qua, ở Châu Âu cũng như nhiều nơi trên thế giới, có tình trạng không chiến tranh, chứ không phải là hòa bình thực sự. Một nửa lục địa này rơi vào quyền lực của chế độ độc tài cộng sản, trong khi phần còn lại tự tổ chức để bảo vệ chống lại loại nguy hiểm đó. Nhiều dân tộc mất quyền định đoạt về chính mình, bị kiềm tỏa trong những giới hạn của một đế quốc áp bức cố gắng hủy diệt ký ức lịch sử và những nền văn hóa dân tộc có nguồn gốc lâu đời. Tiếp theo sự chia cắt bạo tàn ấy, những đoàn người đông đảo bị cưỡng bách rời bỏ mảnh đất của mình và bị đi lưu đày.

Cuộc chạy đua vũ trang điên cuồng đã ngốn hết những tài nguyên cần thiết cho sự phát triển các nền kinh tế trong nước và cho việc giúp đỡ các quốc gia cùng khổ nhất. Tiến bộ khoa học và kỹ thuật đáng lẽ phải góp phần vào việc làm cho con người sống hạnh phúc hơn, lại biến thành công cụ chiến tranh. Khoa học và kỹ thuật được sử dụng để sản xuất những vụ khí luôn hoàn hảo hơn và có khả năng hủy diệt nhiều hơn, trong khi đó, người ta nại đến một ý thức hệ vốn là một nền triết học đích thực đã bị xuyên tạc, nhằm cung cấp những biện chứng có tính giáo điều cho một cuộc chiến tranh mới. Chiến tranh không chỉ được chờ đợi và chuẩn bị, mà thực sự đang xảy ra tại những miền khác nhau trên thế giới và gây ra những cuộc đổ máu lớn lao. Các văn kiện của Giáo hội và mới đây thông điệp SRS[52] đã tố giác chủ trương phân chia thành các khối hay đế quốc đối nghịch. Chủ trương đó đã phóng đại và khai thác cách có hệ thống những cuộc tranh chấp và những mối bất hòa tại các nước thuộc thế giới thứ ba để gây khó khăn cho đối phương.

Những nhóm cực đoan, là những người tìm cách giải quyết những xung đột trên bằng vũ khí, lợi dụng chỗ dựa về chính trị và quân sự, nên được trang bị vũ khí và huấn luyện về chiến tranh, trong khi những người nỗ lực tìm kiếm những giải pháp hòa bình và nhân bản bằng cách tôn trọng lợi ích hợp pháp của tất cả mọi phe nhóm, lại bị cô lập và trở thành nạn nhân của các phe nhóm đối nghịch. Nền hòa bình bấp bênh sau thế chiến II là một trong những lý do chính của việc quân sự hóa nhiều quốc gia thuộc thế giới thứ ba và những cuộc chiến huynh đệ tương tàn tại những quốc gia đó, sự lan tràn phong trào khủng bố và những hành động ngày càng man rợ hơn của cuộc chiến tranh quân sự, chính trị. Sau cùng, một cuộc chiến tranh nguyên tử đang đe dọa toàn thể thế giới có thể dẫn đến việc hủy diệt nhân loại. Khoa học, khi được sử dụng vào những mục tiêu quân sự, khoa học đã trao vũ khí tuyệt đối cho sự thù hận vốn được khuếch đại bởi các ý thức hệ. Thế nhưng, chiến tranh có thể được kết thúc trong một cuộc tự sát của nhân loại mà không có kẻ thắng người bại, và như thế, phải loại bỏ lối lý luận đưa đến sự tự sát trên, tức là ý tưởng cho rằng đấu tranh tiêu diệt đối phương, sự mâu thuẫn và cả chiến tranh nữa là những yếu tố làm nên sự tiến bộ và đưa lịch sử tiến lên phía trước[53]. Nếu người ta chấp nhận sự loại bỏ đó là cần thiết, thì sự lý luận về “cuộc chiến tranh toàn diện” cũng như về “sự đấu tranh giai cấp” cần thiết phải được xét lại.

19. Hậu quả của chiến tranh

Nhưng vào cuối thế chiến II, một tiến trình như thế vẫn đang thành hình trong tâm trí con người, và sự kiện đáng chú ý là sự bành trướng của chế độ chuyên chế cộng sản trên hơn một nửa Châu Âu và một phần thế giới. Chiến tranh, lẽ ra phải tái lập tự do và khôi phục quyền lợi của các dân tộc, thì lại kết thúc mà không đạt được những mục tiêu ấy, nhưng ngược lại hiển nhiên phản lại các mục tiêu ấy đối với nhiều dân tộc, nhất là những dân tộc đã phải chịu đựng nhiều nhất trong chiến tranh. Có thể nói rằng, tình trạng như vậy đã gợi lên những phản ứng khác nhau.

Trong nột số quốc gia và theo một vài quan điểm, người ta tham gia vào một nỗ lực tích cực nhằm tái thiết, sau những hủy diệt của chiến tranh, một xã hội dân chủ được gợi hứng bởi công bình xã hội, làm cho chủ nghĩa cộng sản mất đi tiềm lực cách mạng phát xuất từ đám người bị bóc lột và áp bức. Cách chung những cố gắng này tìm cách duy trì những bộ máy của thị trường tự do bằng cách bảo đảm những điều kiện của một sự tiến triển kinh tế vững chắc và lành mạnh, nhờ sự ổn định tiền tệ và an toàn trong những tương quan xã hội, nhờ đó con người có thể dùng lao động mà kiến tạo một tương lai tốt đẹp cho chính mình và cho con cái. Đồng thời, người ta tìm cách để những cơ cấu thị trường không còn là điểm quy chiếu duy nhất của đời sống xã hội, và người ta muốn bắt những bộ máy ấy phải phục tùng sự kiểm soát công khai được gợi hứng từ nguyên tắc của cải trần thế được dành cho mọi người. Công ăn việc làm dồi dào, hệ thống an ninh xã hội vững chắc, huấn nghệ, tự do lập hội và hoạt động mạnh mẽ của các nghiệp đoàn, sự bảo trợ xã hội trong trường hợp thất nghiệp, những phương tiện tham gia dân chủ vào đời sống xã hội, tất cả những điều ấy, trong bối cảnh như thế làm cho lao động tránh khỏi hoàn cảnh trở thành một “hàng hóa” và bảo đảm khả năng hoàn thành lao động cách xứng đáng.

Thứ đến, còn những thế lực xã hội khác và những trường phái tư tưởng khác chống lại thuyết Mác – xít bằng việc thiết lập những hệ thống “an ninh quốc gia”, những hệ thống này kiểm soát chặt chẽ toàn thể xã hội, để ngăn cản sự xâm nhập của chủ thuyết Mác – xít. Bằng cách đề cao và gia tăng quyền lực của nhà nước, những chế độ đó cố gắng bảo vệ dân tộc mình khỏi chủ nghĩa cộng sản, nhưng, khi thực hiện việc đó, họ gặp phải nguy cơ trầm trọng là tiêu hủy tự do và những giá trị của con người qua danh nghĩa chống cộng.

Sau cùng, một hình thức đáp ứng thực tiễn khác được đại diện bởi xã hội sung túc, hay xã hội tiêu thụ. Hình thức này cố gắng vượt chủ thuyết Mác–xít trên lãnh vực hoàn toàn duy vật, chứng tỏ rằng một xã hội thuộc thị trường tự do có thể làm thỏa mãn những nhu cầu vật chất cách hoàn hảo hơn là chủ nghĩa cộng sản đã đảm bảo, nhưng đồng thời lại loại bỏ những giá trị thiêng liêng. Trong thực tế, một phần, nếu thực sự, kiểu mẫu xã hội này cho thấy thuyết Mác-xít không có khả năng kiến tạo một xã hội mới và tốt đẹp hơn, phần khác, khi chối từ đạo đức, quyền lợi, văn hóa và tôn giáo có thực tại và giá trị riêng của mình, kiểu mẫu xã hội này cũng giống thuyết Mác-xít khi hoàn toàn giản lược con người vào lãnh vực kinh tế và sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất.

20. Chấm dứt chế độ thuộc địa.

Cũng trong thời gian này diễn ra một tiến trình gây xúc động là “việc chấm dứt chế độ thuộc địa”, nhờ đó nhiều quốc gia đạt được hay tái lập nền độc lập và chủ quyền tự quyết về chính mình. Tuy nhiên, với việc chính thức chinh phục lại uy quyền tối thượng của quốc gia, những quốc gia này thường mới chỉ ở khởi điểm của con đường xây dựng một nền độc lập thực sự. Thật vậy, những lãnh vực kinh tế có tính quyết định vẫn còn nằm trong tay những xí nghiệp lớn của ngoại quốc, những xí nghiệp này không chấp nhận liên kết bền vững với việc phát triển của quốc gia đã tiếp đón họ, và chính sinh hoạt chính trị vẫn còn bị các thế lực ngoại bang kiểm soát, đang khi đó bên trong biên giới quốc gia, vẫn còn có những nhóm chủng tộc chưa hội nhập hoàn toàn vào một cộng đồng quốc gia đích thực. Ngoài ra, còn thiếu một tập thể những công chức tài năng, có khả năng quản trị guồng máy quốc gia cách đúng đắn và công bằng, đồng thời cũng thiếu cán bộ quản lý kinh tế hữu hiệu và có trách nhiệm.

Trong hoàn cảnh đó, nhiều người nghĩ rằng thuyết Mác–xít có thể cống hiến một con đường tắt để xây dựng dân tộc và quốc gia, và do đó đã thấy xuất hiện những mẫu xã hội chủ nghĩa có đặc tính quốc gia riêng biệt. Những mẫu này hòa lẫn với nhiều ý thức hệ được hình thành cách khác nhau tùy trường hợp: những đòi hỏi chính đáng của việc bảo vệ quốc gia, những hình thức của chủ nghĩa quốc gia, và cả của chế độ quân phiệt, những nguyên tắc rút ra từ những nền văn hóa dân gian cổ truyền, đôi khi phù hợp với học thuyết xã hội của kitô giáo, và những quan điểm của thuyết Mác–xít Lê–nin–nít.

21. Tổ chức Liên Hiệp quốc.

Cuối cùng cần phải nhắc lại là sau thế chiến thứ II, và cũng để phản ứng chống lại những điều khủng khiếp của nó, đã phổ biến một tâm thức mạnh hơn về quyền con người, tâm thức này đã được nhìn nhận trong nhiều văn kiện quốc tế khác nhau[54] và có thể nói, trong việc kiến tạo một luật pháp quốc tế về quyền con người. Nòng cốt của sự phát triển đó là tổ chức Liên Hiệp Quốc. Không chỉ có ý thức về quyền của cá nhân được phát triển, mà cả ý thức về quyền của các quốc gia, trong khi đó người ta thấy rõ hơn cần phải hành động để đem lại phương thức giải quyết những bất quân bình trầm trọng giữa những vùng địa dư khác nhau trên thế giới, mà theo một nghĩa, những bất quân bình này đã chuyển trọng tâm vấn đề xã hội từ bối cảnh quốc gia sang bình diện quốc tế[55].

Trong lúc hài lòng về sự phát triển này, người ta cũng không thể bỏ quên sự kiện là bản tổng kết toàn bộ những chính sách viện trợ khác nhau cho việc phát triển không luôn luôn có tính cách tích cực. Ngoài ra, tại Liên Hiệp Quốc cho đến nay, người ta vẫn chưa thành công trong việc tạo ra những cách thức hữu hiệu, ngoài chiến tranh, để giải quyết những xung đột quốc tế, và có lẽ đây là vấn đề cấp bách nhất mà cộng đồng quốc tế vần phải giải quyết.

CHƯƠNG III: NĂM 1989

22. Vai trò của Giáo hội

Căn cứ vào tình hình thế giới như chúng tôi vừa mô tả và đã được trình bày cặn kẽ trong thông điệp SRS, chúng ta mới hiểu được tầm quan trọng bất ngờ và đầy hứa hẹn của các biến cố xảy ra trong những năm gần đây. Mặc dù các biến cố đó rõ rệt đạt tới cao điểm vào năm 1989 tại các quốc gia ở Trung và Đông âu, nhưng chúng còn bao trùm cả một thời gian và không gian rộng hơn. Vào những năm 80, tại nhiều quốc gia ở Châu Mỹ La tinh cũng như Châu Phi và Châu âu người ta chứng kiến những chế độ độc tài và áp bức lần lượt sụp đổ. Những trường hợp khác lại là mở đầu cho một chuyển biến, tuy khó khăn nhưng hiệu quả, hướng tới các chính thể đề cao sự cộng tác và công lý nhiều hơn. Giáo hội đã góp phần quan trọng, thậm chí có tính quyết định qua thái độ cổ võ bảo vệ việc thăng tiến nhân quyền tại những môi trường chịu ảnh hưởng sâu đậm của một hệ tư tưởng, trong đó những lập trường triệt để làm lu mờ ý thức chung về phẩm giá con người, thì Giáo hội khẳng định rõ ràng và mạnh mẽ rằng, mỗi người dù xác tín cá nhân thế nào đi nữa, vẫn mang nơi mình hình ảnh Thiên Chúa, và như vậy họ đáng được tôn trọng. Đại đa số dân chúng thường chấp nhận khẳng định này, và điều đó đưa đến việc tìm kiếm những hình thức đấu tranh và những giải pháp chính trị tôn trọng phẩm giá con người hơn.

Từ tiến trình lịch sử đó phát sinh những hình thức dân chủ mới đem lại hy vọng một sự thay đổi trong những cơ cấu chính trị và xã hội bấp bênh, đang gánh chịu hàng loạt những đau khổ do vô số bất công và hận thù, thêm vào đó là một nền kinh tế thảm hại và những xung đột xã hội gay gắt. Cùng toàn thể Giáo Hội, chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa vì những chứng tá đôi khi rất anh dũng của nhiều mục tử, nhiều cộng đoàn kitô giáo cũng như nhiều tín hữu, và nhiều người thiện chí khác đã nêu lên trong những hoàn cảnh khó khăn đó; tôi nguyện xin Chúa nâng đỡ những nỗ lực của mọi người nhằm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Thực tế, đó là trách nhiệm không những của các công dân trong các quốc gia nói trên, mà còn là của tất cả mọi kitô hữu và những người thiện chí. Điều đó chứng tỏ rằng những vấn đề phức tạp nơi các dân tộc đó có thể giải quyết được thông qua đối thoại và liên đới, mà không cần đến tranh đấu để triệt tiêu đối phương, cũng chẳng cần đến chiến tranh.

23. Sự sụp đổ của các chế độ áp bức.

Trong số các nhân tố làm cho các chế độ áp bức bị sụp đổ có những nhân tố đáng được nhắc đến đặc biệt. Chắc chắn, nhân tố có tính cách quyết định đưa đến những thay đổi, đó là sự vi phạm quyền lao động. Không nên quên rằng cuộc khủng hoảng cơ bản của các hệ thống chính trị tự coi mình là đại diện cho giới thợ thuyền để nắm quyền cai trị, kể cả nền chuyên chính của giới công nhân, bắt đầu từ những phong trào lớn ở Balan dưới danh nghĩa đoàn kết. Chính quần chúng công nhân là những người đã khai trừ tính hợp pháp của hệ tư tưởng cho là mình phát biểu nhân danh họ, và từ kinh nghiệm sống động và cực khổ trong lao động và áp bức, chính họ là những người tìm lại được hầu như tái khám phá những phát biểu và những nguyên tắc trong học thuyết xã hội của Giáo hội.

Một sự kiện khác cần nhấn mạnh, đó là hầu như khắp nơi người ta có thể làm cho một “khối” hay một đế quốc đi đến chỗ sụp đổ bằng những cuộc đấu tranh ôn hòa chỉ dùng sự thật và công lý làm khí giới. Trong khi thuyết Mác–xít cho rằng chỉ cần đẩy những mâu thuẫn xã hội lên đến cực điểm là có thể giải quyết được những mâu thuẫn ấy bằng một cuộc đối đấu quyết liệt thì những cuộc đấu tranh đưa thuyết Mác–xít đến chỗ sụp đổ, đều kiên trì sử dụng tất cả những đường lối thương lượng, đối thoại và làm chứng cho sự thật, kêu gọi lương tri của đối phương, và tìm cách thức tỉnh nơi họ ý thức chung về phẩm giá con người.

Cứ theo bề ngoài thì chỉ có một cuộc chiến tranh khác mới có thể đảo lộn trật tự ở Âu Châu có từ thế chiến thứ hai, và đã được hiệp ước Ya-va phê chuẩn. Thế nhưng, điều đó đã không cần nữa, nhờ hoạt động bất bạo động của những người, dù không bao giờ chịu khuất phục bạo lực, nhưng vẫn biết tìm ra trong mọi trường hợp đường lối hiệu nghiệm minh chứng cho sự thật. Điều đó đã vô hiệu hóa đối phương, vì bạo lực bao giờ cũng dùng dối trá để biện minh cho mình, và làm bộ, kể cả giả dối, là bảo vệ quyền lợi hay đối phó với mọi đe dọa của người khác[56]. Một lần nữa chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa đã nâng đỡ tâm hồn con người giữa những thử thách khó khăn, và cũng nguyện xin cho gương mẫu đó được phổ biến ở những miền khác và trong những hoàn cảnh khác. Ước mong con người học biết đấu tranh cho công lý mà không cần đến bạo động, bằng cách từ khước đấu tranh giai cấp trong những xung đột nội bộ, và từ khước chiến tranh trong những xung đột quốc tế.

24. Những nguyên nhân của sự sụp đổ này.

Nhân tố thứ hai gây ra khủng hoảng chắc chắn là do hệ thống kinh tế thiếu hiệu năng, và không nên coi đây chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà đúng hơn, là hệ quả của sự vi phạm nhân quyền: quyền có sáng kiến, quyền tư hữu và quyền tự do trong lãnh vực kinh tế. Thêm vào đó là chiều kích văn hóa và quốc gia: không thể hiểu biết con người, nếu chỉ dựa trên lãnh vực kinh tế, cũng như không thể xác định con người là gì nếu chỉ căn cứ vào việc họ thuộc về một giai cấp nào đó. Ta hiểu biết con người một cách hoàn hảo hơn, nếu đặt con người vào trong bối cảnh văn hóa của họ, bằng cách lưu ý đến ngôn ngữ, lịch sử của họ, quan điểm của họ trước các biến cố nền tảng của đời sống, chẳng hạn như việc chào đời, tình yêu, lao động, sự chết. Trọng tâm của mọi nền văn hóa là thái độ của con người khi đối diện với mầu nhiệm vô cùng lớn lao: mầu nhiệm Thiên Chúa. Tự căn bản, những nền văn hóa khác nhau của các dân tộc là những cách thức khác nhau để giải quyết vấn đề ý nghĩa cuộc nhân sinh. Nếu loại bỏ vấn đề này, thì nền văn hóa và đời sống luân lý của các quốc gia sẽ bị băng hoại. Vì thế, cuộc đấu tranh bảo vệ lao động tự nó liên kết với cuộc đấu tranh cho nền văn hóa và quyền lợi quốc gia.

Tuy nhiên nguyên nhân đích thực của những điều mới mẻ đó là sự trống rỗng tâm linh do chủ thuyết vô thần gây ra, chủ thuyết này bỏ mặc những thế hệ trẻ trong tình trạng vô phương hướng, và thường đưa họ – trong khi tất yếu phải tìm kiếm căn tính và ý nghĩa cuộc đời của mình – đến chỗ tái khám phá cội rễ tôn giáo trong nền văn hóa quốc gia của họ, thậm chí nhận ra được chính con người Đức Kitô, như một câu trả lời đáp ứng một cách hiện thực lòng khao khát chân lý và sự sống vốn có nơi thâm tâm con người. Sự tìm kiếm đó được khích lệ nhờ chứng tá của những người – dù trong hoàn cảnh khó khăn và bị ngược đãi – vẫn giữ lòng trung thành với Thiên Chúa. Thuyết Mác–xít quyết tâm tiêu diệt khát vọng về Thiên Chúa nơi con người, nhưng kết quả cho thấy không thể làm như thế mà không làm cho tâm hồn con người xáo trộn.

25. Cuộc giao tranh giữa thiện và ác.

Các biến cố xảy ra trong năm 1989 là một thí dụ nói lên thành công của chủ trương dùng đường lối thương thuyết và tinh thần Tin Mừng trước một đối phương nhất định bất chấp các nguyên tắc luân lý. Các biến cố đó là một lời cảnh tỉnh cho những ai nhân danh chủ nghĩa hiện thực chính trị, muốn loại trừ luật pháp và luân lý ra khỏi lãnh vực chính trị. Chắc chắn cuộc tranh đấu dẫn đến các đổi thay trong năm 1989 đòi phải có sự sáng suốt, ôn hòa đau khổ và hy sinh; theo một nghĩa nào đó, cuộc tranh đấu ấy phát sinh từ cầu nguyện, và có lẽ không thể nghĩ tới nếu không có niềm tín thác vô biên vào Thiên Chúa, Chúa tể của lịch sử, Đấng làm chủ cõi lòng con người. Chính vì biết liên kết những đau khổ của riêng mình trong việc tìm kiếm chân lý và tự do, với đau khổ của Đức Kitô trên thập giá mà con người có thể thực hiện được phép lạ hòa bình, và có khả năng khám phá ra con đường, thường là chật hẹp, giữa một bên là sự hèn nhát muốn đầu hàng sự dữ, và một bên là bạo lực tưởng là chiến đấu chống lại sự dữ, nhưng kỳ thực chỉ làm cho sự dữ thêm trầm trọng.

Tuy nhiên, không thể không biết đến vô số hoàn cảnh chi phối cá nhân trong việc sử dụng tự do để hành động; chắc chắn những hoàn cảnh ấy tác động đến tự do, nhưng không định đoạt tự do. Chúng gây khó dễ cho việc sử dụng tự do, nhưng không thể hủy diệt tự do. Theo quan điểm đạo đức, không những người ta không được coi thường bản chất con người vốn được tạo dựng nên để hưởng tự do, mà trên thực tế, cũng không thể làm như vậy được. Ở đâu xã hội được tổ chức theo kiểu tùy tiện hạn chế hoặc thậm chí tước bỏ bầu khí thể hiện tự do một cách hợp pháp, thì kết quả là đời sống xã hội dần dần tan rã và đi đến chỗ suy xụp.

Hơn nữa, tuy được sáng tạo để hưởng tự do, nhưng con người lại mang nơi bản thân mình thương tích của tội nguyên tổ luôn luôn lôi kéo con người hướng về điều ác, vì thế con người cần đến ơn cứu độ. Giáo lý này không những là một thành phần toàn vẹn trong mạc khải kitô giáo, mà còn có giá trị quan trọng để khám phá chân lý, vì giúp ta hiểu được thực tại con người. Con người hướng về điều thiện, nhưng cũng có thể làm điều ác. Con người có thể vượt lên trên lợi lộc trước mắt, mà vẫn gắn bó với nó. Trật tự xã hội càng được ổn định, khi càng lưu ý đến sự kiện này, và không đặt quyền lợi cá nhân đối nghịch với quyền lợi xã hội xét như đoàn thể, nhưng đúng hơn tìm cách hòa hợp với quyền lợi xã hội một cách hiệu quả. Thật vậy, nơi đâu quyền lợi cá nhân bị xã hội tước đoạt, thì thay vào đó là một chế độ hà khắc nắm quyền kiểm soát một cách quan liêu, làm cạn kiệt nguồn sáng kiến và sáng tạo. Khi người ta nghĩ rằng mình nắm được bí quyết tổ chức một xã hội hoàn hảo không còn điều ác thì họ cũng tưởng là có thể sử dụng mọi phương tiện, kể cả bạo lực và lừa dối, để thực hiện tổ chức đó. Khi ấy chính trị trở thành một thứ “tôn giáo thế tục”, có tham vọng xây dựng thiên đàng ngay ở trần gian này. Nhưng không có một xã hội chính trị nào có quyền tự quyết và pháp luật của mình[57], lại có thể lẫn lộn với Vương Quốc của Thiên Chúa. Trong Tin mừng, dụ ngôn hạt giống tốt và cỏ lùng (xc Mt 13,24-30.36-43) dạy rằng chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tách biệt những thần dân của Nước Trời khỏi những tôi tớ của ác thần, và điều phân xử ấy sẽ xảy ra vào ngày thế mạt. Ngay lúc này, nếu tự cho mình là người có quyền phán xét ấy, thì con người đã tiếm quyền Thiên Chúa và chống lại sự kiên nhẫn của Người.

Nhờ hy lễ của Đức Kitô trên thập giá, chiến thắng của Nước Thiên Chúa đã thành tựu một lần và có giá trị mãi mãi. Tuy nhiên, người kitô hữu vẫn phải chiến đấu chống lại cám dỗ và sức mạnh của sự dữ. Chỉ khi nào lịch sử kết thúc Chúa mới trở lại trong vinh quang để phán xét lần cuối cùng (x. Mt 25,31), và thiết lập trời mới đất mới (x. 2Pr 3,13; Kh 21,1). Nhưng bao lâu còn thời gian, cuộc chiến giữa thiện và ác vẫn còn tiếp diễn ngay trong tâm hồn con người.

Những gì Kinh thánh dạy cho ta biết về thiên chức của nước Thiên Chúa không phải là không có hệ quả đối với đời sống các xã hội trần thế, những xã hội này – như tên gọi – thuộc về những thực tại trong thời gian, và vì thế, bất toàn và tạm thời. Nước Thiên Chúa hiện diện trong thế gian và không thuộc về thế gian, nước ấy soi sáng trật tự con người, trong khi sức mạnh ân sủng thấm nhập và làm cho trật tự đó sống động. Như thế, một khi hiểu rõ những đòi hỏi của một xã hội xứng đáng với con người, thì sửa chữa được những sai lầm, tăng cường lòng can đảm hành động vì điều thiện. Cùng với các người thiện chí, các kitô hữu, nhất là giáo dân, được kêu gọi thi hành trách vụ làm cho tin mừng sinh động nơi thực tại của con người.[58]

26. Giáo hội và phong trào thợ thuyền.

Các biến cố trong năm 1989 chủ yếu xảy ra ở các nước Đông và Trung Âu. Tuy nhiên, các biến cố đó cũng có tầm mức hoàn cầu vì đem lại những hệ quả tích cực lẫn tiêu cực liên quan đến toàn thể gia đình nhân loại. Những hệ quả này không có tính cách máy móc hay tất định, nhưng đúng hơn là những cơ hội để từ đó nhân loại cộng tác với ý định thương xót của Thiên Chúa, Đấng hành động trong lịch sử.

Tại một số quốc gia, hệ quả đầu tiên là sự gặp gỡ giữa Giáo hội và phong trào thợ thuyền phát sinh từ phản ứng trong lãnh vực luân lý và rõ rệt có tính cách kitô giáo, chống lại tình trạng bất công lan tràn. Khoảng một thế kỷ nay, phong trào này phần nào đã rơi vào quyền thống trị của thuyết Mác–xít, họ xác tín rằng để đấu tranh chống áp bức một cách hữu hiệu, giai cấp vô sản phải chấp nhận những lý thuyết duy vật và duy kinh tế của chủ thuyết ấy.

Trong cuộc khủng hoảng của thuyết Mác–xít, lại nói lên tiếng nói tự nhiên của lương tâm thợ thuyền đòi hỏi công lý và nhìn nhận phẩm giá của lao động phù hợp với học thuyết xã hội của Giáo hội.[59] Phong trào thợ thuyền trở thành một phong trào rộng lớn hơn của những người lao động và những người thiện chí, nhằm giải phóng con người và khẳng định quyền con người; ngày nay phong trào ấy lan tràn tại nhiều quốc gia và thay vì chống lại Giáo hội công giáo, lại quan tâm nhìn về Giáo hội.

Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa Mác–xít không loại trừ khỏi thế giới những tình trạng bất công và áp bức mà chính chủ thuyết này đã khai thác và lợi dụng. Hiện nay, với những người tìm kiếm một lý thuyết và một thực hành giải phóng mới mẻ và đích thực, không những Giáo hội cung cấp cho họ giáo thuyết xã hội, và một cách tổng quát giáo huấn của Giáo hội về con người được Đức Kitô cứu chuộc, mà còn dấn thân và đóng góp cụ thể vào cuộc chiến đấu chống lại sự kỳ thị và đau khổ.

Trong quá khứ gần đây, khát vọng chân thành muốn đứng về phía những kẻ bị áp bức, và không muốn bị cắt rời khỏi dòng lịch sử, đã khiến nhiều tín hữu dùng những cách thức khác nhau để tìm kiếm một thỏa hiệp ảo tưởng giữa chủ nghĩa Mác–xít và Kitô giáo. Giai đoạn hiện tại đã vượt thắng tất cả những gì là lỗi thời trong những cố gắng này đồng thời khuyến khích tái khẳng định giá trị tích cực của một nền thần học đích thực nhằm giải phóng toàn diện con người.[60] Xét dưới góc độ này, các biến cố 1989 tỏ ra cũng quan trọng đối với các nước thế giới thứ ba, là những nước đang tìm kiếm con đường phát triển riêng, cũng như đối với các quốc gia Trung và Đông Âu.

27. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc.

Hệ quả thứ hai có liên quan đến chính các dân tộc Châu Âu. Người ta đã vi phạm nhiều bất công ở cấp độ cá nhân, xã hội, khu vực quốc gia, trong và cả trước những năm chủ nghĩa cộng sản thống trị; người ta đã tích lũy biết bao sự thù nghịch và căm hờn. Sau khi chế độ độc tài sụp đổ, những điều ấy có nguy cơ bùng nổ mạnh kèm theo bạo lực gây nên những xung đột trầm trọng và những tang tóc, nếu thiếu nỗ lực đạo đức và lòng dũng cảm để làm chứng cho chân lý một cách có ý thức, những đức tính đã nuôi dưỡng những cố gắng trong quá khứ. Ước chi sự thù nghịch và bạo lực không còn thống trị trong các tâm hồn, nhất là nơi những người đấu tranh cho công lý, và ước chi mọi dân tộc sẽ lớn lên trong tinh thần hòa bình và tha thứ.

Nhưng phải biện pháp cụ thể để kiến tạo hoặc để củng cố những cơ cấu quốc tế có khả năng can thiệp, bằng cách phân xử thích đáng những xung đột giữa các quốc gia, sao cho mỗi quốc gia có thể giữ gìn quyền lợi riêng của mình và tiến tới một hiệp định công bằng cũng như một sự dàn xếp hòa bình đối với quyền lợi của các quốc gia khác. Điều này đặc biệt cần thiết cho các quốc gia Châu Âu, vốn hiệp nhất một cách mật thiết trong mối dây liên hệ văn hóa chung và một lịch sử đã có hàng nghìn năm. Cần phải có một cố gắng lớn lao để tái thiết về luân lý và kinh tế cho những quốc gia đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Trong một thời gian dài, những tương quan kinh tế rất cơ bản đã bị bóp méo và cả những đức tính nền tảng trong đời sống kinh tế, như lương thiện, tín nhiệm thích đáng hăng say làm việc đều bị coi thường. Cần phải kiên trì tái thiết vật chất và luân lý, đương lúc các dân tộc đã kiệt quệ vì bị bóc lột lâu dài đang đòi hỏi nơi chính quyền những kết quả trông thấy và tức khắc cho họ được thoải mái sung túc, cũng như thỏa mãn những khát vọng hợp pháp của họ.

Thất bại của chủ nghĩa xã hội tự nhiên tác động lớn lao trong những gì liên quan đến việc phân chia hành tinh thành những thế giới đóng kín đối nghịch nhau trong sự cạnh tranh hiềm khích. Điều đó càng làm nổi bật thực tại phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc, cũng như sự kiện lao động của con người tự bản chất là để hợp nhất, chứ không phải là để phân rẽ các dân tộc. Thực vậy, hòa bình và thịnh vượng là những thiện hảo thuộc về toàn thể nhân loại, đến nỗi không thể hưởng những cái đó một cách chính đáng và lâu dài nếu người ta dành được, và duy trì bằng cách gây thiệt hại cho các dân tộc hay các quốc gia khác, bằng cách xâm phạm đến quyền lợi của họ, hoặc bằng cách loại trừ họ khỏi những nguồn phúc lợi.

28. Sự giúp đỡ đối với Đông Âu và thế giới thứ ba.

Đối với một số quốc gia Châu Âu, thì, theo một nghĩa nào đó, đúng là bắt đầu một thời kỳ hậu chiến. Việc sắp đặt lại từ căn bản những hệ thống kinh tế cho đến lúc đó vẫn còn tập thể hóa, tạo nên các khó khăn, và đòi hỏi nhiều hy sinh, có thể sánh được với hy sinh mà các quốc gia Tây Âu đã phải đương đầu để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ II. Trong những khó khăn hiện nay, điều công bằng là các quốc gia trước kia theo chủ nghĩa cộng sản phải được nâng đỡ bởi nỗ lực liên đới của các quốc gia khác. Hiển nhiên, chính họ phải là những tác nhân đầu tiên trong việc phát triển quốc gia, nhưng phải cho họ cơ may hợp lý để hoàn thành mục tiêu đó, điều không thể xảy ra được nếu các quốc gia khác không giúp đỡ họ. Đàng khác, hoàn cảnh hiện tại, nổi bật với các khó khăn và thiếu thốn, là kết quả của một tiến trình lịch sử trong đó các quốc gia trước kia theo chủ nghĩa cộng sản thường là nạn nhân, chứ không phải là những người có trách nhiệm; bởi vậy họ lâm vào hoàn cảnh hiện tại không phải vì tự do lựa chọn hay lầm lỗi, nhưng là vì những biến cố lịch sử bi thảm đã áp đặt trên họ một cách thô bạo, và cản trở họ theo đuổi những con đường phát triển kinh tế và xã hội.

Sự giúp đỡ của các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia Châu Âu là những quốc gia có cùng một lịch sử và cùng gánh chịu trách nhiệm về lịch sử đó, biểu thị một món nợ phải trả theo lẽ công bằng. Nhưng sự trợ giúp đó cũng đáp ứng lợi ích và thịnh vượng chung của toàn thể Châu Âu, vì Châu Âu không thể sống trong hòa bình, nếu những cuộc xung đột khác nhau bộc phát như kết quả của quá khứ, lại trở nên gay gắt hơn do tình trạng mất ổn định về kinh tế, bất mãn tâm linh và thất vọng.

Tuy nhiên một đòi hỏi như thế không được đưa đến một sự giảm bớt những cố gắng nâng đỡ các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, là những quốc gia đang phải chịu đựng những hoàn cảnh thiếu thốn và nghèo khó nặng nề hơn[61]. Điều cần thiết, đó là một nỗ lực phi thường để huy động các nguồn tài nguyên mà toàn thể thế giới không thiếu, nhằm tăng tiến kinh tế và phát triển chung, bằng cách tái xác định những ưu tiên và những bậc thang giá trị, dựa vào đó người ta sẽ quyết định chọn lựa kinh tế và chính trị. Những nguồn tài nguyên bao la có thể đem ra sử dụng nhờ việc giải trừ vũ khí của những bộ máy quân sự khổng lồ được xây dựng cho cuộc đối đầu giữa Đông và Tây. Những nguồn tài nguyên đó có thể còn dồi dào hơn nữa, nếu thay vì chiến tranh, người ta thiết lập những đường lối đáng tin cậy, để giải quyết những xung đột, rồi phổ cập nguyên tắc kiểm soát và giải trừ vũ khí, cả ở các nước thuộc thế giới thứ ba, bằng cách ấn định những hạn chế cần thiết chống lại việc mua bán vũ khí[62]. Nhưng nhất là phải từ bỏ não trạng coi người nghèo – cá nhân lẫn dân tộc – như một gánh nặng, như những kẻ quấy rầy phiền phức, chỉ biết tiêu thụ những gì người khác sản xuất được. Những người nghèo đòi hỏi quyền có phần trong những của cải vật chất và quyền phát triển khả năng lao động của họ để kiến tạo một thế giới công bằng hơn và thịnh vượng hơn cho mọi người. Sự tiến bộ của người nghèo là một cơ may quan trọng cho sự phát triển luân lý, văn hóa và cả kinh tế của toàn thể nhân loại.

29. Một sự phát triển con người toàn diện.

Cuối cùng không nên chỉ hiểu sự phát triển trong lãnh vực kinh tế, nhưng còn trong ý nghĩa con người toàn diện[63]. Vấn đề không phải là chỉ nâng cao các dân tộc lên trình độ mà các quốc gia giàu có hiện đang hưởng, nhưng đúng hơn là xây dựng – bằng lao động liên đới – một đời sống xứng đáng hơn, là thực sự làm tăng trưởng phẩm giá và tính sáng tạo của mọi người, cũng như khả năng đáp trả ơn gọi của mỗi người và cũng là lời kêu mời của Thiên Chúa. Tột đỉnh của sự phát triển là việc thực hiện quyền và bổn phận tìm kiếm Thiên Chúa, nhận biết Người và sống theo sự hiểu biết này[64]. Trong các chế độ độc tài và chuyên quyền, người ta đã đẩy nguyên tắc đề cao sức mạnh hơn lý trí lên tới cực điểm. Con người miễn cưỡng chấp nhận một quan niệm về thực tại do sức mạnh áp đặt, chứ không phải đạt được bằng nỗ lực của lý trí và quyền sử dụng tự do của mình. Cần phải đảo ngược nguyên tắc này và nhìn nhận toàn diện những quyền lợi của lương tâm nhân loại, lương tâm này chỉ lệ thuộc chân lý tự nhiên và chân lý mạc khải. Nền tảng đầu tiên của toàn bộ trật tự chính trị tự do đích thực nằm trong chính sự nhìn nhận những quyền lợi này[65]. Điều quan trọng là tái khẳng định nguyên tắc này, vì những lý do sau đây:

1. Những thể thức độc tài và chuyên quyền cũ chưa bị triệt hạ hoàn toàn và vẫn còn nguy cơ là những thể thức đó sẽ phục hồi được sức mạnh: tình trạng này đòi hỏi một cố gắng mới trong việc cộng tác và liên đới giữa tất cả các quốc gia.

2. Tại những quốc gia phát triển, đôi khi người ta truyền bá một cách quá đáng những giá trị thuần túy thực dụng, bằng cách kích thích bản năng và khuynh hướng hưởng thụ trực tiếp, điều này làm cho việc nhận thức và kính trọng phẩm trật những giá trị thực sự của đời sống con người trở nên khó khăn.

3. Trong một số quốc gia xuất hiện những hình thức mới của chủ trương bảo thủ tôn giáo, những hình thức này úp mở hoặc công khai từ chối chấp nhận cho các công dân có một niềm tin khác với đa số quần chúng được thực thi đầy đủ các quyền công dân hoặc tôn giáo của họ, ngăn cấm họ tham dự vào các cuộc tranh luận văn hóa, hạn chế quyền của Giáo hội được rao giảng Tin mừng, và quyền của con người được đón nhận lời đã được nghe và trở lại với Đức Kitô. Không thể có sự tiến bộ đích thực nào nếu không tôn trọng quyền tự nhiên căn bản là nhận thức chân lý và sống theo chân lý. Việc thực hiện và đào sâu quyền đó bao hàm cả quyền khám phá và tự do đón nhận Đức Giêsu Kitô, Đấng là thiện hảo thực sự của con người[66].