CHỨNG TÁ PHÚC ÂM
(Evangelica testificatio, 29-06-1971)
Dẫn nhập
Văn kiện mang giọng điệu nói chuyện thân mật cha con. Đức Phao-lô VI ôn lại giáo huấn của Va-ti-ca-nô II về đời tu và quảng diễn vài khía cạnh do thời thế đặt ra, thí dụ việc sống khó nghèo hay đời sống cộng đoàn. Tông thư trình bày những giá trị thần học của đời tận hiến dưới ánh sáng của Tin Mừng; những quy tắc pháp lý hầu như hoàn toàn vắng bóng. Đức thánh cha nhấn mạnh tới việc củng cố con người nội tâm, nguyên lý thống nhất toàn thể cuộc sống (xem số 31-34 ; 43-45).
Bố cục gồm có bốn phần, không kể nhập đề và lời nhắn nhủ cuối cùng.
Nhập đề : Chứng tá Phúc Âm giữa Dân Thiên Chúa (1-6)
I/ Những hình thức của đời tu : chiêm niệm ; hoạt động tông đồ. Tất cả đều đòi hỏi phải kết hợp với Chúa (7-12)
II/ Những cam kết chính yếu : ba lời khấn khiết tịnh (13-15), khó nghèo (16-22), vâng phục (23-29).
III/ Lối sống : chứng tá về đời sống nội tâm (30-38) và huynh đệ (39-41)
IV/ Việc canh tân và tăng trưởng thiêng liêng : cầu nguyện, thinh lặng, thông dự bí tích và tham gia vào sứ mạng Giáo Hội (42-40)
Lời nhắn nhủ cuối cùng (51-56)
NHẬP ĐỀ
CHỨNG TÁ PHÚC ÂM GIỮA DÂN THIÊN CHÚA
1. Chứng tá Phúc Âm
Các con thân mến, trong Đức Giê-su Ki-tô,
Chứng tá Phúc Âm của đời tu biểu dương trước mắt mọi người địa vị thượng đẳng của tình yêu Thiên Chúa, với sức hùng mạnh mà chúng ta phải tạ ơn Chúa Thánh Thần. Với tấm lòng rất đơn sơ, như Đức Gio-an XXIII vị tiền nhiệm đáng kính của Ta đã nói những ngày trước công đồng (1), Ta muốn nói với các con rằng : lòng quảng đại cao siêu của những người nam, nữ đã hiến dâng cuộc đời mình cho Chúa trong tinh thần cũng như trong sự tuân giữ những lời khuyên Phúc Âm, đã gieo vào lòng Ta, vào lòng các vị chủ chăn, cũng như các tín hữu trong Giáo Hội một niềm hy vọng lớn lao ! Ta mong muốn giúp đỡ các con tiến bước trên con đường theo Đức Ki-tô trong sự trung thành với giáo huấn của Công Đồng.
2. Công Đồng
Làm như thế Ta có ý đáp lại một hiện trạng lo lắng, bấp bênh, và không vững của một số người trong chúng con, đồng thời cũng muốn khích lệ những ai đang tìm cách canh tân đời tu một cách đúng đắn. Hiện có một vài sự sửa đổi táo bạo vì thiếu suy tư, một tâm trạng ngờ vực quá đáng đối với quá khứ, cả khi quá khứ đó biểu dương sự khôn ngoan và sinh lực của những truyền thống trong Giáo Hội. Cũng đang có một não trạng quá lo lắng để thích nghi một cách hấp tấp với những biến chuyển ngấm ngầm đang làm lung lay thời đại chúng ta, do đó mà một số người cho rằng có những phương thức cố hữu của đời tu đã lỗi thời rồi. Người ta đã chẳng lạm dụng nại đến Công Đồng, để đặt lại vấn đề tu trì cả trên căn bản đấy ư ? Nhưng chính họ cũng biết Công Đồng đã nhìn nhận đời tu là một “hồng ân đặc biệt” của Thiên Chúa và có một chỗ đứng cũng đặc biệt trong đời sống của Giáo Hội. Thực thế, những ai tiếp nhận hồng ân ấy có thể theo sát Chúa Ki-tô “trong đời sống trinh khiết và khó nghèo mà chính Chúa Ki-tô đã chọn lấy cho mình cũng như Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Người đã ôm ấp” (2). Chính Công Đồng cũng vạch ra đường lối để hồng ân trên được canh tân theo Phúc Âm (3).
3. Truyền thống của Giáo Hội
Tưởng không cần nói chúng ta cũng biết, ngay từ buổi sơ khai, Giáo Hội đã đặc biệt cho thấy : có những con người kiên tâm tìm kiếm Thiên Chúa và hiến dâng cho Đức Ki-tô một mối tình không chia sẻ và triệt để tận tuỵ với công việc mở Nước Chúa. Không có dấu chỉ cụ thể đó, thì Đức Ái của toàn thể Giáo Hội có nguy cơ nguội đi, nghịch lý cứu độ của Phúc Âm sẽ mai một và “muối” đức tin cũng sẽ phai lạt trong một thế giới đang bị tục hoá.
Ngay từ những thế kỷ đầu, Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy những vị tử đạo tuyên xưng đức tin một cách anh hùng, và đã soi sáng thúc đẩy các trinh nữ, các đấng ẩn tu cương quyết một cách lạ lùng. Đời tu đã manh nha và dần dần cảm thấy nhu cầu ngày một gia tăng phải triển nở và phải biến đổi các hình thức sống thành lối sống cộng đoàn hay đơn tu để đáp lại lời mời gọi khẩn thiết của Đức Ki-tô : “Không ai từ bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa mà chẳng được gấp bội ngay ở đời này và mai hậu sẽ được sống đời đời.” (4)
Ai dám cho rằng lời kêu gọi ấy ngày nay không còn giá trị và sức mạnh như xưa nữa và Giáo Hội có thể để mất những chứng từ phi thường ấy của tình yêu siêu việt Đức Ki-tô ? Ai dám cho rằng thế gian có thể làm cho những ánh sáng ấy tắt lịm đi mà không thiệt hại gì, những ánh sáng loan báo Nước Thiên Chúa với một sự tự do không có gì cản trở được, một sự tự do vẫn được hàng vạn các con cái nam nữ mình theo đuổi hằng ngày ?
4. Lòng kính trọng và tình yêu mến
Hỡi các tu sĩ nam nữ thân mến, các con đã muốn thực hành những lời khuyên Phúc Âm để theo Đức Ki-tô một cách tự do hơn và bắt chước Người một cách trung thực hơn, bằng việc hiến dâng cho Thiên Chúa trót cuộc đời của các con, bằng một việc tận hiến đặc biệt ăn sâu vào việc thánh hiến của phép thánh tẩy và diễn tả phép thánh tẩy một cách sung mãn hơn. Chớ chi các con hiểu được tất cả lòng kính trọng và tình yêu mến mà Ta mang đến cho chúng con nhân danh Đức Ki-tô Giê-su ! Ta gửi gắm các con cho các chư huynh rất thân mến của Ta trong hàng Giám mục, các vị này cùng với các linh mục là những cộng tác viên trong hàng tư tế nhận thấy trách nhiệm của chính mình đối với đời tu. Và đối với tất cả các giáo dân, những người đảm nhận cách chuyên biệt nhưng không độc hữu, các nghề nghiệp và sinh hoạt trần thế (5), ta xin họ hãy hiểu rằng chúng con là một sự thúc đẩy quý hoá đối với họ trong công cuộc tìm kiếm sự thánh thiện mà họ đã được mời gọi đến nhờ phép thánh tẩy trong Đức Ki-tô để làm vinh danh Chúa Cha (6).
5. Canh tân
Hẳn có nhiều yếu tố bên ngoài, do các đấng lập dòng chủ trương xưa, ngày nay được xác nhận là không còn hợp thời. Có một ít điều chồng chất lại từ năm này qua năm khác khiến đời tu trở thành nặng nề, cứng ngắc, cần phải được bỏ bớt. Những sự thích nghi cần phải được thực hiện. Những hình thức mới cũng phải được nghiên cứu và thiết lập với sự chuẩn y của Giáo Hội. Đó là việc mà nhiều Dòng đã mau lẹ thực hiện từ mấy năm nay bằng cách đem ra thí nghiệm, đôi khi quá táo bạo, hiến pháp và luật lệ đã được canh tân : Ta biết điều đó và Ta cũng lưu tâm đến cố gắng canh tân mà Công Đồng mong muốn (7).
6. Sự phân định cần thiết
Ngay giữa tiến trình năng động này, tinh thần thế tục thường tìm cách chen vào hành động của Chúa Thánh Thần, Ta biết làm cách nào để giúp các con có được phân định cần thiết ? Làm cách nào để duy trì và đạt tới điều thiết yếu ? Làm cách nào để lợi dụng kinh nghiệm trong quá khứ và suy nghĩ trong hiện tại để củng cố hình thức sống theo Phúc Âm này ? Phần Ta, theo trách nhiệm đặc biệt mà Thiên Chúa đã trao phó cho Ta trong Giáo Hội là “củng cố các anh em Ta” (8), Ta muốn khích lệ các con hãy tiến bước một cách vững chắc hơn và với lòng tín thác vui tươi hơn trên con đường mà các con đã chọn. Trong việc tìm kiếm đức ái hoàn hảo (9), đức ái điều khiển đời sống các con, các con còn phải có thái độ nào, nếu không phải là hoàn toàn sắp đặt để Chúa Thánh Thần, Người hành động trong Giáo Hội, mời gọi các con đến hưởng quyền tự do của con cái Thiên Chúa (10) ?
7. Giáo huấn của Công Đồng về đời tu
Các con thân yêu, chính vì các con đã tự ý đáp lại lời mời gọi của Chúa Thánh Thần mà quyết định theo Đức Ki-tô bằng cách dâng hiến trọn vẹn chúng con cho Người. Từ nay, những lời khuyên Phúc Âm về khiết tịnh tận hiến cho Thiên Chúa, về khó nghèo và vâng lời trở thành luật lệ của đời sống các con. Công Đồng nhắc lại cho chúng ta rằng “quyền bính của Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, đã ân cần giải thích và quy định cách thực hành ba lời khuyên Phúc Âm, nhờ đó thiết lập nên những hình thức sống vững vàng” (11). Vì thế, Giáo Hội công nhận và chứng thực đời sống được cấu tạo bởi việc tuyên khấn ba lời khuyên Phúc Âm : “Nhờ lời khấn hoặc nhờ những mối dây thánh khác tương tự như lời khấn, người Ki-tô hữu tự buộc mình thi hành ba lời khuyên, họ hiến toàn thân cho Thiên Chúa mà họ yêu mến trên hết mọi sự… Nhờ bí tích thánh tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và tận hiến cho Thiên Chúa ; nhưng để có thể lĩnh nhận dồi dào hơn ơn thánh của bí tích thánh tẩy, họ chủ tâm nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên Phúc Âm trong Giáo Hội, để được giải thoát khỏi những ngăn trở có thể làm họ trì trệ trong nhiệt tình đức ái, và trong sự thờ phượng Thiên Chúa cách hoàn hảo. Nhờ những lời khấn ấy, họ được hiến dâng một cách tận tình hơn để phụng sự Thiên Chúa, sự tận hiến đó càng hoàn hảo hơn nhờ những mối dây bền chặt hơn, càng biểu dương Đức Ki-tô hợp nhất với Giáo Hội, hiền thê của Người, do một mối dây bất khả phân ly” (12).
Giáo huấn trên đây của Công Đồng làm sáng tỏ sự cao cả của việc các con tự do hiến thân theo gương hiến thân của Đức Ki-tô cho Giáo Hội, do đó các con đã hiến thân hoàn toàn và không đòi lại. Chính vì Nước Trời mà các con đã quảng đại hiến dâng cho Đức Ki-tô trọn tình yêu mãnh liệt và nhu cầu sở hữu cũng như quyền tự do quy định đời sống, là những thứ rất quý hoá đối với con người. Đấy là việc tận hiến của các con, việc tận hiến được thực hiện trong Giáo Hội và nhờ thừa tác vụ của Giáo Hội, hoặc do các vị đại diện Giáo Hội nhận lời khấn dòng, hay do cộng đoàn Ki-tô hữu, mà tình yêu công nhận, đón tiếp, nâng đỡ và bao bọc những người hiến thân trong cộng đoàn như một dấu chỉ sống động “có thể và phải thúc đẩy một cách có hiệu quả tất cả các phần tử trong cộng đoàn chu toàn một cách can đảm những nhiệm vụ của ơn gọi Ki-tô hữu… làm cho tất cả các phần tử ấy thấy được ngay ở đời này những của cải trên trời” (13).
I. NHỮNG HÌNH THỨC CỦA ĐỜI TU
8. Đời sống chiêm niệm
Một số người trong các con được mời gọi sống cuộc đời “chiêm niệm”. Một sức quyến rũ bất khả kháng đã lôi kéo chúng con lại với Chúa. Được Thiên Chúa chiếm cứ, các con đã hiến thân cho hành động tối cao của Người, hành động nâng chúng con lên với Người, biến hoá chúng con trong Người và chuẩn bị chúng con để sống cuộc chiêm niệm muôn thuở, là ơn kêu gọi chung của tất cả chúng ta. Làm sao các con có thể tiến tới được trên con đường ấy và trung thành với ơn thánh đang thúc đẩy các con, nếu các con không đem trọn tâm hồn và đời sống để đáp lại lời kêu gọi hướng các con về với Thiên Chúa một cách vững bền, nhờ một động lực là tình yêu ? Các con hãy coi mọi hoạt động trực tiếp khác mà các con phải đương đầu –những mối liên hệ huynh đệ, công việc không vụ lợi hay có lợi lộc, việc giải trí cần thiết, cùng những hoạt động giống như vậy– như một bằng chứng tỏ cho Chúa biết rằng chúng con sống kết hợp thân mật với Người, để Người ban cho chúng con cái ý hướng hợp nhất tinh tuyền, là điều rất cần để các con gặp được Người trong chính lúc cầu nguyện. Như thế các con sẽ cộng tác vào việc mở rộng Nước Thiên Chúa nhờ chứng tá của đời sống chúng con và nhờ “việc tông đồ tuy âm thầm nhưng phong phú” (14).
9. Đời sống tông đồ
Một số người khác hiến thân làm việc tông đồ trong sứ mệnh chính yếu nhất, tức là rao giảng Lời Thiên Chúa cho những ai mà Thiên Chúa uỷ cho những người ấy phải tiếp đón để dẫn đưa họ về với đức tin. Một ơn vĩ đại như thế đòi hỏi phải sống kết hợp mật thiết với Chúa, để có thể truyền thông sứ điệp của Ngôi Lời nhập thể, tuy sử dụng ngôn ngữ mà thế gian có thể hiểu được. Tất cả đời sống chúng con rất cần được tham dự vào cuộc thương khó, sự chết và sự vinh quang của Chúa ! (15)
10. Chiêm niệm và hoạt động tông đồ
Và khi chúng con được mời gọi đảm nhiệm những trách vụ khác để phục vụ nhân loại – đại khái như hoạt động mục vụ, truyền giáo, dạy học, từ thiện và các việc tương tự, – chẳng phải lòng nhiệt thành gắn bó với Chúa trước tiên sẽ làm cho các việc ấy trở nên phong phú, tuỳ theo mức độ kết hiệp với Chúa “trong thầm kín” (16) đó sao ? Nếu chúng ta muốn trung thành cẩn thủ giáo huấn của Công Đồng, chẳng phải “các phần tử thuộc bất cứ Dòng tu nào, khi tìm kiếm một mình Chúa trên hết mọi sự cũng cần phải đem việc suy niệm khiến tâm hồn hợp nhất với Chúa kết hợp với lòng nhiệt thành tông đồ, gắng tham gia công cuộc cứu chuộc và cổ võ việc mở rộng nước Thiên Chúa” (17) đó sao ?
11. Đoàn sủng của các đấng lập Dòng
Chỉ có như thế, các con mới có thể hướng tâm hồn lên đón nhận chân lý và tình yêu Thiên Chúa theo đoàn sủng của các đấng sáng lập Dòng chúng con, mà Thiên Chúa đã làm cho xuất hiện trong Giáo Hội. Công Đồng có lý khi nhấn mạnh về nghĩa vụ các tu sĩ nam nữ phải trung thành với tinh thần của đấng sáng lập, trung thành với những ý hướng Phúc Âm và gương thánh thiện của các ngài. Họ cũng phải nhìn thấy một trong những nguyên tắc canh tân hiện hành và một trong những tiêu chuẩn hoạt động chắc chắn nhất khi mỗi hội Dòng phải tra tay làm (18). Đoàn sủng đời tu thật ra không phải là một sự thúc đẩy sinh ra “bởi huyết nhục” (19) hoặc phát xuất do một tâm trạng “hoà theo thế giới hiện tại” (20), nhưng chính là hoa quả của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn luôn hoạt động trong Giáo Hội.
12. Hình thức bên ngoài và lòng phấn khởi bên trong
Đoàn sủng của các đấng lập dòng là nguồn năng động riêng của mỗi Hội Dòng. Tuy rằng lời Thiên Chúa mời gọi được canh tân và thay đổi hình thức tuỳ theo những điều kiện biến chuyển về không gian và thời gian, nhưng luôn đòi phải có hướng tiến vững bền. Lòng sốt sắng đáp lại ơn thiên triệu trong chính đời sống con người đã vạch ra những bước đường căn bản và đặc biệt phải lựa chọn. Sự trung thành với những đòi hỏi gặp trên bước đường ấy là đá thử vàng để xem đời tu có xác thực hay không. Chúng ta đừng nên quên điều này là mọi tổ chức của nhân loại đều có thể bị mòn mỏi, khiến quy luật trở nên khô khẳng và có nguy cơ chỉ còn lại hình thức. Sự chăm chú giữ luật bề ngoài tự nó không đủ để bảo đảm giá trị của cuộc sống ấy. Vì thế luôn luôn phải hồi sinh những hình thức bên ngoài bằng những cố gắng bên trong, nếu không có sự cố gắng này, những hình thức bên ngoài không bao lâu sẽ trở nên một gánh nặng.
Qua những cách sống khác nhau, nhờ đó mà mỗi Dòng mang một sắc thái riêng biệt và bắt nguồn trong ơn thánh sung mãn của Đức Ki-tô (21) chúng ta thấy luật tối thượng, hay quy tắc tối hậu của đời tu, là theo Chúa Ki-tô theo giáo huấn Phúc Âm. Chẳng phải nỗi lo âu này đã khơi lên trong Giáo Hội, qua các thế kỷ, đòi hỏi của một đời sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời đó sao ?
II. NHỮNG CAM KẾT CHÍNH YẾU
13. Khiết tịnh tận hiến
Cần phải nhắc lại rằng chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới kêu mời người ta dứt khoát giữ đức khiết tịnh tu trì. Vả lại, tình yêu ấy đòi hỏi một cách khẩn thiết tình bác ái huynh đệ đến nỗi tu sĩ phải sống một cách rất sâu đậm với những người đồng loại trong trái tim của Đức Ki-tô. Giữ được điểm này, đời tận hiến cho Thiên Chúa và cho tha nhân sẽ là nguồn phát sinh một sự bình an sâu thẳm. Chúng ta không nên miệt thị tình yêu nhân loại và hôn nhân, – theo đức tin, tình yêu này chẳng phải là hình ảnh và là sự tham dự của mối tình phu phụ giữa Chúa Ki-tô và Giáo Hội đó sao (22) ? Đức khiết tịnh tận hiến nhắc lại cuộc duyên tình ấy một cách trực tiếp hơn và làm cho mối tình ấy vươn đến một cao độ mà lẽ ra mọi tình yêu nhân loại phải gắng đạt tới. Lúc này, hơn bao giờ hết tình yêu nhân loại bị đe doạ bởi một thứ: “Ái tình cuồng loạn” (23) chúng ta phải hiểu và phải sống đức khiết tịnh với một lòng thẳng thắn và quảng đại hơn bất cứ lúc nào. Khiết tịnh là một nhân đức tích cực chứng tỏ tình yêu Chúa được đề cao hơn hết, và biểu dương một cách chói lọi và tuyệt đối mầu nhiệm kết hợp giữa Nhiệm Thể với vị Thủ Lãnh, giữa Hiền Thê với Bạn Trăm Năm muôn thuở. Sau cùng, nhờ trở nên giống Chúa Ki-tô một cách huyền diệu, đức khiết tịnh chi phối, biến đổi và thấm nhập vào tận ngóc ngách sâu thẳm nhất của trái tim con người.
14. Nguồn phong phú thiêng liêng
Các tu sĩ nam nữ thân yêu, các con cần phải phục hồi hiệu lực hoàn hảo của linh đạo Ki-tô giáo về đức khiết tịnh tận hiến cho Thiên Chúa. Khi đức khiết tịnh được tuân giữ một cách thiết thực vì Nước Trời, thì nó sẽ giải thoát lòng người, và như thế sẽ trở nên “một dấu chỉ, một khích lệ cho đức ái và một suối nguồn đặc biệt phát sinh sự phong phú thiêng liêng trong thế giới” (24). Mặc dầu trần gian không luôn luôn nhìn nhận đức khiết tịnh nhưng đức ấy vẫn luôn gây được hiệu lực huyền bí giữa lòng trần gian.
15. Hồng ân Thiên Chúa
Về phần Ta, Ta xác tín rằng : giá trị và sự phong phú của đức khiết tịnh, được tuân giữ vì lòng yêu mến Thiên Chúa trong đời sống độc thân của tu sĩ, có nền tảng tối hậu trong lời Thiên Chúa, trong những giáo huấn của Đức Ki-tô, nơi Đức Trinh Mẫu của Người và trong tông truyền đã được Giáo Hội hằng xác nhận. Bởi chưng, đây là một hồng ân quý giá mà Chúa Cha ban cho một ít người. Hồng ân này mỏng dòn và dễ bị tổn thương vì sự yếu đuối của con người, lại bị trí óc tự nhiên cho là mâu thuẫn, và đối với những ai mà ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể không mặc khải cho biết tại sao “ai mất mạng sống mình” vì Chúa “sẽ tìm lại được mạng sống mình” (25) thì không thể hiểu được.
16. Khó nghèo tận hiến
Sống khiết tịnh để theo Đức Ki-tô, các con cũng cần biết rằng phải sống khó nghèo theo gương Người trong việc sử dụng những của cải đời này vốn cần thiết cho nếp sống hằng ngày. Vả lại, những người đồng thời luôn cật vấn các con về điểm này. Đã hẳn, các Hội Dòng có một sứ mạng quan trọng phải chu toàn trong những công cuộc từ thiện, cứu tế và công bằng xã hội : tất nhiên khi thi hành công việc phục vụ này, các Hội Dòng phải luôn luôn lưu tâm đến những đòi hỏi của Phúc Âm.
17. Tiếng kêu la của người nghèo
Các con đã nghe thấy “tiếng kêu la của người nghèo” (26) vọng lên một cách khẩn thiết hơn bao giờ hết từ nỗi khốn khổ của cá nhân đến nỗi khốn khổ của tập thể. Chẳng phải để đáp lại tiếng kêu la của những người con được Thiên Chúa ưu ái, mà Đức Ki-tô đã đến (27), đã đi đến chỗ đồng hoá với họ đó sao (28) ? Trong một thế giới đang trên đà phát triển, tiếng kêu la dai dẳng của tập thể và của cá nhân lâm cảnh khốn cùng là một tiếng kêu nài khẩn cấp van xin “người ta hãy thay đổi tâm trạng và thái độ” (29), đặc biệt đối với các con là những người “theo sát Chúa Ki-tô trong thân phận Người huỷ mình ra không trên mặt đất này” (30). Ta biết rằng tiếng kêu nài ấy vang lên trong các con một cách thống thiết đến nỗi một số người trong các con đôi khi bị cám dỗ dùng đến bạo lực. Các con là môn đệ Đức Ki-tô, làm sao các con có thể theo một đường lối khác với đường lối của Người được ? Các con biết rằng đường lối của Đức Ki-tô không phải là một phong trào thuộc phạm vi chính trị hay trần thế, nhưng là một lời kêu gọi người ta hoán cải tâm hồn, để giải phóng lòng người khỏi mọi trở lực trần gian, để quay về với tình yêu.
18. Năm phương thức đáp lại tiếng kêu của người nghèo
Tiếng kêu la của người nghèo sẽ có dư âm nào trong đời sống các con ? Trước tiên, tiếng kêu la ấy phải cấm đoán các con không được cấu kết với bất cứ hình thức bất công xã hội nào. Tiếng kêu la ấy cũng bắt buộc các con phải thức tỉnh lương tâm trước hoàn cảnh bi đát của những người khốn khổ và trước những đòi hỏi của công bằng xã hội theo Phúc Âm và của Giáo Hội. Tiếng kêu la ấy đang dẫn đưa một số trong các con đến sống với người nghèo trong những điều kiện của họ và chia sẻ những nỗi âu lo ray rứt của họ. Đàng khác, tiếng kêu la ấy còn thỉnh mời một số đông Hội Dòng chúng con biến đổi một ít sinh hoạt để phục vụ người nghèo, điều mà thực ra nhiều Hội Dòng đã chu toàn một cách đại lượng. Sau cùng, tiếng kêu la ấy đòi buộc các con phải sử dụng một cách giới hạn của cải trong khi hoàn thành những công tác được trao phó cho các con. Trong đời sống hằng ngày, cả đời sống bên ngoài nữa, các con phải nêu lên những chứng tá của sự khó nghèo đích thực.
19. Sử dụng của cải trần gian
Trong một nền văn minh và trong một thế giới mà vật chất tiến triển mau lẹ và hình như vô tận, tu sĩ sẽ chứng minh thế nào được về đức khó nghèo, nếu lăn xả vào sự tìm kiếm không hạn chế những tiện nghi, nếu cho là hợp lý khi tự cho phép mình được hưởng tất cả những gì người ta cung cấp mà không cần phân định cũng không cần điều độ ? Trong khi nhiều người liều mắc phải hiểm nguy bị lừa bởi sức quyến rũ và sự an toàn vì tin rằng mình có của, có học và có quyền, thì tiếng mời gọi của Thiên Chúa đã đặt chúng con vào cao điểm của một lương tâm Ki-tô hữu : Nhắc lại cho loài người biết rằng sự phát triển đích thực và hoàn hảo của họ là đáp lại ơn được mời gọi “tham gia với tư cách con cái vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống, là Cha của mọi người” (31).
20. Lao động
Các con cũng gắng biết nghe thấy lời than vãn của biết bao con người bị cuốn theo cơn lốc của lao động để kiếm lời, để hưởng khoái tiêu thụ, do đó bắt buộc con người đôi khi phải làm công việc trái nhân đạo. Một khía cạnh thiết yếu của đức khó nghèo nơi các con là chứng minh ý nghĩa nhân bản của việc lao động, phải được thực hiện trong sự tự do của lý trí và đem lại cho bản tính của lao động tính cách mưu sinh và phục vụ. Công Đồng đã chẳng nhấn mạnh rất đúng lúc, là các con cần phải tuân theo “luật chung phải làm việc” (32) đó sao ? Làm việc để mưu sinh cho các con, mưu sinh cho anh chị em các con, để giúp đỡ những người nghèo, đó là bổn phận của các con. Nhưng những hoạt động của các con không được trái với ơn kêu gọi của Dòng các con, cũng không thể cho phép các con thường xuyên làm những việc thay thế nhiệm vụ riêng biệt của Dòng các con. Những hoạt động ấy cũng không được lôi cuốn các con, bất cứ cách nào, đến tình trạng tục hoá, gây thiệt hại cho đời sống tu trì của các con. Vậy các con hãy lưu ý đến tinh thần thúc đẩy các con làm việc : thật là một thất bại ghê gớm, nếu các con tưởng mình “có giá trị” chỉ vì được thưởng công do những công việc trần tục đem lại.
21. Chia sẻ huynh đệ
Nhu cầu rất cấp bách ngày nay của việc chia sẻ huynh đệ phải bảo tồn được giá trị Phúc Âm của nó. Theo sách “Giáo Huấn của Mười Hai Tông Đồ” (Didakhê) : “Nếu anh em chia sẻ với nhau của cải đời đời, anh em lại càng phải chia sẻ với nhau của cải sẽ hư nát” (33). Sống đức khó nghèo thiết thực bằng cách để của cải làm của chung kể cả tiền lương nữa, sẽ làm chứng sự thông hiệp thiêng liêng khiến chúng con sống hợp nhất với nhau ; sống khó nghèo như thế là một lời kêu gọi sống động cho tất cả những người giàu có và cũng là một cách nâng đỡ những anh chị em đang túng bấn. Lòng mong ước chính đáng tự đảm nhận một trách nhiệm nào, không thể chứng minh bởi sự bo bo hưởng lợi tức riêng tư, nhưng với tâm tình huynh đệ tham dự vào lợi ích chung. Những thể thức sống khó nghèo của mỗi người và mỗi cộng đoàn đều lệ thuộc vào bản chất của từng Hội Dòng, lệ thuộc vào phương thức tuân phục được thực thi trong mỗi Hội Dòng : như thế, tuỳ theo ơn thiên triệu riêng biệt của mỗi tổ chức, mà thực hiện đặc tính “lệ thuộc” gắn liền với mọi hình thức khó nghèo.
22. Đòi hỏi của Phúc Âm
Các tu sĩ nam nữ thân mến, các con thấy những nhu cầu của nhân loại ngày nay, nếu các con cùng với Đức Ki-tô cảm thấy, thì những nhu cầu ấy sẽ làm cho đức khó nghèo của chúng con trở nên cấp bách hơn và hoàn hảo hơn. Tất nhiên các con cũng phải lưu ý tới hoàn cảnh người đời mà các con đang chung sống để thích nghi lối sống của chúng con với họ, nhưng đức khó nghèo của chúng con sẽ không thể chỉ đơn giản là phù hợp với những môi trường của họ. Giá trị chứng tá của đức khó nghèo bắt nguồn từ việc đáp lại một cách quảng đại đòi hỏi của Phúc Âm trong thái độ hoàn toàn trung thành với ơn thiên triệu của chúng con, chứ không phải bắt nguồn từ nỗi lo lắng tỏ ra mình nghèo khó, nỗi lo lắng này có thể chỉ có bề ngoài ; tuy nhiên cũng cần phải tránh những cách sống biểu lộ một thái độ cầu kỳ và khoe khoang. Ta nhận rằng trong một ít trường hợp các con có thể bỏ được áo dòng, nhưng Ta cũng không thể không nói đến sự thích hợp của áo dòng mà các tu sĩ nam nữ mặc. Như Công Đồng muốn, thì áo dòng là dấu chỉ của việc tận hiến (34) và phân biệt với lối phục sức theo thói đời.
23. Vâng lời tận hiến
Chẳng phải cũng chính vì muốn trung thành với ơn kêu gọi mà các con tuyên khấn vâng lời trong ánh sáng đức tin và trong chính sức mạnh của lòng mến Chúa Ki-tô đó sao ? Tuyên khấn như vậy, các con đã hiến dâng tất cả ý chí và bước vào kế hoạch cứu độ của Đức Ki-tô một cách vững mạnh hơn, quyết liệt hơn. Noi gương Đức Ki-tô, Đấng đã đến để hoàn thành thánh ý Chúa Cha, và hiệp thông với Đấng “đã học vâng lời bằng đau khổ” và “đã trở nên tôi tớ của anh em mình”, các con đã tự buộc mình “chặt chẽ hơn để phụng sự Giáo Hội” và anh em mình. (35)
24. Tình huynh đệ theo Phúc Âm và hy sinh
Hoài bão Phúc Âm về tình huynh đệ đã được Công Đồng đề cập đến mạnh mẽ : Giáo Hội được định nghĩa là “Dân Thiên Chúa”, trong đó có phẩm trật để phục vụ các chi thể của Đức Ki-tô liên kết với nhau nhờ cùng một đức ái (36). Trong bậc tu dòng cũng như trong toàn thể Giáo Hội vẫn tồn tại mầu nhiệm phục sinh của Đức Ki-tô. Ý nghĩa sâu xa của đức tuân phục được thể hiện đầy đủ trong mầu nhiệm thương khó và phục sinh của Đức Ki-tô, trong mầu nhiệm ấy, định mệnh siêu nhiên của con người được thực hiện một cách hoàn hảo : thật thế, qua hy sinh, đau khổ và sự chết mà con người đạt tới sự sống thật.
Thi hành quyền bính giữa anh em các con tức là phục vụ họ (37) theo gương Đấng “đã thí mạng sống mình để cứu nhiều người” (38).
25. Quyền bính và tuân phục
Bởi vậy, để phục vụ lợi ích chung thì quyền bính và đức tuân phục là hai phương diện bổ túc cho sự tham gia vào hiến lễ của Đức Ki-tô : người có quyền bính thì phải phục vụ, trong anh chị em mình, kế hoạch yêu thương của Đức Chúa Cha ; còn các tu sĩ chấp nhận những lời chỉ giáo của bề trên thể theo gương Thầy Chí Thánh chúng ta (39) và hợp tác vào công cuộc cứu độ. Như thế quyền bính và tự do cá nhân, thay vì chống đối nhau, lại cùng nhau thi hành thánh ý Thiên Chúa đã được nhận ra trong tình huynh đệ nhờ một cuộc đối thoại đầy tin tưởng giữa bề trên và tu sĩ khi liên quan đến một trường hợp cá nhân, hoặc nhờ một cuộc bàn luận chung về những gì có liên hệ đến cả cộng đoàn. Trong cuộc tìm kiếm ấy, các tu sĩ phải tránh đừng để tâm trí giao động quá mạnh, cũng phải tránh đừng làm cho những quan niệm của thời đại lấn át ý nghĩa sâu xa của đời sống tu trì. Mỗi người đều có nhiệm vụ, nhưng đặc biệt là các bề trên và những người thi hành một trách nhiệm giữa anh chị em có nhiệm vụ phải làm thức tỉnh lại trong các cộng đoàn những xác tín về đức tin, để những xác tín này hướng dẫn các tu sĩ. Cuộc tìm kiếm có mục đích là đào sâu những xác tín và đưa những xác tín ấy ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày, tuỳ theo những nhu cầu của thời đại chứ không hề nhắm mục đích đem những xác tín ấy ra xét lại. Nếu những cuộc tìm kiếm chung ấy cần chấm dứt, thì phải được kết thúc với một quyết định của bề trên : sự hiện diện và chấp nhận của các ngài không thể nào thiếu cho mỗi cộng đoàn.
26. Những hoàn cảnh mới của sự vâng lời
Hoàn cảnh sống hiện đại dĩ nhiên có ảnh hưởng lớn đến đời sống tuân phục của các con. Thật thế, một số người trong các con thực hiện một phần những hoạt động ngoài tu viện, hoặc thi hành một chức vụ có khả năng chuyên môn. Một số khác lại cộng tác với những nhóm lao động có một nếp sống riêng biệt. Những nguy hiểm của những hoàn cảnh tương tự như thế lại không phải là một lời kêu gọi các con hãy củng cố lại và hãy nghiên cứu kỹ ý nghĩa của đức tuân phục đó sao ? Để công việc các con làm được tốt lành, các con cũng phải có một ít điều kiện cần thiết. Trước hết, các con phải kiểm chứng lại xem công việc mà các con đang đảm đương có hợp với ơn kêu gọi của Dòng các con không. Các con cũng phải xác định rõ ràng hai lãnh vực. Nhất là phải biết gạt bỏ những hoạt động bên ngoài để trở về với những đòi hỏi của nếp sống chung bởi vì quan tâm muốn cho những yếu tố cấu thành đời sống tu trì có được tất cả hiệu năng. Một trong những nhiệm vụ chính của các bề trên là bảo đảm cho anh chị em tu sĩ những điều kiện tối cần cho đời sống thiêng liêng của họ. Nhưng làm sao các ngài có thể chu toàn được nhiệm vụ này nếu không có sự cộng tác tín nhiệm của toàn thể tu viện ?
27. Tự do và tuân phục
Ta phải nói thêm điều này nữa là các con càng thi hành phần trách nhiệm của các con, thì các con càng phải đổi mới lại đời tận hiến của các con cho hoàn hảo. Đức Ki-tô buộc mỗi người phải “đánh mất mạng sống của mình” nếu họ muốn theo Người (40). Các con tuân giữ giáo huấn ấy bằng cách chấp nhận những lời chỉ giáo của các bề trên các con như là một bảo chứng cho lời khấn dòng của các con, lời khấn dòng là “lễ hiến tế toàn diện ý riêng của các con như một lễ hy sinh chính mình cho Thiên Chúa” (41). Đức tuân phục Ki-tô giáo là một sự tùng phục thánh ý Thiên Chúa vô điều kiện. Nhưng đức tuân phục của các con còn chặt chẽ hơn nữa vì đã khấn giữ nó một cách đặc biệt, và việc lựa chọn bị giới hạn bởi những gì các con đã tuyên khấn. Đó chính là một tác động hoàn toàn của quyền tự do đã làm cho các con trở nên tu sĩ hiện nay : nhiệm vụ các con là làm cho tác động ấy luôn luôn trở nên sống động hơn hoặc bằng những sáng kiến riêng, hoặc bằng cách các con sẵn lòng hưởng ứng những mệnh lệnh của các bề trên chúng con. Vì thế mà Công Đồng nhìn nhận “sự tự do được đức tuân phục tăng cường” (42) là một trong những ân huệ của bậc tu dòng, và nhấn mạnh rằng đức tuân phục ấy “thay vì giảm bớt nhân phẩm của con người, lại làm cho con người trở nên trưởng thành bằng cách làm lớn mạnh quyền tự do làm con Thiên Chúa” (43).
28. Lương tâm và tuân phục
Tuy nhiên, giữa quyền bính của bề trên và lương tâm của tu sĩ, “một thứ cung thánh trong đó chỉ mình con người đối diện với Thiên Chúa và nghe tiếng nói của Thiên Chúa” (44) lại không thể có những xung đột hay sao ? Nhưng cũng cần nói lại rằng một mình lương tâm mà thôi không thể phán đoán được giá trị luân lý của những hành động mà nó gợi ra, lương tâm phải chiếu theo, nếu cần phải sửa lại, phải được chỉ dẫn đúng với những quy luật khách quan.
Trừ ra khi nào một mệnh lệnh rõ ràng trái với luật Thiên Chúa hay là trái với hiến pháp của Dòng, hoặc chắc chắn mệnh lệnh ấy sẽ mang đến một điều xấu lớn lao – trong những trường hợp ấy nhiệm vụ tuân phục không còn buộc nữa -, những quyết định của bề trên liên quan đến một lãnh vực mà việc thẩm định một điều thiện tốt đẹp hơn có thể thay đổi tuỳ theo quan điểm riêng của mỗi người. Khi gặp một mệnh lệnh xét theo khách quan xem ra kém, và kết luận rằng mệnh lệnh ấy bất hợp lý và trái ngược với lương tâm, thì kết luận như thế là thiếu thực tế vì không nhận rằng có vô số những thực tại nhân loại lờ mờ khó hiểu và có giá trị lưỡng diện. Đàng khác, từ chối tuân phục thường gây thiệt hại nặng cho ích chung. Một tu sĩ không thể dễ dàng cho rằng có mâu thuẫn giữa phán đoán của lương tâm mình với phán đoán của bề trên. Và hoàn cảnh bất thường này đôi khi tạo nên một sự đau khổ thực sự bề trong, theo gương chính Đức Ki-tô, “Đấng đã nhờ đau khổ để học cho biết tuân phục là gì” (45).
29. Thánh giá là bằng chứng của tình yêu lớn nhất
Nói thế có nghĩa là việc thực hiện đời tu trì đòi hỏi mức độ từ bỏ lớn lao. Vậy các con cần phải am hiểu ít nhiều về sức mạnh đã thúc đẩy Đức Ki-tô đến với Thánh giá của Người, đến “Phép Rửa mà Người lãnh nhận”, nơi đó bốc cháy ngọn lửa sẽ thiêu đốt cả các con (46) ; các con phải hiểu ít nhiều về “sự điên dại” mà thánh Phao-lô cầu chúc cho tất cả chúng ta, vì chỉ có sự điên dại ấy mới làm cho chúng ta nên khôn ngoan (47). Chớ gì đối với các con, cũng như xưa đối với Đức Ki-tô, Thánh giá trở nên bằng chứng của tình yêu lớn nhất. Phải chăng đã chẳng có một mối tương quan giữa thái độ từ bỏ và niềm vui, giữa hy sinh và tâm hồn được mở rộng, giữa kỷ luật và sự tự do thiêng liêng đó sao ?
III. LỐI SỐNG
30. Lối sống phù hợp với ơn gọi
Các tu sĩ nam nữ trong Đức Giê-su Ki-tô, phải nhận rằng thời nay khó tìm được một lối sống phù hợp với đòi hỏi ấy. Có biết bao điều trái ngược nhau thúc đẩy các con trước tiên tìm kiếm một hoạt động có hiệu quả xét về phương diện nhân loại. Nhưng các con không có nhiệm vụ phải nêu gương một đời khắc khổ trong vui tươi và quân bình, bằng cách đón nhận những khó khăn liên quan mật thiết với lao động và với những thử thách của đời sống với sự lo lắng vì thiếu an toàn, cũng như những sự từ bỏ cần thiết để đạt tới tình trạng sung mãn của đời sống Ki-tô hữu hay sao ? Thật vậy, tu sĩ “hướng tới sự thánh thiện qua một con đường chật hẹp hơn” (48). Trong những vất vả khổ sở ấy, nhỏ hay lớn, lòng sốt sắng nội tâm làm cho các con nhận ra Thánh giá của Đức Ki-tô, và giúp các con đón nhận với đức tin và lòng yêu mến.
31. Chứng tá của nhân đức
Với điều kiện đó, các con sẽ nêu lên bằng chứng mà Dân Thiên Chúa đang chờ mong : bằng chứng của những người nam nữ có khả năng đón nhận tình trạng bấp bênh của đời khó nghèo, say mê nếp sống đơn sơ và khiêm nhu, yêu quý hoà bình, tránh mọi thoả hiệp hàm hồ, cương quyết từ bỏ mình hoàn toàn, đồng thời tự do và vâng phục, hồn nhiên và bền bỉ, hiền lành và cương nghị trong niềm xác tín của đức tin : hồng ân này sẽ được Đức Giê-su Ki-tô ban cho các con tương ứng với việc các con hiến mình cho Người không bao giờ rút lại. Lịch sử gần đây của biết bao tu sĩ nam nữ đã can đảm chịu đau khổ vì Đức Ki-tô tại nhiều quốc gia là một bằng chứng hùng hồn về điều đó. Trong khi Ta bày tỏ lòng ngưỡng mộ của Ta đối với họ, Ta muốn tất cả chúng con hãy lấy họ làm gương.
32. Cũng cố con người nội tâm
Trên bước đường ấy, các con nhận được một trợ lực quý giá nhờ ở nếp sống mà kinh nghiệm luôn trung thành với đoàn sủng của mỗi Tu hội mang lại ; kinh nghiệm này đã tổng hợp nhiều thể cách khác nhau và không ngừng khuyến khích đề ra những hướng mới. Nhưng các hình thái có thay đổi thế nào đi nữa, luôn luôn vẫn là những phương tiện xây dựng con người nội tâm. Chính mối lo lắng để củng cố sự xây dựng đó sẽ giúp các con nhận ra những hình thức của một nếp sống thích hợp hơn cả, giữa biết bao lo lắng khác. Quả thực, sự ước muốn quá đáng có một thái độ mềm dẻo và một khả năng tự do sáng tạo có thể đi đến chỗ lên án là khắt khe hẹp hòi những người muốn duy trì phần tối thiểu trong các thói quen phải giữ theo nếp sống các cộng đoàn cũng như sự trọn lành của các tu sĩ đòi hỏi. Quá bồng bột, vịn vào tình yêu huynh đệ hoặc dựa trên điều mà người ta tưởng là được Thánh Thần thúc đẩy, cũng có thể đưa tới chỗ phá đổ các định chế tu trì.
33. Tầm quan trọng của khung cảnh sống
Vì thế, nhờ kinh nghiệm, các con dễ hiểu rằng người ta không được coi thường tầm quan trọng của khung cảnh sống, vừa để hướng dẫn thường xuyên toàn diện con người phức tạp và phân hoá biết theo chiều hướng tiếng Thiên Chúa kêu gọi, vừa để hài hoà những xu hướng của con người theo đường thiêng liêng. Lòng người lại chẳng bị lôi cuốn bởi những sự mau qua đó sao ? Nhiều người trong chúng con bắt buộc phải sống, ít là một thời gian, trong một thế giới đang cố gắng tách biệt con người ra khỏi chính mình họ và làm phương hại đến việc kết hiệp với Thiên Chúa cùng với sự thống nhất thiêng liêng của cuộc sống. Bởi vậy các con cần phải học cho biết tìm thấy Thiên Chúa ngay cả trong hoàn cảnh sống hối hả, giữa những xao động và những quyến rũ phù vân.
34. Kỷ luật sống để kết hiệp với Thiên Chúa
Ai chẳng nhận thấy rằng khung cảnh huynh đệ của một lối sống kỷ luật, kèm theo những luật sống tự ý chấp nhận, sẽ giúp các con rất nhiều để đạt tới sự kết hiệp với Chúa ? Những quy tắc kỷ luật luôn luôn cần thiết cho bất cứ ai “trở về với con tim” (49) theo đúng ý nghĩa của Kinh Thánh ; con tim nói lên cái gì sâu sắc nhất của tâm tình, tư tưởng và ước vọng của chúng ta, con tim bị chiếm cứ bởi ý tưởng về sự vô tận, sự tuyệt đối và chính định mệnh đời đời của chúng ta. Trong tình trạng hỗn loạn hiện nay, các tu sĩ phải làm chứng rằng con người, khi biết gắn bó với cứu cánh đời mình là Thiên Chúa hằng sống, thì sẽ biết, nhờ sự thống nhất các khả năng, thanh lọc tư tưởng và linh thiêng hoá giác quan, làm cho đời sống được quy hợp sâu xa và vững bền trong Thiên Chúa.
35. Tầm quan trọng của việc tĩnh tâm
Theo mức độ chu toàn những nghĩa vụ bên ngoài, các con cần phải biết cách rời bỏ những hoạt động ấy để trở về với đời sống trầm mặc, yêu mến những sự thuộc về Chúa, nhờ đó linh hồn các con được bổ sức lại. Nếu thực sự các con thi hành công việc của Thiên Chúa, thì chính các con sẽ cảm thấy cần phải có thời giờ hồi tâm, cùng với anh chị em tu sĩ, các con sẽ biến thời gian hồi tâm này thành thời gian sung mãn. Vì công việc chồng chất và tình trạng căng thẳng do đời sống tận hiến, ngoài những kinh nguyện đọc hằng ngày, chúng con nên quan tâm đặc biệt thêm việc cầu nguyện lâu giờ hơn, những giờ cầu nguyện phải được phân chia trong ngày tuỳ theo khả năng và bản chất của ơn kêu gọi các con. Trong những tu viện mà hiến pháp cho phép các con được tiếp rước khách một cách rộng rãi, các con nên ấn định việc lui tới và cách giao tiếp, cố sao tránh mọi giao động vô ích và giúp cho các khách của các con dễ dàng kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.
36. Tầm quan trọng của quy luật
Nói như trên là nói đến ý nghĩa của những quy luật điều hành đời sống hằng ngày của chúng con. Thay vì chỉ nhìn những quy luật dưới khía cạnh bắt buộc, thì một lương tâm sáng suốt sẽ nhận định ra theo những lợi ích mà những quy luật mang lại và bảo đảm cho đời sống thiêng liêng sung mãn hơn. Phải nói lên điều này là sự giữ luật Dòng đòi một truyền thụ đích thực hơn là giáo huấn lý trí và rèn luyện ý chí, truyền thụ ấy nhằm Ki-tô hoá toàn diện con người từ tận thâm tâm theo tám mối phúc thật của Phúc Âm.
37. Đạo lý của đời sống
Công Đồng nhìn nhận “một nền đạo lý đã được chấp nhận để đạt tới mức trọn lành” (50) là một trong những di sản của các Dòng, là một trong những ơn huệ lớn nhất mà các Dòng bảo đảm cho các con. Vì bậc trọn lành ấy hệ tại việc luôn luôn tiến xa trong tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh em, nên phải nhận thức đạo lý ấy một cách rất chắc chắn cụ thể như là một đạo lý của đời sống phải được thực hiện một cách thiết thực. Nói như thế là có ý minh định rằng những cố gắng tìm tòi của các Dòng không phải chỉ nhằm mục tiêu thực hiện những điều thích nghi tuỳ theo những đổi thay của thế gian, trái lại những cố gắng ấy phải giúp tìm lại những phương tiện phong phú cần thiết cho cuộc sống được tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại hoàn toàn chiếm đoạt.
38. Kiến tạo con người mới
Bởi vậy, các cộng đoàn cũng như các tu sĩ làm nên tu viện cần phải vượt từ giai đoạn “sinh khí tự nhiên” đến giai đoạn “thuộc Thần Khí” (51).
“Con người mới” theo thánh Phao-lô, lại chẳng phải là Đức Ki-tô viên mãn trong Giáo Hội đồng thời là sự thông dự của mỗi Ki-tô hữu vào sự viên mãn đó sao ? Định hướng đó làm cho gia đình tu trì các con trở thành khung cảnh sống động làm tăng triển mầm sống thần linh, được gieo trồng vào mỗi người các con do phép Rửa tội, và sự tận hiến của các con, nếu được sống cho toàn vẹn, sẽ làm trổ sinh rất nhiều hoa trái phong nhiêu.
39. Thái độ đơn sơ niềm nở của đời sống cộng đoàn
Phải, cũng như mọi Ki-tô hữu, các con còn khuyết điểm, nhưng các con muốn tạo nên một môi trường giúp cho mỗi người anh em tấn tới trên đường thiêng liêng. Kết quả đó làm sao đạt được nếu những mối tương giao huynh đệ trong các con, kể cả sự giao tiếp thường nhật, không được ăn sâu trong Chúa ? Các con cũng đừng quên rằng, đức bác ái phải là một niềm hy vọng linh hoạt làm cho người khác có thể đạt được mục đích họ muốn nhờ sự giúp đỡ huynh đệ của các con. Dấu chỉ của đức bác ái chân thật gặp thấy trong sự đơn sơ vui tươi, nhờ đó mọi người đều cố gắng tìm hiểu xem mỗi người ao ước điều gì hơn cả (52). Nếu có ít nhiều tu sĩ tỏ ra chán ngán đời sống cộng đoàn thì ai sẽ đem lại cho họ sự phát triển ? Phải chăng trong đời sống cộng đoàn họ đã không tìm được mối thông cảm nuôi sống niềm hy vọng ? Không còn ai nghi ngờ được rằng tinh thần nhóm, những mối liên lạc huynh đệ, sự tương trợ trong cũng một hoạt động tông đồ, cũng như sự nâng đỡ lẫn nhau trong đời sống chung đã lựa chọn để phụng sự Đức Ki-tô một cách hoàn hảo hơn, là nguồn trợ lực quý giá trong đời sống hằng ngày.
40. Những cộng đoàn nhỏ
Theo chiều hướng đó, ta thấy xuất hiện khuynh hướng muốn lập những cộng đồng thu hẹp hơn. Một phản ứng tự phát chống lại những cách tập trung vô danh ở thành thị, nhu cầu thích nghi cơ sở một cộng đoàn với chỗ cư trú chật hẹp tại các thành phố tân tiến, nhu cầu muốn ở gần gũi nhau vì các điều kiện sinh hoạt của một nhóm cư dân cần được truyền bá Tin Mừng, đó là những lý do thường làm cho một số tu hội có ý thiết lập nhiều cộng đoàn ít nhân số. Những cộng đoàn thu hẹp này cũng có thể giúp cho việc phát triển mối tương quan mật thiết hơn giữa các tu sĩ và thân ái gánh đỡ nhau những trách vụ nặng nề. Tuy nhiên, nếu quả thực có một khung cảnh nào đó có thể làm phát sinh được một bầu khí thiêng liêng, thì thật là ảo tưởng nếu tin rằng chỉ cần phát triển khung cảnh ấy là đủ. Những cộng đoàn nhỏ, thay vì đem lại một lối sống dễ dãi hơn, thì ngược lại có nhiều đòi hỏi hơn đối với những phần tử sống trong đó.
41. Những cộng đoàn lớn
Mặt khác, quả thật những cộng đoàn đông đảo lại đặc biệt thích hợp với nhiều tu sĩ. Các cộng đoàn này có thể cũng cần phải được thiết lập do bản tính của việc phục vụ theo đức ái, do một số hoạt động trí thức hay do việc thực hiện đời chiêm niệm hoặc đan tu. Ước chi trong các cộng đoàn đó, người ta luôn luôn ý hợp tâm đầu, tuỳ theo mục đích tinh thần và siêu nhiên mà họ theo đuổi. Vả lại, dầu có hình thái nào đi nữa, thì các cộng đoàn, lớn hoặc nhỏ, cũng chỉ có thể giúp đỡ được các phần tử của mình nếu các cộng đoàn đó được sống linh động vững bền theo tinh thần Phúc Âm, được nuôi dưỡng bởi việc cầu nguyện, và được đề cao do quảng đại khổ chế con người cũ, do giữ quy luật cần thiết để đào tạo người mới và do sự phong phú của lễ hy sinh Thánh giá.
IV. VIỆC CANH TÂN
VÀ TĂNG TRƯỞNG THIÊNG LIÊNG
42. Cầu nguyện để tìm lại khát vọng Thiên Chúa
Hỡi các tu sĩ nam nữ thân yêu, lẽ nào các con lại không có khát vọng hiểu biết rõ hơn Đấng mà các con yêu mến và muốn bày tỏ ra cho nhân loại ? Kinh nguyện phải hợp nhất các con lại với Người. Nếu các con đã mất hứng thú đó thì các con phải cố gắng tìm lại cho được bằng cách cứ khiêm nhường cầu nguyện. Các con chớ quên bằng chứng của lịch sử là : trung thành cầu nguyện hay phế bỏ cầu nguyện là bản trắc nghiệm cho thấy đời sống tu trì còn sống động hay đã suy thoái.
43. Cầu nguyện để sống mật thiết với Thiên Chúa
Kinh nguyện là khám phá ra tình thân mật với Thiên Chúa, là yêu sách đòi phải tôn thờ Thiên Chúa, là nhu cầu cần được chuyển cầu : kinh nghiệm về sự thánh thiện Ki-tô giáo cho ta thấy kinh nguyện rất phong phú, nhờ đó Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra trong trí tuệ và tâm hồn của tôi tớ Người. Thiên Chúa tỏ cho chúng ta được biết chính mình Người trong những ngọn lửa của tình yêu. Những ân huệ của Thánh Thần thật là thiên hình vạn trạng, nhưng những hồng ân ấy bao giờ cũng làm cho chúng ta nếm hưởng sự nhận biết Chúa một cách thân mật và chân xác ; nếu không có sự nhận biết này, chúng ta không thể nào hiểu được giá trị đời sống Ki-tô hữu cũng như đời sống tu trì, không thể nào có sức mạnh tiến lên trong niềm vui của một hy vọng không bao giờ lừa dối.
44. Cầu nguyện để khám phá Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử
Thật vậy, Thánh Thần cũng ban cho các con ơn được gặp thấy dung nhan của Chúa trong tâm hồn những người mà Người dạy các con phải yêu thương như anh em mình. Người cũng giúp các con khám phá cách Người tỏ tình thương yêu qua các biến cố. Trong sự khiêm nhượng chú tâm đến mọi người mọi vật, Thánh Thần của Đức Giê-su soi sáng ta và ban cho chúng ta được đầy ơn khôn ngoan, miễn là chúng ta được thấm nhuần sâu xa tinh thần cầu nguyện.
45. Cầu nguyện và đời sống nội tâm
Một trong những nỗi khốn khổ của thời đại chúng ta, lại chẳng phải là sự bất quân bình “giữa các điều kiện sống tập thể và những đòi hỏi của suy tư cá nhân cũng như sự chiêm niệm” (53) đó ư ? Có biết bao nhiêu người, và trong đó có biết bao thanh thiếu niên đã đánh mất ý nghĩa của đời mình, và khắc khoải tìm kiếm chiều kích nội tâm của mình, mà không nghĩ rằng, trong Giáo Hội, Đức Ki-tô có thể đáp ứng sự mong chờ của họ ! Những sự kiện đó phải làm cho các con nghiêm chỉnh suy nghĩ về điều mà loài người có quyền chờ đợi ở các con, những người đã tuyên thệ sống để phục vụ Ngôi Lời, là “Ánh sáng chân thật sáng soi hết mọi người” (54). Thế nên, các con hãy ý thức tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong cuộc đời các con, và hãy học cho biết chăm chỉ cầu nguyện một cách quảng đại : đối với mỗi người các con, nam hay nữ, sự trung thành với việc cầu nguyện hằng ngày phải là một nhu cầu căn bản, và phải chiếm chỗ ưu tiên trong hiến pháp cũng như trong đời sống các con.
46. Thinh lặng
Con người nội tâm cảm thấy những thời giờ thinh lặng là một yêu sách của tình yêu Thiên Chúa, và theo thông thường họ cần phải có một sự cô tịch để lắng nghe Thiên Chúa “nói trong tâm hồn họ” (55). Ta cần nhấn mạnh rằng : một sự thinh lặng mà chỉ là vắng tiếng động và lời nói nhưng trong đó linh hồn không được rèn luyện lại, thì rõ ràng là một thứ thinh lặng thiếu giá trị thiêng liêng, và có thể làm tổn thương đến đức ái huynh đệ, nếu lúc đó cần phải có những lời trao đổi với nhau. Nhưng sự tìm kiếm tình thân mật với Thiên Chúa đòi toàn thể con người cần phải thinh lặng cho thật sống động, đối với những người phải tìm Thiên Chúa trong ồn ào náo nhiệt, cũng như đối với những người chuyên chiêm niệm (56). Đức tin, đức cậy, lòng mến yêu Thiên Chúa, sự sẵn sàng đón nhận hồng ân Chúa Thánh Thần cũng như một tình yêu huynh đệ biết mở rộng đón nhận mầu nhiệm tha nhân và nhu cầu của họ, tất cả đều đòi phải có một sự thinh lặng.
47. Đời sống phụng vụ. Thánh Thể và sự dâng hiến bản thân.
Có cần phải nhắc lại địa vị vô song của phụng vụ Giáo Hội trong đời sống cộng đoàn các con, mà trung tâm là lễ tế Thánh Thể, nơi đây lời cầu nguyện bên trong đi đôi với phụng tự bên ngoài không (57) ? Khi tuyên lời khấn dòng, các con đã được Giáo Hội kết hợp mật thiết với hy lễ Thánh Thể mà hiến dâng cho Thiên Chúa (58). Ngày này qua ngày khác, sự hiến dâng chính mình các con đó phải trở nên một thực tại được đổi mới một cách cụ thể và tiếp nối mãi. Sự hiệp thông với Mình và Máu Đức Ki-tô là nguồn mạch trước tiên của việc đổi mới này (59). Nhờ sự hiệp thông ấy ý chí mến yêu chân thực đến mức hy sinh đời sống của các con không ngừng được củng cố.
48. Thánh Thể, trung tâm cộng đoàn và nguồn mạch sức sống
Cộng đoàn của các con đã được tập hợp nhân danh Thánh Thể, thì tự nhiên là có Thánh Thể làm trung tâm, vì Thánh Thể là “bí tích của tình yêu, là dấu chỉ hợp nhất, là mối dây đức ái” (60). Cho nên thật là xứng hợp khi chúng con công khai tập họp tại một nguyện đường, nơi đó sự hiện diện của Thánh Thể biểu lộ và thực hiện sứ mạng chính yếu phải có của toàn thể gia đình tu trì, cũng như của tất cả cộng đoàn Ki-tô giáo. Thánh Thể đã làm cho chúng ta không ngừng loan truyền cái chết và cuộc phục sinh của Chúa, và chuẩn bị cho chúng ta đón Người trở lại vinh quang, thì Thánh Thể cũng làm cho các con luôn luôn tưởng nhớ những đau khổ thân xác và tinh thần Đức Ki-tô đã chịu, và tự ý chấp nhận cho đến hấp hối và chết trên Thánh giá. Ước chi những thử thách các con gặp trở nên cơ hội để các con chịu đựng với Chúa, và dâng lên Chúa Cha biết bao tai hoạ và đau khổ bất công đang xâu xé anh em chúng ta, và chỉ nhờ đức tin soi dẫn, chỉ có hy sinh của Đức Ki-tô mới có thể làm cho những đau khổ và tai hoạ ấy có một ý nghĩa.
49. Cộng tác thiêng liêng với nhân loại
Như vậy, chính cả thế giới cũng hiện diện ở trung tâm đời sống cầu nguyện và hiến dâng của các con, như Công Đồng đã hùng hồn nói lên : “Đừng có ai nghĩ rằng các tu sĩ vì đã tận hiến mà họ trở nên xa lạ với nhân loại và trở thành vô ích cho xã hội trần gian. Vì mặc dầu đôi khi không trực tiếp giúp đỡ người đồng thời với họ, nhưng các tu sĩ vẫn hiện diện với họ một cách thâm sâu hơn trong tình yêu Đức Ki-tô, và cộng tác với nhân loại một cách thiêng liêng, để công cuộc kiến tạo xã hội trần gian luôn luôn có nền tảng trong Thiên Chúa và quy hướng về Người, hầu những người xây dựng xã hội ấy khỏi nhọc công vô ích” (61).
50. Tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội
Công Đồng nhấn mạnh rằng : Sự tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội này không thể tiến nếu thiếu một sự rộng mở và cộng tác vào “các sáng kiến và quyết định của Giáo Hội, như trong lãnh vực Kinh Thánh, Phụng vụ, Tín lý, Mục vụ, Đại kết, Truyền giáo và Xã hội” (62). Quan tâm đến hoạt động mục vụ trong toàn thể, nhưng chắc chắn là các con luôn luôn phải thi hành việc đó “trong niềm tôn trọng đặc tính riêng của mỗi Dòng”, đồng thời các con phải nhớ rằng ơn miễn trừ đặc biệt liên quan đến cơ cấu nội bộ của tu viện, chứ không miễn cho các con khỏi tuân phục quyền tài phán của các giám mục có trách nhiệm, “trong mức độ mà nhiệm vụ chủ chăn của các ngài, và sự tổ chức hoàn hảo trong bổn phận phục vụ các linh hồn, đòi phải như vậy” (63). Mặt khác, hơn hết, các con phải luôn luôn nhớ rằng, hoạt động của Giáo Hội chỉ nối tiếp được công việc của Đấng Cứu Chuộc để mưu ích cho loài người khi hoạt động đó đi vào tác động của chính Đức Ki-tô, Đấng đã quy tụ tất cả về cho Cha của Người : “Hết thảy đều thuộc về anh em nhưng anh em thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô thuộc về Thiên Chúa” (64). Thật vậy, tiếng Thiên Chúa mời gọi hướng các con một cách trực tiếp và hiệu nghiệm nhất về Nước Trời vĩnh cửu. Qua những sức ép thiêng liêng không thể tránh được trong suốt cuộc sống tu trì đích thực “các con sẽ chứng tỏ một cách rõ ràng và đặc biệt rằng, chỉ có thể biến đổi và hiến dâng thế giới này cho Thiên Chúa nhờ tinh thần tám mối phúc” (65).
LỜI NHẮN NHỦ CUỐI CÙNG
51. Tiến tới một cuộc đổi mới đời tu trì cách đích xác
Các con thân ái trong Đức Ki-tô, muốn được đổi mới, đời sống tu trì phải thích nghi những hình thức tuỳ tòng của nó với những biến đổi có ảnh hưởng một cách mau chóng và rộng rãi đến các điều kiện của toàn thể cuộc sống nhân loại. Làm thế nào để đạt tới chỗ đó, mà vẫn duy trì được “các hình thức sống bền vững” (66) đã được Giáo Hội công nhận này, nếu không phải là canh tân lại ơn thiên triệu đích thực và toàn vẹn thuộc riêng các Dòng chúng con ? Đối với một sinh vật, sự thích nghi với lãnh vực không hệ tại chỗ bỏ mất căn tính của mình, mà trái lại, hệ tại biết củng cố sức sống riêng của mình một cách vững chắc. Sự ý thức rõ được những khuynh hướng hiện tại và những đòi hỏi của thế giới tân tiến này phải làm cho các nguồn mạch riêng biệt của các con vọt lên một dòng suối đầy sinh lực trong mát và mới mẻ. Công việc đó đầy hứng khởi đồng thời cũng gặp nhiều khó khăn.
52. Cần phải có chứng tá Phúc Âm trong thế giới ngày nay
Một vấn đề sôi bỏng đang ám ảnh chúng ta ngày nay là : làm thế nào đem được sứ điệp Phúc Âm vào việc văn minh hoá đại chúng ? Phải hoạt động như thế nào ở những cấp độ đang triển khai một nền văn hoá mới, đang phác hoạ một mẫu người mới, nghĩ mình không cần đến ơn cứu chuộc ? Hết thảy các con đều đã được mời gọi để chiêm ngưỡng mầu nhiệm cứu độ, cho nên các con hiểu được rằng những câu hỏi ấy đặt ra cho đời sống của các con bao nhiêu nghĩa vụ quan trọng, và thúc đẩy lòng nhiệt thành với việc tông đồ mãnh liệt biết bao ! Các nam nữ tu sĩ thân mến, tuỳ theo cách thức Thiên Chúa đòi hỏi nơi các gia đình thiêng liêng của các con, các con phải mở rất rộng tầm mắt ra trước những nhu cầu của loài người, trước những vấn đề, những tìm tòi của họ, để nhờ cầu nguyện và hoạt động mà cho họ thấy rằng : Tin Mừng tình thương, công lý và hoà bình, có một mãnh lực cao cả. Việc nhân loại khát vọng một đời sống thân ái hơn giữa người với người và giữa các quốc gia với nhau, trước hết đòi hỏi phải biến cải phong tục, não trạng và lương tâm. Công việc này, chung cho cả Dân Thiên Chúa, là nghĩa vụ của chúng con do một danh nghĩa riêng. Làm thế nào để chu toàn nghĩa vụ đó, nếu không có lòng ham mộ những sự trên trời, là hệ quả của một thứ kinh nghiệm về Thiên Chúa ? Thật quá rõ : cuộc canh tân thực sự đời tu quan trọng biết bao để có thể canh tân Giáo Hội và thế giới !
53. Chứng nhân sống động của tình yêu Thiên Chúa
Hơn bao giờ hết, thế giới ngày nay rất cần đến những người nam nữ biết tin vào Lời Chúa, vào cuộc phục sinh của Người, và vào sự sống đời đời, đến độ hy sinh cuộc sống trần gian để làm chứng cho tình yêu tự hiến cho tất cả loài người. Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội không bao giờ ngừng sống động và hoan hỷ vì biết bao nam nữ tu sĩ, khi theo mẫu trọn lành Phúc Âm dưới nhiều hình thức khác nhau, đã chứng minh tình yêu vô hạn của Đức Giê-su bằng đời sống của mình. Đối với con người ngày nay, đó lại chẳng phải là một luồng gió sống động từ cõi vô biên thổi tới, như một giải thoát cho chính họ, để họ nhìn thấy viễn tượng hoan lạc vĩnh cửu và tuyệt đối đó ư ? Khi các con rộng mở tâm hồn đón nguồn vui thần linh này, khi tuyên xưng lại những chân lý đức tin, khi theo ánh sáng đức tin tìm hiểu những nhu cầu của thế giới này, đúng tinh thần Ki-tô giáo, các con hãy quảng đại sống đúng những yêu sách của ơn Chúa gọi các con. Đây là giờ phút rất nghiêm trọng để các con ân cần chỉnh đốn ý thức, nếu cần, và cũng là để duyệt lại tất cả đời sống của các con, nhằm tiến tới một sự trung thành tối đa.
54. Đơn sơ như trẻ thơ
Nhìn các con với tình ấu yếm của Chúa khi Người gọi các môn đệ Người là “đoàn chiên nhỏ”, khi Người cho họ biết ý định của Cha Người là ban cho họ Nước Trời (67), Ta khẩn xin các con hãy sống đơn sơ như những “trẻ nhỏ” trong Phúc Âm. Các con hãy gắng tìm lại tính đơn sơ ấy trong tình thân mật tha thiết với Đức Ki-tô, hay trong sự tiếp xúc trực tiếp với các anh chị em các con. Như thế các con sẽ cảm thấy tâm hồn được “vui mừng hớn hở trong Chúa Thánh Thần”, nguồn vui của những người được gia nhập vào mầu nhiệm Nước Trời. Các con đừng vào số “người khôn ngoan và tài giỏi” mà tất cả thế sự đều giúp họ tăng số, đối với họ các bí mật Nước Trời đều bị giấu kỹ (68). Các con hãy thật lòng trở nên những người nghèo khó, hiền lành, những người đói khát sự thánh thiện, những người có lòng thương xót, có lòng thanh sạch, những người sẽ làm cho thế giới nhận biết sự bình an của Thiên Chúa (69).
55. Ảnh hưởng sung mãn của niềm vui chúng con
Niềm vui được thuộc về Chúa mãi mãi là hoa trái khôn sánh của Chúa Thánh Thần mà các con đã từng được thưởng thức. Được tràn đầy nguồn vui ấy, các con hãy tin tưởng nhìn thẳng về tương lai, vì Đức Ki-tô sẽ gìn giữ cho, dù gặp phải thử thách. Theo mức độ nguồn vui ấy giãi ra từ những cộng đoàn của các con, nó sẽ là dấu chỉ cho mọi người thấy rằng : nếp sống mà các con đã chọn giúp các con phát triển đời sống trong Đức Ki-tô tối đa, nhờ sự từ bỏ trong ba lời khấn dòng. Bấy giờ những người trẻ tuổi, khi thấy cách các con sống, sẽ có thể nhận ra được lời Đức Giê-su mời gọi hằng vang dội lên trong lòng họ (70). Thật vậy, Công Đồng cũng nhắc lại cho các con rằng : “Gương sáng của đời sống các tu sĩ là cách thức tốt đẹp nhất và hiệu nghiệm để giới thiệu các Dòng và mời gọi người ta đón nhận đời sống tu trì” (71). Cũng không thể hồ nghi rằng khi tỏ lòng mến phục và yêu mến các con, các giám mục và linh mục, các cha mẹ và các nhà giáo dục công giáo đã gieo vào lòng nhiều người một ước muốn đi theo con đường của các con, để đáp lại tiếng mời gọi của Đức Ki-tô hằng vang lên trong lòng các môn đệ Người.
56. Cầu nguyện cùng Mẹ Ma-ri-a
Xin Mẹ chí ái của Chúa mà các con đã noi gương để tận hiến cuộc đời các con cho Thiên Chúa khẩn nài cho các con, trên bước đường hằng ngày, được nguồn vui bất diệt mà chỉ có Đức Giê-su mới có thể ban cho các con. Và ước gì theo gương Mẹ, đời sống của các con biểu lộ được “mối tình mẫu tử mà tất cả những ai hợp tác trong sứ mạng tông đồ của Giáo Hội đều phải có, vì tất cả đều hoạt động để tái sinh nhân loại” (72). Các nam nữ tu sĩ rất thân mến, ước gì niềm vui của Chúa biến hình đổi dạng đời sống tận hiến của các con, và ước gì tình yêu của Người làm cho cuộc đời các con trở nên phong phú. Nhân danh Chúa và với tất cả tấm lòng, Ta ban phép lành cho các con.
Va-ti-ca-nô, lễ các thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô
ngày 29 tháng 6 năm 1971,
năm thứ chín tôi làm giáo hoàng.
Phao-lô VI
————————-
(1) Tông thư Il tempo massimo, 02-07-1962.
(2) GH, số 46.
(3) DT.
(4) Lc 18,29-30.
(5) MV, số 43.
(6) X. GH, ch.V.
(7) X. ES và RC.
(8) Lc 22,32.
(9) X. DT, số 1.
(10) X. Gl 5,13 ; 2 Cr 3,17.
(11) GH, số 43.
(12) GH, số 44.
(13) GH, số 44.
(14) DT, số 7.
(15) X. Pl 3,10-11.
(16) Mt 6,6.
(17) DT, số 5.
(18) X. GH, số 45 ; DT, số 2b.
(19) Ga 1,13.
(20) Rm 12,2.
(21) X. 1 Cr 12,12-30.
(22) X. MV, số 48 ; Ep 5,25.32.
(23) Xem diễn văn cho Nhóm “Notre Dame”, 4-5-1970, số 4, trang AAS 2 (1970), 429.
(24) GH, số 42.
(25) X. Mt 10,39 ; Mc 8,25 ; Lc 9,24 ; Ga 12,25.
(26) X. Tv 9,13 ; G 34,28 ; Cn 21,13.
(27) X. Lc 4,18 ; 6,20.
(28) X. Mt 25,35-40.
(29) MV, số 63.
(30) X. Mt 19,21 ; 2 Cr 8,9.
(31) Thông điệp “Phát triển các dân tộc”, số 21.
(32) DT, số 13.
(33) IV, 8 ; x. Cv 4,32.
(34) X. DT, số 17.
(35) X. DT, số 14 ; Ga 4,34 ; 5,30 ; 10,15-18 ; Dt 5,8.10 ; Tv 40,8-9.
(36) X. GH, I-III.
(37) X. Lc 22,26 ; Ga 13,14.
(38) Mt 20,28 ; x. Pl 2,8.
(39) X. Lc 2,51.
(40) X. Lc 9,23-24.
(41) DT, số 14.
(42) GH, số 43.
(43) DT, số 14.
(44) MV, số 16.
(45) Dt 5,8.
(46) X. Lc 12,49-50.
(47) X. 1 Cr 3,18-19.
(48) GH, số 13.
(49) X. Is 46,8.
(50) GH, số 43.
(51) 1 Cr 2,14-15.
(52) X. Gl 6,2.
(53) MV, số 18.
(54) Ga 1,9.
(55) X. Hs 2,14.
(56) Xem Huấn thị về đời sống chiêm niệm Venite seorsum, 15-8-1969, trong AAS 61 (1969), 674-690 ; Thông điệp của các tu sĩ chiêm niệm gửi Thượng Hội Đồng Giám Mục, 10-10-1967, trong DC 64, cột 1907,1910.
(57) X. PV.
(58) Xem Nghi thức khấn dòng.
(59) X. PV, số 15.
(60) PV, số 47.
(61) GH, số 46.
(62) DT, số 2c.
(63) GM, số 35,3.
(64) 1 Cr 3,22-23 ; x. MV, số 37.
(65) GH, số 31.
(66) GH, số 43.
(67) X. Lc 12,32.
(68) X. Lc 10,21.
(69) X. Mt 5,3-11.
(70) X. Mt 19,11-12 ; 1 Cr 7,34.
(71) DT, số 24.
(72) GH, số 65.