Nguồn Gốc Kitô Giáo: Sứ Vụ Của Đức Giêsu

0
1350


VỀ NGUỒN

(LỊCH SỬ KITÔ GIÁO)

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, O.P.

***

***

 PHẦN I: NGUỒN GỐC KITÔ GIÁO

***

Chương I: Khung cảnh tôn giáo và xã hội thời Đức GIÊSU

CHƯƠNG II: NGUỒN SỬ LIỆU VỀ CUỘC ĐỜI ĐỨC Giêsu

CHƯƠNG III: SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU

 

 

Sau khi đã tìm hiểu bối cảnh xã hội và tôn giáo của Palestin, cũng như các nguồn sử liệu về nguồn gốc lai lịch của Đức Giêsu, chúng ta đi vào vấn đề then chốt đó là: “Sứ vụ của Đức Giêsu”. Trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa trọng tâm sứ mạng của Người, tóm lại trong từ ngữ: “Nước Thiên Chúa”. Sau đó, chúng ta sẽ lần lượt phân tích hình ảnh của Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng qua các dụ ngôn (MỤC 1). Hơn thế nữa, Người còn muốn bày tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc tiếp xúc với các thành phần đã bị xã hội gạt ra bên lề (MỤC 2). Một khi đã cho thấy khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa dành cho con người, Đức Giêsu cũng duyệt lại mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, với những hệ luận ảnh hưởng tới tương quan giữa con người với nhau. Giáo huấn của Đức Giêsu về Nước Trời đã gây ra những phản ứng trái nghịch với Luật lệ thời đó (MỤC 3). Không lạ gì, đừng kể một số ít môn đệ chấp nhận những yêu sách của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã gặp phải sự đối kháng mạnh mẽ (MỤC 4), và cuối cùng đưa tới cái chết của Người ở Giêrusalem (MỤC 5).

***

SỨ ĐIỆP CĂN BẢN: NƯỚC THIÊN CHÚA

 

I. KHÁI NIỆM VỀ NƯỚC THIÊN CHÚA

Khi đọc Tin Mừng, chúng ta thấy từ ngữ “Nước Thiên Chúa” xuất hiện nhiều lần. Công thức ấy được Tin Mừng Nhất Lãm đặt trên môi miệng Đức Giêsu 61 lần (nếu tính cả các đoạn song song thì lên tới 85 lần): 13 lần trong Marco, 9 lần trong các đoạn song song Matthew – Luca; 27 lần riêng trong Matthew và 12 lần riêng trong Luca.[1] Nên biết là Matthew sử dụng công thức “Nước Trời” (basileia tou ouranon) thay vì “Nước Thiên Chúa”,[2] bởi vì người Do Thái kiêng đọc danh thánh “YHWH”. Có lẽ công thức “Nước Trời” hợp với ngôn ngữ của Đức Giêsu hơn, bởi vì Người đã giảng cho người Do Thái bằng ngôn ngữ và văn hóa của họ. Dù sao thì “Trời” ám chỉ “Thiên Chúa”; Nước Trời hay Nước Thiên Chúa cùng có nghĩa như nhau.

Tuy nhiên, phải dịch thế nào cho chính xác với nguyên bản (basileia tou Theou)? Đã có ít là 3 lối dịch:

– 1) Nước (vương quốc) của Thiên Chúa;

– 2) Triều đại của Thiên Chúa;

– 3) Vương quyền (chủ quyền) của Thiên Chúa.

Dĩ nhiên mỗi lối dịch đều hàm ngụ một lối giải thích nào đó về bản chất của nó:

– Khi dịch là chủ quyền của Thiên Chúa, người ta muốn nhấn mạnh tới việc Người cai trị trên khắp địa cầu (nghĩa chủ động: Thiên Chúa thiết lập quyền hành trên khắp địa cầu, trên mọi dân tộc hay là tại Israel). Đây là ý nghĩa thường được biểu lộ trong Cựu ước qua công thức “Thiên Chúa hiển trị, ngự trị”, (chẳng hạn ở các Thánh Vịnh 47,3; 93; 96-99), khi muốn nói tới việc Thiên Chúa xuất hiện, can thiệp vào lịch sử để cứu thoát dân Israel.

– Khi dịch là triều đại của Thiên Chúa thì người ta muốn nêu bật thời kỳ mà Thiên Chúa ra tay can thiệp.

– Khi dịch là nước (vương quốc) của Thiên Chúa thì người ta để ý tới ảnh hưởng của sự can thiệp của Thiên Chúa, đó là một lãnh thổ, (khu vực không gian) đặt dưới sự cai trị của Thiên Chúa (= nghĩa thụ động). Khu vực đó có thể mang ý nghĩa thiêng liêng, tức là các cá nhân hay cộng đoàn tín hữu đón nhận Thiên Chúa.

Trên thực tế, vào thời của Đức Giêsu, có ít là ba quan niệm về bản chất của vương quốc hay vương quyền của Thiên Chúa:

– 1) Có người quan niệm nó như một thực tại tậpg liêng: Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn con người, xua đuổi tội lỗi.

– 2) Có người thì hiểu về một thực tại chính trị xã hội (nhóm Zealot): Thiên Chúa tái lập chủ quyền của dân Do Thái, giải thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang.

– 3) Có người thì hiểu theo nghĩa thế mạt (văn chương khải huyền): Thiên Chúa thiết lập triều đại cánh chung, lật đổ hết mọi thứ quyền lực gian ác trên mặt đất.

Vậy, Đức Giêsu hiểu theo nghĩa nào?

II. ĐỨC GIÊSU VỚI NƯỚC THIÊN CHÚA

Chắc chắn là trong số những người đương thời với Đức Giêsu, nghe nói tới việc thiết lập nước Thiên Chúa là họ liền gán ngay một ý nghĩa chính trị: đã tới lúc khôi phục lại chủ quyền của Thiên Chúa, nghĩa là xã hội thần quyền như thời vua David, đánh đuổi quân xâm lăng Roma ra khỏi biên cương. Kể cả sau khi Đức Kitô đã phục sinh từ cõi chết, một số các môn đồ vẫn còn nuôi dưỡng tâm trạng đó, theo như sách Tông Đồ Công Vụ (1,6) còn ghi lại: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?”.

Riêng Đức Giêsu, Người không cung cấp một định nghĩa chính xác về bản chất của Nước Thiên Chúa, mà chỉ mô tả qua các dụ ngôn. Một chi tiết làm cho các học giả tranh luận là sự gắn liền giữa Nước Thiên Chúa với bản thân của Đức Giêsu: Nước Thiên Chúa đã đến rồi hay chưa? Chúng ta thấy có điểm mâu thuẫn: có lúc thì Người nói rằng nó đến rồi; có lúc thì nói rằng nó sẽ đến.

1. Nước Thiên Chúa đã đến gần

Đây là lời công bố được các thánh sử ghi lại vào lúc Đức Giêsu khai mạc sứ vụ. Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilee rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.

– Người nói: “Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14-15).

– Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17).

– “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4,43).

Không những Đức Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa đã gần theo nghĩa là một thực tại sẽ đến (sắp đến), nhưng Người còn muốn cho thấy rằng, nó đã thành hiện thực rồi. Trong một cuộc tranh luận với các nhà lãnh đạo Do Thái chung quanh việc trừ quỷ, Matthew và Luca ghi lại lời Người tuyên bố như sau:

– “Nếu tôi dựa vào thần khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28).

– “Nếu tôi dùng ngón tay của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,20).

Nước Thiên Chúa được diễn tả như là một quyền năng ập tới, đánh đuổi quyền lực của ma quỷ. Sự can thiệp ấy đã xảy tới trong hành động trừ tà của Đức Giêsu, nghĩa là nó đã tới rồi.

2. Nước Thiên Chúa sẽ đến

Trong Tin Mừng, chúng ta gặp thấy một loạt những lời tuyên bố khác cho thấy nước Thiên Chúa là một thực thể nằm trong tương lai, thuộc về một thế giới mới. Vào lúc khai mạc sứ vụ, Đức Giêsu loan báo là Nước Thiên Chúa sắp đến, đã gần, đang đến, đã đến. Nó đã được biểu lộ qua các hành động cứu độ dành cho người nghèo, người bệnh, nói chung là các nạn nhân của sự dữ. Vào lúc cuối đời (nghĩa là khi sứ vụ đến hồi kết thúc), Đức Giêsu lại tuyên bố trong bữa Tiệc ly là Người sẽ vào nước Chúa, Người sẽ gặp lại các môn đệ trong nước Chúa. Tất cả ba thánh sử của Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi lại lời đó.

– Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong nước Thiên Chúa (Mc 14,25).

– Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho cho đến ngày ấy, ngày Thầy được cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy (Mt 26,29).

– Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều đại Thiên Chúa đến (Lc 22,18).

Như vậy phải chăng đã có sự mâu thuẫn trong quan điểm của Đức Giêsu về Nước Trời? Vào đầu thế kỷ XX, đã có những khuynh hướng tìm cách giải quyết sự mâu thuẫn đó qua nhiều giải pháp khác nhau.

– 1) Giải pháp thứ nhất cho rằng, Đức Giêsu loan báo nước Thiên Chúa sẽ đến trong tương lai. Sứ mạng của Người cũng giống như ông Gioan Tẩy Giả, nghĩa là kêu gọi người ta cải thiện để đón nhận cuộc xuất hiện của Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã lầm: triều đại của Thiên Chúa vẫn chưa đến (đây là ý kiến của Albert Schweitzer, M. Werner).

– 2) Giải pháp thứ hai cho rằng, Nước Thiên Chúa đã đến rồi. Người đương thời đã ngộ nhận về bản chất của nước Thiên Chúa, ngỡ rằng Thiên Chúa sẽ xuất hiện cách oai phong lẫm liệt. Thực ra thì Thiên Chúa thiết lập vương quyền của Người trong tâm hồn con người, qua việc ban ơn tha thứ tội lỗi. Ai tin nhận Thiên Chúa thì sẽ được sống đời đời. Chính vì muốn tránh nghĩa hàm hồ của từ ngữ “Nước Thiên Chúa” mà thánh Gioan và thánh Phaolô ít khi sử dụng trong các tác phẩm của mình (đây là ý kiến của C.H. Dodd, Rudolph Bultmann).

– 3) Giải pháp thứ ba chủ trương rằng, Nước Thiên Chúa là một thực tại căng thẳng: một đàng nó đã được Đức Giêsu khai mào bằng lời giảng và việc làm của Người; nhưng đàng khác, nó sẽ được hoàn tất vào thời cánh chung ở trên trời. Đây là ý kiến của Oscar Cullman và của thần học Công Giáo. Cần phải biết dung hòa cả hai chiều kích hiện tại và vị lai của Nước Thiên Chúa trong sứ điệp của Đức Giêsu:

+ Một đàng, Nước Thiên Chúa đã đến. Điều này được thể hiện qua các hành động cho thấy Thiên Chúa tỏ lộ quyền năng của tình thương, đánh phá quyền lực của sự dữ, (chẳng hạn như các công cuộc chữa bệnh, trừ tà). Ý nghĩa của các hành động ấy được chính Người giải thích cho các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả: “Các anh hãy về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,4-5 // Lc 7,18.28).

+ Đàng khác, Nước Thiên Chúa sẽ đến trong uy nghi, với cuộc phán xét chung (Mt 16,27). Nó sẽ chấm dứt lịch sử; nó mang tính cách vĩnh viễn, thuộc về thiên giới. Nó được đồng hóa với sự sống đời đời (Mc 10,17.21). Đức Giêsu dạy các môn đệ hãy cầu nguyện cho Nước Chúa đến: “Xin cho triều đại Cha hãy đến” (Mt 6,10; Lc 11,2), và đồng thời Người cũng hứa cho các môn đệ trung thành là họ sẽ được “vào Nước Chúa” (Mt 7,21-23), cùng với Người (Mt 25,34).

Sứ mạng của Đức Giêsu diễn ra ở giữa hai thời điểm ấy: khai mào và kết thúc. Nước Thiên Chúa khai mạc với sứ vụ của Đức Giêsu. Nó được ví như hạt giống được gieo, và sẽ đâm chồi nảy lộc, tăng trưởng dần dần cho tới lúc toàn vẹn (Lc 13,18-21; Mt 13,31-33; Mc 4,30-32). Đức Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa đã đến như là cuộc can thiệp của Thiên Chúa lân tuất nghiêng mình xuống trên các nỗi khổ đau của con người. Đồng thời Đức Giêsu cũng mời gọi con người hãy thống hối để đón nhận tình thương đó, để đáng vào Nước Trời (Mc 10,24-25). Dù sao, trái với những quan niệm về một sự can thiệp của Thiên Chúa cách oai phong lẫm liệt, Đức Giêsu tuyên bố rằng Nước Thiên Chúa được dành cho những người nghèo (Mt 5,3), những em bé (Mc 10,14; Mt 18,3). Matthew và Luca đã liệt kê ra những hạng người có phúc vì nước Thiên Chúa đã được ban cho họ: người nghèo, người khóc lóc, người hiền lành, người đói khát công chính, người từ bi, người thanh tịnh, người hiếu hòa, người chịu bách hại vì công lý. Xem ra đây chỉ là một bài giảng có tính cách luân lý đạo đức, khuyến khích con người hãy gắng ăn ngay ở lành để đáng phần thưởng của Nước Chúa. Kỳ thực, không phải như vậy: Đức Giêsu muốn dành Nước Trời cho các người tội lỗi nữa; họ là những kẻ được chiếu cố đặc biệt. Đây là một điểm cách mạng của Đức Giêsu.

III. THIÊN CHÚA CỦA ĐỨC GIÊSU

Hạn từ “Nước Thiên Chúa” hàm ngụ một quan điểm nào đó về chính Thiên Chúa. Chúng ta đã có dịp nhắc tới quan niệm của thánh Gioan Tẩy Giả; hình như Đức Giêsu không đồng ý với quan điểm ấy. Thực ra chúng ta không nên thổi phồng sự khác biệt giữa sứ điệp của ông Gioan và của Đức Giêsu, cũng như chúng ta đừng nên đối chọi giữa Thiên Chúa của công lý trong Cựu ước với Thiên Chúa của tình thương trong Tân ước! Đôi khi sự đối chọi ấy chỉ là do đầu óc của chúng ta tưởng tượng ra, và chẳng phù hợp với thực tại lịch sử. Cựu ước đã có nhiều hình ảnh về Thiên Chúa nhân hậu, chẳng hạn như lời cầu nguyện sau đây trong Thánh Vịnh 102,8: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi”. Tư tưởng ấy đã đọc thấy trong lời nguyện của ông Moses được ghi lại ở sách Xuất Hành 34,5-6. Mặt khác, khi Cựu ước nói tới “Thiên Chúa công bằng” hay “Thiên Chúa xét xử”, thì họ không muốn trình bày một ông thẩm phán lạnh lùng nghiêm khắc cho bằng một vị Cứu tinh: Thiên Chúa xét xử công bằng, bênh vực những kẻ oan ức, bị hà hiếp bất công. Dân Israel không ngừng kêu cầu Thiên Chúa đến xét xử bởi vì họ tin rằng Người thương họ, bênh đỡ họ. Dĩ nhiên, thường thì lớp dân nghèo, lớp người bị áp bức mong đợi Thiên Chúa đến giải oan cho họ. Nhưng toàn thể dân tộc Israel cũng kêu cầu Thiên Chúa xuất hiện xét xử bởi vì họ muốn Người giữ lời hứa sẽ ra tay bênh vực giải thoát họ khỏi sự áp bức của ngoại bang. Chắc chắn rằng Đức Giêsu cũng chia sẻ vào niềm tin tưởng hy vọng ấy, bởi vì Người đã nhiều lần đọc Sách Thánh trong hội đường hoặc cầu nguyện các Thánh Vịnh. Tuy nhiên, dựa trên niềm tin truyền thống ấy, Đức Giêsu còn tỏ bày những nét khác nữa của Thiên Chúa, đặc biệt Thiên Chúa là Cha.

Nói đúng ra, xét về từ ngữ thì đây không phải là một điều hoàn toàn mới lạ. Cựu ước đã hơn một lần nói tới Thiên Chúa là cha: Thiên Chúa là cha của dân Israel (Xh 4,22), bởi vì đã ra tay săn sóc nó, đặc biệt là qua việc giải phóng khỏi cảnh nô lệ Ai Cập (Hs 11,1; Is 1,2; Gr 31,9). Ngoài ra, sách Khôn ngoan còn nói tới Thiên Chúa như là cha của người công chính (Kn 2,13.16; 14,6). Tuy nhiên, những đoạn văn đó không nhiều lắm; nhất là người Do Thái không dám gọi Thiên Chúa là cha trong lời cầu nguyện. Thảng hoặc có lần nào họ buột miệng kêu “Cha”, thì lập tức họ phải lắp thêm tiếng “Chúa” cho khỏi bất kính (thí dụ: Kn 14,3; Hc 23,1.4; 51,10).

Còn Tân ước thì khác hẳn: những lần nói đến Thiên Chúa là Cha thì nhiều hơn gấp bội, nhưng nhất là Đức Giêsu đã muốn nêu bật những nét đặc sắc của tình phụ tử, trong đó có cả việc khẩn cầu Thiên Chúa như là Cha.

Xét về số lượng, tước hiệu “Cha” áp dụng cho Thiên Chúa được sử dụng 5 lần trong Marco, 17 lần trong Luca, 45 lần trong Matthew và 118 lần trong Gioan. Nếu biết rằng xét theo thứ tự biên soạn, tác phẩm của Marco ra đời trước tiên và tác phẩm của Gioan xuất bản sau cùng, thì việc tăng gia con số từ 5 lần ở Marco lên tới 118 lần ở Gioan cho thấy rằng lúc đầu các Kitô hữu còn dè dặt về từ ngữ này, nhưng càng ngày họ càng trở nên dạn dĩ hơn. Các thư của thánh Phaolô cũng không xa lạ gì với danh xưng đó. Có lẽ thánh Phaolô nhìn nhận sáng kiến của Đức Giêsu khi viết rằng: “Thiên Chúa là Cha (Thân phụ) của Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta” (Rm 15,6; 2Cr 1,3; 11,31). Nói thế chưa đủ, thánh Phaolô còn ghi lại cả âm thanh nguyên bản aram Abba (Rm 8,15; Gl 4,6). Đây là một lối nói rất thân mật mà người Do Thái dùng trong gia đình (ba ơi, bố ơi); nhưng họ không bao giờ dám dùng khi đọc kinh cầu nguyện.

Từ chuyện số lượng chúng ta đã chuyển sang chuyện phẩm chất. Đức Giêsu có chủ ý gì khi du nhập tiếng Abba vào lời giảng của mình? Để cho rõ vấn đề thiết tưởng nên phân biệt hai cấp độ. Cấp một: Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là bố (ba) của mình. Cấp hai: Đức Giêsu muốn chia sẻ tình thân mật ấy.

A. Đức Giêsu nói với Thiên Chúa

Các Tin Mừng còn ghi lại 21 kinh nguyện của Đức Giêsu, trong đó Người xưng hô với Thiên Chúa là “Cha”. Tuy con số đó bao gồm nhiều đoạn song song,[3] nhưng đặc điểm chung là Đức Giêsu luôn luôn dùng tiếng “Cha” khi cầu nguyện. Thậm chí, khi ghi lại lời cầu nguyện trong vườn Cây Dầu, Marco (14,36) kèm theo nguyên ngữ Abba bằng tiếng Aram trước danh từ bằng tiếng Hy Lạp (ho pater): “Abba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”. Chỉ có một lần duy nhất mà Đức Giêsu kêu cầu “Chúa” (thay vì “Cha”) là khi ở trên thập giá: “Êloi, Êloi, lama sabacthani” (Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ tôi? Mc 15,34; Mt 27,46). Tuy nhiên, không rõ đây có phải là nguyên văn lời cầu của Đức Giêsu hay không, hoặc chỉ là việc giải thích tâm trạng của Người dựa theo Thánh Vịnh 22. Nên biết là Luca không ghi lại lời đó, và đã thay vào bằng hai lời nguyện hướng về Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34); “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

B. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa

Bởi vì đã quen kêu cầu Thiên Chúa là Cha, nên Đức Giêsu cũng muốn các môn đệ làm như vậy. Đừng kể kinh “Lạy Cha” mà Người dạy cho họ, các Tin Mừng còn để lại nhiều lời khuyên khác, chẳng hạn:

– Anh em cứ xin, thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho… Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người (Mt 7,7.9-11).

Đức Giêsu muốn rằng, không những các môn đệ hãy kêu cầu Thiên Chúa là Cha, mà còn phải thâm tín rằng Thiên Chúa là Cha, một người Cha tốt lành. Người sẽ ban những của tốt lành cho các con cái đến xin. Luca (11,11-12) còn ghi thêm lời khuyên là đừng sợ bị quở cho dù phải quấy rầy đập cửa giữa đêm khuya.

Thiên Chúa là Cha tốt lành: Người cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ dữ người lành, và đổ mưa xuống cho cả người công chính lẫn kẻ bất lương (Mt 5,44-45). Thoạt tiên xem ra câu nói rất thường; nhưng nếu ai tinh ý thì sẽ thấy rằng lời giảng của Đức Giêsu rất ngược đời! Thực vậy, chúng ta quen nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành, cho nên Chúa chỉ yêu thương những đứa con tốt lành ngoan ngoãn, và ghét những đứa xấu xa hư hỏng. Thế nhưng Đức Giêsu thì khẳng định rằng Cha trên trời thương yêu cả các đứa bất lương nữa! Xem ra điều này cũng dễ hiểu thôi: cha mẹ nào lại chẳng yêu những đứa con mình đã sinh ra? Dù nó có làm bậy đi nữa thì nó vẫn là con mình chứ! Thế nhưng Đức Giêsu lại còn muốn đi xa hơn lý luận thường tình đó, bởi vì theo Người, Thiên Chúa thương mấy đứa con hư hơn là các con ngoan. Phải nhận rằng đây là một điều mới trong thần học của Đức Giêsu. Cách cư xử của Thiên Chúa không giống như người đời quen hình dung đâu! Trong một buổi cầu nguyện, Đức Giêsu đã thốt lên lời chúc tụng như sau:

– Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26; Lc 10,21).

Thiên Chúa là Đấng thích tỏ mình ra cho những kẻ bé mọn. Câu nói này thường được giải thích theo nghĩa thiêng liêng, tức là những kẻ có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu theo một nghĩa khác nữa. Khi dịch là “kẻ bé mọn”, chúng ta đã sử dụng một từ ngữ thơ mộng rồi đó; nhưng nếu dịch là: “đứa con nít”, hay “thằng nhãi ranh” thì chúng ta sẽ nhận ra lối nói móc của Đức Giêsu. Ai cũng tưởng rằng các bậc khôn ngoan hiền sĩ thi biết rõ Thiên Chúa hơn, và họ sẽ cảm nhận Thiên Chúa gần gũi hơn. Nào ngờ Đức Giêsu lại nói ngược lại: Thiên Chúa không tỏ mình cho các người khôn ngoan thông thái, mà lại tỏ mình cho mấy đứa ranh con, u mê dốt nát, nghịch ngợm phá phách! Trên thực tế, chính những đứa con như vậy mới cần tới sự săn sóc của người Cha, chứ những đứa con ngoan ngoãn, có công ăn việc làm xuôi xắn thì đâu cần người cha giúp đỡ nữa! Sự thực trớ trêu là những đứa con ngỗ nghịch lại dễ nhận thức tình yêu săn sóc của người cha; chứ còn những đứa con ngoan thì cùng lắm cũng chỉ mong phần thưởng thôi chứ đâu có biết đánh giá tình yêu của Cha?

Chúng tôi không dám cam đoan rằng đó là ý nghĩa chính xác của câu nói: “Thiên Chúa mặc khải cho kẻ bé mọn”. Tuy nhiên khi phân tích các lời giảng và việc làm của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa tỏ mình là Cha khi đi tìm con chiên lạc, khi mở tiệc mừng đứa con hoang trở về. Đức Giêsu mặc khải chân lý ấy không những qua các bài giảng và dụ ngôn mà còn qua thái độ và hành động. Người bị trách là hay lân la với phường thâu thuế và hạng người tội lỗi. Để tự bào chữa, Đức Giêsu nhắc nhớ một chân lý hết sức sơ đẳng là “chỉ có các bệnh nhân mới cần tới thầy thuốc!” (Mc 2,17; Mt 9,12-13; Lc 5,31-32). Có điều ngược đời là thường thì các bệnh nhân đi kêu thầy thuốc; còn Đức Giêsu lại chủ trương rằng thầy thuốc phải đi tìm bệnh nhân! Qua những hình ảnh và dụng ngữ rút từ đời sống thường nhật, Đức Giêsu muốn trình bày một khuôn mặt mới của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Cha đi tìm con người sa ngã. Sự cứu độ là một món quà trao tặng cho con người, chứ không phải là tiền lương trả cho kẻ làm công. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa đến cứu vớt con người lầm than khốn khổ. Ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho người công chính của nhà Israel, mà còn mở rộng cho muôn dân nữa.

***

MỤC 1

LỜI GIẢNG CỦA ĐỨC GIÊSU

 

Tin Mừng Nhất Lãm trình bày sứ vụ của Đức Giêsu là loan báo và thể hiện Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, Đức Giêsu thi hành sứ mạng phục vụ Nước Thiên Chúa bằng lời giảng và hành động. Vì muốn trình bày có thứ tự mạch lạc, nên thường phải phân tách ra thành hai mục (lời giảng – hành động), chứ trên thực tế thì cả hai gắn liền mật thiết với nhau. Lời nói đi đôi với hành động: có khi lời nói giải thích cho một hành động, có khi hành động chứng thực cho lời nói. Chúng ta hãy lấy một thí dụ từ việc chữa lành một người bại liệt kể lại ở Marco 2,3-12 (// Mt 9,1-8; Lc 5,18-26). Thoạt tiên, Đức Giêsu nói với anh ta: “Này con, con đã được tha tội rồi” (lời nói). Nghe câu nói đó, các Kinh sư khó chịu, cho rằng Đức Giêsu phạm thượng vì dám tuyên bố tha tội, điều dành riêng cho Thiên Chúa. Để biện minh, Đức Giêsu vặn họ rằng: Điều nào dễ hơn: bảo với người bại liệt rằng “con đã được tha tội”, hay là “vác lấy chõng mà đi”? Vậy để các ông biết rằng Con Người có quyền tha tội, thì này (hướng sang người bại liệt) ta bảo con: hãy đứng dậy, vác chõng mà về. Hành động chữa lành người bại liệt chứng thực rằng lời tha tội có uy lực; nhưng trước khi chữa bệnh, Đức Giêsu đã dùng lời nói để giải thích ý nghĩa của hành vi sắp làm: trong trường hợp này đây, Người không chỉ đóng vai một y sĩ chữa bệnh mà thôi, nhưng việc chữa bệnh là dấu chỉ của việc được tha tội. Nhiều lời tuyên bố của Đức Giêsu chỉ có thể giải thích được trong khung cảnh của một hành động nào đó. Sau khi đã ghi nhận như vậy, trong mục này, chúng ta hãy bắt đầu nghiên cứu các lời giảng của Đức Giêsu; kế đó, trong mục sau, chúng ta sẽ đề cập tới các hành động.

I. HÌNH THỨC CÁC LỜI GIẢNG

Trong các quyển Tin Mừng hiện tại, chúng ta thấy Đức Giêsu rao giảng trong nhiều cơ hội khác nhau và dưới những hình thức khác nhau: khi thì ở ngoài trời, khi thì ở trong hội đường; có lúc ngồi chễm chệ như thầy giáo hoặc có lúc đàm thoại thân mật như giữa bạn bè. Đặc biệt là Matthew đã ghi lại 5 bài giảng xoay quanh chủ đề Nước Trời: Hiến chương Nước Trời (Chương 5-7); Rao giảng Nước Trời (Chương 10); Mầu nhiệm Nước Trời (Chương 13); Bước đầu của Nước Trời trong Hội Thánh (Chương 18); Tính cách cánh chung của Nước Trời (Chương 24-25). Tuy nhiên, khi bàn về tiến trình thành hình các quyển Tin Mừng, chúng tôi đã lưu ý rằng các thánh sử không ghi chép các lời giảng của Đức Giêsu từng chữ, từng câu, với đầy đủ chi tiết về các hoàn cảnh thời gian và không gian. Theo các học giả Thánh Kinh, chúng ta có thể phân tách ba giai đoạn, từ khi Đức Giêsu tuyên bố các lời đó cho tới khi chúng được chép ra sách Tin Mừng. Trong giai đoạn thứ nhất, các lời giảng của Đức Giêsu đã được ghi vào tâm khảm của các môn đệ khá dễ dàng, bởi vì Người dùng nhiều kiểu nói có âm giai mục điệu giống như ca dao tục ngữ,[4] hoặc bởi vì Người ưa kể chuyện dụ ngôn. Các lời ấy được ghi lại thành bộ sưu tập. Qua giai đoạn thứ hai, các lời đó không những được kể lại nhưng còn được đem ra đối chiếu với Sách Thánh (Cựu ước) hoặc được thích nghi để áp dụng vào đời sống cộng đoàn Kitô hữu, ngõ hầu lời của Đức Giêsu luôn mang tính cách sống động, hiện thực cho các môn đệ. Sau cùng, ở giai đoạn thứ ba, các thánh sử sử dụng các nguồn truyền khẩu và xếp đặt chúng dựa theo bố cục của tác phẩm. Vì thế không lạ gì mà những lời được thánh Matthew đặt trong bài giảng trên núi khi Đức Giêsu khai mạc sứ vụ (Chương 5-7) thì lại được thánh Luca xếp trong bài giảng ở đất bằng (bình nguyên), và sau một thời gian hoạt động (Chương 6,17-49). Thực không dễ gì mà hình dung được chính lời giảng nguyên khởi của Đức Giêsu cho những người đương thời (ipsissima verba Christi). Chắc chắn là Người dùng tiếng Aram, chứ không phải là tiếng Hy Lạp như bản văn Tân ước hiện nay. Tuy nhiên, xin để dành công tác đó cho các nhà phê bình văn chương, và chúng ta hãy chú trọng hơn tới khía cạnh tư tưởng, dựa theo các bản văn hiện hành.

Trước khi đi vào nội dung tư tưởng, thiết tưởng cũng nên nói đôi lời về các hình thức ngôn ngữ mà Đức Giêsu đã sử dụng để rao giảng. Đã có nhiều tiêu chuẩn để ra để xếp loại các hình thức ấy.

A. Đối chiếu với các thể văn của Cựu ước, người ta phân chia các lời của Đức Giêsu thành hai loại: các lời Ngôn sứ và các lời khôn ngoan

– 1) Thể văn Ngôn sứ bao gồm các lời loan báo ơn cứu độ (hay sự trừng phạt), chẳng hạn như: việc loan báo Nước Thiên Chúa đã đến, các mối phúc thật, việc kêu gọi cải thiện, các lời cảnh cáo những kẻ cố chấp.

– 2) Thể văn khôn ngoan bao gồm những câu ngắn gọn, như: châm ngôn, câu ví, câu đố, dụ ngôn.

B. Đối chiếu với hạng thính giả, người ta phân chia thành hai nhóm: môn đệ và đối lập

– 1) Đối với các môn đệ hay đại chúng, Đức Giêsu giảng giải, khuyên bảo.

– 2) Đối với các đối thủ, các lời của Đức Giêsu mang tích cách tranh biện, đối chất.

Dĩ nhiên còn nhiều tiêu chuẩn khác để xếp loại các lời giảng, như dựa theo đề mục (về Thiên Chúa, về ơn cứu độ, về đời sống luân lý). Dù sao khi bàn về các hình thức lời giảng của Đức Giêsu chúng ta không thể nào làm ngơ các dụ ngôn được.

II. CÁC DỤ NGÔN

A. Hình thức

Dụ ngôn chiếm một phần lớn trong các lời giảng của Đức Giêsu. Ở đầu chương 4, thánh Marco viết rằng “Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà dạy đám đông” (4,4) và đến cuối chương (câu 33-34) ông nói thêm: “Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tùy theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn”. Tùy theo tiêu chuẩn xếp hạng, các học giả đếm được từ 35 (tối thiểu)[5] cho tới 72 (tối đa) dụ ngôn trong Tin Mừng. Sự chênh lệch tùy theo việc xác định bản chất của dụ ngôn.[6] Trong Thánh Kinh, danh từ Do Thái mashal (tương đương với từ Hy Lạp parabôlê) bao gồm nhiều loại văn thể so sánh, từ câu đố (Tl 14,10-18) cho tới ngạn ngữ (1Sm 10,12), từ tỉ dụ cho tới ẩn dụ (Is 5,1-7; Ed 17,2-24). Cách riêng, bàn về các dụ ngôn trong Tin Mừng, các học giả đã phân biệt tới 4 loại văn thể khác nhau:

– 1) Sánh ví (similitudo). Đây chỉ là một câu nói ngắn gọn gồm hai vế: từ một trường hợp điển hình quen thuộc để bước sang áp dụng cụ thể. Chẳng hạn Mc 3,24-25: “Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể vững. Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại nhưng đã tận số”. Thể sánh ví được phát biểu ở Mc 4,26: “Đức Giêsu lại nói: Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?”. Nước trời được ví như hạt cải gieo xuống đất (Mt 13,31); như nắm men vùi trong bột (Mt 13,33).

– 2) Điển tích. Một câu chuyện được thuật lại để giải thích một ý kiến hay một nguyên lý. Chẳng hạn Lc 10,29-37 tích của người Samari tốt lành dùng để giải thích “ai là người thân cận của tôi?”; Lc 12,16-20 (người phú hộ thu tích của cải); Lc 18,10-14 (người Pharisee và người thu thuế cầu nguyện).

– 3) Ẩn dụ (allegoria). Mỗi chi tiết của câu chuyện đều mang theo một ý nghĩa. Chẳng hạn như chuyện các tá điền sát nhân ở Mc 12,1-12 (// Mt 21,33-45; Lc 20,9-19).

– 4) Dụ ngôn theo nghĩa chặt. Tất cả các tình tiết của một câu chuyện đều ăn khớp, nhằm nói lên một ý nghĩa nào đó.

Sự phân biệt các loại văn thể (cách riêng là giữa ẩn dụ và dụ ngôn) rất là quan trọng trong việc tìm hiểu dụng ý của lời giảng. Khi sử dụng ẩn dụ, tác giả muốn mặc cho mỗi chi tiết một nghĩa bóng; còn trong dụ ngôn, thì toàn thể câu chuyện chỉ có một kết luận mà thôi. Đó là nói trên nguyên tắc, chứ khi đi vào từng trường hợp cụ thể thì không dễ gì xác định cách dứt khoát, nhất là có khi một câu chuyện pha trộn nhiều thể văn khác nhau. Dụ ngôn về người Samari nhân hậu có thể vừa là điển tích, vừa là ẩn dụ vừa là ngụ ngôn.

Đức Giêsu không phải là người đã sáng chế ra thể văn dụ ngôn. Trong Cựu ước, các Ngôn sứ đã sử dụng tới nó rồi. Chẳng hạn như sau khi vua David đã phạm tội ngoại tình và sát nhân, Ngôn sứ Nathan đến kể cho nhà vua nghe câu chuyện về một anh phú hộ đi cướp giật con chiên của một nhà nghèo để làm thịt đãi khách. Thoạt nghe, vua David đã tỏ ra căm phẫn: “Thằng đó đáng tội chết”; nhưng khi Ngôn sứ giải nghĩa thêm dụ ngôn thì nhà vua hoảng hốt thú nhận “Thực tôi có tội với Chúa” (2Sm 12,1-13). Tuy nhiên, các học giả cũng nhận rằng nhiều dụ ngôn mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hiện nay không còn giữ được nguyên văn như hồi Đức Giêsu đã kể, nhưng đã được thích ứng cho hợp với tình cảnh của cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi. Joachim Jeremias (The Parables of Jesus, 1947) trưng ra một thí dụ điển hình nơi dụ ngôn người gieo giống. Lúc đầu, dụ ngôn muốn nói tới sự bành trướng mạnh mẽ của Nước Thiên Chúa: bất chấp các trở lực của đất đai, nó vẫn sinh hoa kết trái gấp trăm lần (Mc 4,4-9). Nhưng về sau, các thánh sử đã áp dụng vào thái độ đón nhận lời Chúa: nếu ai không có tâm tình chuẩn bị thì lời Chúa không mang lại ơn ích nào hết (Mc 4,13-20).

Dĩ nhiên là có người đã cố gắng đi tìm lại nguồn ngọn nguyên khởi của nó hầu truy tầm ý định của Đức Giêsu. Việc tìm hiểu ý nghĩa nguyên khởi của các dụ ngôn không phải là nhằm khám phá ra chủ ý của Đức Giêsu kiểu như là đi tìm ra giải đáp cho một câu đố, nhưng nhất là nhằm tìm hiểu vai trò của các dụ ngôn trong toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu. Thực vậy, trải qua lịch sử, lắm lần người ta cho rằng Đức Giêsu kể dụ ngôn để giải trí, để thu hút sự chú ý của thính giả. Cũng lắm người đồng hóa dụ ngôn với ngụ ngôn, coi như Đức Giêsu chỉ giới hạn vào việc dạy vài bài học luân lý. Phải nhìn nhận rằng nhiều dụ ngôn có hàm ngụ ý tưởng bài học luân lý, hoặc là nằm trong kỹ thuật sư phạm; nhưng không phải chỉ có thế mà thôi. Đúng ra, Đức Giêsu sử dụng các dụ ngôn không phải là để ru ngủ các thính giả cho bằng để khiêu khích họ. Lúc đầu thì Người kể nhiều dụ ngôn có vẻ ngược đời, khiến cho người nghe phải đặt dấu hỏi; nhưng dần dần Người thêm những dụ ngôn nghe mà lộn ruột, cho nên các đối thủ đã phản ứng bằng cách thủ tiêu Người. Chúng ta thử lấy vài ví dụ. Khi bị trách là đã để cho một phụ nữ trắc nết đụng đến mình, Đức Giêsu đã kể cho ông Simon một dụ ngôn, với những lời rào đón như sau: “Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông… Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ 500 quan tiền, một người nợ 50. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ hơn?.. Ông thấy người phụ nữ này không?” (Lc 7,36-50). Dụ ngôn về con chiên lạc cũng bắt đầu bằng cách đặt câu hỏi: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?” (Lc 15,4). Phản ứng dữ dội hơn cả là câu hỏi mà Người đặt ra sau khi thuật dụ ngôn (ẩn dụ) những tá điền sát nhân: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?”. Mt 21,45 ghi nhận như sau: Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisee hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người nhưng lại sợ đám đông, vì đám đông cho Người là một Ngôn sứ.

Khi thuật lại các dụ ngôn, Đức Giêsu muốn cho thính giả cảm thấy bị lôi cuốn vào cuộc; họ phải bày tỏ thái độ. Lý do là vì Đức Giêsu đồng hóa mình với nội dung của các dụ ngôn. Nước Thiên Chúa được mặc khải qua các dụ ngôn.

B. Nội dung

Trong những năm gần đây, khi nghiên cứu các dụ ngôn, nhiều tác giả đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không kể các dụ ngôn để mua vui tiêu khiển nhưng là nhằm để trình bày đạo lý về Nước Thiên Chúa đã đến và đòi hỏi con người phải bày tỏ thái độ. Trước khi là một bài học luân lý, các dụ ngôn mặc khải khuôn mặt của Thiên Chúa và đường lối cứu độ của Người được biểu lộ nơi Đức Giêsu.

Có lẽ điều gây phản ứng mạnh hơn cả nơi các thính giả của Đức Giêsu là tính cách nghịch lý của các dụ ngôn. Dĩ nhiên, không phải tất cả các dụ ngôn đều nghịch lý, bởi vì nếu cứ kể toàn những chuyện phi lý thì đâu có ai còn muốn nghe nữa? Nhưng đôi lúc Đức Giêsu thuật vài câu chuyện ngược đời, như muốn cho thấy là đường lối của Thiên Chúa thật khôn dò khó hiểu! Đúng ra, vấn đề khó hiểu ở đây không liên quan tới bản thể cao siêu của Thiên Chúa cho bằng liên quan tới tình thương bao la của Người. Chúng ta hãy lấy hai thí dụ điển hình nơi dụ ngôn của người thợ làm vườn nho và dụ ngôn về đứa con phung phí.

Dụ ngôn thứ nhất được ghi lại ở Mt 20,1-16 như thế này:

Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ thứ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”. Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”. Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người làm trước nhất, họ tưởng sẽ lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi, là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”.

Dĩ nhiên dụ ngôn này có thể giải thích theo nhiều chiều hướng khác nhau, kể cả theo chiều hướng ẩn dụ (những người được gọi vào những giờ khác nhau, từ sáng sớm cho tới chiều tà, tượng trưng cho những lứa tuổi khác nhau trong cuộc đời: lúc thanh xuân hay khi bạc đầu!). Dù hiểu thế nào chăng nữa, khi vừa nghe dụ ngôn ta nhận thấy có ít là hai điểm nghịch lý: 1) Ông chủ không biết xài tiền: tại sao mà ông lại dại dột trả tiền công nhật cho những người mới làm có một giờ đồng hồ? 2) Ông chủ thiếu tế nhị. Cho dù ông muốn tỏ ra rộng lượng đi nữa, thì tại sao không trả công cho những người làm trước hết để cho họ ra về đi đã, rồi thong thả sẽ trả tiền cho những người tới sau; như thế sẽ tránh được bao nhiêu xích mích! Thế nhưng, xem ra đó là dụng ý của dụ ngôn. Các thính giả ra như bị liệt vào hạng các người làm công sáng sớm và đáng được nghe những lời này: “Bạn đâm ra ghen tức vì thấy tôi tốt bụng hay sao? Chẳng lẽ tôi không có quyền định đoạt về tài sản của tôi hay sao?”. Thực vậy, đa số các thính giả của Đức Giêsu vốn tưởng rằng họ chiếm chỗ ưu tiên trong Nước Thiên Chúa bởi vì họ đã tuân giữ luật nghiêm túc; ai ngờ họ lại được phần thưởng ít hơn!

Dụ ngôn thứ hai được Luca ghi lại ở chương 15 (câu 11-31) như thế này:

Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muông heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội vói Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. – Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.

Xưa nay dụ ngôn này được đặt tên là “về đứa con phung phí, hay đứa con hoang đàng”, bởi vì coi nó như là nhân vật chính. Dụ ngôn được sử dụng để khuyến khích người tội lỗi hãy ăn năn trở về nhà cha, tin tưởng vào lòng khoan dung của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ngày nay các học giả cho rằng người con thứ chỉ đóng một vai rất phụ thuộc trong dụ ngôn này. Nhân vật chính là người cha. Dụ ngôn muốn cho thấy tính cách nghịch lý trong lối cư xử của ông ta. Lẽ ra ông không nên chia hết tài sản cho đứa con thứ như vậy! Lẽ ra nếu nó trở về, thì phải trách mắng sửa bảo nó! Lẽ ra ông không nên làm tiệc như vậy, vừa làm hư đứa con thứ vừa làm nản chí người con trưởng! Thế nhưng hình như Đức Giêsu ngầm hiểu rằng đa số các thính giả đã tự đồng hóa với đứa con trưởng để trách móc cha mình. Nhưng mặc kệ họ, Đức Giêsu muốn cho họ thấy rằng Thiên Chúa không lập luận như họ. Trong chương 15 của Tin Mừng Luca, cả ba dụ ngôn đều nói tới nỗi vui mừng của Thiên Chúa vì thấy tội nhân trở về: “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối” (15,7). “Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (15,10). “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15,32).

Cả hai dụ ngôn vừa trưng dẫn đều cho thấy rằng cách đối xử của Thiên Chúa không giống như đường lối mà con người quen gán cho Người. Tình thương của Người thật khôn dò. Dụ ngôn về người Pharisee và người thâu thuế lên đền thờ cầu nguyện cũng mang tính cách nghịch lý tương tự. Người Pharisee tuân giữ luật lệ rất nghiêm túc, đối lại với người thâu thuế tội lỗi đầy mình. Ấy thế mà người thu thuế ra về lại trở nên công chính!

Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn để giải thích mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa cũng như để giáo huấn về luân lý (chẳng hạn như dụ ngôn về người Samari nhân hậu, hay dụ ngôn về tên mắc nợ không biết thương xót). Chúng ta sẽ bàn tới giáo huấn luân lý của Đức Giêsu ở mục thứ ba. Ở đây, thiết tưởng nên trưng dẫn một câu trả lời của Đức Giêsu về lý do sử dụng dụ ngôn khi giảng dạy, được tất cả Tin Mừng Nhất Lãm còn ghi lại. Khi còn một mình Đức Giêsu, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn. Người nói với các ông:”Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ” (Mc 4,10-12 // Mt 13,10-15; Lc 8,9-10).

Phải thú nhận rằng, câu trả lời của Đức Giêsu không dễ hiểu, và đã làm hao tốn rất nhiều giấy mực của các nhà chú giải. Dù sao thì câu trả lời nhằm đáp lại một thắc mắc của các môn đệ. Chính các môn đệ cũng không hiểu ý nghĩa của các dụ ngôn, và họ đã đến xin Thầy giảng nghĩa cho rõ hơn (xc. Mc 4,13; 7,17). Điều này lại càng chứng tỏ rằng các dụ ngôn không phải luôn luôn là những điển tích hoặc thí dụ dễ hiểu! Và cho dù có hiểu được ý nghĩa của từ ngữ của dụ ngôn đi nữa, việc chấp nhận giáo huấn của nó còn vấp phải nhiều trở ngại khác. Như chúng ta sẽ thấy, tuy Đức Giêsu trình bày Thiên Chúa dưới khuôn mặt của người cha nhân hậu, nhưng việc nhận ra được khuôn mặt đó đòi hỏi con người phải thay đổi thái độ, tức là: cần phải biết cư xử rộng lượng cũng giống như Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nêu gương trước tiên. Chính Người là một dụ ngôn sống động về Thiên Chúa.

***

MỤC 2

NHỮNG CUỘC TIẾP XÚC CỦA ĐỨC GIÊSU

 

Trong khi thi hành sứ vụ giảng dạy, Đức Giêsu thường hay sử dụng hình thức dụ ngôn. Trên đây chúng ta đã thấy đôi khi Đức Giêsu thuật lại những câu chuyện ngược đời nhằm cho thấy đường lối của Thiên Chúa không giống như lý luận của con người. Cần phải nói thêm rằng các dụ ngôn không được thuật lại trong khung cảnh của một lớp học hay là ở trong thánh đường, nhưng là trong những hoàn cảnh khá căng thẳng. Đức Giêsu dùng những dụ ngôn ấy để giải thích một thái độ gây chướng tai gai mắt cho nhiều người. Như vậy có thể nói được rằng trước khi dụ ngôn trở thành một câu chuyện thì nó đã là một hành động cụ thể. Nói khác đi, Đức Giêsu là một dụ ngôn sống động của Thiên Chúa. Ba dụ ngôn về con chiên bị mất, đồng bạc bị mất, và đứa con bị mất đã được Luca dồn lại trong chương 15, trong bối cảnh của một cuộc tranh luận kể ở đầu chương. “Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần mà nghe Người. Còn những người thuộc phái Pharisee và các Kinh sư thì lẩm bẩm: Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này” (Lc 15,1-3). Trước đó, ở chương 7 Luca cũng gắn một dụ ngôn về lòng biết ơn của hai người mắc nợ để giải thích lý do vì sao Người đã để cho một phụ nữ trắc nết ôm chân. Matthew 21,28-30 kể lại dụ ngôn về hai người con để giải thích vì sao Đức Giêsu quyến rũ được những người thu thuế và những cô gái điếm.

I. BẠN BÈ VỚI PHƯỜNG TRẮC NẾT

Chúng ta quen hình dung Đức Giêsu là người kết hợp thân mật với Thiên Chúa; Người đã trải qua những đêm trường không ngủ để cầu nguyện. Quả đúng như vậy: Tin Mừng nói rất nhiều đến những buổi cầu nguyện của Đức Giêsu (xc. Mc 1,35; 6,46; Lc 5,16; 11,1). Tuy nhiên, bên cạnh những phút giây sống thân mật với Thiên Chúa, Đức Giêsu đã dành khá nhiều thời giờ để lui tới những phường mà lẽ ra người đứng đắn không nên đặt chân tới! Nếp sống của Người đã gây ra nhiều tai tiếng. Các thánh sử không giấu diếm điều đó, bởi vì họ lặp đi lặp lại nhiều lần các lời đồn thổi không tốt đẹp về Đức Giêsu. Mc 2,15-16 kể như sau: Người đến dùng bữa tại nhà ông Lêvi. Nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Đức Giêsu và các môn đệ, vì họ đông đảo và đã đi theo Người. Những Kinh sư thuộc nhóm Pharisee thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế thì nói với các môn đệ của Người: “Sao! Ông ta ăn nhậu với bọn thu thuế và quân tội lỗi và bọn thu thuế” (xc. Mt 9,10-11). Tiếng đồn này đã tới tai Đức Giêsu khiến Người chép miệng: “Ông Gioan đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con người đến, cũng ăn cũng uống như ai thì tập hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Mt 11,19). Có lẽ vì thường hay la cà vào những khu vực tai tiếng cho nên Người bị khinh ra mặt, theo như các người Pharisee đã phê bình: Trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pharisee, có ai tin ông ấy đâu? Chỉ có bọn dân đen, hạng không biết Lề luật mới bị mê hoặc thôi (Ga 7,48-49).

Qua các lời đồn đại, đàm tiếu vừa trưng dẫn, chúng ta thấy Đức Giêsu thường lui tới các người tội lỗi, hạng thu thuế, các gái điếm, bọn dân đen, quân Samari vô đạo. Họ là hạng người như thế nào? Tại sao Đức Giêsu chơi thân với họ?

1. Nhãn hiệu “người tội lỗi” hơi mông lung, nhưng thừơng được đồng hóa cách cụ thể với hạng thu thuế. Thu thuế là một nghề nghiệp trong xã hội; nhưng vào thời ấy, nghề thu thuế tượng trưng cho bọn phản quốc, đi làm tay sai cho chính quyền đô hộ. Thêm vào cái tội chính trị lại còn cái tội luân lý nữa. Không hiểu tư cách của các cấp chỉ huy ngành thuế vụ như thế nào, chứ các nhân viên địa phương mà người dân phải tiếp xúc thì chẳng có tình nghĩa gì cả! Họ mang tiếng là hay bóc lột, tham nhũng. Dù sao thì dưới con mắt của nhóm Pharisee,[7] việc chung đụng với ngoại bang đã đủ cho họ ra ô uế rồi! Để giải thích tại sao mình lại đi lại với hạng người bất lương như vậy, Đức Giêsu trả lời: “Người mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”. Một lần khác, khi vào trọ tại nhà một người thu thuế tên là Dakêu, Người tuyên bố rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,9). Điều trớ trêu hơn nữa là qua dụ ngôn về người Pharisee và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện (Lc 18,9-14), Đức Giêsu như nhắn khéo với người Pharisee rằng đừng vội tưởng rằng chỉ có ta đây là kẻ công chính đâu: Thiên Chúa chấp nhận thái độ khiêm tốn của các người thu thuế hơn là thái độ kiêu căng của họ.

2. Một lớp người tội lỗi điển hình nữa là các cô gái điếm. Hạng người này cũng xuất hiện trong cuộc đời của Đức Giêsu. Một lần đang dùng bữa tại nhà của một người Pharisee tên là ông Simon, thì có một cô tới ôm chân Đức Giêsu mà khóc, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên. Chủ nhà liền nghĩ bụng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi”. Để đáp lại, Đức Giêsu đã kể một dụ ngôn về hai con nợ. “Một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”. Dĩ nhiên là người đã được tha nhiều hơn. Trên thực tế, thì tội của chị này nhiều, nhưng chị đã được tha vì đã yêu mến nhiều. Đức Giêsu muốn đem lại ơn tha thứ và bình an cho chị. Mặt khác, có lẽ Người cũng muốn nói với ông Simon rằng lòng mến của ông còn ít lắm, bởi vì ông chưa cảm nhận được lòng khoan nhân tha thứ của Thiên Chúa (Lc 7,36-50)! Một lần khác, Đức Giêsu buộc phải bày tỏ thái độ là khi người ta dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật thì chị ta phải bị ném đá, và họ muốn biết ý kiến của Người. Thoạt tiên Người không nói gì hết, nhưng vì cứ bị hối thúc nên Người hỏi lại: “Ai thấy mình vô tội thì lấy đá ném trước đi?”. Và chẳng ai có gan làm chuyện đó cả! Đã có nhiều ý kiến bình luận về thái độ của Đức Giêsu. Có người muốn tìm thấy thái độ của Đức Giêsu nơi những câu hỏi mà Người đặt ra cho đám đông và cho người phụ nữ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ lấy đá mà ném đi… Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. Như vậy xem ra Đức Giêsu ngụ ý trách móc thái độ giả hình của nhiều người tự đặt mình làm đại diện cho công lý, thứ công lý một chiều. Tại sao chị ta bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà chỉ có chị bị lên án? Có ai phạm tội ngoại tình một mình đâu? Thế còn tên đồng phạm đâu rồi? Ý kiến khác thì nhấn mạnh tới lời nói của Đức Giêsu với chị ta tiếp theo đó: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Câu nói này ra như muốn nêu bật thái độ của Đức Giêsu là khoan nhân từ bi chứ không phải là nghiêm khắc. Có lẽ cả hai ý kiến đều có thể chấp nhận được. Dù theo ý kiến nào, Đức Giêsu cũng đòi các thính giả phải xét lại quan điểm của mình, và đừng vội coi ý mình là ý Chúa. Nên biết là quang cảnh này được ghi lại ở Gioan 8,2-11, nhưng đa số các nhà chú giải cho rằng có lẽ nguồn gốc thuộc về Luca.

3. Hạng người thứ ba đã gây tai tiếng cho Đức Giêsu là dân Samari và dân ngoại. Việc tiếp xúc với dân ngoại bị coi là ô uế không những vào thời của Đức Giêsu mà kể cả giữa lòng Hội Thánh nguyên thủy. Ông Phêrô đã bị cộng đoàn khiển trách vì đã đặt chân vào nhà của dân ngoại, khiến cho ông phải cực lực thanh minh, như ta đọc thấy ở Tông Đồ công vụ (11,2) và thư gửi Galat (2,11-14). Nhóm Pharisee quen tự hào là hơn dân ngoại bởi vì dân ngoại u mê không biết luật Chúa nên đâm ra thờ lạy ngẫu tượng và phạm biết bao tội quái gở.[8] Nhưng quân Samari còn tệ hơn dân ngoại nhiều, bởi vì họ pha phôi giữa việc thờ Chúa Giavê với các thần ngoại khác. Thế nhưng Đức Giêsu thì đã hơn một lần ca ngợi lòng đạo đức của dân Samari. Người đã kể lại dụ ngôn về người Samari nhân hậu vì đã ý thức được lòng yêu thương tha nhân, hơn là các thầy tư tế và thầy lê-vi (Lc 10,29-37). Trong số 10 người phong hủi được chữa lành, thì chỉ một người trở lại tôn vinh Thiên Chúa, và ông ta là một người Samari (Lc 17,16).

Cần nhấn mạnh một điểm là Đức Giêsu không phải chỉ năng lui tới các người thu thuế tội lỗi và các người ngoại mà thôi; Người lại còn vào nhà họ và ăn uống với họ. Cũng như tại nhiều dân tộc khác, người ta không chỉ nhìn chuyện ăn uống dưới khía cạnh thuần túy dinh dưỡng, nhưng còn là dấu hiệu của việc chia sẻ cảnh ngộ, khi vui cũng như lúc buồn. Khi ngồi bàn với các người thu thuế tội lỗi, Đức Giêsu cũng chấp nhận để cho thiên hạ xếp mình đồng hạng với họ. Về phần mình, Đức Giêsu muốn mang cho họ một niềm vui vô bờ bến, đó là đang khi những nhà lãnh đạo Do Thái loại bỏ họ ra bên lề, thì Người nói cho họ biết là Thiên Chúa đã mở cửa Nước Trời cho họ, Thiên Chúa mời họ đến chung vui bữa tiệc trong Nước Trời. Sau khi đã thuật lại dụ ngôn về hai người con, Đức Giêsu không ngại nói thẳng với thượng tế và kỳ mục như thế này: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Trời trước các ông” (Mt 21,31). Thái độ của Đức Giêsu đối với dân ngoại cũng mang một động lực tương tự. Người muốn nói cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ, và mời gọi họ vào hưởng hạnh phúc trên trời. Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn cảnh cáo dân Do Thái rằng tuy Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với họ, nghĩa là đã gửi thiệp mời họ đến dự tiệc, nhưng nếu họ không trả lời thì họ sẽ bị loại. Dụ ngôn về tiệc cưới muốn nói lên điều ấy:

Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn”. Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: “Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu”. Người khác nói: “Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu”. Người khác nói: “Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được”. Đầy tớ trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng: “Mau ra nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây”. Đầy tớ nói: “Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ”. Ông chủ bảo người đầy tớ: “Ra các nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ giậu, ép người ta vào đầy nhà cho ta. Tôi nói cho anh biết: những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi”. (Lc 14,16-24).

Và như sợ các thính giả không hiểu hết ý, Đức Giêsu nói thẳng không chút úp mở với người Do Thái rằng: “Các ông sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy tổ phụ Abraham, Isaac và Giacob cùng tất cả các Ngôn sứ được ở trong nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13,28-29).

II. TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO

Đức Giêsu làm thân ăn uống với hạng người tội lỗi, bọn thu thuế, các cô điếm, dân ngoại (nghĩa là các thành phần đã bị giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái gạt ra khỏi vòng cứu rỗi), tỏ cho biết là họ được mời vào tham dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa. Đối với họ, quả thực là một tin vui khôn tả! Đức Giêsu cảm thấy sứ vụ của mình là mang Tin vui đến cho đời. Các Kitô hữu tiên khởi đã ý thức điều đó, bởi vì họ đã đặt tên cho tác phẩm viết về Người là “Tin Mừng”. Như đã có lần giải thích, tiếng “Tin Mừng” dịch từ Hy Lạp “Euangelion” có nghĩa là: tin vui, tin mừng, tin lành. Marco đã mở đầu tác phẩm thế này: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” (1,1). Ở vài hàng tiếp đó, thánh sử thuật lại việc Đức Giêsu khai mạc sứ vụ như sau: “Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilee rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (1,15). Tin Mừng đó như thế nào? Tại sao gọi là Tin Mừng? Luca đã giải thích như thế này.

Đức Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như vẫn quen làm trong ngày Sabath, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách Ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần khí Chúa ngự trên tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Đức Giêsu cuộn sách lại… bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh quý vị vừa nghe” (Lc 4,16-21).

Theo thánh sử Luca, Tin Mừng là một từ ngữ chuyên môn của Thánh Kinh (đặc biệt là Isaia), với đoạn văn vừa trích dẫn (Is 61,1-2). Tin Mừng ám chỉ sự thực hiện niềm mong đợi Thiên Chúa xuất hiện để thiết lập triều đại của công lý, khi dân nghèo được giải thoát khỏi cảnh lầm than, khi bao kẻ tù tội oan ức được trả tự do, và khi các thứ tai ương biến khỏi mặt đất. Đức Giêsu loan báo rằng thời điểm đó đã đến rồi, thời mà Tin Mừng được dành ưu tiên cho kẻ nghèo hèn. Chúng ta sẽ tìm hiểu đề tài “những người nghèo” (đối tượng của Tin Mừng Nước Thiên Chúa) khi bàn về những yêu sách của Nước Thiên Chúa; ở đây chúng ta hãy chú ý tới vài hậu quả của việc công bố Tin Mừng ấy.

A. Những việc chữa bệnh và trừ quỷ

Trước đây, chúng ta đã thấy Đức Giêsu sử dụng dụ ngôn, thuật lại những câu chuyện ngược đời để cho thấy rằng tình thương của Thiên Chúa không tuân theo những định luật mà con người áp đặt cho Người. Đức Giêsu đã diễn tả chân lý ấy bằng những hành động cụ thể, khi Người không ngại chấp nhận những tai tiếng không tốt để mang Tin Mừng cứu độ cho những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ thuộc vào hạng “nghèo hèn” xét dưới khía cạnh tôn giáo. Cũng trong chiều hướng ấy, trong thời gian thi hành sứ vụ, Đức Giêsu thường hay gặp gỡ một lớp người khác: những người bị bệnh tật và ma quỷ hành hạ. Người đến với họ để giải thoát họ. Những công việc chữa bệnh và trừ quỷ chiếm khá nhiều thời giờ trong sinh hoạt của Đức Giêsu. Ở Mc 1,21-45, chúng ta có thể nhận ra thời khóa biểu của một ngày hoạt động: rao giảng tại hội đường (câu 21-22), kèm theo việc trừ quỷ và chữa bệnh (câu 31).

Chiều đến, khi mặt trời lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ… Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa:”Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Rồi Người đi khắp miền Galilee, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ (câu 32-39).

Việc chữa bệnh và trừ quỷ được coi như là đặc trưng của Nước Thiên Chúa đã đến. Khi ông Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu xem Người có phải là Đấng Messiah hay không, thì Người đã trả lời như sau: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,2-4; Lc 7,18-23). Đây là một lối trả lời gián tiếp, bởi vì Đức Giêsu đang trưng dẫn những lời của Isaia nói về những hiện tượng sẽ xảy tới trong thời cánh chung (29,18; 35,5-6), và nay đã ứng nghiệm qua các hành động mà Người đang làm. Chúng tôi đã có lần trưng dẫn câu trả lời của Đức Giêsu cho người Pharisee: “Nếu tôi dựa vào Thần khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28; Lc 11,20).

Thoạt tiên xem ra câu chuyện đơn giản như thế thôi. Thế nhưng từ 20 thế kỷ qua, đã có bao nhiêu vấn nạn được đặt lên chung quanh các công việc chữa bệnh và trừ quỷ của Đức Giêsu. Các người đương thời và văn chương Do Thái đã hơn một lần cho Người là ông phù thủy (Mt 12,24). Vấn nạn nữa liên quan tới lịch sử tính của các công việc đó: Đức Giêsu đã chữa được bao nhiêu người bệnh? Phải chăng hồi đó, ở Palestin không còn bệnh tật gì nữa bởi vì đã được Người chữa lành hết rồi? Người Kitô hữu cũng có lý do để đặt câu hỏi: Đức Giêsu chữa bệnh và trừ quỷ để làm gì vậy?

Thần học cổ truyền đã gộp chung tất cả các hành đông vừa rồi dưới một từ ngữ là “phép lạ” (miraculum). Phép lạ được hiểu như là một hiện tượng xảy ra ngoài định luật tự nhiên, được Thiên Chúa sử dụng để can thiệp thi ân. Giáo luật đã ấn định rõ ràng các yếu tố để kiểm chứng một phép lạ, bởi vì đó là một điều kiện cần thiết trong thủ tục phong thánh. Tuy nhiên, nguy cơ có thể xảy ra là chúng ta sẽ hiểu lệch lạc sứ vụ của Đức Giêsu khi chúng ta áp dụng các phạm trù cận đại để phân tích các việc xảy ra cách đây 20 thế kỷ. Giả như chúng ta lôi được các bệnh nhân được Đức Giêsu chữa lành vào các trung tâm y khoa cận đại để khám nghiệm, thì có lẽ nhiều trường hợp sẽ bị gạt bỏ bởi vì không hội đủ điều kiện do giáo luật quy định! Hơn thế nữa, đã có những tác giả cho rằng các phép lạ mà Tin Mừng thuật lại chỉ là huyền thoại.[9] Thiết tưởng các tín hữu cũng có lỗi phần nào trong vấn đề này, bởi vì họ thường nhìn các phép lạ theo nhãn quan ảo thuật, coi như Đức Giêsu có tài biến hóa thần thông. Các Tin Mừng ngụy thư chứa đựng đầy những chuyện như vậy: ngay hồi còn nhỏ, khi đi chơi với chúng bạn, cậu Giêsu đã dùng tài ảo thuật, có lúc thì lấy đất sét nặn chim rồi hà hơi cho nó bay, có lúc thì phạt mấy đứa bạn chơi xấu phải chết tươi luôn!

Nói chung, việc tìm hiểu ý nghĩa của các phép lạ trong Tin Mừng gặp hai trở ngại lớn: thứ nhất, về não trạng; thứ hai, về văn bản.

– 1) Xét về não trạng, người dân Palestin thời đó có quan niệm khác chúng ta về nguồn gốc các tai ương bệnh tật. Họ dễ gắn liền các thứ đó với hình phạt do tội lỗi gây ra, hoặc là do ác thần nào quấy nhiễu con người. Đàng khác, điều kiện y khoa đâu đã tiến bộ như thời đại văn minh ngày nay, cho nên họ chỉ có thể trông mong ơn Trời cứu chữa chứ sức người hoàn toàn bất lực!

– 2) Khó khăn thứ hai ở chỗ các tác giả Tin Mừng không thuật lại các việc chữa bệnh theo ngôn ngữ chuyên khoa của y học, cũng chẳng phải là ngôn ngữ của ký giả nhà báo! Các việc chữa bệnh đã được nhìn theo lăng kính của Đức Giêsu Kitô phục sinh, sau khi đã hoàn tất kế hoạch cứu độ. Tất cả các hoạt động của Đức Giêsu đều mang giá trị cứu độ. Chính vì thế, nếu ai đeo cặp kính của y sĩ hay của ký giả thì sẽ thất vọng khi đọc các trình thuật của Tin Mừng về các việc chữa bệnh của Đức Giêsu.

Thực vậy, có một số phép lạ được tác giả Tin Mừng ghi lại trong một khung cảnh hộ giáo, huấn giáo, hay tuyên xưng đức tin. Thí dụ như phép lạ chữa lành người bại liệt (Mc 2,1-12) nhằm cho thấy rằng Đức Giêsu có quyền tha tội; hoặc như phép lạ chữa người bị bại tay vào một ngày Sabath muốn cho thấy rằng Người làm chủ cả ngày Sabath (Mc 2,23-3,5). Phép lạ đi trên mặt nước (Mc 6,50) được mô tả với ngôn ngữ tương tự như biến cố Thiên Chúa mặc khải cho ông Moses (xc. Xh 3,14).[10] Người ta cũng nhận thấy rằng con số các phép lạ giảm dần từ tác phẩm của Marco (các trình thuật về phép lạ chiếm tới 1/3 tác phẩm: 209 câu trong số 666 câu), cho đến tác phẩm của Gioan (chỉ còn giữ lại 7 phép lạ, và không hề nhắc tới các việc trừ tà). Tầm quan trọng của các phép lạ trong sứ vụ của Đức Giêsu xem ra cũng được đánh giá cách khác nhau giữa sách Tông Đồ Công Vụ và thánh Phaolô. Theo sách Tông Đồ Công Vụ 10,38-39, các phép lạ biểu lộ quyền năng của Thánh Thần tác động nơi Đức Giêsu: Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Đức Giêsu Nazareth. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người (xc. Cv 2,22). Còn thánh Phaolô thì không biết chi các phép lạ ấy; đối với Phaolô, ân huệ và quyền năng của Thiên Chúa được tỏ ra qua cây thập giá.

Từ những nhận xét ấy, các nhà chú giải Thánh Kinh và các nhà thần học đã khuyên chúng ta hãy thận trọng khi nghiên cứu các phép lạ mà Tin Mừng đã thuật lại. Chúng ta đừng bao giờ coi chúng như là cơ hội để Đức Giêsu biểu diễn quyền biến ảo thuật. Vua Herod đã thất bại vì đã muốn Người làm một phép lạ coi chơi, nhưng Người không đáp (Lc 23,8-9). Khi bị treo trên thập giá, người ta thách thức Người hãy tụt xuống đi thì họ sẽ tin, nhưng Người cũng chẳng đáp gì (Mc 15,32). Matthew và Luca đã cho biết rằng cơn cám dỗ nghiêm trọng nhất mà Đức Giêsu phải đương đầu ngay từ khi bắt đầu sứ vụ là muốn làm phép lạ để biểu diễn (Mt 4,1-11; Lc 4,1-13).

Tóm lại, chúng ta gặp phải một điểm xem ra nghịch lý: một đàng Đức Giêsu đã làm phép lạ (chữa bệnh, trừ qủy) để chứng tỏ Nước Thiên Chúa đã đến; đàng khác, có lúc Người đã khước từ không chịu làm phép lạ, bởi vì xem ra chúng chẳng có giá trị hết. Thực ra thì không có gì mâu thuẫn trầm trọng đâu; điều cần thiết là phải hiểu rõ ý định chính xác của Đức Giêsu trong việc chữa bệnh và trừ quỷ.

B. Ý nghĩa của các phép lạ

Sở dĩ nhiều lần chúng ta có quan niệm sai lầm về phép lạ là vì chúng ta đã sử dụng từ ngữ không chỉnh. Danh từ “phép lạ” được dùng để dịch danh từ miraculum trong tiếng la-tinh (các danh từ miracle trong Pháp ngữ và Anh ngữ đều do cùng một gốc đó). Tiếng “miraculum” gợi lên ý tưởng của cái gì lạ thường, gây ra sự bỡ ngỡ, trầm trồ ngạc nhiên (admirare). Do đó xem ra phép lạ chỉ nhắm tới việc trổ tài cho thiên hạ phải phục. Thế nhưng Tin Mừng lại không gọi các việc chữa bệnh của Đức Giêsu là “phép lạ” (miraculum), mà là quyền năng (năng lực, sức mạnh: dynameis, xc. Mc 5,30; 6,2.5). Thánh Gioan thì gọi đó là: công việc (việc làm: ergon, xc. Ga 10,32.37), dấu chỉ (dấu hiệu: semeia, xc. Ga 2,11; 11,4). Các từ ngữ này hàm ngụ ý tưởng là các phép lạ cần được quan niệm như là dấu hiệu của sức mạnh Thiên Chúa. Thiên Chúa thiết lập triều đại qua những công việc giải phóng con người. Chúng ta có thể vạch ra ba ý nghĩa chính của các công việc ấy.

– 1) Ý nghĩa đầu tiên của các phép lạ là chúng bày tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Người mủi lòng trước cảnh khổ đau của con người, và muốn giải thoát họ. Các tác giả Tin Mừng không quên ghi chú tâm tình của Đức Giêsu khi làm phép lạ. Người “chạnh lòng thương” khi thấy đám đông như bầy chiên không người chăn dắt, nên Người đã dạy dỗ họ và làm phép lạ bánh hóa nhiều để cho họ ăn (Mc 6,34; 8,2). Người “chạnh lòng thương” khi chữa hai người mù tại Giêricô (Mt 20,24). Người “chạnh lòng thương” khi thấy đám tang của đứa con trai duy nhất của bà góa, nên đã cho nó sống lại (Lc 7,13). Biết như vậy, cho nên không thiếu lần các bệnh nhân đã đến van xin Người hãy “thương xót” và làm phúc thi ân cho họ (Lc 17,13; Mt 8,4; Mc 9,22). Nên ghi nhận rằng Tin Mừng không ghi phép lạ nào mang tính cách trừng phạt, như đã xảy ra dưới thời Ngôn sứ Elia và Elisêu (1V 17,1; 2V 1,9-12) hoặc ngay cả vào thời thánh Phêrô và Phaolô (Cv 5,1-11; 13,4). Đức Giêsu đã quở trách hai ông Giacôbê và Gioan khi họ xúi Người khiến lửa trên trời xuống đốt cháy làng dân Samari vì đã không tiếp đón họ (Lc 9,55-56).

– 2) Trong bối cảnh đó, chúng ta có thể vạch thêm ý nghĩa thứ hai của các phép lạ: đó là chúng đánh dấu triều đại của Thiên Chúa. Như đã có lần nói, các từ ngữ “Nước Thiên Chúa, Triều đại của Thiên Chúa, chủ quyền của Thiên Chúa” đều tương đương vói một từ ngữ trong nguyên bản Hy Lạp (Basileia tou Theou). Các Ngôn sứ dùng từ ngữ ấy để ám chỉ thời buổi Thiên Chúa sẽ xuất hiện để cứu thoát dân của Người, tương tự như hồi Xuất hành. Thế nhưng, biến cố Xuất hành chỉ liên hệ tới việc giải phóng chính trị xã hội của dân Do Thái, còn Đức Giêsu thì đã mở rộng nhãn giới hơn. Đây là một cuộc giải phóng toàn diện con người khỏi hết những gì ngăn trở con người không được phát triển tiềm lực của mình. Bệnh tật là một trường hợp điển hình: người mù, người câm điếc, người què, người bại liệt không thể nhìn, nghe, nói, đi lại như bao nhiêu người khác. Người cùi lại còn khổ hơn, bởi vì họ không được tiếp xúc với xã hội. Khi chữa lành các tật bệnh đó, Đức Giêsu giúp cho họ được trở về cuộc sống lành lặn bình thường. Hơn thế nữa, Đức Giêsu cũng dư biết rằng một cơ thể lành mạnh chưa đủ để làm cho con người được hạnh phúc. Sự lành mạnh tâm lý cũng cần thiết nữa. Chúng ta có thể gán các vụ trừ quỷ trong bối cảnh đó.[11] Đức Giêsu đã hơn một lần giải thích ý nghĩa của việc trừ quỷ, đó là nhằm cho thấy rằng Người còn mạnh sức hơn quỷ (Mt 12,25-29; Lc 11,17-22; xc. Lc 10,18). Thế nhưng, nhìn về phía các nạn nhân, thì ta thấy việc trừ quỷ giúp cho họ được phục hồi tâm lý quân bình lành mạnh, không còn phải nơm nớp lo sợ gì nữa. Nói đúng ra, con người phải lo lắng nhiều chuyện lắm, khiến cho họ mất ăn mất ngủ: từ chuyện cơm bánh hằng ngày, cho tới chuyện bang giao xã hội, và nhất là chuyện chết. Dù trên đời này có ai sung sướng đến mấy đi nữa, rồi cũng đến lúc phải ra đi với hai bàn tay trắng, với tương lai thật là mờ mịt ở thế giới bên kia! Việc Đức Giêsu cho vài người chết được sống lại (một chuyện xem ra khó tin) được thánh Gioan giải thích như là dấu chỉ cho thấy rằng Đức Giêsu mang lại cho con người sự giải phóng khỏi tai ương ác ôn nhất, đó là sự chết.[12]

– 3) Mặt khác, chúng ta cũng cần phải lưu ý đến tính cách nghịch lý của các phép lạ. Tuy Đức Giêsu đã làm phép lạ để chứng tỏ rằng triều đại Thiên Chúa đã đến, nhưng điều này không có nghĩa là Người làm phép lạ cách ồ ạt. Thật khó mà tính được con số các phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện trong thời gian thi hành sứ vụ. Các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, ngoài những trình thuật về phép lạ cụ thể[13], đôi khi còn thêm những nhận xét rất tổng quát, chẳng hạn Mt 4,23: Đức Giêsu đi khắp miền Galilee, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi bệnh hoạn tật nguyền của dân. Danh tiếng Người đồn ra khắp xứ Siria. Thiên hạ đem dến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt, và Người đã chữa họ (Mt 4,23-24;xc. 8,16; 11,5, 12,15; 14,34-36; 15,30-31 và song song). Tuy nhiên, thánh Gioan thì rút lại còn có 7 “dấu chỉ” (cộng thêm một phép lạ nữa sau khi Chúa sống lại). Dù sao thì cả Marco lẫn Gioan đều nêu bật mối liên hệ giữa lòng tin và phép lạ (Ý nghĩa thứ ba). Đối với thánh Gioan thì phép lạ dường như nhằm gợi lên lòng tin. Ở chương 10, câu 37-38, chúng ta đọc thấy lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó” (xc. 5,36-37; 10,25). Tuy nhiên, ở nhiều đoạn khác trong Tin Mừng, thì Đức Giêsu đòi phải có lòng tin đã thì mới làm phép lạ được. Chẳng hạn như Mc 2,5 cho biết là người bại liệt được chữa là nhờ có lòng tin. Người cũng nói với một bà bị băng huyết rằng: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5, 34); tiếp đó, bước vào nhà ông Giairô có đứa con gái đã chết , Người khuyên ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36). Ngược lại, tại Nazareth, Đức Giêsu không làm phép lạ bởi vì họ thiếu lòng tin (Mc 6,5-6). Và khi người Pharisee xin một dấu lạ từ trời, thì Người đã “não nuột” khước từ (Mc 8,11). Cần phải thú nhận rằng không dễ gì mà dung hợp những đoạn văn xem ra trái nghịch nhau như vậy. Điểm gay cấn ở tại chỗ: phải hiểu thế nào là “tin” (lòng tin)? Có lúc xem ra “tin” chỉ có nghĩa là “tin tưởng” nơi quyền năng của Đức Giêsu. Do đó người đồng hương của Người và người Pharisee đã bị khước từ vì họ chỉ muốn thử Người chứ thực ra trong bụng thì coi rẻ Người; trong khi đó, bà mẹ người Canaan kiên trì nài nẵng vì tin tưởng nơi lòng từ bi của Người (Mt 15,27-28), hay người phụ nữ bị băng huyết tin tưởng cách hồn nhiên nơi quyền lực của Người thì đã được toại nguyện. Nói chung, lòng tin Đức Giêsu đòi hỏi ở đây là nhận biết rằng Thiên Chúa đang tác động nơi Người, Thiên Chúa muốn thi thố lòng thương xót qua Người. Còn thánh Gioan thì nói tới niềm tin ở cấp độ cao hơn, tức là thâm tín rằng Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, như chính tác giả đã cho thấy ở kết luận tác phẩm của mình:

Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người (Ga 20,30-31).

Thánh Gioan chỉ ghi lại có 7 “dấu lạ” mang tính cách mặc khải tập tính của Đức Giêsu, là ánh sáng, bánh trường sinh, sự sống. Thực ra đó chính là đích điểm mà tất cả các tác giả Tin Mừng muốn dẫn chúng ta đến, tuy mỗi vị áp dụng một kỹ thuật sư phạm khác nhau. Tất cả các phép lạ cần phải dẫn đến đức tin vào thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu. Nếu ai đã đạt tới điểm đó rồi thì phép lạ không cần thiết nữa, như Đức Kitô đã nói với Tông Đồ Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Trái lại, nếu ai không đạt tới điểm đó thì việc chứng kiến các phép lạ sẽ chẳng ích lợi gì. Đức Giêsu đã có lần quở trách các thành đã chứng kiến các phép lạ mà không chịu sám hối: Khốn cho ngươi, hỡi Coradin! Khốn cho ngươi, hỡi Betsaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tyr và Xiđon thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tyr và Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi (Mt 11,21-23). Matthew (7,22-23) còn thêm một lời cảnh cáo nghiêm trọng hơn nữa, đó là: có những người nhận được quyền làm phép lạ nhân danh Đức Kitô nhưng đặc sủng ấy đôi khi chẳng mang lại ích chi cho phần rỗi: Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?”. Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi!”.

***

MỤC 3

GIÁO HUẤN LUÂN LÝ CỦA ĐỨC GIÊSU

 

Chúng ta đã nhận thấy có những điểm nghịch lý trong sứ điệp của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Lắm lần các dụ ngôn mà Người kể có tính cách ngược đời. Lối sống của Người cũng bị mang tai tiếng vì Người hay đi ăn uống với phường tội lỗi và thu thuế. Các phép lạ của Người cũng mang tính cách nghịch lý không kém, bởi vì tuy chúng là dấu hiệu của Nước Thiên Chúa đã đến, nhưng Người không làm phép lạ một cách bừa bãi và thậm chí Người còn khước từ làm phép lạ khi thấy thiếu lòng tin. Hình như Đức Giêsu thích sử dụng những lời nói và hành động nghịch lý như vậy để cho thấy rằng đường lối của Thiên Chúa không giống như các phạm trù mà chúng ta muốn gán cho Người. Đức Giêsu muốn cho thấy Thiên Chúa là người Cha đầy tình thương, đặc biệt là đối với những kẻ lầm đường lạc lối. Sứ điệp ấy quả là một Tin Mừng cho những kẻ nhận biết mình tội lỗi, nhưng lại trở nên duyên cớ bực tức cho những ai xưa nay cố gắng chu toàn luật lệ của Chúa, điển hình là nhóm Pharisee và các Kinh sư! Trên thực tế, Đức Giêsu không phải là kẻ mị dân khi bày tỏ khuôn mặt nhân từ của Thiên Chúa. Sứ điệp về Thiên Chúa của lòng nhân từ đã đặt ra nhiều yêu sách hơn là sứ điệp về Thiên Chúa của lề luật! Giáo huấn của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa chứa đựng rất nhiều yêu sách cam go. Chúng ta hãy lấy một thí dụ cụ thể về chuyện người nghèo. Trong hội đường Nazareth, Đức Giêsu cho biết là Thần khí Chúa đã sai Người đi mang Tin Mừng cho người nghèo (Lc 4,18). Cả Matthew lẫn Luca đều ghi lại lời tuyên bố của Người về mối phúc dành cho người nghèo (Mt 5,3; Lc 6,20). Thật là sướng biết mấy khi được nghe lời tuyên bố đó, nhất là đối với lớp dân nghèo xưa nay vẫn bị xếp vào hạng bạc phước! Thế nhưng đồng thời với việc công bố Tin vui, Đức Giêsu lại rút ra một hệ luận thực tiễn, đó là cần phải trở nên nghèo thì mới có thể vào Nước Thiên Chúa (xc. Mc 10,23; Mt 19,23-26; Lc 18,24-27). Từ một điểm cụ thể vừa trưng dẫn, ta có thể hiểu được lý do vì sao lời loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa kèm theo lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14). Việc sám hối (thay đổi não trạng và nếp sống) là điều kiện để có thể nhận ra được Tin Mừng và được tiếp nhận vào Nước Thiên Chúa. Chính vì thiếu sự sám hối như vậy cho nên các Kinh sư và nhóm Pharisee không nhận ra được Thiên Chúa của lòng lân tuất (Mt 9,13; 12,7). Chính vì thiếu sự sám hối cho nên bao nhiêu người đã bị loại khỏi bàn tiệc Nước Trời (Mt 8,11-12; 11,23).

I. NHỮNG PHẢN ĐỀ

Như vừa nói, việc sám hối bao gồm một sự thay đổi não trạng cũng như nếp sống. Tuy cả hai cần đi đôi với nhau, nhưng xét theo luận lý thì việc thay đổi não trạng phải đi trước. Việc thay đổi não trạng lại càng trở nên khẩn trương hơn nữa, bởi vì giáo huấn của Đức Giêsu chứa đựng nhiều điều nghịch lý, nếu xét theo quan điểm thường tình. Có lẽ đó là chủ ý của Matthew khi trình bày bài giảng Trên núi của Đức Giêsu dưới hình thức phản đề: “Anh em vốn nghe nói như thế này… Còn Thầy, Thầy bảo anh em như thế này”. Chúng ta thử rảo qua một vài phản đề trong giáo huấn đó.

Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị hỏa ngục thiêu đốt (Mt 5,21-22). Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi (Mt 5,27-28). Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa (Mt 5,38-39). Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5,43-48).

Như đã có lần lưu ý, có lẽ Đức Giêsu đã chẳng bao giờ giảng một dài ở trên núi theo hình thức mà ta đọc trong Tin Mừng của thánh Matthew. Bằng cớ là những tư tưởng tương tự đã được thánh Luca lồng trong khung cảnh của bài giảng ở bình nguyên (Lc 6,20-49). Nói cách khác, có lẽ lúc ban đầu Đức Giêsu đã tuyên bố những lời ấy vào những cơ hội khác nhau; về sau các câu đó được thu thập lại theo từng đề tài, và được Matthew và Luca xếp đặt với dụng ý huấn giáo. Viết cho độc giả Do Thái, thánh Matthew trình bày các phản đề đối lại với não trạng của họ lúc đó, nhằm nêu bật tính cách mới mẻ của giao ước mới mà Đức Giêsu đã khai mào. Sự đối chọi như được đặt ra giữa luật cũ và luật mới. Thế còn đối những độc giả không phải là người Do Thái, thì giáo huấn của Đức Giêsu có gì mới lạ hay không? Nếu có, thì nó “mới” ở điểm nào?

Câu hỏi thứ nhất dễ trả lời hơn. Giáo huấn của Đức Giêsu có điều mới lạ. Nhưng sang câu hỏi thứ hai thì các ý kiến bắt đầu chia rẽ. Những kẻ đối lập sẽ đồng hóa sự “mới lạ” với điều “ngược đời, dổm”, hay nói cho gọn hơn: “khùng”! Còn những ai có cảm tình thì cũng không nhất trí.

– Có người cho rằng Đức Giêsu muốn thực hiện một cuộc cách mạng xã hội, khi đề cao yêu thương tha thứ thay vì vũ lực bạo động. Leo Tolstoi (1828-1910), Mahatma Gandhi (1869-1948), Martin Luther King (1929-1968) đã thâm tín điều đó, và họ theo đuổi chính sách bất bạo động để tranh đấu cho công lý. Phải nhận rằng ít người dám tin tưởng có thể thay đổi xã hội bằng chính sách bất bạo động. Tuy vậy, trải qua lịch sử, đã có nhiều nhân vật thay đổi được bộ mặt xã hội nhờ thâm tín vào giáo huấn của Tin Mừng, chẳng hạn về tình yêu đại đồng, về tinh thần phục vụ.

– Có người nhấn mạnh tới cuộc cách mạng nội tâm. Đức Giêsu muốn cho con người sống chân thực với chính mình bằng cách quay về với lòng mình (con tim, tâm hồn). Giá trị của các hành vi được đo lường từ thâm tâm, trước khi phát biểu thành lời nói việc làm. Triết gia Emmanuel Kant đại diện cho khuynh hướng này.

– Có người lại giải thích tính cách ngược đời trong giáo huấn của Đức Giêsu trong bối cảnh cánh chung. Triều đại của Thiên Chúa tương ứng với thời kỳ chót của lịch sử: con người cần phải cư xử dựa theo tiêu chuẩn hoàn thiện của Thiên Chúa (Albert Schweitzer).

Chúng tôi không dám phê bình các quan điểm vừa nói, bởi vì nghĩ rằng ý kiến nào cũng có phần đúng của nó. Dù sao, Đức Giêsu không phải chỉ là một lý thuyết gia về luân lý, theo nghĩa là Người không chủ ý thảo hoạch một học thuyết toàn bộ về luân lý dưới mọi khía cạnh: bản thân, gia đình, xã hội. Mặt khác, giáo huấn của Đức Giêsu không chỉ giới hạn vào những tương quan giữa con người với nhau mà thôi; giáo huấn của Người còn bao hàm cả mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa nữa. Đức Giêsu mang Nước Thiên Chúa đến cho con người, và giúp cho con người được vào Nước của Thiên Chúa.

Nếu ai muốn biết thêm về luân lý của Kitô giáo thì có thể tham khảo Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (Phần thứ hai). Ở đây chúng tôi chỉ muốn dừng lại ở một điểm được coi như là trọng tâm của giáo huấn luân lý, đó là: yêu thương. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi lại lời của Đức Giêsu về nõi cốt của các giới răn.

Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó (Mc 12,29-30; Mt 22,37-39; Lc 10,27).

Thoạt tiên xem ra chẳng có chi mới lạ trong giáo huấn này cả. Đức Giêsu chỉ làm một bản tóm lược “Lề luật và các Ngôn sứ” (Mt 22,40; xc. Đnl 27,15-26; Lv 19,1-18; Ed 18,5-9). Giữa một rừng luật lệ và giới răn, con người dễ bị lạc hướng, không còn biết đâu là đường cái và đâu là đường mòn nữa! Đức Giêsu đã vẽ một bản đồ dẫn đường. Tuy nhiên, khi đọc lại giáo huấn vừa nói trong toàn bộ của Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận thấy Đức Giêsu không những chỉ tóm lược mà còn đổi mới nữa. Có thể nêu bật 3 điểm mới mẻ trong giới răn yêu thương (xc. Ga 13,34: giới răn mới): mở rộng nhãn giới thân cận; yêu thương kẻ thù; lấy Thiên Chúa làm chuẩn.

– 1) Đức Giêsu là nới rộng tầm mức của hạn từ “người thân cận”. Hạn từ này vốn được hiểu là người láng giềng gần gũi với mình, hoặc đồng bào cùng một dân tộc với mình, dân đã được Thiên Chúa tuyển chọn. Đức Giêsu đã nới rộng vòng đai ấy, qua dụ ngôn người Samari nhân hậu. Người Samari vốn bị người Do Thái coi là dân ngoại, và đối xử như kẻ thù. Thế mà chính người Samari đã để lại bài học về việc yêu thương, khi ông ta chẳng có nhìn tới màu da sắc tộc mà chỉ nhìn thấy một con người đang cần được giúp đỡ.

– 2) Điểm mới mẻ thứ hai trong giới răn yêu thương của Đức Giêsu ở chỗ sự tha thứ dành cho kẻ thù. Người nhấn mạnh tới điểm này đến nỗi đã đặt nó vào kinh “Lạy Cha”: Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con (Mt 6,12), và bình luận thêm: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14). Người còn kể một dụ ngôn để làm sáng tỏ điểm này nữa, dụ ngôn về người đầy tớ không biết thương xót, vì vậy mà không được xót thương (Mt 18,23-34).

– 3) Điểm mới mẻ thứ ba là gán cho sự yêu thương một ý nghĩa thần linh. Các tôn giáo khác đã nói tới việc “thương người như thể thương thân”. Nhưng Đức Giêsu thì đòi hỏi hơn nữa: cần phải thương người như Cha trên trời yêu thương họ. Đó là lý do giải thích cho tính cách nghịch lý của giáo huấn của Đức Giêsu. Thực vậy, quan niệm bình thường là yêu kẻ yêu mình và ghét kẻ ghét mình. Chuyện yêu thương người dưng nước lã và nhất là yêu thương kẻ thù[14] là một điều phi lý ngược đời. Sự nghịch lý chỉ có thể vượt qua khi biết nâng cao tiêu chuẩn, nghĩa là nhìn đến tình yêu của Cha trên trời đã cho mưa nắng xuống trên người công chính lẫn kẻ bất lương. “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36). Vì lẽ đó, Đức Giêsu coi việc thực thi yêu thương cũng có giá trị như là việc thờ phượng Thiên Chúa:

+ Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với nguời anh ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình (Mt 5,23).

+ Trong bài giảng về cuộc phán xét, Đức Giêsu cho thấy rằng Chúa kể các việc lành làm cho anh em như là làm cho chính Chúa vậy (Mt 25,31-46).

II. CON NGƯỜI VỚI THIÊN CHÚA

Thiết tưởng chúng ta sẽ đánh giá sai sự nghiệp của Đức Giêsu nếu chúng ta chỉ coi Người như một nhà mô phạm luân lý. Những lời khuyên răn về yêu thương kẻ thù quả thực là đẹp, nhưng rất khó thực hành. Kẻ đối lập sẽ cho rằng đó là tư tưởng ngông cuồng, rởm đời, hơi đâu mà bận tâm! Thế nhưng nói được là những tư tưởng ấy đã đưa Người tới chỗ chết! Người ta giết Người không phải vì muốn loại trừ một tên khùng, nhưng là vì muốn trừng trị một kẻ đã can tội phạm thượng. Tại sao gọi là phạm thượng? Tại vì những giáo huấn của Người không phải chỉ liên hệ tới mối tương quan giữa con người với nhau mà còn liên hệ tới mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa nữa.

Chúng ta đã thấy phần nào điểm táo bạo trong giáo huấn của Đức Giêsu về sự thương yêu. Táo bạo ở chỗ lấy Thiên Chúa làm mẫu mực cho việc thương yêu tha nhân, không phân biệt kẻ lành người dữ. Táo bạo ở chỗ dám coi việc thương yêu tha nhân như là một hành vi thờ phượng Thiên Chúa (xc. Mt 12,7). Và như vậy mặc nhiên là Đức Giêsu đã xét lại toàn bộ mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, điển hình qua việc thờ phượng. Chính ở lãnh vực này Đức Giêsu đã đụng chạm nhiều lần với giới lãnh đạo Do Thái.

Chúng ta dễ hình dung rằng người Do Thái (cũng như bao nhiêu tín đồ sùng đạo khác) sẽ không thể nào tha thứ cho một người dám tự xưng là Thiên Chúa. Tuy nhiên, các nhà chú giải Thánh Kinh hoài nghi không biết có khi nào Đức Giêsu lại dại dột làm chuyện đó hay không. Tin Mừng Nhất Lãm không bao giờ ghi lại lời tuyên bố như vậy cả. Các tước hiệu Kitô, Con Thiên Chúa được đặt trên môi của các môn đệ hay của các người khác (khi họ bày tỏ lòng tin đối với Người), chứ không phải là do Người tự xưng! Nhưng chúng ta tạm gác lại vấn đề căn cước của Đức Giêsu vào một dịp khác (chương 5, mục 2). Bây giờ chúng ta hãy dừng lại ở những lời phát biểu quan điểm của Người về việc thờ phượng Thiên Chúa thì cũng đủ hiểu được vì sao Người bị kết tội là phạm thượng. Tin Mừng thường ghi lại sự đụng độ giữa Đức Giêsu với cấp lãnh đạo tôn giáo Do Thái chung quanh việc giải thích các luật lệ quy định ngày Sabath và sự kiêng khem. Mặt khác, Đức Giêsu cũng đả kích thái độ cầu nguyện của dân ngoại và của nhóm Pharisee. Trước tiên, chúng ta hãy xem cuộc tranh luận về các luật lệ phụng tự.

1. Lề luật phụng tự

Như chúng ta đã biết, trong số 10 giới răn, thì 3 giới răn đầu chi phối các nghĩa vụ của con người đối với Thiên Chúa, còn các giới răn còn lại liên can tới các nghĩa vụ đối với tha nhân. Bằng lời nói và việc làm, Đức Giêsu đã nhiều lần công kích việc tuân giữ ngày Sabath, đối tượng của giới răn thứ ba. Theo Luật Moses (Xh 20,8-11; xc. Đnl 5,12-15), con người phải thánh hóa ngày Sabath bằng cách ngừng làm việc (Shabbat có nghĩa là: ngưng). Thế nhưng, trải qua thời gian, đã có rất nhiều cuộc tranh luận và học thuyết đề ra về thể thức tuân giữ ngày Sabath: việc gì được phép làm, việc gì không được phép làm trong ngày Sabath? Các việc được phép làm thì trong vòng mấy tiếng đồng hồ? Có thể di chuyển bao nhiêu dặm đường trong ngày Sabath?

Đức Giêsu đã công kích việc tuân giữ ngày Sabath một cách máy móc theo ý kiến của các Kinh sư mà bỏ mất ý nghĩa nguyên thủy theo ý định của Thiên Chúa. Thay vì coi đó như là biến cố hân hoan vì được tự do phụng sự Thiên Chúa, các Kinh sư đã biến nó thành một cái ách đè nặng trên con người. Lập trường của Đức Giêsu được bày tỏ qua các việc chữa bệnh trong ngày Sabath (Mc 2,23-28; 3,1-6; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,9; 9,14), dường như muốn nêu bật điểm đó: Người muốn cho con người phục hồi tâm tình thoải mái trong ngày Sabath: “Ngày Sabath được làm cho con người, chứ không phải con người được làm cho ngày Sabath” (Mc 2,27). Đặc biệt là Người không muốn tách rời việc thờ phượng Thiên Chúa khỏi việc thực hành bác ái. Không thể lấy cớ nghỉ việc vì lý do thờ phượng để thoái thác giúp đỡ một nhu cầu cấp bách của tha nhân.

Một tục lệ khác gắn liền với công tác thờ phượng là việc tuân giữ sự thanh tịnh, tránh không được đụng chạm đến những người hay những đồ vật bị liệt vào hạng ô uế. Danh mục các loài ô uế đã được liệt kê trong sách Lêvi 11,1-47; Đnl 14,3-21. Nhưng với dòng thời gian, danh mục cứ tăng dần. Thực ra, vào lúc đầu, việc kiêng lánh các đồ ô uế biểu hiệu cho sự thanh sạch của Dân Thiên Chúa, nhất là khi họ tiến tới gần Đấng cực thánh (Lv 20,7). Tiếc rằng, dần dần người ta đã đánh mất đi ý hướng đó và chỉ còn chú ý tới các chi mục bề ngoài. Đức Giêsu công kích thái độ của những ai chỉ chú trọng tuân giữ sự thanh tịnh bề ngoài mà xao lãng sự thanh tịnh nội tâm (Mc 7,6-7). Người kết án thái độ ấy là giả hình.[15] Người nhấn mạnh tới sự ô uế phát sinh từ lòng dạ con người: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho ô uế.. Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng, Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ô uế (Mc 7,15.20-23).

Đức Giêsu cũng nặng lời với thói tục buôn bán ở bên cạnh đền thờ (Mc 11,15; Ga 2,14-15). Thực ra thì tự nó, việc đó không phải là một chuyện đồi trụy, bởi vì các tín hữu cần phải sắm lễ vật để mang vào dâng tiến trong đền thờ. Tuy nhiên, cảnh ồn ào náo nhiệt đã làm mất vẻ tôn nghiêm của đền thờ, biến nhà cầu nguyện thành hang trộm cướp. Nói cách khác, Người công kích những ai biến chuyện đạo đức thành cơ hội buôn thần bán thánh.[16] Dù sao, những lời của Đức Giêsu chống lại đền thờ còn mang ý nghĩa sâu xa hơn dưới con mắt của các thánh sử (xc. Ga 2,19).[17] Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này khi xét tới lý do xử án Đức Giêsu.

2. Việc cầu nguyện

Những tục lệ vừa trưng dẫn mới chỉ ảnh hưởng cách gián tiếp đến việc thờ phượng. Bây giờ chúng ta hãy đi vào chính việc thờ phượng trực tiếp, biểu lộ qua việc cầu nguyện.

Chúng tôi đã có lần nhắc tới giáo huấn của Đức Giêsu về việc cầu nguyện. Người muốn con người hãy tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha. Kinh “Lạy Cha” biểu lộ phần nào lòng tin tưởng đó, khi chúng ta không ngại mở miệng xin Cha cơm bánh lương thực hằng ngày. Chúng tôi cũng có dịp nhắc tới lời căn dặn của Đức Kitô về việc cần thiết phải tha thứ cho tha nhân nếu chúng ta muốn được Cha tha thứ.

Ở đây, chúng tôi xin ghi nhận hai lời giáo huấn của Đức Giêsu có tính cách phản đề. Một lần Người bài xích lối cầu nguyện của dân ngoại; lần khác Người bài xích lối cầu nguyện của người Pharisee. Cả hai lối cầu nguyện ấy phản ánh hai hình ảnh lệch lạc về khuôn mặt của Thiên Chúa.

– a/ Sự đối chọi thứ nhất được Matthew ghi lại trong bài giảng trên núi:

Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin (Mt 6,7-8).

Có lẽ ở đây Đức Giêsu không đả kích việc đọc kinh dài hơi. Luca còn để lại cho ta lời khuyên của Người hãy kiên trì cầu nguyện, gõ cửa mãi thì cửa sẽ mở (Lc 11,5-10; 18,1-7). Sự đả kích nhằm tới chuyện đọc kinh cách máy móc, có vẻ như đặt tin tưởng vào hiệu năng của các lời bùa chú hơn là tin tưởng vào tình yêu của Cha (xc. Mt 7,21).

– b/ Sự đối chọi thứ hai cũng được ghi lại trong bài giảng trên núi, và còn được diễn tả thành một dụ ngôn ở Luca nữa.

Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thực anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh (Mt 6,5-6).

Có lẽ dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện được Luca thuật lại là một thí dụ điển hình cho thái độ đó. Tuy nhiên, vài nhà chú giải Thánh Kinh còn muốn vạch ra dụng ý thâm sâu hơn cả. Chúng ta hãy nghe dụ ngôn, rồi sau đó sẽ bình luận: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisee, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisee đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,10-14).

Câu kết luận của dụ ngôn hình như chỉ giới hạn vào bài học về thái độ khiêm nhường cần có khi cầu nguyện. Nhưng nếu chỉ có thế mà thôi, thì giáo huấn của Đức Giêsu chẳng có chi độc đáo. Các tâm tình kín đáo, trầm lặng, khiêm tốn đều đã được các nhà chân tu nhắc nhở rồi. Theo các nhà chú giải, dụ ngôn này không chỉ chứa đựng một lời khuyên luân lý mà còn liên can tới đạo lý về ơn cứu rỗi nữa. Người Pharisee tưởng rằng sự cứu rỗi là phần thưởng dành cho các cố gắng làm việc lành phúc đức, ăn chay bố thí; nhưng ông ta đã lầm! Còn người thu thuế không dám khoe khoang công trạng, mà chỉ biết cậy vào lòng nhân hậu của Chúa; và ông đã được hồng ân thương xót. Phải chăng đó mới là ý nghĩa chính của bài dụ ngôn: vừa muốn dạy cho chúng ta cách thức cầu nguyện (tâm tình thống hối khiêm nhường) vừa muốn chấn chỉnh não trạng của chúng ta về Thiên Chúa, một Thiên Chúa của lòng thương xót chứ không phải một Thiên Chúa chủ nhân trả tiền công? (Nếu đó là dụng ý của dụ ngôn thì nó có thể xếp cùng loại với dụ ngôn của người cha nhân hậu, hay dụ ngôn về ông chủ trả tiền công).

Nói như vậy, thì hóa ra Đức Giêsu thuộc hạng mị dân ư? Phải chăng Người khuyên chúng ta đừng tu thân tích đức làm gì cho khổ thân; chỉ cần tín thác vào Cha nhân lành là đủ rồi? Không phải thế! Đức Giêsu đã đặt ra nhiều yêu sách để được vào Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa mang theo nhiều yêu sách, nhưng là yêu sách của tình yêu.

III. NHỮNG YÊU SÁCH CỦA NƯỚC THIÊN CHÚA

Khi giảng về Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn nêu bật một đặc điểm cố hữu là lòng thương xót vô hạn của Cha trên trời. Thiên Chúa thiết lập triều đại qua việc thi thố lòng nhân hậu đối với con người tội lỗi. Tuy nhiên, Tin Mừng của lòng lân tuất cũng đặt ra một số nghĩa vụ cho con người. Kèm theo việc công bố về triều đại Thiên Chúa đã đến là lời kêu gọi hoán cải. Chúng ta đã có dịp nhận thấy rằng xét vì Nước Thiên Chúa được dành cho người nghèo, người hèn mọn, cho nên con người cần phải trở nên nghèo và bé nhỏ thì mới cảm nhận được lòng thương xót của Cha nhân lành. Điển hình là các tội nhân, các người thu thuế dễ đón nhận Tin Mừng của Đức Giêsu hơn các người Pharisee.

Ngoài yêu sách phải cải hoán, thay đổi não trạng trong quan điểm về Thiên Chúa, Đức Giêsu còn nói tới những yêu sách khác nữa để có thể tiếp nhận Nước Thiên Chúa. Thiết tưởng đây là một điểm khó khăn trong việc trình bày bản chất của Nước Thiên Chúa; và sự khó khăn lại càng lớn hơn nữa khi phải mang ra áp dụng những yêu sách vừa nói.

A. Bản chất Nước Thiên Chúa

Chúng tôi có lần lưu ý về sự khó khăn trong việc dịch thuật từ ngữ basileia tou Theou. Khi muốn nhấn mạnh tới tác động của Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử, thì có thể dịch là “Thiên Chúa hiển trị, Thiên Chúa thiết lập chủ quyền”; còn khi muốn nói tới ảnh hưỏng không gian hay thời gian của tác động ấy thì có thể dịch là: “Nước (Vương quốc) Thiên Chúa, Triều đại của Thiên Chúa”.

Một khó khăn khác nữa là có khi thì Đức Giêsu cho biết rằng Nước Thiên Chúa đã đến rồi: Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử qua các hành động mà Đức Giêsu biểu lộ đối với người tội lỗi, người bệnh tật, người đau yếu. Đó là một sự can thiệp hoàn toàn do sáng khởi của Thiên Chúa. Con người chỉ cần biết tiếp nhận tình thương đó. Nhưng đôi khi Đức Giêsu lại nói tới nước Thiên Chúa trong tương lai, nơi chính Đức Giêsu sẽ vào, và Người đem theo các môn đệ vào dự tiệc với mình. Chính trong bối cảnh này, chúng ta đọc thấy nhiều lời tuyên bố về các điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa; và Người cũng không ngại cảnh cáo về nguy cơ sẽ bị loại khỏi Nước Thiên Chúa.

Như vậy ta thấy từ ngữ “Nước Thiên Chúa” bao hàm nhiều chiều kích xem ra đối nghịch nhau: vừa hiện tại vừa tương lai; vừa là hồng ân vừa đặt ra yêu sách; vừa là sáng khởi của Thiên Chúa vừa đòi hỏi sự đáp ứng của con người; vừa đề cao lòng thương xót vừa cảnh cáo sự xét xử nghiêm khắc đến nỗi có thể đưa con người tới chỗ diệt vong.

Chúng ta hãy điểm qua vài tính cách ấy trong lời giảng của Đức Giêsu.

B. Yêu sách của Nước Thiên Chúa

Những lời cảnh cáo về tính cách nghiêm trọng của việc đón nhận sứ điệp Đức Giêsu cũng như yêu sách phải uốn nắn cuộc đời đã được diễn tả qua hình ảnh của cơn cuồng phong hay nước lũ có thể lôi kéo theo sự tiêu hủy nhà cửa: “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7,24-27; xc. Lc 6,47-49).

Dĩ nhiên, hình ảnh vừa rồi không nhằm tiên báo thời mục xấu sắp ập tới cho bằng nhằm cảnh giác con người hãy biết khôn ngoan chọn lựa vật liệu khi xây cất nhà cửa, liệu làm sao để cho nó được kiên cố, tránh cảnh sụp đổ vừa tan gia bại sản vừa thiệt mạng nữa.

Trong lời giảng về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu nhiều lần nói tới hậu quả nghiêm trọng do sự thái độ quyết định của con người. Hậu quả đó được diễn tả qua từ ngữ “xét xử, thanh lọc, loại bỏ” về phía Thiên Chúa; nhưng chung quy cũng là tại thái độ về phía con người mà thôi.

– 1/ Hình ảnh thanh lọc được nói tới trong dụ ngôn về cỏ lùng phải gạn ra khỏi lúa tốt (Mt 13,24-30), về ngư phủ nhặt cá tốt và vứt cá xấu (Mt 13,47-50). Sự thanh lọc giả thiết sự chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu, giữa hàng tốt và hàng xấu (thí dụ như hai người đàn bà đang xay bột, thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại: Lc 17,35).

– 2/ Như vậy, sự thanh lọc (hay xét xử) không có tính cách độc đoán, nhưng dựa theo tiêu chuẩn khách quan của hành vi tốt hay xấu. Chính vì thế mà Đức Giêsu kêu gọi con người hãy ý thức về trách nhiệm trong các hành động của mình. Thực ra thì nhà mô phạm nào mà chẳng khuyên con người phải ăn ngay ở lành? Tuy nhiên, ngoài những lời khuyên răn có tính cách luân lý đạo đức, Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến tính cách khẩn trương, bởi vì công cuộc thanh lọc gần kề, có thể xảy tới lúc nào không biết được. Thực vậy, trong Tin Mừng, chúng ta đọc thấy những lời khuyên về sự trung tín tận tụy với bổn phận, chẳng hạn những dụ ngôn về các đầy tớ nhận lãnh nén bạc (Mt 25,14-30; Lc 19,12-27); đồng thời chúng ta cũng đọc thấy những lời khuyên về sự tỉnh thức, bởi vì không biết giờ nào ông chủ sẽ trở về tính toán sổ sách (Mt 24,45-51; Lc 12,37.43-46). Tính cách khẩn trương còn được nêu bật hơn nữa, qua hình ảnh về tên trộm: hắn lẻn vào ban đêm, vào lúc không ngờ; hắn không hề báo trước ngày giờ (Mt 24,42-43; Lc 12,39).[18]

– 3/ Qua những điều vừa ghi nhận, chúng ta thấy rằng Nước Thiên Chúa không phải chỉ là cái gì thoảng qua chốc lát trong cuộc đời của Đức Giêsu, nhưng nó có liên hệ tới định mạng vĩnh cửu của nhân loại nói chung và của từng người nói riêng. Nói cách khác, Nước Thiên Chúa chính là hạnh phúc của con người. Vì thế, con người phải quyết định chọn lựa phương thế để được vào Nước Thiên Chúa, bởi vì ai bị loại khỏi Nước Thiên Chúa tất nhiên sẽ bị diệt vong. Con người cần phải biết đánh giá tất cả các sự việc ở đời này theo tiêu chuẩn đó, nghĩa là: chúng có đưa ta vào Nước Chúa, hay là chúng làm cho ta bị loại khỏi Nước Chúa? Đức Giêsu đã dùng nhiều lối nói, nhiều hình ảnh để diễn tả chân lý đó. Chúng ta thử xếp đặt lại một vài hình ảnh, từ chỗ có vẻ hãi hùng đến chỗ thanh tao; nhưng trong cả hai trường hợp chúng đều đòi hỏi con người phải cải hoán, phải hy sinh. Trước hết, sự lựa chọn từ bỏ được diễn tả qua hình ảnh cắt chặt cơ thể:

“Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi: thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9,43.45.47).

Hình ảnh vừa rồi xem ra tàn nhẫn nhưng vẫn còn mang tính cách ích kỷ, bởi vì chỉ cốt để tránh một thiệt hại to lớn hơn. Giữa hai sự dữ, ai chẳng lựa sự dữ kém hơn? Trong dụ ngôn tiếp theo đây thì tâm lý đã đổi hướng: khi đã khám phá được cái tốt hơn, thì người ta sẵn sàng khước từ một cái tốt nhưng không đáng giá bằng.

“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có ngưòi kia gặp được thì đem chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,44-46).

Văn chương tu Đức Kitô giáo thường áp dụng đoạn văn vừa rồi cho các tu sĩ, những người đã từ bỏ gia đình tài sản bởi vì họ đã khám phá ra giá trị cao quý của Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, ngày nay các nhà chú giải Thánh Kinh không chấp nhận lối giải thích đó, bởi vì theo họ, đoạn văn không có ý phân biệt giữa hai hạng người trong Hội Thánh, nhưng là nói đến phản ứng của con người trước sứ điệp của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Một cách tương tự như vậy, đoạn văn sau đây về người thanh niên giàu có không phải nhằm đặt cơ sở cho việc phân biệt giữa người “tín hữu bình thường” với người “tu sĩ muốn nên trọn lành”, nhưng là nhằm nói lên một yêu sách căn bản để được vào Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn đó, dưới ngọn bút của Marco (10,17-22):

“Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”.

Câu chuyện được thuật lại trong cả Tin Mừng Nhất Lãm (xc. Mt 19,16-12; Lc 18,18-23), với vài khác biệt chi tiết không nhỏ. Matthew coi phần thứ hai (bán tài sản, phân phát cho người nghèo) như là điều nhiệm ý (Mt 19,21: Nếu anh muốn nên hoàn thiện), và truyền thống tu Đức Kitô giáo đã dựa vào đó để phân biệt giữa “giới răn” (điều truyền buộc: preceptum), và “lời khuyên” (consilium) có tính cách nhiệm ý. Thế nhưng Marco và Luca ra như không biết tới sự phân biệt đó, bởi vì cả hai đều nằm trong yêu sách căn bản để được vào Nước Thiên Chúa. Thực vậy, Marco thuật tiếp như sau:

“Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!”. Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”. Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều được” (Mc 10,23-27).

 

 

 

 

 

 


[1]Từ ngữ “Nước Thiên Chúa” còn được sử dụng ở sách Tông Đồ Công Vụ 6 lần: 1,3; 8,12; 14,22; 19,8; 28,23.31; và 4 lần ở các thư của thánh Phaolô: Rm 14,17; 1Cr 4,20; Cl 4,11; 2Tx 1,5. Còn Tin Mừng thứ IV ra như không biết tới, bởi vì chỉ nhắc tới 2 lần ở: 3,3-5. Sách Khải Huyền nói 1 lần ở 12,10.

[2]Đôi khi Matthew cũng dùng từ ngữ “Nước Thiên Chúa”: 12,28; 19,24; 21,31.43.

[3] Có thể thu lại vào 4 hoàn cảnh chính như sau: 1) Hân hoan chúc tụng: Mt 11,25-26 = Lc10,21. Có lẽ Ga 11,41 cũng xếp vào hoàn cảnh này. 2) Trong vườn Cây Dầu: Mc 14,36 = Mt 26,39.42 = Lc 22,42. Ga 12,27-28 bộc lộ tâm trạng tương tự. 3) Trên thập giá: riêng Lc 23,34.46. 4) Kinh nguyện thượng tế trong nhà Tiệc ly, theo chương 17 của Gioan.

[4] Tuy các bản dịch ra Hy Lạp và Việt ngữ không còn giữ được âm mục như là trong nguyên ngữ Aram nữa, nhưng khi đọc các bản dịch chúng ta vẫn thấy một nhịp điệu nào đó. Thí dụ: Mt 7,6: Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em (xc. Hc 6,2). Lc 6,39: Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? (xc. Cn 6,27). Lc 11,9-10: Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.

[5] 1/ Người hùng (Mc 3,24-27; Mt 12,24-26; Lc 11,17-18.21-22). 2/ Hạt cải (Mc 4,30-32; Mt 13,31-32; Lc 13,18-19). 3/ Men (Mt 13,33; Lc 13,20-21). 4/ Hạt giống tự nó mọc lên (Mc 4,26-29). 5/ Kẻ gieo giống (Mt 13,3-9; Mc 4,3-9; Lc 8,5-8). 6/ Cỏ lùng (Mt 13,24-30). 7/ Đại tiệc (Lc 16,16-24; Mt 22,1-10). 8/ Hai đứa con (Mt 21,28-31). 9/ Các tá điền sát nhân (Mc 12,1-9; Lc 20,9-16; Mt 21,33-41). 10/ Đứa con hoang đàng (Lc 15,11-32). 11. Chiên lạc (Lc 15,4-7; Mt 18,12-14). 12/ Đồng tiền lạc (Lc 15,8-10). 13/ Hai kẻ mắc nợ (Lc 7,36-50). 14. Đầy tớ và chủ (Lc 7,7-10). 15/ Các người làm việc trong vườn nho (Mt 20,1-5). 16/ Người Pharisiêu và người thu thuế (Lc 18,9-14). 17/ Các đứa trẻ ngoài công viên (Mt 11,16-19; Lc 7,31-34). 18/ Kho tàng giấu ẩn (Mt 13,44). 19/ Viên ngọc quý (Mt 13,45). 20/ Đầy tớ ác ôn (Mt Mt 18,21-35). 21/ Người Samari nhân hậu (Lc 10,25-37). 22/ Hai kẻ tranh tụng (Mt 5,24-26; Lc 12,58-60). 23/ Quản lý tinh ranh (Lc 16,1-8). 24/ Ladarô và phú hộ (Lc 16,19-31). 25/ Phú hộ dại dột (Lc 12,16-20). 26/ Cây vả không có trái (Lc 13,6-8). 27/ Người canh cổng tỉnh thức (Mc 13,33-36; Lc 12,35-38). 28/ Kẻ trộm ban đêm (Mt 24,45-51; Lc 12,39-40). 29/ Đầy tớ trung tín (Mt 24,45-51; Lc 12,42-46). 30/ Mười trinh nữ (Mt 25,1-13). 31/ Người dự tiệc không mặc áo cưới (Mt 22,11-14). 32/ Các nén bạc (Mt 25,14-30; Lc 19,11-27). 33/ Người bạn quấy rầy (Lc 11,5-10). 34/ Bà góa kiên trì (Lc 18,2-8). 35/ Lưới (Mt 13,47)

[6] Tự nó, danh từ parabôlê trong tiếng Hy Lạp chỉ có nghĩa là: sánh ví, đối chiếu (similitudo, conlatio)

[7] Quan điểm này còn phảng phất qua lối nói lưu hành nơi các Kitô hữu gốc Do Thái, đồng hóa người thu thuế với dân ngoại: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18,17). “Người thu thuế không làm như vậy sao?… Người ngoại không làm như vậy sao?” (Mt 5,46.47).

[8] Thực ra trong nguyên bản Kinh Thánh chưa có tiếng “ngoại”, mà chỉ là “các dân” (ethnos). Lúc đầu từ ngữ này ám chỉ hết các dân tộc. Sau đó, mới có sự phân biệt giữa “Israel” (am: laos) với “chư dân” (gojim: ethnê). Israel được tuyển chọn làm dân riêng của Chúa, và thờ phượng Chúa chân thật. Còn các dân khác (= dân ngoại) thì thờ lạy ngẫu tượng. Sự lầm lẫn về phụng tự lôi kéo theo sự lầm lạc về luân lý.

[9] Chẳng hạn như vào năm 1864, D.F. Strauss viết tác phẩm Cuộc đời của đức Giêsu dành cho dân Đức, cho rằng các phép lạ là huyền thoại do các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã bịa ra.

[10] Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã đọc lại các biến cố (lời nói và việc làm) của Đức Kitô như là ứng nghiệm các lời tiên tri trong Cựu ước. Vì vậy mà họ có khuynh hương đối chiếu Đức Kitô với các nhân vật trong Cựu ước. Do đó mà phép lạ hóa bánh và đi trên mặt nước được giải thích theo chiều hướng ví Đức Kitô là ông Môsê mới đã lấy manna nuôi dân trong sa mạc và dẫn họ vượt qua Biển Đỏ. Phép lạ cho con trai của bà góa sống lại (Lc 7,1-17) được trình bày với những nét song song với hành động của hai ngôn sứ Elia và Elisêô (1V 17,23; 2V 4,8.11.36).

[11] Sự phân biệt giữa việc chữa bệnh và trừ quỷ không đơn giản, bởi vì có những trường hợp Tin Mừng coi ma quỷ như là căn do của bệnh tật, thí dụ Mt 12,22 nói tới “một người bị quỷ ám vừa mù lại vừa câm”. Trước đó, ở Mt 9,32-34 ta đã thấy một người câm bị quỷ ám.

[12] Ga 11,25-26. Các Tin Mừng chỉ nói tới ba trường hợp đức Giêsu cho kẻ chết sống lại: con gái ông Giairô (Mc 5,35-43), con trai bà góa ở Naim (Lc 7,11-17), Ladarô (Ga 11,17-44) .

[13] Matthew kể 19 trường hợp, Mc 18, Lc 20. Tuy nhiên con số này chỉ có tính cách tương đối, bởi vì có thể có những đoạn trùng hợp, chẳng hạn như phép lạ tăng bánh được kể hai lần ở Matthew (14,13-21; 15,32-38) và Marco (6,31-44; 8,1-10), nhưng Luca chỉ thuật một lần (9,10-17).

[14] Kẻ thù không phải chỉ là người thù địch của dân tộc, mà còn là kẻ ức hiếp (tát má bên phải), cướp giật (lấy áo ngoài), lường gạt ăn qụyt, bách hại, ngược đãi mình (Mt 5,39-44; Lc 6,27-35).

[15] “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi rửa sạch bên ngoài chén dĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp vô độ. Hỡi người Pharisiêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch” (Mt 23,25).

[16] “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các ngươi sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mt 23,14).

[17] Thực ra trước đây đã có những ngôn sứ đả kích những tệ đoan diễn ra nơi đền thờ, thậm chí họ cảnh cáo lòng tin tưởng mù qúang nơi đền thờ. Xc. Mk 3,9-12; Gr 26,1-15.

[18] Tin Mừng còn để lại vài dụ ngôn khác về người đầy tớ, nhưng với dụng ý khác. Dụ ngôn về quản gia bất lương (Lc 16,1-8) khuyến khích con người hãy biết “chớp lấy cơ hội”, nghĩa là thời buổi hồng ân của Tin Mừng. Đối lại, dụ ngôn về đầy tớ bất nhân (Mt 18,23-35) thì nhằm cảnh cáo những kẻ không biết thương xót tha nhân.